Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

LUẬN VĂN: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.63 MB, 91 trang )













LUẬN VĂN:

Năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam












Mở Đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài


Từ cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế
giới (WTO). Điều này đã mở ra cho nước ta những cơ hội lớn để phát triển song cũng đặt
nước ta trước những thách thức và khó khăn không nhỏ. Trong những cam kết đa phương
và song phương với các nước trên thế giới để gia nhập WTO, Việt Nam đã cam kết mở
cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm. Điều đó đã đặt các doanh nghiệp dịch vụ bảo hiểm vào
quá trình cạnh tranh gay gắt không chỉ giữa các doanh nghiệp trong nước mà còn với các
doanh nghiệp nước ngoài.
Khi thực hiện chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập quốc tế, thị trường dịch vụ
bảo hiểm Việt Nam đã phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, đánh dấu một
bước chuyển căn bản từ một thị trường độc quyền nhà nước sang một thị trường cạnh
tranh với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế hoạt động trong tất cả các lĩnh vực
bảo hiểm
Tuy nhiên, việc mở cửa lĩnh vực bảo hiểm cũng đặt ra những đòi hỏi mới đối với
các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây chính là lý do tại sao các doanh nghiệp trong
nước dù vẫn đang giành thế áp đảo về doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ (93%) và duy
trì vị trí đứng đầu về doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ nhưng các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam, trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ vẫn đang đứng trước những
thách thức không nhỏ về khả năng bị thu hẹp thị phần và mất đi thế cạnh tranh trên sân nhà.
Xuất phát từ thực tế trên, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam để tồn tại và tăng trưởng, góp phần củng cố phát triển
thị trường bảo hiểm Việt Nam là đòi hỏi bức xúc trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Việt Nam” là sự cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
ở nước ta những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết khoa
học xung quanh vấn đề này với nhiều cách tiếp cận khác nhau, tiêu biểu như:

- GS.TS Chu Văn Cấp (chủ biên): Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước
ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
- Lê Hữu Thành: Sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay

trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2004.
- Nguyễn Đức Hải: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội, 2005.
- Đỗ Tất Cường: Dịch vụ bảo hiểm ở nước ta hiện nay trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2005.
- Trần Trọng Phúc: Một số chính sách từ phía nhà nước nhằm đẩy mạnh hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, Tạp chí Tài chính, số 10/2005,
tr.26-28
- Xuân Long: Thị trường bảo hiểm nhân thọ, cạnh tranh gay gắt giữa các công ty,
Tạp chí Thị trường giá cả, số 12/ 2002, tr.10-11.
- GS.TS Phí Trọng Thảo: Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 và
dự báo năm 2003, Tạp chí Tài chính, số 1, 2/2003, tr.82-85.
- Lê Song Lai: Thị trường bảo hiểm Việt Nam 6 tháng đầu năm 2005- bức tranh
sáng màu, Tạp chí Tài chính, số7/2005.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập và nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ
thống và chuyên sâu về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Việt Nam dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ thực trạng, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng các giải pháp chủ yếu nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
* Nhiệm vụ nghiên cứu

- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và
các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và của các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng

- Làm rõ tính tất yếu khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu từ năm 2003 đến nay.
5. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cạnh
tranh và dịch vụ bảo hiểm, các lý thuyết kinh tế học hiện đại về cạnh tranh, và những
quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước ta về tăng trưởng kinh tế và
nâng cao sức cạnh tranh và kinh doanh dịch vụ bảo hiểm.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật
và duy vật lịch sử; phương pháp trìu tượng hoá khoa học, kết hợp với các phương pháp
cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, nghiên cứu tổng kết thực tiễn và kế thừa có
chọn lọc những thành quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn trước đây liên quan đến đề tài.
6. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh trong lĩnh vực bảo hiểm, khẳng
định sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ Việt Nam.
- Đánh giá được thực trạng hoạt động kinh doanh, tình hình thị trường dịch vụ bảo
hiểm, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong
thời gian qua. Làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế đó trong quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm

phi nhân thọ Việt Nam. Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 9 tiết.









Chương 1
Cạnh tranh và Năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

1.1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Lý luận về cạnh tranh từ lâu đã có rất nhiều các học giả quan tâm nghiên cứu.
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành, phát triển của sản xuất và trao đổi hàng
hoá (kinh tế hàng hoá, cao hơn là kinh tế thị trường). Nó phản ánh mối quan hệ kinh tế
giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa.
Mặc dù "cạnh tranh" không phải là một khái niệm mới nhưng để có được một định
nghĩa thống nhất thì rất khó. ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, quan niệm và nhận thức về
vấn đề cạnh tranh, phạm vi và các cấp độ áp dụng nó cũng khác nhau.
C. Mác khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản đã đề cập đến cạnh tranh và vai trò của
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Theo C. Mác: "Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu
tranh gay gắt giữa các nhà tư bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch" [22, tr.27].
Trong ngôn ngữ học, khái niệm cạnh tranh được hiểu là "cố gắng giành phần

thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau".
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì cạnh tranh là sự "tranh đua giữa những cá nhân, tập
thể có chức năng như nhau, giành phần hơn, phần thắng về mình".
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học " Cạnh tranh là sự đấu tranh đối lập giữa các cá
nhân, tập đoàn hay quốc gia. Cạnh tranh nảy sinh khi hai bên hay nhiều bên cố gắng
giành lấy thứ mà không phải ai cũng có thể giành được".
Như vậy nếu hình dung toàn bộ nền kinh tế như một trường đua trong thể thao, ai
tham gia vào đó cũng đều mong muốn đạt giải bằng sự cố gắng hết mình, thì cạnh tranh
là động lực cho sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nó làm cho mỗi thành viên trong xã
hội đều phải luôn tự hoàn thiện mình để đạt được kết quả cao nhất có thể.

Từ thực tế đã cho thấy, có rất nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau về cạnh
tranh. Tuy nhiên, xét theo quan điểm tổng hợp thì có thể hiểu khái niệm cạnh tranh như
sau:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp (cả nghệ thuật kinh doanh lẫn thủ đoạn) để đạt mục tiêu
kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng
cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng
của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với
người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu
dùng và sự tiện lợi [3, tr.9].
Như vậy trên bình diện toàn bộ nền kinh tế, cạnh tranh có vai trò là động lực quan
trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần phân bổ nguồn lực hiệu quả thông qua việc
kích thích các DN sử dụng các nguồn lực tối ưu nhất cũng như hạn chế được các méo mó
của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập một cách hiệu quả và nâng cao phúc lợi
xã hội.
Trên bình diện doanh nghiệp, bằng sự hấp dẫn của lợi nhuận cũng như áp lực phá
sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các DN phải luôn cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ,
phương pháp sản xuất, năng lực quản lý nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã

sản phẩm, qua đó nâng cao tính cạnh tranh của chính các DN. Trong cạnh tranh các DN
yếu kém bị đào thải, DN làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển. Đây là kết
quả tất yêu của quy luật cạnh tranh.
Trên bình diện người tiêu dùng, cạnh tranh tạo ra sự lựa chọn rộng rãi hơn, bảo
đảm cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng không thể áp đặt giá cả tuỳ tiện. Với khía
cạnh đó, cạnh tranh là yếu tố điều tiết nền kinh tế thị trường và quan hệ cung cầu, góp
phần hạn chế méo mó giá cả và lành mạnh hoá các quan hệ xã hội.
Trên bình diện quốc tế, chính cạnh tranh đã thúc ép các DN mở rộng tìm kiếm thị
trường với mục đích tiêu thụ, đầu tư huy động nguồn vốn, lao động, công nghệ, kỹ năng
lao động, quản lý trên thị trường quốc tế. Thông qua cạnh tranh quốc tế các DN thấy
được lợi thế so sánh cũng như các điểm yếu kém của mình để hoàn thiện, xây dựng các
chiến lược kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Cạnh tranh cũng như các quy luật, hiện tượng kinh tế khác, chỉ xuất hiện tồn tại và
phát triển khi có điều kiện như nhu cầu cạnh tranh, môi trường cạnh tranh và vận hành tốt
khi có môi trường cạnh tranh hiệu quả.
Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại tất yếu khách
quan của cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Cạnh tranh lành mạnh được các nước ủng hộ và khuyến khích phát
triển bằng cách pháp lý hoá chúng trong các đạo luật về chống độc quyền và bảo vệ cạnh
tranh.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Về mặt ngôn ngữ học, năng lực được hiểu là "khả năng đảm nhận công việc và
hoàn thành với kết quả tốt". Vậy năng lực chính là khả năng hay tiềm năng của một chủ
thể (là cá nhân, hay đơn vị) có thể đáp ứng được một nhu cầu nào đó của cuộc sống và
thực hiện một công việc nào đó hiệu quả.
Năng lực cạnh tranh ( Sức cạnh tranh hay khả năng cạnh tranh) được xét dưới ba
cấp độ:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ.

- Năng lực cạnh tranh của DN.
Trong đó:
Năng lực cạnh tranh quốc gia: được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế
đạt được và duy trì được mức tăng trưởng cao, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh
tế-xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
Năng lực canh tranh của sản phẩm, dịch vụ: được đo bằng thị phần của sản phẩm
hay dịch vụ cụ thể trên thị trường.
Còn Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: Theo định nghĩa CIEM và UNDP thì
"Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị
phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài
nước" [46, tr.14].

Như vậy, Năng lực cạnh tranh của DN có thể hiểu là khả năng cạnh tranh bù đắp
chi phí, duy trì lợi nhuận và được đo bằng thị phần của sản phẩm và dịch vụ trên thị
trường trong môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế.
Cơ sở của năng lực cạnh tranh thường được xem xét dựa trên tỷ suất lợi nhuận của
DN. Một DN có năng lực cạnh tranh khi có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình của
ngành hay đối thủ cạnh tranh. Để tăng tỷ suất lợi nhuận hoặc để tỷ suất lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của ngành hoặc đối thủ cạnh tranh thì phải có một trong các điều kiện
sau:
- Giá bán sản phẩm của DN trên thị trường phải cao hơn đối thủ cạnh tranh nhưng
chi phí tương đương với mức trung bình của ngành.
- Chi phí cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn mức của đối thủ cạnh tranh mà giá lại
tương đương với mức trung bình của ngành.
- Chi phí của một đơn vị sản phẩm thấp hơn và giá đơn vị sản phẩm cao hơn mức
bình quân của ngành.
Như vậy để đạt được lợi thế cạnh tranh, DN phải có chi phí đơn vị sản phẩm thấp
hơn các đối thủ cạnh tranh, hoặc phải làm cho sản phẩm của mình khác biệt với sản phẩm
của đối thủ, hoặc phải thực hiện cả hai.
Có bốn yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cạnh tranh của DN, biểu thị cách thức cơ

bản để giảm chi phí và tạo sự khác biệt hoá sản phẩm mà bất kỳ một DN nào ở một
ngành nào cũng có thể áp dụng, cụ thể:
Yếu tố thứ nhất là hiệu quả: Hiệu quả thường được đo bằng số yếu tố đầu vào cần
thiết (chi phí) để tao ra một đơn vị đầu ra (sản phẩm, doanh thu, lợi nhuận). DN càng
nâng cao được hiệu quả thì chi phí đầu vào để tạo ra một đơn vị đầu ra càng thấp và như
vậy thì DN sẽ có năng lực cạnh tranh cao dựa trên chi phí.
Yếu tố thứ hai là chất lượng: Chất lượng sản phẩm là những đặc tính của sản phẩm
được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Chất lượng gắn với
khả năng thoả mãn những nhu cầu đã định cho sản phẩm. Theo ISO 9000 "Chất lượng là
tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu
cầu đã được công bố hoặc còn tiềm ẩn". Người cung cấp phải tối ưu hoá chất lượng sản
phẩm, không được để "thấp" hơn nhu cầu nhưng cũng không nên thừa hay "cao" quá mức

cần thiết để khỏi ảnh hưởng đến giá cả. Sản phẩm có chất lượng cao giúp DN tăng uy tín,
từ đó có thể tăng giá bán.
Yếu tố thứ ba là đổi mới: Đổi mới bao gồm sự hoàn thiện về sản phẩm, công nghệ,
hệ thống quản lý, cơ cấu tổ chức của DN. Trong đó đổi mới công nghệ được coi là
nguồn chính của năng lực cạnh tranh, nó giúp DN khác biệt hóa sản phẩm so với đối thủ
cạnh tranh hoặc giảm chi phí sản xuất. Các DN vì thế thường sản xuất theo seri sản phẩm,
không duy trì lâu hoặc với khối lượng lớn một sản phẩm nào đó. Điển hình như kiểu dáng ô-
tô, ti-vi, radio, máy tính
Yếu tố thứ tư là nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng: Để đáp ứng nhu cầu khách
hàng, DN cần cung cấp các mặt hàng mà họ cần và đúng thời điểm họ muốn.
Việc nâng cao hiệu quả, chất lượng và đổi mới suy cho cùng là nhằm mục tiêu đáp
ứng các nhu cầu rất đa dạng của khách hàng.
Giữa ba cấp độ năng lực cạnh tranh nói trên có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo
điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng lực
cạnh tranh quốc gia cao thì đòi hỏi phải có nhiều DN có năng lực cạnh tranh. Và ngược
lại các DN chỉ có thể cạnh tranh tốt trong nền kinh tế quốc gia thuận lợi, chính sách kinh
tế vĩ mô rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định và kết cấu hạ tầng đảm bảo

Mặt khác tính năng động nhạy bén trong quản lý DN cũng là một yếu tố quan
trọng, bởi vì trong cùng một môi trường kinh doanh có DN thành công nhưng cũng có
DN bị thất bại.
Bên cạnh đó DN chỉ có sức cạnh tranh cao khi sản phẩm của mình có năng lực
cạnh tranh cao so với đối thủ cạnh tranh và được xã hội chấp nhận. Năng lực cạnh tranh
của sản phẩm dịch vụ ngoài chất lượng nội tại còn phụ thuộc nhiều vào danh tiếng va uy
tín của DN.
Vì vậy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ là cơ sở, điều kiện để
nâng cao năng lực cạnh tranh của DN và của nền kinh tế đất nước. Hiện nay nước ta đang
tiến sâu vào quá trình hội nhập thì yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh trên cả ba cấp
độ: quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ ngày càng trở nên bức bách. Trong đó
tính chr động tịch cực, sáng tạo của các doanh nghiệp giữ vai trò quyết định.

1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh và các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1.1. Khái niệm
BH được phân thành hai nhóm lớn là: BHNT và BHPNT. Trong đó:
- BHNT là loại hình BH mà các sự kiện được BH đều liên quan đến cuộc sống và
sinh mạng của con người, thường có tính chất dài hạn nhiều năm và gắn với tiết kiệm.
- BHPNT bao gồm các loại hình BH còn lại, nó được sử dụng như một khái niệm
tổng hợp mang ý nghĩa hàm chứa tất cả các nghiệp vụ BH thiệt hại (BH tài sản, BH trách
nhiệm dân sự) và các nghiệp vụ BH con người không thuộc BHNT (như BH tai nạn,
bệnh tật, ốm đau, BH trợ cấp nằm viện và phẫu thuật ). Mục đích chủ yếu của BHPNT
là nhằm bồi thường cho người được BH những hậu quả của một biến cố ngẫu nhiên gây
thiệt hại đến tài sản, lợi ích và con người của họ. Theo điều 3, chương 1, Luật kinh doanh
bảo hiểm Việt Nam giải thích về thuật ngữ BHPNT như sau: " Bảo hiểm phi nhân thọ là
loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác
không thuộc BHNT".
1.2.1.2. Phân loại nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ

Trên thị trường thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều nghiệp vụ (sản
phẩm BH) khác nhau. Tuỳ theo các tiêu thức phân chia khác nhau mà các nghiệp vụ
BHPNT có thể phân chia thành các loại cơ bản sau:
* Theo nhóm khách hàng: gồm có
- Nhóm các sản phẩm dành cho cá nhân
- Nhóm các sản phẩm dành cho các tổ chức
Việc phân loại theo tiêu thức này giúp DN quản lý và thiết kế được các sản phẩm
phù hợp, đáp ứng được nhu cầu riêng của các cá nhân cũng như phục vụ nhu cầu công
việc của cac tổ chức.
* Theo loại hình sản phẩm: bao gồm:
- Nhóm sản phẩm BH riêng lẻ.
- Nhóm sản phẩm BH trọn gói.

Phân lọai theo tiêu thức này sẽ giúp DN dẽ dàng trong việc quản lý sản phẩm,
đồng thời có kế hoạch kết hợp các sản phẩm riêng lẻ nhằm tạo ra các sản phẩm BH trọn
gói.
* Theo phương thức phân phối sản phẩm: bao gồm:
- Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh phân phối truyền thông.
- Nhóm sản phẩm phân phối qua kênh "phản hồi trực tiếp".
Việc phân loại theo tiêu thức này sẽ giúp DNBH quản lý được sản phẩm theo kênh
phân phối và có chiến lược thiết kế các sản phẩm phù hợp để chào bán qua các kênh phân
phối đó.
* Theo đối tượng BH: Theo tiêu thức này, nghiệp vụ BH được chia thành ba
nhóm:
- BH tài sản (BHTS)
- BH trách nhiện dân sự (BHTNDS).
- BH con người phi nhân thọ (BHCN).
+ Bảo hiểm tài sản: Đây là loại hình BH mà đối tượng BH là tài sản (cố định hay
lưu động) của người được BH.
Ví dụ: BH cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, BH hàng hoá của các chủ hàng trong

BH hàng hoá xuất nhập khẩu, BH tài sản của chủ nhà trong BH trộm cắp.
Giá trị BH là giá trị thực tế của tài sản tham gia BH, nó là căn cứ quan trọng để
tính phí BH và giới hạn thanh toán tiền bồi thường BH. Nghĩa là số tiền bồi thường mà
bên được BH nhận được trong mọi trường hợp đều không được vượt quá thiệt hại thực tế
trong sự cố BH.
Ví dụ: Một chủ xe máy tham gia BH cho toàn bộ xe của mình trị giá 20 triệu đồng.
Trong một vụ tai nạn, chiếc xe bị hư hỏng với giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng. Như vậy số
tiền bồi thường mà chủ xe nhận được trong mọi trường hợp chỉ là 8 triệu đồng.
+ BH trách nhiệm dân sự: Theo Luật dân sư, trách nhiệm dân sụ của một chủ thể
(như chủ tài sản, chủ doanh nghiệp ) được hiểu là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt
hại về con người, tài sản gây ra cho người khác do lỗi của người chủ đó.
Ví dụ: BH trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ lao động; BH trách nhiệm
sản phẩm; BH trách nhiệm công cộng

Khác với BH tài sản và BH con người, đối tượng được BH của loại hợp đồng này
là một khái niệm trìu tượng khi hợp đồng được ký kết. Tuy nhiên trách nhiệm bồi thường
của BH vẫn căn cứ vào các thiệ hại thực tế xảy ra cho người thứ ba.
+ BH con người phi nhân thọ: là loại hình BH có đối tượng được BH là tính mạng,
tình trạng sức khoẻ hoặc các sự kiện liên quan và ảnh hưởng đến cuộc sống của con
người. Nhưng khác với BH con người nhân thọ ở chỗ: BH con người phi nhân thọ là loại
hình BH chỉ liên quan đến các rủi ro của con người như: tai nạn, bệnh tật, mất khả năng
lao động và cả tử vong. Đặc điểm của loại này là không liên quan đến tuổi thọ của con
người. Ví dụ: BH tai nạn 24/24, BH tai nạn hành khách, BH khách Du lịch
Khi thanh tóan tiền BH, "nguyên tắc khoán" được áp dụng chủ yếu khi thanh toán
tiền BH. Tức là về nguyên tắc, số tiền chi trả BH sẽ dựa vào qui định chủ quan của hợp
đồng và số tiền BH được thoả thuận khi ký kết hợp đồng chứ không dựa vào thiệt hại
thực tế. Bởi vì tính mạng của con người là vô giá, không thể xác định được bằngmột
khoản tiền nào đấy. Cho nên việc thanh toán tiền BH trong nghiệp vụ BH con người chỉ
mang tính trợ giúp về tài chính khi không may gặp rủi ro. Tuy nhiên, có thể áp dụng kết
hợp với nguyên tắc bồi thường khi thanh toán các chi phí y tế phát sinh nằm trong phạm

vi được BH của các hợp đồng BH con người.
1.2.2. Đặc trưng của bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2.1. Mục đích bảo hiểm
BH được biết đến trước hết như một phương pháp chuyển giao rủi ro hữu hiệu và
mục đích của các nghiệp vụ BHPNT thể hiện rất rõ ý nghĩa của phương pháp đó. Lý do
chính đáng cho việc giao kết các hợp đồng BHPNT là sự chuyển giao các tổn thất tài
chính có thể xảy ra từ người mua BH cho công ty BH. Khi xảy ra tổn thất, công ty
BHPNT thực hiện triệt để việc xác định giới hạn cũng như trách nhiệm bồi thường đã
được quy định trong hợp đồng BH đã được giao kết với người được BH, do đó giúp bên
được BH khắc phục hậu quả về mặt vật chất, tài chính.
Một lý do mà vì nó không ít các hợp đồng BHPNT được ký kết cũng khá đặc biệt,
đó là:
+ Nhằm tuân thủ các qui định của luật pháp về việc bắt buộc phải mua BH đối với
các loại hình bảo hiểm như: đối với các cá nhân, tổ chức và công ty có tài sản nguy hiểm

về cháy nổ bắt buộc phải mua BH Cháy, nổ; đối với Dự án xây dựng thì bắt buộc các nhà
thầu hoặc chủ dự án phải mua BH Xây dựng lắp đặt. Ngoài ra còn có bảo hiểm Trách
nhiệm dân sự cho người thứ 3 đối với những người sử dụng và vận hành xe mô tô, xe gắn
máy, ô tô
+ Trong các hoạt động kinh doanh XNK để phù hợp với các tập quán, thông lệ
quốc tế thì việc bắt buộc phải có các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá là không thể thiếu.
Những quy định và tập quán trên không bao giờ áp dụng đối với BHNT. Vì thế,
những lý do rất riêng trong mục đích BH có thể coi là đặc trưng thứ nhất của BHPNT.
1.2.2.2. Sự chênh lệch về “giá trị” giữa các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ
Trước sự đa dạng của đối tượng BH, rủi ro BH , các DNBHPNT buộc phải tận dụng
mọi khả năng có thể, khai thác triệt để mọi cơ hội để thực hiện luật số lớn nhằm giảm thiểu
rủi ro mình. Vì vậy, cho dù có là đề nghị về một hợp đồng BH khiêm tốn với số tiền BH vài
chục triệu VNĐ hay những hợp đồng BH lớn mà số tiền BH lên đến đôi ba trăm tỷ VNĐ.
Cũng vì lẽ đó mà hình thức đồng BH và nhất là tái BH được sử dụng như là một trong những
công cụ hữu hiệu trong việc khai thác các hợp đồng BH. Nếu như tái BHNT gặp không ít

khó khăn từ việc phải đáp ứng những yêu cầu về môi trường đầu tư để có thể đảm bảo lãi
suất đầu tư kỹ thuật thì trong BHPNT vấn đề hóc búa này không phải là vấn đề chính ảnh
hưởng đến quyết định tiến hành nhận hay nhượng TBH hay không giữa công ty BH gốc và
công ty nhận tái BH; mà chủ yếu phụ thuộc vào rủi ro được bảo hiểm và điều kiện, điều
khoản được giao kết trong hợp đồng gốc.
1.2.2.3. Mức độ ràng buộc về các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng BH bao hàm các cam kết đã thoả thuận giữa bên mua BH và DNBH cho
một thời hạn nhất định. Các trường hợp huỷ bỏ, ngừng thực hiện cam kết phải tuân theo
pháp luật về chấm dứt hợp đồng BH. Thực tế, điều này đã được quy định rất rõ ràng
trong "Luật kinh doanh bảo hiểm". Đối với bên mua cũng như bên bán BH, sự ràng buộc
về cam kết phải được xác định rõ trong hợp đồng BH. Theo đó bên mua và bên bán BH
có nghĩa vụ thực hiện các cam kết đã được quy định trong hợp đồng BH đến hết thời hạn
BH, ngoại trừ vì lý do nào đó phải chấm dứt hợp đồng BH trước thời hạn theo qui định
của pháp luật. Điều này rất khác với BHNT. Trong BHNT bên mua BH có quyền chấm
dứt hợp đồng vào bất cứ thời điểm nào mà không cần phải viện dẫn lý do.

Những hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu một khi chấm dứt hợp đồng
trước thời điểm kết thúc thời hạn BH trong BHPNT rất đa dạng. Đáng chú ý là: nếu như
trong BHNT, DNBH không được khởi kiện đòi bên mua BH đóng phí BH thì đối với
BHPNT đó là điều được phép và cần phải làm trong một số trường hợp nhất định.
1.2.2.4. áp dụng kỹ thuật phân chia
Thời hạn các hợp đồng BHPNT thường ngắn và có sự khác nhau rõ rệt giữa các
nghiệp vụ BH. Chẳng hạn như: đối với BH xe cơ giới thời hạn BH thường là một năm,
trong khi đó, có những hợp đồng BH hàng hoá vận chuyển chỉ kéo dài một vài tháng,
thậm chí thời hạn BH của BH tai nạn hành khách có thể chỉ là vài ba giờ. Nhưng thông
thường thời hạn BH của các hợp đồng BH thường là một năm. Điều đáng lưu ý là: trách
nhiệm bồi thường (hoặc trả tiền BH) của DNBH vẫn có thể phát sinh sau thời điểm kết
thúc thời hạn BH. Một số nghiệp vụ BH trách nhiệm dân sự vẫn được mệnh danh là loại
“Long tail business” tức là trách nhiệm bồi thường có thể kéo dài đến cả chục năm sau
đó. Trong khi đó, phí BH có thể thanh toán toàn bộ ngay khi giao kết hợp đồng BH hoặc

vài ba kỳ thanh toán trong thời hạn BH. Vì thế, việc quản lý tài chính thu chi các nghiệp
vụ phải áp dụng kỹ thuật phân chia. Yêu cầu cơ bản khi áp dụng kỹ thuật phân chia là:
việc xác định kết quả kinh doanh nghiệp vụ vào thời điểm khoá sổ kế toán (31/12) phải
tính đến các dự phòng nghiệp vụ.
Các loại dự phòng nghiêp vụ cơ bản của DNBHPNTgồm có: dự phòng phí chưa được
hưởng, dự phòng bồi thường và dự phòng dao động lớn. Hơn nữa, kỹ thuật phân chia còn đòi
hỏi các phương pháp trích lập phải phù hợp với đặc tính của từng loại nghiệp vụ BH. Chẳng
hạn, đối với trích lập dự phòng phí chưa được hưởng, nếu là BH xe cơ giới với thời hạn BH
phần lớn là một năm nên có thể sử dụng phương pháp 1/8, nhưng BH hàng hoá vận chuyển
lại cần sử dụng phương pháp 1/24 hoặc 1/365 vì thời hạn các hợp đồng BH ngắn.
1.2.2.5. Đối tượng được bảo hiểm và cơ sở để tính toán số tiền được bảo hiểm
Khác với BHNT, đối tượng được bảo hiểm trong BHPNT thường là tài sản của
người được BH. Trong BHNT giới hạn hợp đồng BH là vô hạn do đối tượng được bảo
hiểm là con người và thường thì giới hạn hợp đồng là do người mua BH lựa chọn trên cơ
sở nhu cầu của bản thân hoặc sự đề nghị của DNBH. Còn trong BHPNT số tiền bảo hiểm

chủ yếu được tính trên cơ sở giá trị thị trường của tài sản được BH tại thời điểm giao kết
hợp đồng BH.
1.2.2.6. Nguy cơ trục lợi
Một đặc trưng nữa của BHPNT là khả năng trục lợi là rất cao. Điều này phụ thuộc
vào đạo đức và tính trung thực của người mua BH. Cụ thể: do đối tượng được BH chỉ là
tài sản vì vậy người được BH có thể vì một lý do nào đó tự tiêu hủy tài sản của mình.
Chẳng hạn như: tự đốt cháy chính căn nhà của mình hoặc xưởng sản xuất của mình sau
đó tiền hành đòi tiền BH từ DNBH. Điều khó khăn là nghĩa vụ chứng minh tổn thất đó là
vô tình hay cố ý lại thuộc về DNBH. Vì vậy, một trong những quy tắc bất di bất dịch
trong BHPNT khi giao kết hợp đồng BH là quy tắc “trung thực tuyệt đối”.
1.2.3. Những hoạt động cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Cũng giống như toàn bộ các DNBH, hoạt động kinh doanh BH của một
DNBHPNT thường bao gồm những nội dung sau:
1.2.3.1. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm

* Hoạt động kinh doanh BH: là hoạt động cơ bản của DNBH nhằm mục đích
sinh lời. Đây là một quá trình liên hoàn từ khâu cấp đơn cho người tham gia BH, thu phí
BH, theo dõi quá trình thực hiện hợp đồng BH cho đến khâu giám định tổn thất và giải
quyết bồi thường BH.
Kinh doanh BH phải đảm bảo nguyên tắc có tính chất quy luật là "số đông bù số
ít". Theo quy luật đó, DNBH phải thu hút được nhiều người tham gia vào một nghiệp vụ
hay một sản phẩm BH cụ thể.
Quy trình thực hiện công việc kinh doanh BH bắt đầu từ việc DNBH thông qua
mạng lưới đại lý hoặc các nhân viên khai thác chào bán các dịch vụ BH tới từng khách
hàng có nhu cầu. Sau khi hai bên thống nhất được các điều kiện cơ bản thì hợp đồng BH
được thiết lập.
Hợp đồng BH là bằng chứng pháp lý thể hiện sự xác lập quyền và nghĩa vụ giữa
DNBH và người tham gia BH, là sự thoả thuận giữa bên mua BH và DNBH, theo đó bên
mua BH phải đóng phí BH còn DNBH phải trả tiền cho người được BH khi xảy ra sự
kiện BH.

Theo quy định của Luật kinh doanh BH (điều 17, 19, 20), DNBH và người tham
gia BH có các quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ sau đây:
- Đối với DNBH:
+ DNBH có quyền: thu phí BH, quyền đề nghị được sửa đổi một số điều kiện,
điều khoản của hợp đồng, quyền chấm dứt hợp đồng. Nếu DNBH đã thực hiện việc bồi
thường thì được phép thế quyền người được BH để yêu cầu người thứ ba trả lại toàn bộ
hoặc một phần số tiền do lỗi của người thứ ba gây ra.
+ DNBH có trách nhiệm: cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng BH,
giải thích các điều kiện, điều khoản BH; quyền và nghĩa vụ của bên mua BH, hướng dẫn
giải thích về mọi thủ tục cần thiết để người tham gia BH lập hồ sơ khiếu nại đòi tiền BH
khi có sự kiện BH xảy ra.
+ DNBH có nghĩa vụ: bồi thường hoặc trả tiền BH kịp thời cho người được BH
hoặc người thụ hưởng. Nếu trong hợp đồng không thỏa thuận cụ thể về thời hạn này thì
bên BH phải trả tiền BH hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày kể thừ ngày nhận được

đầy đủ hồ sơ khiếu nại hợp lệ.
- Đối với người tham gia BH:
+ Người tham gia BH có quyền: được hưởng khoản tiền bồi thường từ DNBH khi
xảy ra sự kiện BH; quyền được cung cấp mọi thông tin liên quan đến hợp đồng BH và
quá trình lập hồ sơ khiếu nại BH, quyền được thay đổi một số điều kiện, điều khoản trong
hợp đồng.
+ Người tham gia BH có nghĩa vụ: khai báo trung thực mọi thông tin mà họ biết
được liên quan đến đối tượng BH ngay từ khi giao kết hợp đồng BH, đóng phí BH đẩy
đủ, khai báo trung thực khi xảy ra sự kiện BH; có nghĩa vụ đề phòng và ngăn ngừa rủi ro,
hạn chế tổn thất, bảo lưu quyền đòi người thứ ba cho DNBH.
Như vậy, thông qua kết quả của hoạt động kinh doanh BH, DNBH sẽ thể hiện
được vị trí, uy tín của mình trên thị trường cũng như phát huy năng lực cạnh tranh của
mình trước đối thủ cạnh tranh. Doanh thu, kết quả từ hoạt động kinh doanh BH là cơ sở,
nền tảng để DN khuyếch trương và tăng cường hoạt động đầu tư nhằm mang lại lợi
nhuận và sự phát triển bền vững.

* Hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm: là một hoạt động không thể tách rời hoạt
động kinh doanh BH của bất kỳ một DNBH nào.
Tái BH là hoạt động của DN mà theo đó DNBH nhận một khoản phí BH của
DNBH khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận BH
Có thể nói, tái BH như là một tấm lá chắn cho hoạt động của mỗi DN, là một hình
thức DNBH tự BH cho chính mình sau khi nhận về mình các rủi ro của khách hàng.
Kinh doanh tái BH bao gồm: hoạt động nhận tái BH và nhượng tái BH. Cụ thể
như sau:
- Hoạt động nhận tái bảo hiểm: là việc một DNBH nhận BH cho một phần rủi
ro của một DNBH khác trong một hợp đồng BH gốc. Đứng trên góc độ kinh doanh thì
hoạt động nhận tái BH được coi như là một hình thức bán BH. Sau khi nhận tái BH,
DN có thể nhượng lại cho những DN nhận tái BH khác.
Mục đích của hoạt động nhận tái BH là để tăng thêm nguồn thu phí BH cho DN,
ngoài ra, mục đích lớn hơn là việc chia sẻ rủi ro giữa các DNBH. Trong mối quan hệ đan

xen với nhau trên thị trường, một DNBH khi thì đứng ở vị trí người nhận lại rủi ro nhưng
có khi lại ở vị trí là người chia sẻ rủi ro.
DN nhận tái BH có trách nhiệm đối với các rủi ro mình nhận về tương đương như
DNBH gốc đã nhận với khách hàng. Tuy nhiên, giới hạn trách nhiệm sẽ tương ứng với tỷ
lệ mà DN nhận tái BH. Theo đó, khi xảy ra sự kiện BH, DN nhận tái BH cũng phải thực
hiện nghĩa vụ bồi thường và trả tiền BH cho công ty BH gốc theo đúng phần trách nhiệm
mình đã nhận.
Để bù đắp các chi phí mà DNBH gốc đã bỏ ra để ký kết được hợp đồng BH với
khách hàng, DN nhận tái BH phải chi trả cho DN nhượng tái BH một khoản chi phí nhất
định gọi là hoa hồng nhận tái BH. Tương ứng với phần trách nhiệm nhận về, DN nhận tái
BH sẽ nhận được một khoản chi phí BH từ DN nhượng tái, đây chính là doanh thu từ
hoạt động nhận tái BH.
- Hoạt động nhượng tái bảo hiểm: Như ta đã biết, nhu cầu an toàn trong kinh
doanh BH luôn được đặt lên hàng đầu, và để thực hiện được điều đó, một DNBH cũng
phải tìm cách tự BH cho chính bản thân mình thông qua việc nhượng tái BH.

Nhượng tái BH là việc DNBH chuyển một phần trách nhiệm BH đã cam kết với khách
hàng (người được BH) của mình cho một hoặc nhiều DNBH khác.
Cũng tương tự như hoạt động nhận tái BH nhưng ở vị trí ngược lại, DN nhượng
tái BH cũng phải chuyển cho DN nhận tái BH một phần trong doanh thu phí BH gốc
tương ứng với phần trách nhiệm chuyển đi. Bù lại, DN nhượng tái BH sẽ thu được
một tỷ lệ hoa hồng tái BH nhất định theo thoả thuận từ DN nhận tái BH. Trách nhiệm
về giải quyết bồi thường và khiếu nại phát sinh từ hợp đồng BH gốc sẽ được chia sẻ
giữa DN nhận và nhượng theo hợp đồng tái BH.
Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp nhận và nhượng tái BH thì đầu mối giải quyết
bồi thường và khiếu nại với khách hàng vẫn là DNBH gốc - người trực tiếp ký kết hợp
đồng BH.
Có thể nói, hoạt động nhượng tái BH giúp DNBH có được tình hình tài chính lành
mạnh, an toàn; giúp người tham gia BH yên tâm về khả năng chi trả bồi thường của
DNBH; giúp DNBH chủ động tính toán được giới hạn trách nhiệm tài chính tối đa tại

một thời điểm nhất định bất kỳ; giúp chia sẻ rủi ro trong cộng đồng Từ đó, tạo cho
DNBH một năng lực cạnh tranh tốt nhất để phát triển hoạt động kinh doanh BH gốc của
mình.
Thông qua hoạt động nhượng và nhận tái BH, DNBH vừa ổn định tình hình kinh
doanh, vừa phát triển quan hệ kinh tế với các nước.
1.2.3.2. Hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất
DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi BH do rủi ro
tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp cho người được BH ổn định kinh tế, khôi phục sản xuất
và đời sống, mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi ro, tổn thất trước và sau khi tai
nạn xảy ra.
Thông qua việc phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ, DNBH
rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề phòng tổn
thất xảy ra.
Ví dụ: - Trong BH cháy, DNBH cùng người tham gia BH thực hiện các biện pháp
để hạn chế chập điện, nổ như: tăng thiết bị an toàn về điện, thiết bị chống sét hoặc mua
sắm thêm phương tiện chữa cháy.

- Trong BH xe cơ giới làm thêm biển báo các nơi tránh xe trên các đèo dốc
để giảm bớt tai nạn
1.2.3.3. Hoạt động giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba
Hoạt động giám định, bồi thường tổn thất và đòi người thứ ba là một nhiệm vụ
quan trọng trong chu trình kinh doanh BH, là khâu cuối cùng khép lại hoạt động kinh
doanh BH của DNBH. Trong đó:
Giám định: là hoạt động do DNBH trực tiếp tiến hành hoặc thông qua một DN hay
đại lý giám định khác để thực hiện việc xác định tính chất, nguyên nhân và mức độ tổn
thất. Điều quan trọng của công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc
phạm vi BH không, tổn thất thực tế là bảo nhiêu để làm căn cứ phục vụ cho công tác
giải quyết bồi thường và trả tiền BH cho khách hàng được chính xác.
Bồi thường hoặc trả tiền BH: là việc DNBH thực hiện cam kết trong hợp đồng
BH, chi trả cho người được BH một khoản tiền nhất định khi xảy ra sự kiện BH.

Đòi người thứ ba: là hoạt động do DNBH trực tiếp tiến hành hoặc thông qua một
đại lý trung gian khác để yêu cầu người thứ ba phải bồi hoàn cho những tổn thất do lỗi
của người thứ ba đó gây nên sau khi DNBH đã bồi thường và nhận thế quyền từ người
được BH.
Chất lượng hoạt động giám định, bồi thường khẳng định chất lượng sản phẩm của
chính DNBH, bởi tại khâu này sản phẩm của DNBH mới thực sự được khách hàng sử
dụng và đánh giá. Nếu chất lượng tốt, DNBH không những giữ được khách hàng cũ mà
còn thu hút thêm được khách hàng mới, tăng uy tín và thị phần của DN mình.
Nếu giám định và bồi thường tổn thất được coi là một khoản chi thì kết quả của
việc đòi người thứ ba được coi như là một khoản thu để giảm chi. Do đó, thực hiện tốt
công tác đòi người thứ ba là một yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh BH, tăng lợi nhuận cho DN.
1.2.3.4. Hoạt động đầu tư
Bên cạnh hoạt động kinh doanh BH, hoạt động đầu tư có vai trò hết sức quan
trọng, nó được coi là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu chính cho DNBH.
Hoạt động đầu tư không chỉ giúp các DNBH sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi
của mình để thu lợi nhuận, mà còn giúp DNBH ổn định để kinh doanh và đảm bảo quyền

lợi cho khách hàng. Bởi vì: do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh BH mà các
DNBH thường xuyên có một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ
vốn điều lệ, lợi nhuận để lại , trong khi nhu cầu về vốn cho nền kinh tế luôn ở mức cao.
Do đó DNBH có thể sử dụng các nguồn vốn này để đầu tư vào các lĩnh vực mà pháp luật
cho phép nhằm mang lại lợi nhuận như: đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản, uỷ thác
đầu tư…Nguồn thu nhập từ hoạt động đầu tư sẽ giúp DNBH tăng hiệu quả sử dụng vốn,
nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, qua đó DN luôn đảm bảo được khả
năng chi trả BH cho khách hàng.
Để đảm bảo sự an toàn trong hoạt động đầu tư của DN, đảm bảo tính thanh khoản
và chi trả thường xuyên của DNBH, Điều 11, Nghị định số 43/2001/NĐ-CP ngày
1/8/2001 của Chính phủ qui định rõ nguồn vốn dùng để đầu tư của DNBHPNT bao gồm:
Vốn điều lệ; Quỹ dự trữ bắt buộc; Quỹ dự trữ tự nguyện; Lợi nhuận để lại; Nguồn vốn

nhàn rỗi từ dự phòng nhiệp vụ.
Riêng đối với nguồn vốn từ dự phòng nghiệp vụ, thực chất đây là khoản DNBH nợ
khách hàng, do đó để đảm bảo khả năng thanh toán của DN, pháp luật qui định rất chặt
chẽ tổng hạn mức được phép sử dụng để đầu tư cũng như hạn mức đầu tư cho từng lĩnh
vực. Điều 13, Nghị định 43/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001 của Chính phủ quy định DN chỉ
được đầu tư nguồn vốn này tại Việt Nam và dùng để: mua trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu DN có bảo lãnh; gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế; mua cổ phiếu, trái
phiếu DN không có bảo lãnh; góp vốn vào các DN khác tối đa 35%; kinh doanh bất động
sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính - tín dụng tối đa 20%.
1.2.4. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ
Năng lực cạnh tranh của các DNBH trên thị trường DVBH phản ánh khả năng
tồn tại và phát triển bền vững của một DN. Năng lực cạnh tranh của DNBH nói chung và
DNBHPNT nói riêng thường bị tác động bởi một số yếu tố cơ bản sau:
1.2.4.1. Môi trường vĩ mô
Gồm các yếu tố bên ngoài DN như kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên. Môi trường
vĩ mô tạo điều kiện cho các DNBH phát triển, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của
DN.

* Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn và tổng hợp đến các DNBH, trong khuôn
khổ luận văn này chỉ nghiên cứu một số yếu tố có tác động trực tiếp nhất. Bao gồm:
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế : Một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao
sẽ phát sinh thêm các nhu cầu mới do thu nhập của người lao động tăng lên và dẫn đến
khả năng thanh toán đối với dịch vụ BH cũng tăng lên. Đây vừa là cơ hội lớn để các
DNBH mở rộng lĩnh vực kinh doanh, nhưng đồng thời cũng là thách thức đối với các DN
khi xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh tranh, Điều này sẽ làm cho chi phí và tiền lương
của DN tăng lên, làm giảm khả năng cạnh tranh của các DNBH.
- Tỷ lệ lạm phát: lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế, làm cho sự tăng trưởng
kinh tế chậm lại, tỉ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường

trước được. Nếu lạm phát liên tục, các hoạt động đầu tư của DN trở thành công việc hoàn
toàn may rủi. Sự bất trắc này khiến các DN không muốn bỏ tiền vào đầu tư. Do đó, lạm
phát cao luôn là nguy cơ đối với các DNBH.
Có thể nói, có rất nhiều vấn đề trong yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến hoạt động kinh doanh của DNBH. Có những yếu tố là nguy cơ, có những yếu tố
là cơ hội. Vì vậy trong quá trình hoạt động, các DNBHPNT phải luôn bám sát phân tích
tình hình kinh tế để tận dụng thời cơ trong kinh doanh.
* Yếu tố chính trị và pháp luật
Các DNBHPNT hoạt động trên thị trường phải tuân theo các quy định của Pháp
luật như: Biểu phí, hoa hồng phí, thuế, thuê mướn lao động, quảng cáo, quy định môi
trường… Vì vậy đòi hỏi các DNBH cần phải hiểu rõ những quy định của địa phương
hoặc của đất nước - nơi DNBH thực hiện các hoạt động kinh doanh. Có như vậy, họ mới
thực sự chủ động trước sự thay đổi của môi trường chính trị và pháp luật.
* Môi trường văn hoá, xã hội
Văn hoá, xã hội cũng là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong sự biến động và phát
triển của một DNBH, đặc biệt là các nhân tố có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát
triển nhu cầu BH như: thu nhập bình quân đầu người, trình độ dân trí Bởi vì nhu cầu
BH không phải là nhu cầu căn bản của con người, vì thế nhu cầu BH chi có thể phát triển
khi con người đã thoả mãn, đã giải quyết các nhu cầu căn bản khác. Thêm vào đó khi

trình độ dân trí nâng lên người dân sẽ nhận thức được sự cần thiết của các hoạt động BH
bảo đảm cho những rủi ro có thể xảy ra trong cuộc sống của họ. Chính điều này đã mở
rộng thêm thị trường DVBH.
* Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
Cũng giống các yếu tố khác đều có tác động hai mặt đến hoạt động kinh doanh của
DNBH, xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế cũng mở ra rất nhiều cơ hội nhưng
đồng thời cũng đem lại cho DN rất nhiều nguy cơ và các mối đe dọa lớn. Toàn cầu hoá
và hội nhập quốc tế sẽ giúp DNBH xoá bỏ các rào cản kinh tế, mở rộng thị trường hoạt
động, tiếp thu được những tiến bộ khoa học công nghệ một cách nhanh chóng… Nhưng
đồng thời nó lại cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm

ẩn trong ngành ngày càng tăng, các DN nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa
ngày càng nhiều. Chính vì vậy, các DNBHPNT trong nước phải nhận thức rõ toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ buộc phải nâng cao sức
cạnh tranh, nhanh chóng nắm lấy cơ hội nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và
hạn chế những nguy cơ và thách thức.
1.2.4.2. Môi trường kinh doanh trong ngành
Gồm các yếu tố trong ngành kinh doanh BH như: đối thủ cạnh tranh, khách hàng,
sản phẩm thay thế.
* Đối thủ cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh vừa tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
của các DNBH, vừa tạo ra sức ép đòi hỏi khả năng thích ứng của các DN này. Cạnh tranh
giữa các DN nhằm thu hút khách hàng là điều tất yếu và diễn ra ngày càng quyết liệt. sự
cạnh tranh giữa các DNBH hoạt động trong ngành là một trong những yếu tố quan trọng
đối với sự phát triển của DNBH. Nếu sự cạnh tranh này ít sẽ là cơ hội để các DNBH mở
rộng hoạt động inh doanh, nhằm chiếm lĩnh thị phần và thu được nhiều lợi nhuận. Còn
nếu sự cạnh tranh này diễn ra quyết liệt sẽ là sực ép lớn đối với các DNBH, đặc biệt là
các DNBH mới và nhỏ. Vì vậy các DNBH luôn phải biết được đối thủ nào mới xuất hiện;
nó có bị cản trở xâm nhập thị trường từ phía các đối thủ khác không? Có thể làm gì để
cản trở đối thủ này? Các đối thủ ngang sức có những điểm nào mạnh hơn, điểm nào yếu

hơn? Và từ đó họ tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh
vực kinh doanh của họ.
* Sức ép về giá của khách hàng
Sức ép từ phía khách hàng là được coi là một trong những yếu tố quyết định đến
công tác hoạch định chiến lược bởi vì khách hàng là mục tiêu hướng tới của bất kỳ DN
sản xuất kinh doanh nào. Do đó, DN cũng cần phải trả lời hàng loạt các câu hỏi như:
- Những khách hàng nào quan trọng nhất?
- Số lượng hàng hoá do khách hàng đó tiêu thụ chiếm bao nhiêu % trong tổng số?
- Nếu một khách hàng từ bỏ DN thì sẽ gây thiệt hại cho DN như thế nào?
- Liệu có đối thủ nào cản trở khách hàng trung thành và họ sử dụng thủ đoạn nào?

- Phải làm gì để giữ được khách hàng hiện có và phát triển thêm khách hàng mới?
Khi các DNBH cạnh tranh với nhau, dưới áp lực của khách hàng khiến giá cả bị
giảm xuống hoặc họ yêu cầu chất lượng sản phẩm, dịch vụ tốt hơn. Điều này sẽ làm cho
chi phí hoạt động của DN tăng lên. Ngược lại, nếu khách hàng có khả năng bị yếu thế thì
sẽ là cơ hội tốt để các DNBH tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn.
1.2.4.3. Môi trường trong nội bộ doanh nghiệp
Gồm các yếu tố bên trong DNBH như: nguồn nhân lực, tài chính, nghiên cứu và
phát triển, marketing, cơ cấu tổ chức của DN. Cụ thể:
* Tài chính
Bất cứ một DN nào muốn tồn tại và phát triển đều cần có nguồn vốn, mà trước
hết là nguồn vốn tài chính. Nguồn tài chính của DN có thể bằng nhiều hình thức: nguồn
tự có, nguồn vốn vay, ngân sách cấp, trợ cấp… Nguồn tài chính có ý nghĩa quyết định
giúp DN chớp cơ hội đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, tận dụng lợi thế về quy mô và
vượt lên trước đối thủ cạnh tranh.
* Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạch định và thực hiện
chiến lược kinh doanh của một DNBH, bởi vì con người là trung tâm của mọi hoạt động.
Do vậy cần phải có kế hoạch quản trị nguồn nhân lực, mục tiêu của quản trị nhân lực như
là: Sắp xếp hợp lý nguồn nhân lực; Đảm bảo cung - cầu về nguồn nhân lực cho các hoạt
động; xác định biện pháp cụ thể để quản lý nguồn nhân lực và dự đoán về nguồn nhân lực

mà DN có nhu cầu trong tương lai Yêu cầu của quản trị nhân lực là xây dựng được đội
ngũ lao động tích cực, có kinh nghiệm, có kỹ năng quản lỹ, kỹ năng kinh doanh. Điều đó
sẽ giúp cho DN có lợi thế cơ bản so với đối thủ cạnh tranh.
* Hoạt động nghiên cứu và phát triển sản phẩm
Trong các hoạt động đầu tư thì đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sản phẩm
thường đưa lại kết quả rất lớn. Hoạt động nghiên cứu và phát triển thường được chia làm
3 loại: Nghiên cứu đổi mới sản phẩm, nghiên cứu cải tiến sản phẩm nhằm nâng cao chất
lượng hay hoàn thiện các đặc tính của sản phẩm hiện có và nghiên cứu đổi mới công
nghệ nhằm cải tiến quá trình kinh doanh để giảm chi phí hoặc nâng cao chất lượng. Hoạt

động nghiên cứu và phát triển thường tạo ra bước đột phá cho DNBH trong hoạt động
kinh doanh, tạo ra lợi thế kinh doanh cho DN trong một khoảng thời gian nhất định. Đặc
điểm của khoa học công nghệ là luôn đổi mới và phát triển, vì vậy DN muốn tạo được lợi
thế kinh doanh lâu dài thì phải có những bước đi cụ thể, có sự đầu tư hợp lý vào hoạt
động nghiên cứu và phát triển sản phẩm.
* Marketing, bán hàng và dịch vụ ( Chưa xem và chưa sửa)
Marketing là một quá trình xác định, dự báo, thiết lập và thỏa mãn các nhu cầu
mong muốn của người tiêu dùng đối với sản phẩm hay dịch vụ. Việc phân tích hoạt động
marketing thường bao gồm các nội dung: phân tích khách hàng, nghiên cứu thị trường,
mua và bán hàng hoá. Việc phân tích chức năng marketing và bán hàng cần quan tâm đến
một số vấn đề sau: mặt hàng sản phẩm có đáp ứng mục tiêu đề ra hay không? Thái độ của
người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, giá đối với DN và đối thủ cạnh tranh? Hiệu quả
của các kênh phân phối? Lực lượng bán hàng có đủ để đạt được mục tiêu đề ra hay
không? Các hoạt động dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hoạt động như hoạt động giám
định, bồi thường ra sao? Hiệu quả của công tác quảng cáo về sản phẩm, dịch vụ của
DN?…
* Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức là tổng hợp việc sắp xếp bố trí các phòng ban chức năng của một
DNBH. Cơ cấu tổ chức của một DNBH đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc vận
hành hoạt động kinh doanh của DN. DN nào có được cơ cấu tổ chức hợp lý với sự gắn

×