Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

LUẬN VĂN:Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.51 KB, 120 trang )















LUẬN VĂN:


Xã hội hóa công chứng ở
Việt Nam hiện nay


















mở đầu

1. Lý do chọn đề tài
Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế là một nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước ở
Việt Nam hiện nay. Một trong các yêu cầu quan trọng của nội dung này là xác định đúng vai
trò, chức năng của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, xác định vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công nhằm làm cho bộ máy
nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đảm bảo sự phát triển bền vững và nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Trước yêu cầu trên, xã hội hóa dịch vụ công, trong đó có xã hội hóa công chứng là
một giải pháp quan trọng.
Cùng với chủ trương xã hội hóa các hoạt động luật sư, tư vấn, giám định tư pháp,
xã hội hóa công chứng là quan điểm, chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong giai
đoạn hiện nay, thể hiện đặc biệt rõ nét ở Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung:
Hoàn thiện thể chế công chứng. Xác định rõ phạm vi công chứng và
chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý
nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng
thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này [29].
Tuy nhiên, cũng như xã hội hóa dịch vụ công, xã hội hóa công chứng ở nước ta hiện
nay vẫn còn là vấn đề mới, chưa có tiền lệ, chưa được làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực
tiễn; còn có sự khác nhau về nhận thức không chỉ trong người dân, mà ngay cả trong đội ngũ
công chức trong các cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp, các chuyên gia, các nhà quản lý và
các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý.


Vì vậy, để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa công chứng,
kịp thời đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách hành
chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, cần khẩn
trương nghiên cứu một cách nghiêm túc, khách quan, toàn diện, có hệ thống cả về cơ sở lý
luận, cơ sở thực tiễn nhằm tạo cơ sở khoa học tin cậy cho toàn bộ quá trình xã hội hóa công
chứng ở Việt Nam.
Với lý do trên, tác giả chọn đề tài "Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay"
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xã hội hóa công chứng là vấn đề mới ở Việt Nam, chưa có tiền lệ, chưa được thể
chế hóa.
Về góc độ lý luận, cho đến nay vấn đề xã hội hóa công chứng chưa được nghiên cứu
một cách hệ thống, toàn diện, đầy đủ; chưa có một đề tài nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu cơ sở
lý luận về xã hội hóa công chứng. Trong một số luận án, luận văn, bài viết về công chứng, xã
hội hóa công chứng mới chỉ được đề cập đến như là một trong các giải pháp hoàn thiện pháp
luật công chứng hoặc đổi mới tổ chức hoạt động công chứng ở Việt Nam hiện nay. Ví dụ:
Luận án tiến sĩ Luật học: "Tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay"
của tác giả Dương Khánh, 2002; Luận văn thạc sĩ Luật học: "Hoàn thiện pháp luật về công
chứng ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Kim Hoa, 2003; bài "Một số ý kiến về đổi mới tổ
chức và hoạt động của cơ quan công chứng" của tác giả Lê Khả đăng trên báo Pháp luật, ngày
18/2/2003; "Công chứng, chứng thực trong điều kiện cải cách hành chính và cải cách tư
pháp" của tác giả Trần Thất, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 6/2004; "Công chứng,
chứng thực ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển" của tác giả Phạm Văn Lợi,
đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 7/2002.
Một số luận văn, bài viết về xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư pháp, trong đó,
hoạt động công chứng được đề cập đến như một trong các hoạt động bổ trợ tư pháp cần
thiết phải xã hội hóa. Ví dụ: Luận văn thạc sĩ Luật học: "Xã hội hóa các hoạt động bổ trợ tư
pháp" của tác giả Trần Thị Quang Hồng, 2000; bài "Khái niệm, định hướng xã hội hóa tổ


chức và hoạt động bổ trợ tư pháp" của tác giả Nguyễn Văn Tuân, đăng trên tạp chí Dân chủ
và pháp luật, số 8/2004.
Tác giả Nguyễn Văn Toàn đã có Luận văn thạc sĩ (bảo vệ tại Cộng hòa Pháp) với
đề tài: "Công chứng Việt Nam trong nền kinh tế thị trường theo mô hình công chứng
Latinh", 2004. Luận văn đã nghiên cứu và phân tích khá sâu sắc các hệ thống công chứng
trên thế giới, đặc biệt, đi sâu nghiên cứu cải cách công chứng ở Cộng hòa Ba Lan và Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa, hai điển hình thành công của việc cải cách công chứng từ mô
hình công chứng nhà nước sang mô hình công chứng Latinh ở các nước có nền kinh tế
chuyển đổi; phân tích thực trạng công chứng Việt Nam và đưa ra giải pháp đổi mới công
chứng Việt Nam theo mô hình công chứng Latinh. Tuy nhiên, cơ sở lý luận của việc đổi
mới này chưa được tác giả quan tâm đề cập trong luận văn.
Bộ Tư pháp, Nhà Pháp luật Việt - Pháp cũng đã tổ chức một số hội thảo khoa học
về đổi mới tổ chức và hoạt động công chứng trong điều kiện cải cách hành chính ở Việt
Nam; về vai trò của các nghề bổ trợ tư pháp (trong đó có công chứng) trong Nhà nước
pháp quyền; về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động công chứng ở Cộng hòa Pháp và các quốc
gia trên thế giới…
Gần đây nhất, đầu năm 2005, Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp được giao
nhiệm vụ nghiên cứu đề tài cấp bộ "Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xã hội hóa
một số hoạt động bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp", mà địa chỉ áp dụng kết quả nghiên
cứu là lĩnh vực công chứng, giám định tư pháp và một số hoạt động hộ tịch. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu đề tài hiện mới đang từng bước triển khai.
Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay là đề tài đầu tiên nghiên cứu tương đối
hệ thống và toàn diện lý luận về xã hội hóa công chứng, nhằm góp phần làm cơ sở khoa
học cho quá trình xã hội hóa công chứng ở Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Xã hội hóa công chứng là một lĩnh vực có phạm vi nghiên cứu tương đối rộng,
song dưới góc độ lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, luận văn chủ yếu tập trung
nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về xã hội hóa công chứng gắn liền với quá trình cải
cách hành chính, cải cách tư pháp; đánh giá thực trạng công chứng nhà nước từ năm 2001


đến nay (tính từ thời điểm Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ
về công chứng, chứng thực có hiệu lực thi hành); yêu cầu khách quan xã hội hóa công
chứng; đề ra các quan điểm giải pháp cơ bản để xã hội hóa công chứng ở Việt Nam với lộ
trình từ nay đến năm 2020.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn
về xã hội hóa công chứng, đề xuất và phân tích các quan điểm, giải pháp xã hội hóa công
chứng ở Việt Nam trong thời gian tới, góp phần thực hiện mục tiêu cải cách tổ chức và hoạt
động của nhà nước nói chung, mục tiêu cải cách tư pháp nói riêng trong tiến trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về công chứng, xã hội hóa công chứng.
- Đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động công chứng nhà nước và phân tích các
yêu cầu khách quan xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp xã hội hóa công chứng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; về cải
cách hành chính, cải cách tư pháp.
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, trực tiếp sử
dụng các phương pháp của triết học Mác - Lênin, như phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn, phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích và tổng hợp, thống kê luật học, lý thuyết
hệ thống
6. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn là chuyên khảo khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ
thống về xã hội hóa công chứng, đưa ra khái niệm xã hội hóa công chứng, nguyên tắc

phạm vi xã hội hóa công chứng, ý nghĩa của xã hội hóa công chứng, các giải pháp cơ bản để
đưa chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống.
7. ý nghĩa lý luận, ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Luận văn đóng góp cho việc giải quyết các vấn đề lý luận về việc xã hội hóa
công chứng ở Việt Nam.
- Những vấn đề được làm sáng tỏ trong luận văn có thể đóng góp cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về công chứng ở Việt Nam theo hướng xã hội hóa, thực hiện
chủ trương xã hội hóa công chứng của Đảng và Nhà nước.
- Luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về công chứng, xã hội hóa công
chứng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1
Cơ sở lý luận về xã hội hóa công chứng

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò công chứng
1.1.1. Khái niệm công chứng
Khái niệm công chứng là một vấn đề lý luận cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với
toàn bộ các vấn đề khác liên quan đến công chứng, đặc biệt là việc xây dựng thể chế, xác
định mô hình tổ chức đảm bảo phát huy vai trò công chứng và hiệu quả công chứng trong
đời sống xã hội.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, cho đến nay về mặt lý luận, khái niệm công chứng chưa
được làm rõ, quan niệm về công chứng mới chỉ được thể hiện thông qua các văn bản pháp
lý về công chứng.
Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp - một thông tư có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng nhà nước ở Việt Nam - công chứng
nhà nước được xác định là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ
quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn

bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Lần đầu tiên kể từ khi
thành lập nước (2/9/1945), khái niệm công chứng nhà nước được đưa ra ở Việt Nam, đánh
dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý, bước đầu đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn
đầu của thời kỳ chuyển đổi. Tuy nhiên, là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai
đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, do đó, văn bản này không thể tránh được các hạn chế, đó là:
chưa xác định được chủ thể, đối tượng của hoạt động công chứng cũng như nội dung việc
công chứng, chưa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan nhà
nước khác.
Quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm tăng
nhanh cả về số lượng và quy mô các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại, đặt ra yêu cầu ngày
càng cao đối với hoạt động công chứng. Do đó, trong vòng 10 năm (1991 - 2000), Chính phủ
đã ban hành ba nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số

45/HĐBT ngày 27/2/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động
công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày
18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là
Nghị định số 31/CP) và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ về công
chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 45/HĐBT, công chứng nhà nước được xác định như sau:
Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp
đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau
đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ (Điều
1).
Đến Nghị định số 31/CP, công chứng nhà nước được xác định:
Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy
tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là

các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị
tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu (Điều 1).
So với Thông tư số 574/QLTPK, khái niệm công chứng ở hai Nghị định này đã được
xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Và nếu so sánh Nghị định số 45/HĐBT với Nghị định số
31/CP thì Nghị định số 31/CP đã bước đầu có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi
chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý của hành vi công chứng và hành vi chứng thực
chưa được phân biệt. Quy định "chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giấy tờ" ở cả

hai Nghị định này còn quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả
khác nhau trong thực tiễn hoạt động công chứng.
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được tách bạch
khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định này đã được xác định khoa
học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của thế giới về công chứng. Theo Nghị
định này, "công chứng là việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng
được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại
và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác
theo quy định của Nghị định này" (khoản 1 Điều 2).
Cùng với việc xác định khái niệm công chứng như trên, Nghị định số
75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm chứng thực "là việc ủy ban nhân dân cấp huyện,
cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ
phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này" (khoản 2
Điều 2).
Điểm mới quan trọng nữa của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là đã thay đổi tên gọi
từ "Phòng công chứng nhà nước" ở các văn bản pháp lý trước đó thành "Phòng công
chứng". Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề để tiến tới chuyên môn hóa,
chuyên nghiệp hóa và xã hội hóa nghề công chứng ở Việt Nam.
Tuy nhiên, khái niệm công chứng của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP còn có một số

điểm chưa phù hợp, đó là:
Thứ nhất, mặc dù Nghị định đã có sự phân biệt hành vi công chứng và hành vi
chứng thực bằng hai khái niệm khác nhau, song xem xét tổng thể Nghị định số 75/2000/NĐ-
CP, có thể thấy, hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực vẫn được đồng nhất cả về
chủ thể, đối tượng và ý nghĩa pháp lý.
Thứ hai, nếu Thông tư số 574/QLTPK cũng như Nghị định số 45/CP và Nghị định
số 31/CP chưa xác định chủ thể của hoạt động công chứng, thì Nghị định số 75/2000/NĐ-
CP lại xác định chủ thể của hoạt động công chứng là Phòng công chứng - "Công chứng là
việc Phòng công chứng chứng nhận ". Thực tiễn hoạt động công chứng cho thấy, dù được
tổ chức như thế nào, công chứng vẫn là hoạt động của công chứng viên, công chứng viên

phải chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi công chứng của mình. Quy định như trên đã làm
"mờ" đi vai trò của công chứng viên trong hoạt động công chứng.
Thứ ba, xem xét một cách hệ thống các văn bản pháp lý về công chứng ở nước ta
từ năm 1987 đến nay cho thấy, dù sử dụng thuật ngữ "Công chứng nhà nước" hay "Công
chứng" thì quan niệm về công chứng của Việt Nam vẫn không thay đổi, đó là: công chứng
là hoạt động của Nhà nước, do Nhà nước trực tiếp thực hiện. Với quan niệm này, công
chứng Việt Nam được tổ chức theo mô hình công chứng nhà nước (phòng công chứng là
cơ quan nhà nước, công chứng viên là công chức nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, Nhà nước đảm bảo toàn bộ cơ sở vật chất cho hoạt động công chứng). Đây là mô hình
công chứng mang tính đặc thù của Liên Xô (cũ) và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa trước
đây trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Những điểm chưa phù hợp trên đã dẫn đến các cách hiểu khác nhau (thậm chí trái
ngược nhau) không chỉ của xã hội mà cả các nhà quản lý và đội ngũ công chứng viên về công
chứng (công chứng là một cơ quan hành chính, cũng có ý kiến cho là cơ quan hành chính - tư
pháp, hoạt động công chứng là hoạt động quản lý nhà nước; công chứng là một tổ chức nghề
nghiệp, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp, hỗ trợ công dân, hỗ trợ quản lý nhà
nước và hỗ trợ tư pháp, do đó, công chứng là một thiết chế bổ trợ tư pháp cũng giống như luật
sư).
Sự thiếu thống nhất trong nhận thức về công chứng như trên đã gây ảnh hưởng

không nhỏ tới chất lượng, hiệu quả và vai trò công chứng trong đời sống xã hội. Nguyên
nhân chính ở đây là do chúng ta chưa có được nhận thức đúng về bản chất công chứng.
Như vậy, để có được nhận thức thống nhất, chuẩn xác về công chứng, tạo tiền đề
cho sự phát triển công chứng, phát huy vai trò công chứng trong đời sống xã hội, về mặt lý
luận, trước hết cần nghiên cứu làm rõ bản chất
công chứng.
Vậy, nên hiểu như thế nào về bản chất công chứng?
Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của công
chứng viên… Công chứng viên, theo tiếng Latinh là "Notarius". "Notarius" trong Luật
Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn bản, giấy tờ khác, người làm

chứng. Trong Luật La Mã, là người ghi chép, thư ký, tốc ký, người ghi chép các hoạt động
trong nghị viện của tòa án, hoặc ghi chép theo lời người khác đọc, người soạn các di chúc
và giấy chuyển nhượng sở hữu [119, tr. 1990].
Theo cách giải thích trên, xét về nguồn gốc, công chứng là nghề sớm xuất hiện
trong lịch sử loài người (từ thời La Mã cổ đại), với vai trò ghi chép, soạn thảo văn bản và
làm chứng.
Nghiên cứu các tài liệu về công chứng cho thấy, trên thế giới có ba hệ thống công
chứng: Hệ thống công chứng Latinh tương ứng với hệ thống luật La Mã (còn gọi là hệ thống
pháp luật dân sự - Civil Law); hệ thống công chứng Ănglo - Saxon tương ứng với hệ thống
pháp luật Ănglo - Saxon (Common Law) và hệ thống công chứng Collectiviste (công chứng
tập thể) tương ứng với hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa (Sovietique).
So sánh các hệ thống công chứng cho thấy, mặc dù giữa hệ thống công chứng
Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon có sự khác biệt nhau về cách thức tổ chức,
hoạt động, trình tự, thủ tục công chứng, song quan niệm về công chứng ở hai hệ thống này
về cơ bản tương đồng. Cả hai hệ thống này đều coi công chứng là một nghề tự do, công chứng
viên hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là
một nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng
nghiệp vụ được Nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng
vốn rất phức tạp, đa dạng, công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các

điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề.
Có thể thấy rõ điều đó qua pháp luật thực định về công chứng của một số nước.
ở Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng Latinh), Điều 1 Pháp
lệnh số 45-2500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng hòa Pháp quy định: "Công
chứng viên là viên chức công, được bổ nhiệm để lập các hợp đồng và văn bản mà theo đó,
các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác thực giống như các văn bản của các cơ quan công
quyền và để đảm bảo ngày, tháng chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công
chứng" [118, tr. 8]. (Điều 1 Điều lệ công chứng được ban hành kèm theo Lệnh số 48/FR
ngày 29/8/1968 của Cộng hòa Bê-nanh cũng chép lại gần như nguyên văn điều luật trên)
[118, tr. 125].

ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng Anglo -
Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định:
Công chứng viên là viên chức được bổ nhiệm để thực hiện các hành vi
công chứng sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ
khác có liên quan đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy tờ khác có liên
quan đến việc chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền
liên quan đến bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác
thuộc khối cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chứng nhận hoặc xác nhận các
giấy tờ liên quan đến di chúc, lập kháng nghị hàng hải về sự cố
xảy ra đối với tàu và hàng hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển [111, tr.
90].
Hệ thống công chứng Collectiviste lại có quan niệm về công chứng khác với hệ
thống công chứng Latinh và hệ thống công chứng Anglo - Saxon. ở hệ thống công chứng
Collectiviste, công chứng chưa được coi là một nghề (công chứng viên là công chức nhà
nước, kiêm nhiệm cả việc chứng thực (thị thực hành chính); việc công chứng được giao cho
cả các chủ thể không phải là công chứng viên đảm nhiệm; công chứng viên không có chứng
chỉ hành nghề, không phải chịu trách nhiệm dân sự trước khách hàng, chỉ phải chịu trách
nhiệm hành chính trước Nhà nước về những sai phạm trong hoạt động của mình).
Tuy nhiên, hiện nay trong hệ thống công chứng Collectiviste, hầu hết các nước đã

chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đều có sự đổi mới trong quan niệm về công chứng
phù hợp với quan niệm của hệ thống công chứng Latinh và hệ thống Anglo - Saxon, đó là
xác định công chứng là một nghề tự do đặt dưới sự quản lý của Nhà nước và đang từng
bước tiến hành cải cách công chứng từ mô hình công chứng nhà nước sang mô hình công
chứng tự do. Ví dụ: ở Ba Lan, Điều 1 Luật số 176 ngày 14/02/1991 về công chứng quy
định: "Công chứng viên được bổ nhiệm để lập những văn bản mà trong đó, các bên phải
hoặc muốn đem lại một tính đích thực" [118, tr. 99].
So sánh những quy định nêu trên cho thấy, nội dung chi tiết về chức năng, nhiệm
vụ của công chứng viên trong pháp luật thực định của các nước có những điểm khác nhau,
nhưng quan niệm về công chứng đều có những điểm cơ bản giống nhau:

- Chủ thể của hoạt động công chứng là công chứng viên.
- Công chứng là việc soạn thảo, chứng nhận (xác nhận, chứng thực) các hợp đồng
giao dịch.
- ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là đảm bảo giá trị thực hiện cho các
hợp đồng giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra
(văn bản công chứng là một công chứng thư).
Qua các phân tích trên cho thấy, khởi nguồn, hoạt động công chứng là hoạt động
của xã hội, với vai trò làm chứng của quần chúng nhằm đảm bảo tính công khai, minh
bạch, khách quan của các khế ước, văn tự được lập, đề phòng sự tranh chấp, lật lọng. Có
thể nói, ở giai đoạn đầu của lịch sử công chứng, công chứng chính là nhu cầu tự nhiên, tự
bảo vệ của dân chúng khi họ tham gia các hợp đồng, giao dịch chứ chưa phải nhu cầu của
quản lý nhà nước. Như vậy, công chứng là một hoạt động mang tính xã hội sâu sắc.
Mặt khác, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ công dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân và các tổ chức trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; phòng ngừa
tranh chấp và vi phạm pháp luật; hỗ trợ quản lý nhà nước, góp phần đảm bảo ổn định trật
tự xã hội, thúc đẩy các giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại phát triển và hỗ trợ tư pháp
thông qua việc cung cấp chứng cứ cho hoạt động xét xử, công chứng là một nghề có tính
chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa phục vụ cho lợi ích chung của xã hội, cộng đồng. Với
vai trò quan trọng như trên, công chứng đã trở thành đối tượng quản lý của Nhà nước.

Thậm chí, ở một số quốc gia, trong những điều kiện lịch sử nhất định, công chứng còn trở
thành một hoạt động thuộc chức năng xã hội của Nhà nước (chức năng cung ứng dịch vụ
công).
Như vậy, bản chất công chứng là hoạt động mang tính dịch vụ công (Service
public). Với sự tinh thông nghề nghiệp, bằng việc tư vấn, soạn thảo, chứng nhận các hợp
đồng, giấy tờ, công chứng viên đã cung cấp dịch vụ bảo đảm an toàn pháp lý cho công dân
và các tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại.
Khẳng định bản chất công chứng như trên, cho phép chúng ta thấy rõ: Công chứng
là một hoạt động xã hội - nghề nghiệp, không mang đặc trưng quyền lực nhà nước. Về mặt tổ

chức, công chứng cần được xác định là một tổ chức nghề nghiệp chứ không phải là cơ quan
hành chính hay cơ quan hành chính - tư pháp.
Như vậy, để đảm bảo sự phù hợp, hài hòa, tương thích với quan niệm của thế giới
về công chứng, tạo tiền đề cho sự phát triển công chứng và nâng cao hiệu quả công chứng,
phát huy vai trò công chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, công chứng nên được hiểu như sau: Công chứng là hành vi của công
chứng viên lập, chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý
cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật. Văn bản
công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
1.1.2. Đặc điểm công chứng
Từ khái niệm trên, có thể thấy hoạt động công chứng có các đặc điểm cơ bản:
Đặc điểm thứ nhất: Nội dung cơ bản của hoạt động công chứng là lập hợp đồng,
giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận các hợp đồng giấy tờ theo quy định của
pháp luật.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của hoạt động công chứng, là căn cứ quan trọng nhất
để phân biệt hoạt động công chứng với các hoạt động mang tính chất hành chính của các cơ
quan công quyền. Hành vi lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự và chứng nhận
các hợp đồng giấy tờ đó theo quy định của pháp luật chính là hành vi tạo nên các văn bản
công chứng. Hay nói cách khác, các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng gọi là các văn bản
công chứng.

Lập hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự là việc công chứng viên thông
qua các tác nghiệp nghề nghiệp của mình, giúp khách hàng thể hiện ý chí, nguyện vọng,
thỏa thuận bằng văn bản, đảm bảo phù hợp với pháp luật, không trái với đạo đức xã hội;
hoặc kiểm tra, tư vấn, góp ý để khách hàng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của chính
họ một cách rõ ràng, chính xác trong các văn bản do họ tự lập.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình thực hiện việc công chứng.
Công chứng viên, bằng sự tinh thông và kinh nghiệm nghề nghiệp, với sự khách quan, vô
tư phải đảm bảo xác định đúng chủ thể, đối tượng, nội dung, tính chất của hợp đồng giao

dịch, xác định các quan hệ pháp lý phát sinh xung quanh một yêu cầu công chứng, hậu quả
pháp lý có thể xảy ra. Ví dụ, khi tiếp nhận một yêu cầu chứng nhận hợp đồng mua bán nhà ở,
công chứng viên, ngoài việc xác định các nội dung cơ bản của hợp đồng theo quy định của
pháp luật (tình trạng, chất lượng tài sản; vị trí ranh giới tài sản; giá cả, phương thức
thanh toán ); còn phải xác định các quan hệ pháp lý liên quan khác:
- Quan hệ sở hữu (sở hữu chung hay sở hữu riêng).
- Quan hệ thừa kế (tài sản có liên quan đến di sản thừa kế hay không?).
- Quan hệ giao dịch bảo đảm (tài sản có đảm bảo cho việc thực hiện một nghĩa vụ
nào hay không như: cầm cố, bảo lãnh, thế chấp ) v.v
Đồng thời, cần phải giải thích rõ cho khách hàng biết, nếu có sự man trá, không
trung thực trong quá trình giao kết hợp đồng, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý gì khi
tranh chấp xảy ra.
Chứng nhận các hợp đồng, giấy tờ theo quy định của pháp luật là việc công chứng
viên, trên cơ sở các hợp đồng, giấy tờ đã được lập, công nhận tính đúng đắn, chính xác, có
thực, hợp pháp của các hợp đồng, giấy tờ bằng việc ghi lời chứng theo thể thức và nội
dung do pháp luật quy định và ký tên vào văn bản, giấy tờ đó.
Khi đã hoàn tất hai giai đoạn trên, hợp đồng, giấy tờ đã trở thành văn bản công
chứng - một loại công chứng thư (văn bản có tính chất công, có tính chất như văn bản của
cơ quan công quyền, được lập ra do người có thẩm quyền và theo trình tự, thể thức chặt
chẽ). Ngược lại, nếu công chứng viên mới lập văn bản, (giai đoạn 1) hoặc kể cả vì lẽ nào
đó, công chứng viên đã ghi lời chứng mà chưa ký vào văn bản, thì đó mới chỉ là một tư

chứng thư (văn bản có tính chất như hai bên tự lập, không theo thể thức bắt buộc, không có
chứng nhận của công chứng viên).
Ngoài ra, sau khi lập, chứng nhận các hợp đồng giấy tờ như đã phân tích ở trên,
công chứng viên còn phải cấp văn bản cho khách hàng và có nghĩa vụ lưu giữ văn bản
công chứng lâu dài, đảm bảo an toàn và cấp bản sao văn bản công chứng khi có yêu cầu
của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch.

Với phân tích trên, có thể thấy, hoạt động công chứng là hoạt động nghề nghiệp có
tính chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa cao, khác với hoạt động chuyên môn thuần túy
như hoạt động của các công chức hành chính. Bản thân hoạt động công chứng chứa đựng
tính phức tạp, đa dạng của các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại. Vì thế, không phải
ngẫu nhiên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có các quy định nghiêm ngặt về điều
kiện, tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên.
Đặc điểm thứ hai: Chủ thể của hoạt động công chứng là công chứng viên.
Công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm, chịu trách nhiệm tiếp nhận hoặc lập các
loại hợp đồng, giấy tờ theo yêu cầu của đương sự, bảo đảm tính chính xác về ngày, tháng,
năm, địa điểm lập văn bản, hợp đồng; ghi nhận một cách khách quan, trung thực, chính
xác ý chí, nguyện vọng, thỏa thuận của các bên đương sự; đem lại cho các hợp đồng, giấy
tờ đó giá trị như văn bản của cơ quan công quyền (công chứng thư - Acte - authentique).
ở hầu hết các quốc gia, công chứng viên là người hành nghề tự do trong khuôn khổ
luật định.
Đặc điểm thứ ba: Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.
Văn bản công chứng là văn bản do công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt
buộc, ghi lại một cách chính xác ngày, tháng, năm, địa điểm giao kết và ý chí, nguyện
vọng, giao kết của các bên khi tham gia hợp đồng giao dịch. Văn bản công chứng là một
công chứng thư.
Theo Bộ luật Dân sự Pháp, tại Điều 1319: "Văn bản công chứng đem lại sự tin cậy
đầy đủ cho hợp đồng"; Điều 1317: "Văn bản công chứng là văn bản được công chứng viên
lập để làm chứng, tại một địa điểm và theo những thể thức bắt buộc" [111, tr. 56].
Theo Điều 76 Dụ số 43 (29-11-1954) về Quy chế ngạch chưởng khế (của chính

quyền Sài Gòn), chứng thư chưởng khế "có hiệu lực chấp hành trên toàn cõi Việt Nam"
[91, tr. 140].
Có thể thấy, văn bản công chứng được tạo lập trước hết không nhằm tạo ra chứng
cứ và càng không phải mục đích duy nhất làm chứng cứ. Văn bản công chứng được tạo
lập, trước hết đảm bảo giá trị thực hiện đối với các bên giao kết (ràng buộc chặt chẽ quyền

và nghĩa vụ của các bên đương sự, là cơ sở pháp lý không thể phản bác để các bên buộc bên
kia phải thực hiện đúng các thỏa thuận). Đồng thời, có giá trị đối với cả bên thứ ba. Ví dụ:
Ông A và bà B ký kết với nhau một hợp đồng mua bán nhà ở, có chứng nhận của công chứng
viên, kể từ ngày được công chứng, trong thời hạn ghi trong hợp đồng, ông A và bà B phải tự
nguyện, chủ động thực hiện hợp đồng theo các điều khoản đã thỏa thuận. Đồng thời, các cơ
quan có thẩm quyền liên quan (trước bạ, nhà đất ) cũng buộc phải chấp hành (giải quyết các
việc liên quan đến thủ tục mua bán nhà ở) mà không thể từ chối, cản trở. Có thể nói, hiệu lực
thực hiện ngay (gần như là tuyệt đối) đó là điểm cốt lõi, chỉ có văn bản công chứng mới có
được. Điều này giải thích vì sao ở Pháp, công chứng viên được coi là thẩm phán về hợp
đồng.
Giá trị chứng cứ của các hợp đồng giấy tờ đã được công chứng chính là giá trị làm
chứng của nó. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, những hợp đồng, giấy tờ đã được công
chứng chính là bằng chứng không thể chối cãi giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Từ
đó, quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các bên được bảo vệ và bảo đảm thực hiện.
Tuy nhiên trên thế giới, các hệ thống pháp luật khác nhau có quan điểm khác nhau
khi xác định giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. Do công chứng của hệ thống Anglo
- Saxon là công chứng hình thức (công chứng viên nhận diện đúng khách hàng, ghi đúng
ngày, tháng, năm, ghi lại một cách trung thành ý chí, các thỏa thuận của các bên, không
quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng hợp đồng, không cần biết nội dung của hợp
đồng, giao dịch có trái pháp luật, đạo đức xã hội hay không, không chịu trách nhiệm nếu
có điều khoản nào đó trong hợp đồng bất lợi cho một bên hoặc gây thiệt hại cho người thứ
ba), văn bản công chứng mang lại sự an toàn pháp lý thấp nên không có hiệu lực bắt buộc
thực hiện đối với các bên như phán quyết của tòa án. Văn bản công chứng cũng có giá trị
chứng cứ song không cao hơn các tư chứng thư. Công chứng Latinh là công chứng nội

dung, văn bản công chứng được lập theo trình theo tự, thủ tục chặt chẽ do luật định, công
chứng viên không chỉ chứng nhận, đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính đích thực của hợp
đồng, giao dịch mà còn phải đảm bảo và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, không trái đạo
đức xã hội của các hợp đồng, giao dịch đó, đảm bảo không xâm hại lợi ích của người thứ
ba hoặc của Nhà nước. Vì vậy, văn bản công chứng có giá trị chấp hành riêng biệt. Khi
được xuất trình trước tòa án với tư cách là chứng cứ, thì tòa án, nói chung không cần phải

đánh giá lại tính xác thực của những điều đã được ghi trong văn bản đó và mặc nhiên xem
nó là chứng cứ. Vì lý do nào đó, để bác bỏ hiệu lực chứng cứ của một văn bản công chứng,
tòa án phải xem xét theo một trình tự tố tụng riêng về chính văn bản công chứng đó (với tư
cách là thưa kiện chính vụ), chứ không thể tùy tiện bác bỏ giá trị văn bản công chứng trong
một vụ kiện khác.
Ngoài ra, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng ở hệ thống công chứng Latinh
còn được bảo đảm ở việc văn bản công chứng được bảo vệ an toàn, lưu giữ lâu dài theo
quy định của pháp luật, đồng thời được ghi vào sổ danh mục công chứng theo đúng trình
tự luật định. Đó chính là yếu tố đảm bảo cho văn bản công chứng không thể bị thay đổi,
sửa chữa, đánh tráo.
Đặc điểm thứ tư: Công chứng là hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và các tổ
chức khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại; hỗ trợ tích cực cho hoạt động
quản lý nhà nước và hoạt động tư pháp nên thường được xếp vào nhóm bổ trợ tư pháp (có
thể nói đặc điểm này là hệ quả của các đặc điểm trên).
Các nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn lịch sử cho thấy, Nhà nước pháp quyền
chỉ có thể tồn tại trong hiện thực trên nền tảng của một xã hội dân chủ, ở đó hình thành và
phát triển mạnh mẽ hệ thống các mối liên hệ đa dạng theo chiều ngang của các cá nhân,
các tổ chức và cộng đồng trên cơ sở tự nguyện, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp
luật. Trong đó, quan hệ cơ bản là quan hệ hợp đồng được điều chỉnh bằng pháp luật trên cơ
sở nguyên tắc công dân được làm tất cả, trừ những gì luật cấm; các quyền tự do kinh
doanh, tự do hợp đồng, tự do sở hữu và tự do định đoạt của công dân được pháp luật thừa
nhận và đảm bảo thực hiện.
Là hoạt động gắn liền với các hợp đồng, giao dịch; phát sinh, tồn tại, phát triển

trên cơ sở nhu cầu về an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch, công chứng chính là
hoạt động hỗ trợ đắc lực cho công dân và các tổ chức khi tham gia giao dịch dân sự, kinh
tế, thương mại.
Thông qua chức năng này, hoạt động công chứng đã góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể khi tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh
chấp và vi phạm pháp luật, tạo sự ổn định cho xã hội.

Không chỉ hỗ trợ tích cực công dân khi tham gia các hợp đồng, giao dịch, mà thông
qua việc phòng ngừa vi phạm pháp luật, công chứng còn góp phần hỗ trợ quản lý nhà nước
một cách thường xuyên, liên tục đảm bảo nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước.
Nếu như hỗ trợ hành pháp được biểu hiện thường xuyên, liên tục, thì trái lại công
chứng chỉ có ý nghĩa bổ trợ tư pháp khi có tranh chấp xảy ra. Khi có tranh chấp xảy ra, công
chứng cung cấp chứng cứ không thể phản bác.
Cần thấy rằng, tham gia tố tụng với ý nghĩa bổ trợ pháp không phải là mục đích tự
thân với ý nghĩa quyết định sự tồn tại của hoạt động công chứng. Sự tham gia của công
chứng với ý nghĩa là cung cấp chứng cứ không mang tính chất bắt buộc mà trên cơ sở yêu
cầu của một trong các chủ thể tham gia quá trình tố tụng (có thể là tòa án, có thể là các bên
đương sự). Song, khi có yêu cầu, công chứng đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tư
pháp bằng việc cung cấp chứng cứ không thể bác bỏ, đảm bảo cho hoạt động xét xử được
khách quan, nhanh chóng, chính xác, đảm bảo chất lượng và hiệu quả xét xử.
1.1.3. Vai trò công chứng trong đời sống xã hội
Công chứng là hoạt động có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, thể hiện:
Thứ nhất: Công chứng là một biện pháp tích cực hỗ trợ cho công dân và các tổ chức,
để bảo đảm an toàn cho họ trong các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại bằng cách tạo lập
văn bản công chứng - một loại công chứng thư - một loại chứng cứ không thể phản bác. Bằng
sự tinh thông nghề nghiệp của công chứng viên, với trình tự, thể thức chặt chẽ, nghiêm ngặt
trong quá trình lập văn bản công chứng, công chứng đảm bảo sự bình đẳng, tự nguyện, tự do ý
chí, khách quan của các bên giao kết hợp đồng, tránh bị lừa dối, đe dọa, nài ép, tránh sự nhầm
lẫn về chủ thể, đối tượng và nội dung của các hợp đồng giao dịch.
Không chỉ hỗ trợ cho công dân, tổ chức trong các quan hệ dân sự, kinh tế, thương

mại, công chứng còn là một biện pháp phòng ngừa có hiệu quả và quan trọng ở cả hai khía
cạnh: tạo cho công dân ý thức thận trọng, có trách nhiệm hơn trong việc thể hiện ý chí của
mình phù hợp với pháp luật, với đạo đức xã hội khi tham gia các quan hệ giao dịch; đồng
thời nếu có xảy ra tranh chấp trong các quan hệ pháp lý đó, thì đã có cơ sở pháp lý chắc
chắn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ngoài các vai trò truyền thống nói trên, trong điều kiện kinh tế thị trường và Nhà
nước pháp quyền, quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự do định đoạt được khẳng định và
đảm bảo thực hiện, vai trò công chứng ngày càng được khẳng định. Trong điều kiện này, công
chứng còn là một trong các thiết chế bảo đảm quyền dân chủ. Có thể nói, hoàn thiện thể chế
công chứng theo hướng xã hội hóa không chỉ là nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội hiện
nay, mà còn là nhu cầu của bản thân quá trình dân chủ hóa xã hội, thúc đẩy quyền con người.
Hoạt động công chứng góp phần đảm bảo trật tự, ổn định xã hội, làm lành mạnh hóa đời sống
dân sự, tạo điều kiện để công dân thực hiện tốt hơn quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu, tự
do định đoạt, đảm bảo các nguyên tắc của kinh tế thị trường.
Như vậy, công chứng chính là một trong các phương tiện, công cụ tạo ra khả năng
để công dân tự bảo vệ các quyền, tự do và lợi ích của mình; đồng thời góp phần nâng cao
dân trí pháp lý, mở rộng dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân trong các giao lưu dân sự,
kinh tế, thương mại; tạo môi trường pháp lý an toàn, lành mạnh để các giao lưu dân sự,
kinh tế, thương mại phát triển, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Thứ hai: Bản thân công chứng không phải là một hoạt động quản lý nhà nước, nhưng
nó góp phần hỗ trợ tích cực cho Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế, quản lý xã hội bằng
pháp luật, một yêu cầu cốt lõi của Nhà nước pháp quyền. Mặt khác, bằng cách tạo ra chứng
cứ không thể phản bác về các giao dịch, công chứng tạo thuận lợi cho hoạt động xét xử của
tòa án nếu có tranh chấp xảy ra.
Mặc dù có vai trò quan trọng như trên, nhưng công chứng chỉ có thể phát huy vai trò,
tác dụng khi được tổ chức phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, với bản chất xã hội - nghề
nghiệp và với khuynh hướng phát triển công chứng trên thế giới hiện nay.
1.2. xã hội hóa dịch vụ công và khái niệm, đặc trưng, nguyên tắc, phạm vi, ý
nghĩa của xã hội hóa công chứng

1.2.1. Xã hội hóa dịch vụ công
ở trên, phần 1.1.1 đã khẳng định, "bản chất công chứng là hoạt động mang tính
dịch vụ công". Dịch vụ công (tiếng Anh là service public; tiếng Pháp là public service) là
khái niệm được sử dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay. ở Việt Nam, khái niệm dịch vụ

công mới được bàn đến và sử dụng trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, dịch vụ công
không phải là cái gì mới mẻ mà chính là những hoạt động phục vụ cho các lợi ích thiết yếu,
các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các tổ chức mà Nhà nước có trách nhiệm
đảm bảo.
Nhà nước có hai chức năng cơ bản: Chức năng quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội và chức năng phục vụ cho các tổ chức, công dân trong xã
hội (chức năng xã hội).
Chức năng quản lý nhà nước bao gồm các hoạt động quản lý và điều tiết đời sống
kinh tế - xã hội thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như pháp luật, chiến lược, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch và kiểm tra, kiểm soát. Chức năng phục vụ bao gồm các hoạt động
nhằm phục vụ cho các lợi ích thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và tổ
chức (cung ứng dịch vụ công). Việc thực hiện quản lý nhà nước là theo nhu cầu của bản thân
bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo trật tự, ổn định, công bằng xã hội; còn việc cung ứng dịch
vụ công lại do nhu cầu cụ thể của các tổ chức công dân, ngay cả khi các nhu cầu này có thể
phát sinh từ những yêu cầu của Nhà nước. Tuy nhiên, hai chức năng này luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau. Theo Ph. Ăng-ghen, "ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị
chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã
hội đó của nó" [55, tr. 253].
Thực tế cho thấy, trên ý nghĩa nhất định, mức độ, hiệu quả thực hiện dịch vụ công
quy định mức độ, hiệu quả thực hiện chức năng chính trị của giai cấp. Vì vậy, mọi Nhà
nước đều dành sự chú ý đặc biệt cho việc cải tiến cung ứng dịch vụ công nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ công, đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân, đảm bảo sự ổn định chung
của xã hội - đó chính là cơ sở để duy trì một Nhà nước vững mạnh. Trong quá trình chuyển từ
Nhà nước cai trị sang Nhà nước phục vụ, khả năng cung cấp, đảm bảo dịch vụ công được coi
là một trong các tiêu chí quan trọng đánh giá năng lực của chính phủ. Một chính phủ được coi

là có năng lực khi ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ công cho xã hội.
Tuy nhiên, phạm vi dịch vụ công ở mỗi quốc gia khác nhau, hoặc trong mỗi quốc gia,
ở mỗi giai đoạn phát triển cũng khác nhau.

ở một số quốc gia (Thụy Điển, Canada, Cộng hòa Liên bang Đức…), dịch vụ công
được xác định theo nghĩa rộng, bao gồm các hoạt động của Nhà nước trong hầu hết các lĩnh
vực (từ lập pháp, an ninh, quốc phòng cho đến giáo dục, y tế, thu gom rác thải… đều là hoạt
động dịch vụ công). Ví dụ, ở Canada có tới 34 loại hoạt động được coi là dịch vụ công, từ
an ninh, quốc phòng đến việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Các nước khác,
trong đó có Việt Nam lại phân biệt chức năng hoạch định chính sách với chức năng cung
ứng dịch vụ công của Nhà nước. Theo đó, chức năng hoạch định, tổ chức thực hiện chính
sách không phải là dịch vụ công. Chỉ những hoạt động nào của cơ quan nhà nước và viên
chức nhà nước phục vụ trực tiếp các nhu cầu của công dân và các tổ chức mới là dịch vụ
công.
Xung quanh khái niệm dịch vụ công, ở Việt Nam cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo TS. Chu Văn Thành - Viện trưởng Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội
vụ:
Dịch vụ công là những hoạt động của các tổ chức nhà nước hoặc các
doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tư nhân được Nhà nước ủy quyền để thực hiện nhiệm
vụ do pháp luật quy định, phục vụ trực tiếp những nhu cầu thiết yếu chung của
cộng đồng, công dân theo nguyên tắc không vụ lợi, đảm bảo sự công bằng và
ổn định xã hội [85, tr. 15].
Theo PGS.TS. Lê Chi Mai (Học viện Hành chính Quốc gia): "Dịch vụ công là
những hoạt động phục vụ trực tiếp các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ
bản của các tổ chức và người dân do Nhà nước đảm nhận hay ủy quyền cho các cơ sở ngoài
Nhà nước thực hiện nhằm đảm bảo trật tự và công bằng xã hội" [85, tr. 35-36].
Theo TS. Nguyễn Văn Thủ (Văn phòng Chính phủ): "Dịch vụ công là các hoạt động
thiết yếu, đáp ứng nhu cầu chung của xã hội, do nền hành chính nhà nước đứng ra chịu trách
nhiệm cung cấp, không vì mục tiêu lợi nhuận, bị chi phối bởi cơ chế thị trường nhưng không
tuân theo quy luật của thị trường" [34, tr. 84].

So sánh các khái niệm trên cho thấy, tuy các tác giả có các cách diễn đạt khác
nhau, song đều có những điểm chung đó là:

- Dịch vụ công là hoạt động phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã
hội, cộng đồng.
- Trách nhiệm bảo đảm thuộc về Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các
dịch vụ này cho xã hội, ngay cả khi Nhà nước chuyển giao cho các chủ thể khác thực hiện,
thì Nhà nước vẫn có vai trò điều tiết đặc biệt nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối
các dịch vụ này.
Tuy nhiên, việc sử dụng thuật ngữ "ủy quyền" trong các khái niệm của các tác giả
nói trên có lẽ là chưa phù hợp, thể hiện sự độc quyền của Nhà nước (Nhà nước cho ai tham
gia cung ứng dịch vụ công, thời gian bao lâu, hoặc rút lại sự ủy quyền lúc nào là do Nhà
nước quyết định); điều đó đồng nghĩa với vai trò bị động, phụ thuộc của các chủ thể phi nhà
nước trong cung ứng dịch vụ công. Trong khi đó, xét về nguồn gốc, dịch vụ công là các
hoạt động mang bản chất xã hội sâu sắc, phát sinh và tồn tại tự nhiên trong đời sống dân
sự. Với danh nghĩa là một tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt, Nhà nước đảm bảo để các
dịch vụ công đó được cung ứng thường xuyên, liên tục, đảm bảo cuộc sống bình thường
của mọi người dân, cũng chính là đảm bảo cơ sở xã hội của Nhà nước.
Do đó, theo tác giả luận văn, dịch vụ công là những hoạt động phục vụ trực tiếp
các lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các tổ chức do
Nhà nước trực tiếp đảm nhận hoặc chuyển giao cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm đảm
bảo trật tự và công bằng xã hội.
Dịch vụ công có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là những hoạt động có tính chất xã hội, phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã
hội để bảo đảm cho cuộc sống được bình thường và an toàn.
- Những hoạt động này do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được chính
quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện.
- Khi thực hiện cung ứng các dịch vụ công, các cơ quan nhà nước, các tổ chức được
ủy nhiệm cung ứng có sự giao tiếp với người dân ở mức độ khác nhau, có nghĩa là những cơ
quan này có trách nhiệm giải quyết những công việc hàng ngày của Nhà nước gắn với các

lợi ích hợp pháp của nhân dân.

- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông
thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng hơn đã trả tiền
trước dưới hình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước. Cũng có những dịch vụ, người sử
dụng vẫn phải trả một phần hoặc toàn bộ kinh phí; tuy nhiên, Nhà nước cần có trách nhiệm
bảo đảm cung ứng các dịch vụ này không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
- Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít, không phải đóng thuế) đều có
quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công, với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền.
- Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt động phục
vụ không tạo ra sản phẩm mang hình thái hiện vật, dịch vụ công là những hoạt động phục
vụ các nhu cầu thiết yếu của xã hội, bất kể sản phẩm được tạo ra có hình thái hiện vật hay
phi hiện vật.
Dịch vụ công gồm hai loại: Dịch vụ hành chính công và dịch vụ công cộng.
Dịch vụ hành chính công là nhóm các hoạt động thực hiện chức năng quản lý hành
chính, có sự giao tiếp với người dân, do các cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp đảm
nhận, nhằm cai quản các công việc của xã hội, duy trì kỷ cương xã hội, bảo đảm quyền dân
chủ và các quyền hợp pháp khác của công dân (khai sinh, hộ tịch, hộ khẩu ). Các dịch vụ này
ít nhiều mang tính bắt buộc, yêu cầu các công dân phải tuân thủ.
Hiện nay, ở nước ta vẫn có ý kiến cho rằng, hoạt động công chứng cũng thuộc nhóm
dịch vụ hành chính công. Song, qua phân tích ở tiết 1.1 cho thấy, công chứng không phải là
hoạt động quản lý nhà nước, do đó, không thuộc nhóm dịch vụ hành chính công. Sở dĩ có
nhận thức như trên là do hiện nay, công chứng nước ta đang được tổ chức như một cơ
quan công quyền.
Dịch vụ công cộng là các hoạt động phục vụ trực tiếp lợi ích công cộng, bao gồm các
nhu cầu thiết yếu, cơ bản trong đời sống con người (cung cấp điện nước, thu gom rác thải,
giáo dục, y tế, tư vấn pháp lý, công chứng ).
Đối với các dịch vụ công cộng, Nhà nước có thể trực tiếp cung ứng hoặc chuyển
giao cho tư nhân, tổ chức phi chính phủ cung ứng, Nhà nước chỉ đóng vai trò định hướng,
điều tiết, kiểm soát nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân phối các dịch vụ này.


Việc chuyển giao các dịch vụ công cho tư nhân, các tổ chức phi nhà nước cung
ứng thực chất là quá trình "phi nhà nước hóa", hay xã hội hóa dịch vụ công, với mục tiêu
hoàn thiện bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả đồng
thời thúc đẩy sự cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia.
Như vậy, xã hội hóa dịch vụ công là quá trình Nhà nước chuyển giao việc cung
ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân thực hiện, hoặc huy động sự tham gia của khu vực
tư nhân vào việc cung ứng các dịch vụ này.
Cùng với sự đổi mới tư duy về vai trò của Nhà nước, "Nhà nước nhỏ như cần thiết,
xã hội lớn như có thể", Nhà nước là người "cầm lái" chứ không "chèo thuyền" , xã hội hóa
dịch vụ công đang là xu thế diễn ra trên toàn cầu.
Xã hội hóa dịch vụ công là quá trình ngược lại với "nhà nước hóa" dịch vụ công.
"Nhà nước hóa" dịch vụ công thể hiện ở việc Nhà nước mở rộng phạm vi can
thiệp, điều chỉnh hoặc trực tiếp cung ứng dịch vụ công.
Nhà nước hóa dịch vụ công diễn ra khi Nhà nước - trong một giai đoạn nhất định -
thấy rằng các dịch vụ công đó có ý nghĩa quan trọng đối với xã hội, với sự tồn tại của Nhà
nước, cần được Nhà nước trực tiếp cung ứng hoặc quản lý chặt chẽ; hoặc việc cung ứng các
dịch vụ công đó, xã hội chưa thể tự đảm nhiệm được, Nhà nước cần phải can thiệp bằng biện
pháp hành chính (biện pháp mang tính chất quyền lực nhà nước với việc sử dụng các nhân
viên nhà nước, ngân sách nhà nước để can thiệp các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội).
Nhà nước sẽ kiểm soát chặt chẽ hơn, can thiệp sâu hơn, tác động mạnh mẽ hơn, định hướng
một cách triệt để hơn, quản lý một cách trực tiếp, cụ thể hơn các dịch vụ công.
Xã hội hóa dịch vụ công được tiến hành khi Nhà nước nhận thấy những vấn đề
nhất định, có thể để cho xã hội tự thực hiện và thực hiện có hiệu quả hơn; thu hẹp phạm vi can
thiệp của Nhà nước đối với các quá trình xã hội. Xã hội hóa cũng có thể diễn ra khi việc can
thiệp quá sâu vào việc cung ứng dịch vụ công vượt quá khả năng của Nhà nước, dẫn đến các
hậu quả tiêu cực. Xã hội hóa dịch vụ công là việc Nhà nước giảm dần các biện pháp quản
lý trực tiếp mang tính quyền uy, mệnh lệnh để tập trung vào các biện pháp quản lý mang
tính vĩ mô, thông qua sử dụng các công cụ: Pháp luật, chính sách, thuế, tài chính ; đồng

×