Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Báo cáo phát triển con người Việt nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.21 KB, 12 trang )

B
áo cáo này đề cập tới vấn đề phát
triển con người tại Việt Nam, đặc
biệt trong thời kỳ đổi mới. Trong
suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân
tộc và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà
nước Việt Nam luôn kiên trì con đường
phát triển mang lại hạnh phúc cho toàn
thể nhân dân. Điều đó giải thích tại sao
đối với nhiều người dân Việt Nam, quan
niệm về phát triển con người (PTCN) như
một quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn và
tăng cường năng lực cho người dân mà
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
(UNDP) đưa ra, không phải hoàn toàn
mới lạ. Tuy nhiên, đôi khi giữa chủ trương
chính sách và thực tiễn triển khai lại có sự
thiếu đồng bộ, ảnh hưởng đến việc thực
hiện các mục tiêu phát triển nhằm nâng
cao đời sống nhân dân.
Công cuộc đổi mới, bắt đầu được khởi
xướng và triển khai từ giữa những năm
1980, đã tạo dựng một khuôn khổ mới để
thực hiện một cách tốt hơn các mục tiêu
phát triển con người. Thông qua việc mở
rộng cơ hội lựa chọn cho người dân, đổi
mới đã mang lại những thay đổi lớn lao về
cơ hội được làm việc, học tập và hưởng
thụ một cuộc sống có ý nghóa cho người
dân trong hơn một thập niên qua. Báo cáo
này cố gắng làm rõ mối quan hệ giữa đổi


mới và việc thực hiện các mục tiêu phát
triển con người ở Việt Nam trong 15 năm
qua. Báo cáo chứng minh rằng đổi mới là
sự tiếp tục con đường phát triển mà dân
tộc Việt Nam đã theo đuổi trong suốt lòch
sử của mình; rằng đổi mới là cách thức
phù hợp để giải quyết các vấn đề phát
triển của Việt Nam trong các điều kiện
hiện nay. Báo cáo cũng nêu ra những
thách thức chủ yếu mà Việt Nam đang và
sẽ đối mặt trong việc thực hiện các mục
tiêu phát triển con người trong mười năm
tới dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế
và bước chuyển sang kinh tế tri thức đang
diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế
giới. Một trong những thách thức đó là làm
thế nào tiếp tục củng cố và nâng cao
những thành quả của đổi mới đồng thời
hạn chế chênh lệch giàu nghèo hiện đang
có chiều hướng gia tăng. Việc chỉ ra các
thách thức đó cũng hàm ý về những mục
tiêu phát triển con người cần được Việt
Nam ưu tiên giải quyết trong giai đoạn tới.
Báo cáo khẳng đònh để vượt qua các thách
thức lớn đang đặt ra trên con đường phát
triển, để các mục tiêu phát triển con người
của giai đoạn tới được thực hiện một cách
có hiệu quả, Việt Nam không có cách nào
khác hơn là phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế và đẩy mạnh quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Các nội dung chính của Báo cáo sẽ
được trình bày khái quát dưới đây.
Quan niệm phát triển con người
Chương I đề cập những nội dung cơ bản
của quan điểm phát triển con người, tạo
thành cơ sở lý luận cho Báo cáo. Luận
điểm xuất phát, cũng là ý tưởng trung
tâm của Báo cáo là: Phát triển con người
(tiếng Anh: human development) chính
là, và phải là sự phát triển mang tính
nhân văn. Đó là sự phát triển vì con
người, của con người và do con người.
Quan điểm này coi việc mở rộng nguồn
thu nhập là một phương tiện quan trọng
1
TƯÍNG QUAN
Tưíng quan
Quan àiïím phất triïín con
ngûúâi - mưåt quan àiïím
mang tđnh nhên vùn coi
con ngûúâi lâ trung têm, lâ
mc àđch tưëi thûúång ca
sûå phất triïín. Phất triïín
con ngûúâi lâ sûå múã rưång
cú hưåi cho viïåc ngûúâi dên
nhùçm hûúáng túái mưåt cåc
sưëng àêëy à vïì vêåt chêët
phong ph vïì tri thûác

để đạt được mục tiêu phát triển con
người; song xét về bản chất sâu xa, mở
rộng cơ hội lựa chọn cho người dân, hàm
cả nghóa tạo ra các điều kiện để họ thực
hiện được sự lựa chọn đó, mới là mục
tiêu tối thượng của mọi nỗ lực phát triển.
Những sự lựa chọn quan trọng nhất
trong số rất nhiều cơ hội lựa chọn theo
quan điểm của người dân là được sống
lâu và khoẻ mạnh, được học hành và được
tiếp cận với các nguồn lực cần thiết để
đảm bảo một cuộc sống ấm no. Phát triển
con người cũng có thể được coi là sự tăng
cường năng lực cho người dân, tức là khả
năng thực hiện những công việc và ý
tưởng mà họ cho là có giá trò. Cũng giống
như khái niệm về cơ hội lựa chọn, khái
niệm về năng lực rõ ràng hàm chứa ý
tưởng của người dân về quyền tự do quyết
đònh cuộc sống trên mọi mặt của mình.
Ngoài ra, phát triển con người không chỉ
là việc xây dựng năng lực cho con người,
như nâng cao sức khoẻ, tri thức và kỹ
năng, mà còn là việc sử dụng những năng
lực đó thông qua các hoạt động sản xuất
kinh doanh, văn hoá - xã hội và chính trò.
Chỉ khi nào phát triển con người đảm bảo
mối quan hệ cân bằng giữa hai quá trình
xây dựng và sử dụng năng lực của con
người, thì lúc đó tiềm năng của con người

mới được khai thác đầy đủ. Các nền kinh
tế Đông Á có thể coi là những thí dụ
thành công trong việc tạo lập và phát
triển một môi trường thuận lợi để mở rộng
và thực hiện các cơ hội lựa chọn của
người dân. Những nước này không chỉ tích
cực đầu tư xây dựng những năng lực cơ
bản, mà người dân còn được hỗ trợ để sử
dụng những năng lực này thông qua các
chính sách thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế
nhanh chóng cũng như tăng cường các cơ
hội lựa chọn cho người dân.
Quan điểm phát triển con người có
năm đặc trưng cơ bản. Thứ nhất, con
người được coi như là trung tâm của sự
phát triển. Những vấn đề phát triển cần
được nhận thức trên cơ sở lợi ích và sự
tham gia đóng góp của người dân. Thứ
hai, người dân không chỉ là phương tiện
mà còn là mục tiêu của phát triển. Vì vậy,
quan điểm phát triển con người gắn liền
với những lý thuyết về nguồn vốn con
người hay nguồn nhân lực. Đặc trưng thứ
ba là việc nâng cao vò thế của người dân.
Người dân không chỉ đơn thuần là đối
tượng thụ hưởng một cách thụ động thành
quả của sự phát triển, mà còn là những
thành viên tham gia tích cực, chủ động
vào các hoạt động và quá trình phát triển
có ý nghóa quyết đònh tới cuộc sống của

họ. Thứ tư, quan điểm phát triển con
người chú trọng đến việc tạo lập sự bình
đẳng về cơ hội cho mọi người dân, không
phân biệt chủng tộc, tầng lớp, tôn giáo,
giới tính, quốc tòch; đồng thời nhấn mạnh
tầm quan trọng của sự công bằng giữa các
thế hệ và tính bền vững về môi trường.
Cuối cùng, quan điểm phát triển con
người mang tính toàn diện vì đó là một
quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của
người dân về tất cả các mặt của cuộc
sống, như kinh tế, chính trò, xã hội, văn
hoá vàmôi trường.
Đổi mới và Phát triển con người ở Việt
Nam.
Các chính sách kinh tế-xã hội mà Việt
Nam thực hiện trong thời gian qua, đặc
biệt trong quá trình đổi mới, về căn bản
là thực hiện phương thức tiếp cận hướng
tới việc phát triển theo quan điểm phát
triển con người. Trước đổi mới, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu tương
đối tốt về phát triển con người, đặc biệt
trong các lónh vực phát triển nguồn
nhân lực, y tế, giáo dục. Tuy nhiên, quá
trình mở rộng cơ hội lựa chọn và tăng
cường năng lực của người dân trong lónh
vực kinh tế bò hạn chế bởi việc duy trì
quá lâu cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Trong những năm 1980, những yếu kém

của cơ chế này bắt đầu được bộc lộ,
cùng với hậu quả nặng nề của chiến
tranh đã đẩy nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng, nhiều người dân bò
nghèo đói. Trước tình hình đó, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 đã
2
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001
chủ trương tiến hành công cuộc đổi
mới. Đổi mới không thay đổi các mục
tiêu phát triển vì đònh hướng xã hội chủ
nghóa tiếp tục được khẳng đònh là
phương hướng cơ bản để đáp ứng nhu
cầu của người dân. Đònh hướng này
được phản ánh rõ qua mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh". Đổi mới ở Việt Nam
được bắt đầu từ đổi mới tư duy phát
triển. Trên cơ sở giữ vững đònh hướng
xã hội chủ nghóa, các chính sách mới
được đề ra nhằm thiết lập nền kinh tế
thò trường, đồng thời mở cửa, tích cực,
chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế
giới. Đổi mới thực sự đã mang lại
những kết quả phát triển con người đầy
ấn tượng, đặc biệt trong lónh vực kinh tế
- xã hội, qua đó tạo đà phát triển mới,
đảm bảo năng lực để giải quyết những
thách thức mới trong giai đoạn phát
triển tiếp theo.

Toàn cầu hoá và phát triển con người
Phần cuối của chương này xem xét nhũng
vấn đề phát triển con người nói chung và
của Việt Nam nói riêng trong bối cảnh
toàn cầu hoá. Trước tác động của quá
trình tự do hoá thương mại và những tiến
bộ mang tính đột phá của khoa học kỹ
thuật và công nghệ, toàn cầu hoá đã và
đang làm thu hẹp không gian và thời
gian, mở ra những thò trường mới, công cụ
mới, thể chế mới, quy tắc mới và giá trò
mới. Toàn cầu hoá đã đóng vai trò xúc
tác quan trọng trong việc tăng cường sự
phồn thònh và đẩy lùi đói nghèo ở nhiều
nước. Song nếu chỉ tích cực tham gia vào
quá trình hội nhập không thôi thì chưa đủ.
Một quá trình hội nhập thực sự thành
công đòi hỏi phải xây dựng được những
chính sách mang tính chủ động nhằm
tranh thủ tối đa mặt tích cực, lợi ích và
giảm thiểu mặt tiêu cực, rủi ro của quá
trình toàn cầu hóa.
Các chính sách "mở cửa" và theo
hướng tự do hoá thương mại và đầu tư của
nhiều nước châu Á có thể là một ví dụ tốt.
Những nền kinh tế "thần kỳ" của châu Á
cho thấy rằng tiến kòp các nền kinh tế
phát triển trong vòng 40 - 50 năm là hiện
thực, và phần nhiều các nước này đã thực
hiện điều này thông qua quá trình hội

nhập nhanh chóng vào nền kinh tế thế
giới. Những yếu tố căn bản quan trọng
đảm bảo cho các nước này thành công là
chính sách kinh tế vó mô có hiệu quả, tích
cực dựa vào nguồn vốn trong nước, phát
triển theo hướng xuất khẩu dựa trên lợi
thế cạnh tranh, mở cửa nền kinh tế để tiếp
nhận thương mại và đầu tư quốc tế, tích
cực hỗ trợ tạo lập môi trường thuận lợi
cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân, chú trọng đầu tư tăng cường năng
lực của người dân, đồng thời hạn chế sự
chênh lệch về thu nhập ở mức khiêm tốn.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
châu Á năm 1997 không hề làm mai một
đi giá trò của những bài học kinh nghiệm
trên. Bản thân cuộc khủng hoảng này là
một ví dụ rất rõ ràng về tiềm năng gây
mất ổn đònh của quá trình toàn cầu hoá.
Điều đó cho thấy hệ thống tài chính toàn
cầu ngày nay chứa đựng những yếu tố bất
ổn đònh và dễ bò tổn thương. Kinh nghiệm
cũng chỉ ra rằng tính linh hoạt, chủ động
là những yếu tố hết sức quan trọng để
vượt qua khủng hoảng. Những nền kinh tế
châu Á thoát khỏi cuộc khủng hoảng một
cách tương đối an toàn là những nền kinh
tế có tính linh hoạt cao và hội nhập tốt
hoặc có mức độ hội nhập tài chính yếu
như Việt Nam. Thứ hai, cuộc khủng hoảng

cho thấy rằng việc mở rộng thông thương
về tài chính với thế giới, đặc biệt là các
dòng luân chuyển vốn ngắn hạn, cần phải
được tiến hành một cách thận trọng trong
điều kiện khi các thể chế tài chính và cơ
chế giám sát mang tính phòng ngừa đối
với khu vực tài chính còn yếu kém, đặc
biệt khi hoạt động cho vay còn chòu ảnh
hưởng nhiều của Nhà nước. Thứ ba, cần
lưu ý một thực tế là nhiều rắc rối mà các
nước châu Á phải đương đầu trong thời
gian vừa qua nảy sinh ra không phải do
chính phủ làm quá nhiều mà lại là vì họ
làm quá ít. Nhà nước đáng ra cần thể hiện
mạnh mẽ vai trò quan trọng của mình
3
TƯÍNG QUAN
Toân cêìu hoấ àậ àống
vai trô quan trổng trong
viïåc tùng cûúâng sûå phưìn
thõnh vâ àêíy li àối nghêo
úã nhiïìu nûúác. Mưåt quấ
trònh hưåi nhêåp thûåc sûå
thânh cưng àôi hỗi phẫi
xêy dûång kõp thúâi nhûäng
chđnh sấch mang tđnh
ch àưång nhùçm tranh th
tưëi àa lúåi đch vâ giẫm
thiïíu ri ro ca quấ trònh
toân cêìu hốa.

trong vấn đề ngăn chặn và giải quyết sự
thất bại về thông tin, tức là đảm bảo việc
cung cấp những thông tin cơ bản từ thò
trường, giám sát thực thi những yêu cầu
pháp lý liên quan tới tính công khai minh
bạch, trách nhiệm giải trình và chế độ báo
cáo của các công ty.
Mặc dù cuộc khủng hoảng châu Á có
ảnh hưởng đáng kể tới Việt Nam, đặc biệt
là làm suy giảm tốc độ xuất khẩu và các
dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài, song
nhìn chung Việt Nam đã chống chọi khá
tốt cuộc khủng hoảng này, thông qua một
loạt các biện pháp cần thiết như kiểm soát
chặt chẽ các hoạt động giao dòch ngoại hối
và sử dụng nguồn vốn nước ngoài chủ yếu
là các khoản đầu tư trực tiếp thay vì các
khoản đầu tư gián tiếp. Trong tương lai,
việc tiếp tục mở cửa cần được quản lý một
cách thận trọng. Cần nhấn mạnh là việc
không mở cửa hay duy trì các rào cản
thương mại chặt chẽ có thể dẫn đến những
hậu quả còn nghiêm trọng hơn.
Tình trạng chênh lệch ngày càng gia
tăng cũng là một vấn đề thường đi đôi với
quá trình toàn cầu hoá. Hiện chưa có thể
khẳng đònh chắc chắn về một mối liên hệ
mang tính hệ thống giữa (những thay đổi
về) thương mại và (những thay đổi về)
phân phối thu nhập. Những số liệu hiện

có cho thấy các nền kinh tế đang trỗi dậy
có mức độ toàn cầu hoá cao thường,
nhưng không phải luôn luôn, có được một
sự phân phối thu nhập tương đối đồng đều
hơn so với các nền kinh tế đang trỗi dậy
có mức độ toàn cầu hoá thấp hơn. Mức độ
chênh lệch về thu nhập ở một nền kinh tế
có thể liên quan tới lòch sử, tăng trưởng
kinh tế, các biện pháp kiểm soát giá cả và
tiền lương, các chương trình phúc lợi và
các chính sách giáo dục nhiều hơn là liên
quan tới chỉ riêng toàn cầu hoá hay tự do
hoá thương mại. (Xu hướng chênh lệch
giàu nghèo ở Việt Nam trong thời gian
gần đây sẽ được trình bày ở chương 3).
Tuy nhiên, để tranh thủ được lợi ích của
thương mại, người nghèo cần được tiếp
cận, ứng phó với thò trường, mà điều đó
đòi hỏi phải đầu tư về cơ sở hạ tầng cũng
như thực hiện các biện pháp thể chế. Một
điều rõ ràng là bảo hộ ít khi giúp ích cho
người nghèo, đặc biệt là về lâu dài. Các
chính sách vó mô phù hợp cùng với các
biện pháp chính sách mang tính mục tiêu,
có đối tượng rõ ràng được coi là có hiệu
quả hơn.
Toàn cầu hoá đòi hỏi phải hội nhập
văn hoá ở mức độ cao hơn. Mặc dù điều
này có thể ảnh hưởng tới tính đa dạng văn
hoá ở một mức độ nhất đònh, song hy vọng

rằng ý thức văn hoá đã ăn sâu vào tiềm
thức của người dân và ý thức dân tộc sẽ
không bò "cuốn trôi" đi, ngược lại việc
tăng cường giao lưu văn hoá mang lại
những lợi ích to lớn. Có người e ngại rằng
toàn cầu hoá sẽ làm phương hại đến chủ
quyền quốc gia của mỗi nước. Tất nhiên,
điều không thể phủ nhận là một khi đã
tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế
mỗi nước đều cần tiến hành một số biện
pháp cải cách nhất đònh, và điều đó vì thế
có thể hạn chế phần nào phạm vi của các
chính sách quốc gia. Để hội nhập thành
công đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó có
yêu cầu về một nền kinh tế độc lập tự chủ
linh hoạt có khả năng ứng phó một cách
nhanh chóng và có hiệu quả với mọi biến
động nảy sinh trong quá trình toàn cầu
hoá. Chủ động tích cực tham gia hội nhập
không phải là sự hy sinh chủ quyền quốc
gia mà phải là một biện pháp thực hiện
chủ quyền quốc gia thông qua việc tăng
cường năng lực đất nước để có thể quyết
đònh tương lai của chính mình. Điều đó
đòi hỏi cả Chính phủ và người dân phải có
năng lực mới và tư duy mới. Thành công
của hội nhập tùy thuộc vào khả năng
thích ứng và xây dựng các năng lực đó.
Hội nhập toàn cầu có thể mở ra con
đường dẫn tới phát triển bền vững và cơ

hội tiến kòp, nhưng tốc độ của cuộc hành
trình còn phụ thuộc vào sức mạnh, bản
lónh và ý chí của những con người đi trên
con đường thiên lý đó.
Cải cách thể chế và phát triển con
người
Chương 2 trình bày chi tiết hơn những
4
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001
thành tựu đầy ấn tượng trong thời kỳ đổi
mới suốt gần hai thập kỷ qua. Đổi mới đã
thực sự tạo lập môi trường thuận lợi và
mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân.
Quá trình cải cách thể chế này có thể nói
đã bắt đầu từ nông nghiệp bằng việc giao
đất của các hợp tác xã cho các hộ nông
dân. Điều đó đã mở rộng rất nhiều phạm
vi lựa chọn cho người dân nông thôn để
họ có thể sử dụng và quản lý đất nông
nghiệp một cách hiệu quả nhất. Cùng với
các biện pháp cải cách kinh tế vó mô như
tự do hoá giá cả và thống nhất tỷ giá hối
đoái, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông
thôn và phát triển vùng lãnh thổ, công
cuộc cải cách thể chế như vậy đã thúc
đẩy thương mại cả trong nước và quốc tế.
Sản lượng lương thực tăng vọt đã đưa
Việt Nam từ một nước nhập khẩu gạo
trong những năm 1980 trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn thứ hai hoặc thứ ba trên

thế giới. Các hộ nông dân bắt đầu đa
dạng hoá sản phẩm theo hướng chuyển
sang trồng các loại cây có giá trò kinh tế
cao hơn như cà phê, chè và cao su. Mặc
dù thương mại quốc tế đã mang lại những
lợi ích to lớn, song sự biến động về giá cả
trên thò trường quốc tế đặc biệt là đối với
các mặt hàng nông sản cà phê và gạo
cũng đặt người nông dân trước những rủi
ro, khó khăn to lớn. Người nông dân còn
gặp rất nhiều khó khăn trong việc đương
đầu với những rủi ro đó. Các nỗ lực như
đa dạng hoá sản xuất ở mức cao hơn, đa
dạng hoá thu nhập hay tận dụng và phát
huy các biện pháp hỗ trợ, xúc tiến thương
mại khác cần được đẩy mạnh hơn.
Những thành tích đáng khích lệ cũng
đã đạt được trong việc mở rộng cơ hội
việc làm. Trong những năm 1990, số lao
động mới có việc làm ở Việt Nam mỗi
năm tăng thêm hơn một triệu người tức là
ở mức hơn 3%/năm, cao hơn đáng kể so
với những thập kỷ trước đó. Có hai bài
học được rút ra từ thành công to lớn này.
Thứ nhất, quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế thò trường và một nền kinh tế
thông thoáng hơn đã mang lại hiệu quả to
lớn trong việc giải phóng nhiều tiềm
năng của nhân dân Việt Nam. Mặc dù
còn có những bất cập trong môi trường

kinh doanh, khu vực kinh tế dân doanh đã
tỏ ra rất có tác dụng trong việc tạo ra
những việc làm mới. Vì vậy, việc thúc
đẩy sự phát triển của khu vực này là nội
dung hết sức quan trọng. Thứ hai, cần
phải thấy rằng giờ đây Nhà nước không
còn là nguồn cung cấp việc làm duy nhất
hay tốt nhất nữa. Thay vào đó, Nhà nước
cần tập trung thực hiện vai trò gián tiếp
nhiều hơn trên cơ sở thiết lập và giám sát
các thể chế nhằm tạo thuận lợi cho thò
trường lao động vận hành tốt. Nhà nước
có trách nhiệm đảm bảo cung cấp các
dòch vụ xã hội phù hợp với khả năng tiếp
cận và chi trả của người dân, ví dụ như
thông qua việc thực hiện có hiệu quả
Chương trình quốc gia Xoá đói Giảm
nghèo và Việc làm.
Xoá đói giảm nghèo trong những năm
1990
Trước "đổi mới", tình trạng nghèo đói rất
phổ biến với tỷ lệ người nghèo lên tới
hơn 70%. Tình trạng nghèo đói phổ biến
này có nhiều nguyên nhân. Trước hết là
do người dân rõ ràng không có nhiều cơ
hội để tạo ra và gia tăng thu nhập, đặc
biệt trong điều kiện cơ chế kế hoạch hoá
tập trung. Thứ hai là do đã chú trọng quá
nhiều vào việc đảm bảo việc làm và mức
sống bình đẳng nên không tạo ra được và

phát huy tác dụng của các biện pháp
khuyến khích lao động. Thứ ba, người
dân không có đủ năng lực để ứng phó với
rủi ro. Phần lớn dân cư Việt Nam sống ở
nông thôn và cuộc sống của họ phụ thuộc
vào nông nghiệp. Những người dân nông
thôn này không có cơ chế đảm bảo an
toàn trong những tình huống khẩn cấp
như hạn hán, bão lũ và những rủi ro,
thiên tai khác do trình độ kỹ thuật lạc
hậu, mức độ đa dạng hoá còn thấp và
năng lực tài chính hạn chế.
Đổi mới không chỉ đơn thuần là những
5
TƯÍNG QUAN
Hưåi nhêåp kinh tïë toân cêìu
cố thïí múã ra con àûúâng
dêỵn túái phất triïín bïìn
vûäng vâ cú hưåi tiïën kõp,
nhûng tưëc àưå ca cåc
hânh trònh côn ph thåc
vâo sûác mẩnh, bẫn lơnh vâ
chđ ca nhûäng con
ngûúâi ài trïn con àûúâng
thiïn l àố
biện pháp kinh tế nhằm đối phó với tình
hình khủng hoảng vào giữa những năm
1980. Đổi mới chính là cả một chương
trình cải cách toàn diện nhằm khắc phục
tình trạng nghèo đói và tiếp tục phát triển

đất nước, trên cơ sở nhận thức được rằng
cơ chế kế hoạch hoá tập trung không còn
phù hợp với việc thực hiện các mục tiêu
cao cả phát triển con người trong khung
cảnh hoà bình và đất nước tập trung vào
giải quyết những vấn đề của phát triển.
Đổi mới đã đem lại những thành tựu đầy
ấn tượng trong công cuộc xoá đói giảm
nghèo, xét theo mọi tiêu chuẩn. Căn cứ
vào chuẩn nghèo của quốc tế, tỷ lệ nghèo
đã giảm từ khoảng 75% vào giữa thập kỷ
80 xuống còn 58% năm 1993 và tiếp tục
giảm còn khoảng 37% năm 1998. ở các
vùng thành thò, tỷ lệ nghèo giảm từ 25%
năm 1993 xuống còn 9% năm 1998, trong
khi đó ở các vùng nông thôn tỷ lệ nghèo
giảm từ 66% xuống còn 45%.
Xét về các khía cạnh khác của phát
triển con người, đặc biệt là trong các lónh
vực y tế và giáo dục, Việt Nam đạt kết
quả cao hơn đáng kể so với các nước thu
nhập thấp khác, có thể là do mức chênh
lệch về thu nhập còn tương đối thấp và
Chính phủ dành ưu tiên cao cho việc đầu
tư vào các lónh vực xã hội. Tỷ lệ biết chữ
ở người lớn đã đạt mức 94%. Tỷ lệ nhập
học trong độ tuổi ở cấp tiểu học lên tới
92% và ở cấp trung học cơ sở là 74%. Trẻ
em các dân tộc thiểu số đã tiến kòp về tỷ
lệ nhập học, đồng thời bất bình đẳng giữa

nam và nữ đã được thu hẹp. Được khuyến
khích bởi mức lương cao hơn đối với
những người lao động có tay nghề, giáo
dục đại học đã trở nên phổ biến và số sinh
viên du học ở nước ngoài đang tăng lên,
đồng thời những hình thức giáo dục mới
như các trường tư thục và bán công đã
xuất hiện. Trong khi đó, tỷ lệ nhập học, đi
học thường xuyên và tốt nghiệp vẫn chưa
đạt yêu cầu, một phần có thể do chi phí
của các gia đình cho con em đi học ngày
càng tăng lên. Chất lượng giáo dục và đội
ngũ giáo viên cũng là một vấn đề cần
được hết sức quan tâm. Các phương pháp
giảng dạy truyền thống vẫn chủ yếu dựa
trên việc dạy chay, học gạo. Các trường
tiểu học và trung học vẫn chú trọng nhiều
tới việc học thuộc lòng, và học sinh
thường có ít cơ hội để thể hiện sự sáng tạo
và bày tỏ những tâm tư tình cảm và ý
tưởng của mình. Cần thiết phải hiện đại
hoá hệ thống giáo dục và đào tạo để Việt
Nam vững tin đi vào kinh tế tri thức như
chúng ta hằng mong muốn.
Trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân
số và các chương trình kế hoạch hoá gia
đình đã được tăng cường và thực hiện trên
quy mô lớn. Cùng việc mức sống nói
chung được nâng cao, các nỗ lực trong
việc thực hiện chính sách dân sỗ và kế

hoạch hoá đã làm cho tốc độ tăng dân số
giảm đáng kể. Giờ đây, Chính phủ có dự
đònh chuyển dần từ việc kiểm soát tỷ lệ
sinh và kế hoạch hoá gia đình sang việc
thực hiện chính sách tập trung tạo điều
kiện để người dân tự do lựa chọn trên cơ
sở cung cấp đầy đủ thông tin thông qua
việc giúp người dân tiếp cận với các dòch
vụ chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao và
cung cấp thông tin phù hợp. Bước đi đó
cho thấy chính sách dân số là phù hợp với
quan điểm về phát triển con người.
Trong lónh vực y tế, đổi mới tiếp tục
mở rộng và cải thiện hệ thống y tế ba cấp
hiện hành. Đặc biệt, các chương trình
tiêm chủng đã được thực hiện rất thành
công. Chính sách y tế chính thức hiện nay
bao gồm ba nội dung chính: (a) thực hiện
phương châm "phòng bệnh hơn chữa
bệnh"; (b) kết hợp y học cổ truyền và y
học hiện đại và thực hiện phương châm
xã hội hoá, "nhà nước và nhân dân cùng
làm". Trong thời kỳ đổi mới, bảo hiểm y
tế đã được mở rộng và giờ đây đã phục vụ
cho gần 12% dân số. Sự tham gia của khu
vực tư nhân vào trong các hoạt động chăm
sóc sức khỏe đang ngày càng gia tăng,
đặc biệt là sự phát triển của mạng lưới
các hiệu thuốc tư nhân. Mặc dù sự gia
tăng các nguồn cung cấp các dòch vụ

chăm sóc sứ khỏe về nguyên tắc đã mở
rộng sự lựa chọn của người dân, song điều
6
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001
Àưíi múái khưng chó àún
thìn lâ nhûäng biïån phấp
kinh tïë nhùçm àưëi phố vúái
tònh hònh khng hoẫng
vâo giûäa nhûäng nùm
1980. Àưíi múái chđnh lâ
cẫ mưåt chûúng trònh cẫi
cấch toân diïån nhùçm
khùỉc phc tònh trẩng
nghêo àối vâ tiïëp tc
phất triïín àêët nûúác thưng
qua viïåc múã rưång cú hưåi
lûåa chổn cho ngûúâi dên
đó cũng dẫn đến tình trạng sử dụng thuốc
bất hợp lý, gia tăng hiện tượng kháng
thuốc và các khoản chi của người dân cho
việc điều trò.
Cuối cùng, đổi mới đã tạo ra bước
ngoặt trong lónh vực văn hoá và thông tin.
Việc cung cấp và khả năng tiếp đến các
loại thông tin khác nhau đạt được bước
cải thiện đáng kể; công nghệ thông tin và
truyền thông (ICT) hiện đại và Internet đã
trở nên phổ biến. Tuy nhiên, trong lónh
vực này vẫn còn khoảng cách khá xa giữa
những gì đã đạt được với tiềm năng và kỳ

vọng của Việt Nam cũng như so với trình
độ của nhiều nước láng giềng trong khu
vực. Thực sự cần phải có những bưỡc đột
phá mạnh mẽ hơn trong lónh vực này.
Nhìn chung, đổi mới đã mở rộng đáng
kể sự lựa chọn của người dân đồng thời
tiếp tục kế thừa và tăng cường những
năng lực đã được tạo dựng trước thời kỳ
đổi mới. Điều này được phản ánh qua
mức tăng cao về Chỉ số Phát triển con
người (HDI) và những tiến bộ trong việc
cải thiện Chỉ số Nghèo đói của con người
(HPI). Về HDI, một chỉ số tổng hợp thể
hiện tiến bộ đạt được về thu nhập, y tế và
giáo dục, Việt Nam đứng ở vò trí 101 trong
tổng số 162 nước được xếp hạng, đứng
sau Trung Quốc và Philipin nhưng đứng
trước Inđônêxia và Ấn Độ. Do các hoạt
động của Việt Nam trong lónh vực cung
cấp nước sạch và giải quyết tình trạng suy
dinh dưỡng ở trẻ em còn yếu kém nên vò
trí xếp hạng của Việt Nam về HPI còn
chưa cao mặc dù đã đạt được tiến bộ
trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, còn có nhiều vấn đề cần
được giải quyết. Trước hết, những thách
thức về phát triển con người là to lớn vì
Việt Nam vẫn là một nước nghèo theo
tiêu chuẩn quốc tế và còn đang trong quá
trình chuyển đổi. Thứ hai, vẫn tồn tại

chênh lệch đáng kể về phát triển kinh tế-
xã hội giữa các vùng lãnh thổ, các dân tộc
cũng như giữa phụnữ và nam giới. Thứ
ba, quá trình phát triển kinh tế trong thời
gian qua đã kèm theo những ảnh hưởng
không thể xem thường tới môi trường
sinh thái. Tình trạng suy giảm đa dạng
sinh học, ô nhiễm không khí, chất thải
rắn và tình trạng xuống cấp của các tài
nguyên rừng, nước và biển đang và sẽ là
những vấn đề rất cần được quan tâm. Quá
trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá cần
đảm bảo tính bền vững về môi trường sao
cho các thế hệ mai sau sẽ có những cơ hội
phát triển.
Những thách thức về phát triển con
người
Tăng gấp đôi GDP, cải thiện đáng kể HDI,
xoá đói, giảm nhanh tỷ lệ nghèo, tăng
tuổi thọ và phổ cập giáo dục trung học cơ
sở là những mục tiêu chính của Chiến
lược Phát triển Kinh tế - Xã hội 10 năm
2001 - 2010 được thông qua tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX. Theo quan
điểm phát triển con người, Chiến lược này
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây
dựng và nâng cao năng lực của người dân
cũng như tạo điều kiện để người dân có
thể sử dụng những năng lực của mình
nhằm xây dựng cơ sở cho việc thực hiên

mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ và văn minh". Tuy
nhiên, thời kỳ xoá đói giảm nghèo một
cách dễ dàng có lẽ đã đi qua, và việc thực
hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong
thập kỷ tới sẽ không dễ dàng, kể cả khi có
thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ở
mức tương đối cao (ít nhất 7%/năm). Vấn
đề chênh lệch về phát triển giữa các
vùng lãnh thổ, tình trạng nghèo khổ của
nhiều nhóm dân cư ở các vùng sâu vùng
xa, những nơi và những đối tượng đặc biệt
khó khăn đang cần được quan tâm nhiều
hơn nữa.
Chương 3 đã chỉ ra rằng tăng trưởng
kinh tế trong những năm 1990 đã mang
lại lợi ích cho người nghèo Việt Nam,
song có thể tốt hơn nữa nếu những thành
quả tăng trưởng được chia sẻ một cách
đồng đều hơn. Mặc dù vẫn còn ở mức
khá thấp căn cứ vào tiêu chuẩn quốc tế,
7
TƯÍNG QUAN
Thúâi k xoấ àối giẫm
nghêo mưåt cấch dïỵ dâng
cố lệ àậ qua, vâ viïåc thûåc
hiïån mc tiïu xoấ àối
giẫm nghêo trong thêåp k
túái sệ khưng dïỵ dâng, kïí
cẫ khi cố thïí duy trò tưëc

àưå tùng trûúãng kinh tïë úã
mûác tûúng àưëi cao
song sự chênh lệch về thu nhập dường
như đang gia tăng một cách đáng kể trên
phạm vi cả nước trong thời gian gần đây.
Kết quả ước tính về chỉ số Gini, một chỉ
số phản ánh mức độ bất bình đẳng giữa
các tầng lớp dân cư về thu nhập cho toàn
bộ 61 tỉnh thành và 8 vùng trong các năm
1995, 1996 và 1999 dựa trên số liệu Điều
tra của Tổng cục Thống kê trong Khảo
sát Mức sống Dân cư các năm cho thấy
chỉ số Gini về thu nhập trên phạm vi cả
nước tính cho năm 1999 là 40.7 có nghóa
là mức chênh lệch về thu nhập của nước
ta đã rất gần với mức chênh lệch của
Trung Quốc, (ở mức 40.3 năm 1997)
trong khi thu nhập bình quân đầu người
theo sức mua tương đương của ta (1867
USD) mới chỉ bằng khoảng một nửa của
Trung quốc (3617 USD). Mức chênh lệch
về thu nhập này cũng cao hơn so với
đánh giá mức chênh lệch dựa trên số liệu
về tiêu dùng do Ngân hàng Thế giới và
TCTK đưa ra trước đây. Tình trạng gia
tăng mức chênh lệch giàu nghèo nói trên
là khá phổ biến. Nếu tính về mức phần
trăm thay đổi của hệ số Gini thì có trên
một nửa (31/61) tỉnh thành có hệ số Gini
đã tăng lên ít nhất 10% trong thời gian

1995-1999. Chỉ có 9 trong số 61 tỉnh
thành có hệ số này giảm, nhưng ngay cả
trường hợp như vậy thì nhiều tỉnh trong số
đó đã có mức độ bất bình đẳng cao hơn
mức trung bình của cả nước.
Mức độ chênh lệch không chỉ phản
ánh qua số liệu về thu nhập mà còn thể
hiện trong các khía cạnh khác của quá
trình phát triển con người giữa các đòa
phương. Lần đầu tiên, báo cáo này cho
biết các chỉ số HDI và HPI của 61
tỉnh/thành ở Việt Nam và tình trạng phát
triển không đồng đều cũng được thể hiện
trong các chỉ số đó. Có thể rút ra hai bài
học chung từ việc phân tích này. Thứ nhất,
các chỉ số tổng hợp dường như che lấp
những sự chênh lệch đáng kể về mức độ
phát triển con người trong phạm vi quốc
gia. Vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng
bằng sông Hồng có kinh tế tương đối khá
hơn so với các khu vực khác, đặc biệt là
vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên.
Xét về chỉ số HDI, các khu vực trên có
thể sánh với các nước như Hungary và Es-
tô-nia. Những tỉnh có chỉ số HDI thấp
cũng gần như các nước Lào, Nê-pan và
Bu-tan. Thứ hai, kết quả phân tích riêng
về sự chênh lệch thu nhập có thể dẫn đến
những kết luận chính sách khác so với
trường hợp dựa trên kết quả phân tích

chênh lệch về mức độ phát triển con
người. Có thể rút ra kết luận tương tự từ
tình hình chênh lệch hiện nay giữa nam và
nữ trong toàn quốc. Như vậy, khi xây
dựng chính sách mới để cải thiện cuộc
sống của người dân, cần phải nghiên cứu
rộng hơn (không chỉ xem xét khía cạnh
thu nhập) cũng như sâu hơn (không chỉ
dựa trên những số liệu trung bình quốc
gia). Vì vậy, rất có thể các chỉ số HDI và
HPI của các tỉnh cần được tham khảo khi
hoạch đònh các chính sách kinh tế-xã hội
và phân bổ nguồn lực trong toàn quốc.
Chương 3 tiếp tục trình bày những
thách thức chủ yếu trong việc thực hiện
các mục tiêu phát triển to lớn trong thời
kỳ mới. Thứ nhất là những thách thức
trong việc chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, thực hiện các cam kết trong các
hiệp đònh thương mại song phương và đa
phương, chuẩn bò điều kiện gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới ( WTO). Mức
tăng trưởng cao trong thời gian qua khó có
thể duy trì được nếu như các mối quan hệ
thương mại và đầu tư không được đẩy
mạnh và làm sâu sắc thêm. Việc ban hành
Luật Doanh nghiệp mới, sửa đổi Luật
Đầu tư nước ngoài và thực hiện Chương
trình Hành động hỗ trợ các doanh nghiệp
vừa và nhỏ gần đây đã cải thiện môi

trường đầu tư và kinh doanh, song vẫn cần
phải có những nỗ lực lớn hơn nữa. Sức
cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn yếu,
khả năng tiếp thu công nghệ hiện đại vẫn
còn hạn chế. Trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, việc bảo hộ và bao cấp ở
mức độ cao cho các doanh nghiệp Nhà
8
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001
Chïnh lïåch vïì phất triïín
giûäa cấc vng lậnh thưí,
tònh trẩng nghêo khưí
ca nhiïìu nhốm dên cû
úã cấc vng sêu vng xa,
nhûäng núi vâ nhûäng àưëi
tûúång àùåc biïåt khố khùn
àang cêìn àûúåc quan têm
nhiïìu hún nûäa. Tùng
trûúãng lâ tưët cho ngûúâi
nghêo nhûng sệ tưët hún
nïëu tùng trûúãng mang
àêåm tđnh nhên vùn
nước như trước đây sẽ không thể thực
hiện được và không còn bền vững nữa.
Tạo việc làm vẫn là một trong những
thách thức lớn nhất trong thập kỷ tới. Mỗi
năm, có thêm 1,4 triệu người tham gia vào
thò trường lao động. Sẽ có thêm những lao
động dôi dư trong quá trình cải cách
doanh nghiệp. Tỷ lệ thiếu việc làm vẫn

còn cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn.
Trong bối cảnh như vậy, việc tạo điều
kiện trực tiếp hay gián tiếp cho sự phát
triển của những ngành công nghiệp sử
dụng nhiều vốn thay vì cho những ngành
công nghiệp sử dụng nhiều lao động sẽ là
một điều đáng lo ngại một phần vì điều
đó cản trở nghiêm trọng cho quá trình
tăng trưởng tạo ra nhiều việc làm. Kinh
nghiệm trong những năm gần đây cho
thấy khu vực dân doanh có những đóng
góp quan trọng trong việc tạo ra những
việc làm mới, kể cả ở các vùng nông
thôn. Luật Doanh nghiệp mới, bắt đầu
triển khai thực hiện tháng 1 năm 2000, đã
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của khu
vực dân doanh. Bộ luật mới này đã giảm
khá nhiều chi phí và gánh nặng về hành
chính khi thành lập một doanh nghiệp tư
nhân do việc đơn giản hoá các thủ tục và
xoá bỏ hơn 100 loại giấy phép và lệ phí.
Trong năm 2000, có 14.400 doanh nghiệp
quy mô vừa và nhỏ mới và 140.000 doanh
nghiệp hộ gia đình đã đăng ký hoạt động,
tạo ra 500.000 việc làm mới. Ngoài yếu
tố số lượng doanh nghiệp, một yêu cầu
cấp bách đặt ra là tăng cường tri thức, kỹ
năng và năng suất của những người lao
động cả cũ và mới thông qua việc dạy
nghề và đào tạo tại chỗ qua công việc.

Trong tình hình như vậy, hệ thống giáo
dục đào tạo và nghiên cứu khoa học cần
phải có sự đổi mới đáng kể. Chương trình
giảng dạy cần được hiện đại hóa nhằm
đảm bảo học đi đôi với hành. Ngoài việc
tăng số lượng, cũng cần phải nâng cao
chất lượng của đội ngũ giáo viên, và cơ
chế khuyến khích trong ngành giáo dục
cần phải được xem xét lại. Việc xây dựng
trường lớp và cung cấp trang thiết bò hiện
đại cần được đầu tư phù hợp. nhất là ở các
vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa, do tình
trạng chênh lệch đáng kể về giáo dục
giữa các vùng trong cả nước. Khoa học,
công nghệ có bước tiến bộ, song chất
lượng vẫn thấp cả về đội ngũ cán bộ và
trang thiết bò và hầu như chưa gắn với các
hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính
phủ đã có những nỗ lực đầu tiên nhằm
đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghệ
thông qua việc thiết lập một số trung tâm
công nghệ cao. Tuy nhiên khả năng tiếp
cận với dòch vụ Internet vẫn còn tương đối
hạn chế do chi phí, lệ phí cao và các quy
đònh kiểm soát chặt chẽ.
Nhà nước cũng có thể trực tiếp góp
phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo
thông qua việc phân bổ chi tiêu công
cộng, tài trợ cho các công trình hạ tầng
công cộng, cung cấp các dòch vụ công và

thực hiện các chương trình xoá đói giảm
nghèo. Cuối cùng, Nhà nước có một trách
nhiệm đặc biệt trong lónh vực bảo vệ môi
trường. Nhận thức của dân chúng về các
vấn đề môi trường cần được nâng cao, các
mối quan tâm về môi trường cần được
lồng ghép trong quá trình ra quyết đònh
phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, cũng
cần phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật
Môi trường cũng như tăng cường năng lực
quản lý môi trường bền vững cho cán bộ
Chính phủ. Cần tăng cường phân bổ ngân
sách Nhà nước cho các hoạt động về môi
trường, có thể kết hợp với việc thu phí
dòch vụ, đồng thời Chính phủ cùng với các
tổ chức quốc tế cần nỗ lực hơn nữa để
tranh thủ được các nguồn tài trợ quốc tế
về môi trường, như Quỹ Môi trường toàn
cầu và Nghò đònh thư Mônrêan.
Củng cố thành tựu và tiếp tục làm sâu
sắc thêm thành quả của đổi mới
Dựa trên kết quả phân tích được trình bày
ở các chương đầu, Chương 4 đề cập tới
năm nội dung chính của chiến lược toàn
diện nhằm tăng cường phát triển con
9
TƯÍNG QUAN
Phất huy sûác mẩnh toân
dên tưåc, tiïëp tc àưíi múái,
ch àưång hưåi nhêåp, àêíy

mẩnh cưng nghiïåp hoấ,
hiïån àẩi hoấ vò mc tiïu
phất triïín con ngûúâi, cố
àêìy à cú hưåi vâ àiïìu
kiïån tiïëp tc bẫo àẫm
thânh cưng trong viïåc
thc àêíy sûå nghiïåp phất
triïín con ngûúâi úã Viïåt
Nam
người ở Việt Nam, cụ thể là: (i) cải cách
thể chế; (ii) tiếp tục chuyển đổi cơ cấu
kinh tế; (iii) tăng cường phát triển nông
thôn; (iv) cải cách giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ; và (v) mở rộng và
cải thiện các dòch vụ công.
Cải cách thể chế đòi hỏi phải tiếp tục
cải thiện khuôn khổ pháp lý, làm rõ "luật
chơi" trong một nền kinh tế thò trường,
xây dựng đồng bộ các thò trường như thò
trường lao động và thò trường bất động
sản. Một yêu cầu rõ ràng là phải thiết lập
một sân chơi thực sự bình đẳng cho mọi
thành phần kinh tế. Thay vì sửa đổi những
bộ luật điều chỉnh các hoạt động kinh
doanh của các thành phần kinh tế, một bộ
luật thống nhất cho tất cả các doanh
nghiệp cần được xây dựng. Việc rà soát
lại các bộ luật như Luật Đất đai, Luật Lao
động, Luật Phá sản và Luật về các thể
chế ngân hàng và tài chính cần được tiến

hành, đồng thời những bộ luật mới như
Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền,
Luật Quyền sở hữu trí tuệ và Luật Thương
mại điện tử cần được xây dựng. Những bộ
luật mới này cần phải phù hợp với các bộ
luật mới được ban hành, các tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế cũng như các cam kết
song phương và đa phương. Tóm lại, điều
đó đòi hỏi phải rà soát kỹ lưỡng tất cả các
quy đònh liên quan tới đầu tư và thương
mại quốc tế.
Một môi trường kinh doanh tốt hơn
hay một sân chơi bình đẳng trên thực tế
đòi hỏi hệ thống luật pháp cần phải được
thực thi một cách có hiệu lực. Một
chương trình tổng thể về cải cách hành
chính của chính phủ là cần thiết để thực
hiện điều đó. Đồng thời, sự tham gia
rộng rãi hơn của người dân vào đời sống
kinh tế, xã hội và chính trò cần được tăng
cường và chú trọng. Mục tiêu này cần
phải theo đuổi vì lợi ích nâng cao vò thế
của người dân, đồng thời tạo ra động cơ
và áp lực cho việc cải thiện chất lượng
hoạt động của bộ máy Nhà nước. Vì vậy,
một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là
đẩy nhanh tốc độ cải cách hành chính và
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Điều
này góp phần thực hiện nguyên tắc "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

Việc nâng cao nhận thức và tuyên truyền,
giáo dục cho công chúng là yếu tố hết
sức quan trọng để đảm bảo cho người dân
hiểu biết hơn về các quyền, quyền lợi và
nghóa vụ của mình. Điều đó cũng giúp
cho người dân đấu tranh với tệ quan
liêu, tham nhũng, những hành vi thiếu
dân chủ và gây phiền hà của các cán bộ
công chức.
Về cải cách kinh tế, đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước và xây dựng một sân
chơi bình đẳng với các hình thức kinh
doanh khác cần được tiếp tục, kết hợp với
việc đổi mới hệ thống tài chính, ngân
hàng . Những biện pháp cải cách này giờ
đây trở nên cấp bách hơn, đặc biệt trong
bối cảnh thực hiện những cam kết trong
các hiệp đònh thương mại song phương, đa
phương và khu vực. Trên tinh thần đó, một
Chương trình Hành động về chủ động hội
nhập kinh tế toàn diện nhằm đảm bảo hội
nhập quốc tế thành công cần được xây
dựng và thực hiện. Các vấn đề chính sách,
luật pháp và thể chế cũng như những tác
động sâu sắc, nhiều mặt về mặt tài chính
và xã hội cần được đề cập. Trình tự và tốc
độ của các biện pháp cải cách thương
mại và đầu tư cần được xem xét một cách
thận trọng nhằm đảm bảo được quyền lợi
và hỗ trợ cho người nghèo và những đối

tượng dễ bò tổn thương. Ví dụ, việc mở
cửa thò trường cho các nguồn vật tư nông
nghiệp như phân bón, giống, thuốc trừ
sâu có thể thực hiện trong giai đoạn đầu
nhằm giúp nông dân có khả năng chống
đỡ được với tác động tiêu cực có thể nảy
sinh từ quá trình tự do hoá tiếp theo trong
những lónh vực khác mà họ phải đối mặt.
Về lónh vực phát triển nông thôn, điều
quan trọng là đảm bảo thực thi có hiệu lực
các quyền theo Luật Đất đai, đặc biệt là
quyền sử dụng đất, quyền chuyển nhượng
và thế chấp đất đai. Việc mở rộng các thò
10
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001
Mưåt mưi trûúâng kinh
doanh tưët hún hay mưåt
sên chúi bònh àùèng trïn
thûåc tïë àôi hỗi hïå thưëng
phấp låt phẫi àûúåc thûåc
thi mưåt cấch cố hiïåu lûåc
Vai trô ca Nhâ nûúác
trong viïåc cung cêëp cấc
hâng hoấ vâ dõch v
cưng cưång, àùåc biïåt liïn
quan túái giấo dc, y tïë,
cấc hïå thưëng an sinh xậ
hưåi vâ mưi trûúâng sinh
thấi lâ cûåc k quan trổng
trường quốc tế cho các loại nông sản sẽ

làm cho thò trường có tính cạnh tranh cao
hơn cũng như tăng cường khả năng tiêu
thụ sản phẩm cho nông dân. Các biện
pháp hỗ trợ cho nông dân thông qua việc
cung cấp thông tin, tăng cường các dòch
vụ khuyến nông, khuyến khích áp dụng
công nghệ mới, cải thiện cơ sở hạ tầng và
hệ thống giao thông nối liền nông thôn -
thành thò và nâng cao chất lượng của các
dòch vụ hỗ trợ thay thế, đặc biệt là ở các
vùng sâu vùng xa cần được tăng cường và
đảm bảo đến được với nông dân Kinh tế
trang trại cần được tiếp tục khuyến khích
và hỗ trợ phù hợp.
Mặc dù vai trò của Nhà nước cần
được điều chỉnh trong điều kiện mới
song trách nhiệm của Nhà nước trongviệc
cung cấp các hàng hoá và dòch vụ công
cộng, đặc biệt liên quan tới giáo dục, y
tế, các hệ thống an sinh xã hội và môi
trường sinh thái là cực kỳ quan trọng. Tuy
nhiên, cũng cần phải xác đònh rõ hơn vai
trò và trách nhiệm riêng của kinh tế nhà
nước và kinh tế dân doanh trong những
lónh vực này. Ví dụ, trong lónh vực giáo
dục, Chính phủ có trách nhiệm đảm bảo
phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ
sở, trong khi đó khu vực tư nhân có thể
giữ vai trò tích cực trong việc thực hiện
và tài trợ cho các bậc giáo dục cao hơn và

dạy nghề. Cũng cần thực hiện các biện
pháp mạnh mẽ để xúc tiến xây dựng kinh
tế tri thức tại Việt Nam.
Khu vực dân doanh có vai trò lớn trong
việc thực hiện các mục tiêu phát triển
được đề ra. Mặc dù Luật Doanh nghiệp
mới đã góp phần đáng kể vào việc cải
thiện môi trường cho khu vực kinh tế này,
nhưng vẫn cần có những nỗ lực lớn để
đảm bảo cho bộ luật này được thực hiện
tốt ở cấp đòa phương trong cả nước, song
song với việc thực hiện các biện pháp
chính sách khác. Vai trò quan trọng của
chính quyền đòa phương được thể hiện
qua những sáng kiến mà một số đòa
phương năng động đã tiến hành, có tác
dụng nhân rộng các hoạt động của khu
vực kinh tế dân doanh.
Trong cả hai lónh vực giáo dục và y tế,
cần tiến hành rà soát lại chính sách xã hội
hoá hiện nay - một chính sách có ảnh
hưởng lớn tới người nghèo - nhằm đầu tư
tăng cường khả năng tiếp cận với các dòch
vụ cũng như nâng cao chất lượng của các
dòch vụ đó bằng cách đề ra các tiêu chuẩn
tối thiểu, tăng cường tinh thần thái độ
phục vụ và công tác theo dõi chặt chẽ.
Trong lónh vực sức khoẻ sinh sản, đặc biệt
liên quan tới nguy cơ lan truyền
HIV/AIDS, Chính phủ cần triển khai theo

hướng tăng cường các biện pháp phòng
ngừa như thực hiện các dòch vụ tư vấn và
thông tin, các hoạt động tuyên truyền
giáo dục, mở rộng các biện pháp phòng
tránh thai và nâng cao năng lực cán bộ.
Các chính sách kinh tế-xã hội cần đề cập
tới quá trình đô thò hoá diễn ra nhanh
chóng và hiện tượng di cư đang gia tăng
hiện nay, kể cả tác động của chúng tới sức
khoẻ cộng đồng và môi trường.
Để đối phó với những mặt tiêu cực của
quá trình tự do hoá thương mại và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế cũng như để ngăn ngừa
rủi ro và phòng chống các tệ nạn xã hội,
cần tăng cường hệ thống an sinh xã hội
cho những nhóm dân cư dễ bò tổn thương
nhất. Việc đó đòi hỏi phải mở rộng phạm
vi hỗ trợ, cải thiện công tác xác đònh mục
tiêu đối tượng hỗ trợ, giúp người dân đối
phó tốt hơn với những tình huống rủi ro và
bất trắc do thiên tai gây ra, cũng như thiết
lập một hệ thống khắc phục hậu quả thiên
tai đáp ứng được yêu cầu.
Những khuyến nghò chính sách nêu
trên có quan hệ mật thiết với nhau nên
đòi hỏi phải có một chiến lược toàn diện
để tăng cường xây dựng năng lực cho
người dân và cải thiện môi trường thuận
lợi để người dân có thể sử dụng có hiệu
quả những năng lực của mình. Ví dụ, điều

kiện thuận lợi để các công ty tư nhân có
thể tạo ra việc làm mới và nâng cao trình
độ học vấn và sức khoẻ cho người nghèo
là yếu tố quan trọng quyết đònh để đảm
bảo các biện pháp cải cách thương mại
11
TƯÍNG QUAN
Khu vûåc dên doanh sệ cố
vai trô lúán trong viïåc thûåc
hiïån cấc mc tiïu phất
triïín àûúåc àïì ra
mang lại việc làm và thu nhập cao hơn
cho các hộ gia đình nghèo. Việc phát triển
khu vực tư nhân lại phụ thuộc rất nhiều
vào cải cách hành chính, và công cuộc cải
cách này đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa
vai trò của bản thân người dân trong quá
trình hoạch đònh, thực hiện và theo dõi
các chính sách và dòch vụ công, đặc biệt
là ở cấp cơ sở. Nếu không tiếp tục đẩy
mạnh tiến trình đổi mới thì những thành
tựu về phát triển con người đạt được trong
thời gian qua sẽ có nguy cơ bò ảnh hưởng,
và những mục tiêu phát triển đề ra khó có
thể thực hiện được. Phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, chủ động
hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá vì mục tiêu phát triển con
người, Việt Nam có đầy đủ cơ hội và điều
kiện tiếp tục đảm bảo thành công trong

việc thúc đẩy sự nghiệp phát triển con
người ở Việt Nam.
12
BẤO CẤO PHẤT TRIÏÍN CON NGÛÚÂI VIÏÅT NAM 2001

×