Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Nghệ An

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.56 KB, 113 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài: “Hoàn thiện phân cấp quản lý
thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Nghệ An” là công trình nghiên cứu của bản
thân, được xuất phát từ yêu cầu phát sinh trong công việc để hình thành
hướng nghiên cứu. Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng tuân thủ đúng nguyên tắc
và kết quả trình bày trong luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu
là trung thực chưa từng được ai công bố trước đây.
Nghệ An, ngày 25 tháng 3 năm 2013
Tác giả luận văn
Trần Thị Lam
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỐ, BẢNG
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG
SƠ ĐỐ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách quan trọng
trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của các quốc gia trên thế giới. Nó là
một trong những công cụ hữu ích của Nhà nước trong việc thực hiện các mục
tiêu tăng trưởng, ổn định và công bằng trong quản lý kinh tế vĩ mô.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm tới lĩnh vực an sinh
xã hội nói chung và lĩnh vực bảo hiểm xã hội nói riêng. Các chính sách bảo
hiểm xã hội luôn được đổi mới, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của
đất nước, góp phần đảm bảo đời sống của người lao động, ổn định xã hội,
thúc đẩy kinh tế phát triển. Hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội đã được xây
dựng từ Trung ương đến địa phương trong cả nước.
Bảo hiểm xã hội Nghệ An là một cơ quan thuộc hệ thống Bảo hiểm xã
hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội Nghệ An là cơ quan trực tiếp tổ chức thực
hiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động trên địa bàn
tỉnh Nghệ An. Trong nhiều năm qua, việc thực hiện chế độ chính sách bảo


hiểm xã hội ở Nghệ An đã đạt được những thành công quan trọng. Số đơn vị
sử dụng lao động và số người tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng
lên. Đồng thời, nguồn thu bảo hiểm xã hội cũng có sự tăng trưởng khá, liên
tục qua các năm. Các chế độ bảo hiểm xã hội của người lao động được thực
hiện khá tốt. Lương hưu và các khoản trợ cấp bảo hiểm xã hội của các đối
tượng hưởng bảo hiểm xã hội được chi trả đầy đủ, kịp thời và an toàn. Có
được kết quả đó không thể không nói đến những cố gắng lớn của ngành Bảo
hiểm xã hội Nghệ An trong việc đổi mới quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, đẩy
mạnh việc phân cấp quản lý cho cấp huyện, nâng cao hiệu quả quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội ở Nghệ An.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công cơ bản, quản lý và phân cấp
quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Nghệ An còn có những vấn đề cần quan
tâm. Bảo hiểm xã hội cấp huyện được phân cấp quản lý mạnh song họ lại
không được cung cấp đầy đủ các điều kiện để thực hiện sự phân cấp đó.
Chẳng hạn, biên chế cán bộ, công chức bảo hiểm xã hội còn thiếu, cơ sở
vật chất, điều kiện kỹ thuật còn khó khăn Điều đó đã dẫn đến tình trạng
quá tải trong quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội tại cấp huyện. Theo đó, việc
khai thác tiềm năng của một tỉnh lớn như Nghệ An cho phát triển bảo hiểm
xã hội, phát triển kinh tế của tỉnh bị hạn chế. Bên cạnh đó, do còn có những
điểm chưa hợp lý, phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Nghệ An
chưa tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người lao động tham gia bảo hiểm
xã hội và thụ hưởng các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội, Trong khi
đó, Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới,
thị trường lao động ngày càng phát triển, các quan hệ lao động càng trở nên
phức tạp, người lao động và người sử dụng lao động phải đối mặt với nhiều
rủi ro hơn. Thực tế đó đòi hỏi quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam nói chung và ở Nghệ An nói riêng phải được tiếp
tục hoàn thiện và đổi mới mạnh hơn nữa. Thực tế đó cũng đòi hỏi cần có sự
nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề quản lý và phân cấp quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội ở Nghệ An, nhằm tìm ra giải pháp hữu ích cho vấn đề

này, đáp ứng những yêu cầu mới mà thực tiễn đặt ra. Đó cũng là lý do tôi
chọn vấn đề: "Hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Nghệ An " làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, với hy vọng góp một phần nhỏ
vào những nghiên cứu chung đó.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích của luận văn về mặt lý luận góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội. Về mặt thực
tiễn, giúp đánh giá thực trạng vấn đề này tại tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở đó,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm cơ sở lý luận về quản lý và phân cấp
quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý và phân cấp quản lý thu, chi
bảo hiểm xã hội của tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã
hội ở tỉnh Nghệ An nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân cấp quản lý thu, chi bảo
hiểm xã hội.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu phân cấp quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh Nghệ An. Về thời gian, luận văn nghiên cứu phân
cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở Nghệ An trong thời kỳ từ năm 1997
đến nay, trong đó, trọng tâm nghiên cứu trong giai đoạn 2007 - 2011. Các số
liệu cập nhật đến năm 2011.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, ngoài các phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử là những phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu
khoa học nói chung, luận văn còn chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu lý thuyết và tổng kết thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn

dịch, quy nạp; phương pháp hệ thống, so sánh, điều tra, thống kê trên cơ sở
các số liệu tổng hợp, báo cáo, điều tra về tình hình kinh tế xã hội và hoạt động
bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý
luận cơ bản về quản lý và phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội.
- Làm rõ nội dung phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở cấp tỉnh.
- Đánh giá thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Nghệ An, chỉ rõ các kết quả, hạn chế và những nguyên nhân chủ yếu của thực
trạng đó.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm
xã hội trong thời gian tới, trong đó, có đề xuất thực hiện phân cấp quản lý thu,
chi bảo hiểm xã hội tới cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Nghệ An.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về quản lý và phân cấp quản lý bảo
hiểm xã hội
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội ở tỉnh
Nghệ An
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý và phân cấp
quản lý bảo hiểm xã hội ở tỉnh Nghệ An
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 90 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục. Luận văn được kết cấu thành 03 chương, 10 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ VÀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. QUẢN LÝ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.1. Một số khái niệm

* Khái niệm quản lý bảo hiểm xã hội
Trước hết nói về khái niệm bảo hiểm xã hội. Điều 3 Luật Bảo hiểm xã
hội được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông
qua ngày 29/6/2006 đã xác định: "Bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH" [33,
tr.10].
Như vậy, BHXH là một hình thức bảo vệ người lao động trên cơ sở sử
dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và tài
trợ của Nhà nước để trợ cấp vật chất cho người đóng BHXH, trong trường
hợp họ bị giảm hoặc mất thu nhập, hoặc chết, theo quy định của pháp luật. Do
vậy, bảo hiểm xã hội có những đặc trưng cơ bản, đó là:
Thứ nhất, BHXH là sự bảo hiểm cho người lao động trong và sau quá
trình lao động.
Thứ hai, các rủi ro của người lao động liên quan đến thu nhập của họ
như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, già
yếu, chết. Do những rủi ro này mà người lao động bị giảm hoặc mất nguồn
thu nhập. Họ cần phải có nguồn thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của BHXH.
Thứ ba, người lao động muốn được quyền hưởng trợ cấp BHXH phải
có nghĩa vụ đóng BHXH. Người sử dụng lao động cũng phải có trách nhiệm
đóng BHXH cho người lao động mà họ quản lý, thuê mướn, sử dụng. Sự
đóng góp đó gọi là sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Nó hình thành
nên một quỹ tài chính gọi là quỹ BHXH. Quỹ này dùng để chi trả các trợ cấp
khi có phát sinh các nhu cầu về hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Thứ tư, các hoạt động về BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp
luật. Các chế độ BHXH cũng do luật định. Nhà nước bảo trợ các hoạt động
của BHXH.
BHXH là hình thức bảo hiểm được thực hiện ở tất cả các quốc gia và

Nhà nước ở tất cả các quốc gia đều tham gia quản lý BHXH. Vậy quản lý
BHXH là gì?
Quản lý BHXH có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Trên cơ sở vận dụng khái niệm quản lý nói chung vào lĩnh vực BHXH, chúng
ta có thể xác định khái niệm quản lý BHXH như sau: Quản lý BHXH là sự tác
động của cơ quan quản lý tới hoạt động BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu
xác định trong từng thời kỳ.
Cơ quan quản lý (chủ thể quản lý) của quản lý BHXH là cơ quan
BHXH Việt Nam từ Trung ương đến địa phương. Theo Nghị định số 19/CP,
ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập BHXH Việt Nam, cơ quan
quản lý BHXH ở cấp Trung ương là BHXH Việt Nam. Ở địa phương, cơ
quan quản lý BHXH có BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,
BHXH huyện quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Ở cấp xã, phường, thị
trấn không có cơ quan quản lý BHXH mà chỉ có Ban đại diện chi trả do cơ
quan quản lý BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố ký hợp đồng uỷ quyền
quản lý kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng thụ hưởng các
chế độ BHXH trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là các đối tượng tham
gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. Đó là những người sử dụng lao động và
bản thân người lao động.
Mục tiêu quản lý BHXH là nhằm bảo vệ người lao động tránh hiểm họa
của công việc, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển của cả xã hội.
Cơ chế quản lý BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy
định về kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
* Phân biệt một số khái niệm
Quản lý nhà nước về BHXH là sự tác động của cơ quan Nhà nước tới
lĩnh vực BHXH nhằm thực hiện các mục tiêu mà Nhà nước đặt ra trong từng
thời kỳ nhất định.
Quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH được phân biệt ở năm
điểm sau:

Thứ nhất, khác với chủ thể quản lý BHXH, chủ thể quản lý nhà nước
về BHXH gồm rất nhiều cơ quan như Quốc hội, Chính phủ, Bộ Lao động
Thương binh và xã hội (TB&XH), các bộ và cơ quan ngang bộ liên quan đến
lĩnh vực BHXH, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, huyện. Chủ thể quản lý
BHXH là cơ quan BHXH. Ở Trung ương, BHXH Việt Nam đặt dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ; sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động
TB&XH và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, sự giám sát của tổ
chức công đoàn. Ở địa phương, cơ quan quản lý BHXH chịu sự chỉ đạo trực
tiếp theo ngành dọc của BHXH Việt Nam và sự quản lý nhà nước của UBND
các cấp (tỉnh, huyện).
Thứ hai, đối tượng quản lý nhà nước về BHXH là lĩnh vực BHXH, còn
đối tượng quản lý BHXH là hoạt động BHXH, là những người tham gia và
thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH. Như vậy, có thể thấy rằng đối tượng
quản lý nhà nước về BHXH có phạm vi rộng hơn nhiều so với đối tượng quản
lý BHXH. Đối tượng quản lý BHXH và cơ quan BHXH cũng thuộc đối tượng
quản lý nhà nước về BHXH.
Thứ ba, mục tiêu quản lý nhà nước về BHXH là tạo dựng một cơ sở
pháp lý vững chắc, tạo lập sự công bằng, bình đẳng để mọi người lao động
trong các thành phần kinh tế thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham
gia quan hệ BHXH, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an toàn xã
hội và ổn định chính trị. Mục tiêu quản lý BHXH là xây dựng và hình thành
nguồn quỹ BHXH ổn định, vững chắc trên cơ sở đóng góp của các bên tham
gia BHXH, đầu tư tăng trưởng phát triển quỹ BHXH; chi trả kịp thời trợ cấp
BHXH cho các đối tượng thụ hưởng BHXH và phục vụ mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.
Thứ tư, cơ chế quản lý nhà nước về BHXH gồm các luật liên quan tới
BHXH, chiến lược, kế hoạch, chế độ chính sách BHXH. Cơ chế quản lý
BHXH là các quy định về tổ chức thu, chi BHXH, quy định về kiểm tra, kiểm
soát việc thu, chi BHXH.
Thứ năm, nội dung quản lý nhà nước về BHXH gồm bảy nội dung chính:

i) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chế độ, chính sách bảo
hiểm xã hội;
ii) Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về bảo
hiểm xã hội;
iii) Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội;
iv) Thực hiện công tác thống kê, thông tin về bảo hiểm xã hội;
v) Tổ chức bộ máy thực hiện bảo hiểm xã hội; đào tạo bồi dưỡng nguồn
nhân lực làm công tác bảo hiểm xã hội;
vi) Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hiểm xã hội;
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội;
vii) Hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội [33, tr.13].
Ở nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về BHXH. Bộ Lao
động TB&XH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước
về BHXH. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình thực hiện quản lý nhà nước về BHXH. UBND các cấp thực hiện quản lý
nhà nước về BHXH trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ.
Nội dung quản lý BHXH gồm: Quy định về tổ chức thu, chi BHXH;
thực hiện việc tổ chức triển khai thu, chi BHXH; tổ chức kiểm tra, giám sát
thu, chi BHXH; tuyên truyền giải thích chế độ, chính sách BHXH Nói cách
khác, quản lý BHXH có nội dung chủ yếu là quản lý thu, chi BHXH.
Như vậy, khái niệm quản lý nhà nước về BHXH là một khái niệm rất
rộng, bao trùm lĩnh vực BHXH của quốc gia. Trong khi đó, khái niệm quản lý
BHXH có phạm vi hẹp hơn, chỉ giới hạn trong hoạt động thu, chi BHXH đối
với các đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ chính sách BHXH.
Cùng với việc phân biệt quản lý BHXH và quản lý nhà nước về BHXH,
chúng ta cần phân biệt khái niệm chính sách BHXH và chế độ BHXH.
Chính sách BHXH là những quy định chung của Nhà nước gồm những
chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục
tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức tổ
chức thực hiện các chế độ BHXH" [32, tr.44].

Chế độ BHXH là những quy định cụ thể của pháp luật, về trách nhiệm
và quyền lợi của người tham gia BHXH, tuỳ theo tính chất, ý nghĩa của chế
độ bảo hiểm cụ thể, hiện áp dụng các chế độ bảo hiểm sau: chế độ ốm đau;
chế độ trợ cấp thai sản; chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;
chế độ hưu trí; chế độ tử tuất. Các chế độ trợ cấp nằm trong hệ thống pháp
luật BHXH [15, tr 45].
Ngoài các chế độ trên, hiện nay ở Việt Nam đang thực hiện một loại chế
độ trợ cấp BHXH gần giống trợ cấp tàn tật theo quy định tại Công ước 102 của
Tổ chức Lao động Quốc tế. Đó là chế độ trợ cấp mất sức lao động theo Nghị định
số 236/HĐ`BT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
1.1.2. Nội dung quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Quy định về thu, chi bảo hiểm xã hội
* Quy định về thu bảo hiểm xã hội
Các đối tượng phải tham gia đóng BHXH bắt buộc bao gồm cả người
sử dụng lao động và bản thân người lao động.
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao
gồm: người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công chức,
viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; công nhân quốc
phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng
vũ trang; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ
quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân;
người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công
an nhân dân; hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sĩ
công an nhân dân phục vụ có thời hạn; người lao động làm việc có thời hạn ở
nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; phu nhân, phu quân trong
thời gian hưởng chế độ phu nhân, phu quân tại các cơ quan Việt Nam ở nước
ngoài mà trước đó đã tham gia BHXH bắt buộc; người lao động là xã viên, kể
cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ
ba tháng trở lên trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động

theo Luật Hợp tác xã.
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cơ quan
Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, cơ sở ngoài công lập hoạt động
trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá thể dục thể thao, khoa học công
nghệ, môi trường, xã hội, dân số gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các đơn
vị sự nghiệp khác, đơn vị vũ trang nhân dân, các tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; tổ chức, cá
nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng
lao động là người Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ
hợp tác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
Việc quản lý đối tượng tham gia BHXH được thực hiện thông qua danh
sách đăng ký đóng BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Người lao động
đã đóng BHXH sẽ được cơ quan BHXH ghi nhận vào sổ BHXH để quản lý
theo dõi diễn biến quá trình đóng BHXH và xét duyệt, giải quyết các chế độ
BHXH cho người lao động khi có yêu cầu.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội , Nghị định 152/2006/NĐ-CP
ngày 22/12/2006 của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã
hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc thực
hiện mức đóng BHXH như sau:
Người lao động đóng bằng 7% mức tiền lương, tiền công làm căn cứ
đóng BHXH; người sử dụng lao động đóng bằng 17%. Tổng mức đóng góp
vào quỹ BHXH bắt buộc của cả người lao động và người sử dụng lao động là
24% (trong đó: 3% đóng góp vào quỹ ốm đau, thai sản; 1% vào quỹ tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp và 20% vào quỹ hưu trí, tử tuất).
Riêng đối với đối tượng hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và hạ sỹ
quan, chiến sỹ công an nhân dân phục vụ có thời hạn, người sử dụng lao động
đóng BHXH cho đối tượng này bằng 21% mức lương tối thiểu chung (trong
đó: 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 20% quỹ hưu trí, tử tuất).
Đối tượng tham gia BHXH tự nguyện đóng góp bằng 20% mức thu
nhập người lao động lựa chọn đóng BHXH.

Tiền đóng BHXH của người lao động và quỹ lương được dùng để đóng
BHXH của cơ quan, đơn vị được xác định trên cơ sở mức lương của từng
người lao động ở từng lĩnh vực công tác khác nhau. Cụ thể:
- Đối với các cơ quan hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tổ
chức Đảng, đoàn thể, hội quần chúng: Tiền lương tháng của người lao động
và quỹ tiền lương của các đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH là tiền
lương theo ngạch, bậc được xác định theo các quy định tại Nghị định
152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội khoá XI; Quyết định số 128-QĐ/TW ngày 14/12/2004 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng và Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của
Chính phủ.
- Đối với các công ty Nhà nước: Tiền lương tháng của người lao động
và quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động để tính đóng BHXH được xác định
theo thang bảng lương của Nhà nước quy định tại Nghị định số 205/2004/NĐ-
CP và Nghị định số 207/2004/NĐ-CP, ngày 14/12/2004 của Chính phủ.
- Đối với người lao động làm trong các hợp tác xã: Tiền lương, tiền công
tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công được Đại hội xã viên xác định
thông qua và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
- Đối với người lao động thuộc các hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác và
cá nhân: Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH do người sử dụng lao động
quản lý nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
- Đối với người quản lý doanh nghiệp là chủ sở hữu, giám đốc các
doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành
viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó
giám đốc, kế toán trưởng, kiểm soát viên: Tiền lương, tiền công tháng đóng
BHXH là mức tiền lương do điều lệ công ty quy định nhưng phải đăng ký với
cơ quan quản lý nhà nước về lao động.
Đối với nguồn thu BHXH, Nhà nước quản lý tập trung thống nhất theo
chế độ tài chính của Nhà nước. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ
quan, tổ chức, cá nhân tham gia BHXH. Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu

tư quỹ BHXH và các biện pháp cần thiết khác để bảo toàn, tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ, không bị phá sản. Lương hưu, trợ cấp
BHXH, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH được miễn thuế. Tất
cả mọi đóng góp của từng cá nhân, từng cơ quan, đơn vị đều phải chuyển hết
về BHXH Việt Nam để hình thành quỹ BHXH tập trung. Để thực hiện thu
nộp BHXH, BHXH tỉnh, huyện có nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị sử dụng
lao động lập danh sách số lao động đăng ký đóng BHXH, đăng ký quỹ lương
và số tiền đóng BHXH. Định kỳ hàng tháng có trách nhiệm kiểm tra, đối
chiếu, xác nhận việc đóng BHXH của từng lao động trong đơn vị và tiến hành
ghi sổ BHXH. Thực hiện việc tính lãi nộp chậm nếu đơn vị không đóng
BHXH đúng thời gian.
Để thu nhận và quản lý số tiền thu nộp BHXH của các cơ quan, đơn vị,
cơ quan BHXH tỉnh, huyện được mở hai tài khoản. Một là, tài khoản chuyên
thu tại hệ thống Kho bạc Nhà nước tỉnh, huyện để giao dịch tiền thu nộp
BHXH của các đơn vị hành chính sự nghiệp và một số đơn vị doanh nghiệp
có mở tài khoản thanh toán tại Kho bạc tỉnh, huyện. Hai là, tài khoản tiền gửi
tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh, huyện để thanh toán giao dịch tiền
thu BHXH của các doanh nghiệp và các đơn vị khác. Vào các ngày 10, 25
hàng tháng và 31/12 hàng năm, BHXH cấp huyện phải chuyển hết số tiền có
trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu của BHXH tỉnh. Định
kỳ hàng tháng, vào các ngày 10, 20 và ngày cuối tháng, BHXH tỉnh phải
chuyển hết số tiền có trong hai tài khoản chuyên thu về tài khoản chuyên thu
của BHXH Việt Nam, không được sử dụng tiền thu để chi cho bất cứ công
việc gì.
Do tính chất đặc thù trong tổ chức hoạt động, các cơ quan thuộc lực
lượng vũ trang đóng trên địa bàn tỉnh, huyện như Quân đội (Ban Chỉ huy
Quân sự), Công an sẽ do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an thực hiện việc thu
nộp BHXH tập trung và chuyển cho cơ quan BHXH Việt Nam. Các đơn vị
này có trách nhiệm ghi sổ BHXH về thời gian, mức đóng góp để làm căn cứ
giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động.

* Quy định về chi bảo hiểm xã hội
Đối tượng chi BHXH có thể là chính bản thân người lao động, cũng có
thể là những thân nhân ruột thịt của người lao động (bố, mẹ, vợ chồng, con)
trực tiếp phải nuôi dưỡng. Đối tượng có thể được hưởng trợ cấp một lần hoặc
trợ cấp hàng tháng nhiều hay ít, tuỳ thuộc mức độ đóng góp (thời gian đóng
góp và tiền lương làm căn cứ đóng góp), các điều kiện lao động và biến cố rủi
ro mà người lao động mắc phải.
Về kinh phí chi trả các chế độ BHXH, các đối tượng đã hưởng BHXH từ
01/01/1995 trở về trước được chi trả chế độ từ nguồn ngân sách nhà nước. Các
đối tượng thụ hưởng BHXH được xét duyệt sau ngày 01/01/1995 được chi trả
chế độ từ nguồn quỹ BHXH. Cơ quan BHXH quản lý kinh phí và thực hiện chi
trả các chế độ BHXH hàng tháng cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí, trợ
cấp mất sức lao động, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp phục
vụ người bị tai nạn lao động, trợ cấp tuất, trợ cấp theo Quyết định 91/2000/QĐ-
TTg, ngày 04/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ; thực hiện trả các chế độ một
lần, bao gồm: trợ cấp tuất một lần trong các trường hợp khi người hưởng lương
hưu, hưởng trợ cấp mất sức lao động, người hưởng trợ cấp hàng tháng đã nghỉ
việc chết; trợ cấp mai táng khi người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao
động, trợ cấp theo Quyết định 91/2000/QĐ-TTg, công nhân cao su, tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp hàng tháng chết; thực hiện quản lý kinh phí chi trả các
chế độ ốm đau, thai sản, phục hồi sức khoẻ sau khi ốm đau cho người lao động
đang làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động có tham gia BHXH.
Để quản lý, điều hành và kiểm soát chặt chẽ nguồn kinh phí, BHXH
tỉnh được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp &PTNT tỉnh,
tiếp nhận kinh phí do BHXH Việt Nam cấp để chi trả cho đối tượng do
BHXH tỉnh trực tiếp quản lý và cấp cho BHXH cấp huyện chi trả cho các đối
tượng hưởng BHXH do BHXH cấp huyện trực tiếp quản lý. BHXH cấp
huyện cũng được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng Nông nghiệp
&PTNT cấp huyện để tiếp nhận kinh phí do BHXH tỉnh chuyển về và để chi
trả cho đối tượng mà mình quản lý.

Khoản kinh phí trong tài khoản trên không được sử dụng vào bất cứ
mục đích nào khác, ngoài việc chi trả các chế độ BHXH. Những quy định này
giúp các đơn vị dự toán cấp trên kiểm tra việc sử dụng nguồn kinh phí trong
tài khoản của đơn vị cấp dưới thuận lợi hơn.
Để đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn quỹ BHXH, chi trả đầy đủ,
kịp thời cho các đối tượng thụ hưởng chế độ BHXH, đồng thời không gây tồn
đọng quỹ quá lớn tại các đơn vị dự toán cấp 2 (BHXH tỉnh) và cấp 3 (BHXH
cấp huyện), việc dự toán phải được thực hiện tốt, sát với nhu cầu chi cho đối
tượng ở địa phương.
Về phương thức chi trả các chế độ BHXH, các đơn vị dự toán cấp 2 và
cấp 3 lựa chọn các phương thức chi trả cho phù hợp với đặc điểm cụ thể của
từng địa phương nhằm đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng chế độ, đầy đủ,
kịp thời, chính xác và an toàn.
Hiện nay, có hai phương thức chi trả đang được áp dụng là chi trả trực
tiếp và chi trả gián tiếp. Phương thức chi trả trực tiếp là việc cán bộ, công
chức, viên chức của hệ thống BHXH chi trả trực tiếp cho người được hưởng
các chế độ BHXH. Phương thức chi trả gián tiếp là việc cơ quan BHXH các
cấp uỷ quyền cho các đơn vị sử dụng lao động, các Ban đại diện chi trả
phường, xã, thị trấn (sau đây gọi chung là Ban đại diện chi trả xã, phường)
hoặc hệ thống Ngân hàng cung ứng dịch vụ tài khoản thẻ (ATM) chi trả cho
người được hưởng các chế độ BHXH.
1.1.2.2. Tổ chức thực hiện thu, chi bảo hiểm xã hội
Theo quy định hiện hành, Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội thông
qua quy định về chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của người
lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia BHXH; tổ chức BHXH; quỹ
BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH. BHXH Việt
Nam ban hành các mẫu hồ sơ hưởng BHXH, giấy chứng nhận hưu trí, giấy
chứng nhận trợ cấp BHXH hàng tháng; ban hành quy định về hồ sơ và quy
trình giải quyết các chế độ BHXH; ban hành các quy định quản lý nội bộ;
đảm bảo các điều kiện vật chất thiết yếu phục vụ cho hoạt động bộ máy, đồng

thời hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra BHXH cấp dưới tổ chức thực hiện.
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, BHXH tỉnh có tránh nhiệm
tổ chức hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động tổ chức thực hiện thu, chi
BHXH theo phân cấp quản lý; chỉ đạo, hướng dẫn BHXH cấp huyện tổ chức
thu BHXH và thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động trên địa bàn,
thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể; ban hành các quy
định phân cấp quản lý cho các cơ quan đơn vị trực thuộc; quy định cụ thể,
giao trách nhiệm rõ ràng trong việc quản lý thu, chi BHXH cho các đơn vị
trực thuộc; tích cực cải cách thủ tục hành chính; ứng dụng công nghệ tin học
trong các hoạt động nghiệp vụ; phối hợp chặt chẽ với UBND các cấp, các sở,
ngành, đơn vị liên quan để chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện chế độ chính sách
BHXH trên địa bàn tỉnh.
BHXH cấp huyện căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và hướng dẫn của
BHXH tỉnh, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động thu nộp BHXH và thực
hiện các chế độ chính sách cho người lao động trên địa bàn; phối hợp chặt chẽ
với UBND xã, phường để thu BHXH của cán bộ chuyên trách và công chức
cấp xã; chỉ đạo, kiểm tra các Ban đại diện chi trả xã, phường trong việc cấp
phát lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng trên địa bàn xã, phường.
Để đảm bảo chế độ, chính sách BHXH được thực hiện theo quy định
của pháp luật, BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh, huyện có trách nhiệm tuyên
truyền chế độ, chính sách BHXH nhằm nâng cao nhận thức của chủ sử dụng
lao động và người lao động về quyền lợi và trách nhiệm của mình về BHXH.
Hiện nay, Báo BHXH, Tạp chí BHXH là cơ quan ngôn luận của BHXH
Việt Nam, là phương tiện thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách
BHXH, đưa chính sách BHXH của Đảng, Nhà nước đi vào thực tế cuộc sống.
1.1.2.3. Kiểm tra, kiểm soát thu, chi bảo hiểm xã hội
Kiểm tra, kiểm soát thu, chi BHXH là một trong những nội dung quan
trọng của quản lý BHXH. Kiểm tra, kiểm soát trong quản lý BHXH gồm:
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng như Thanh tra Nhà nước, Kiểm
toán Nhà nước, Thanh tra lao động, kiểm tra của tổ chức Đảng, tổ chức công

đoàn, hoạt động kiểm tra giám sát của các Đoàn Đại biểu quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, kiểm tra của cơ quan BHXH và kiểm tra liên ngành.
Đối tượng kiểm tra, kiểm soát bao gồm việc trích nộp BHXH của các
đơn vị sử dụng lao động, hồ sơ tài liệu liên quan đến quá trình đóng và thụ
hưởng BHXH của người lao động; việc chi trả chế độ BHXH tại các xã, phường
của Ban đại diện chi trả các xã, phường; việc quản lý và các hoạt động nghiệp vụ
trong nội bộ ngành BHXH (BHXH cấp trên kiểm tra BHXH cấp dưới).
Hàng năm, BHXH tỉnh thực hiện các cuộc kiểm tra tại BHXH cấp huyện
và tại các đơn vị sử dụng lao động, các Ban đại diện chi trả xã, phường trong
việc thực hiện các quyền và trách nhiệm của cơ quan BHXH cấp dưới; quyền
và trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động; quyền và trách nhiệm của người
lao động trong quá trình tham gia và hưởng BHXH theo quy định pháp luật.
Quyền của người lao động khi tham gia BHXH là được cấp sổ
BHXH; được nhận lương hưu và trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời khi có yêu
cầu; được yêu cầu người sử dụng lao động và tổ chức BHXH cung cấp
thông tin về BHXH theo quy định của Luật BHXH; thực hiện quyền khiếu
nại, tố cáo về BHXH Đồng thời, người lao động phải thực hiện đầy đủ
trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH: đóng BHXH đầy đủ, kịp thời;
thực hiện nghiêm túc quy định về việc lập hồ sơ BHXH và bảo quản sổ
BHXH theo đúng quy định
Quyền của người sử dụng lao động là từ chối thực hiện những yêu cầu
không đúng quy định của pháp luật về BHXH và có quyền khiếu nại, tố cáo
về BHXH Mặt khác, đơn vị sử dụng lao động phải thực hiện đầy đủ trách
nhiệm của mình là đóng BHXH cho người lao động theo quy định của Luật
BHXH; bảo quản sổ BHXH của người lao động trong thời gian người lao
động làm việc; lập hồ sơ để người lao động được cấp sổ, đóng và hưởng
BHXH; trả trợ cấp BHXH cho người lao động; cung cấp tài liệu, thông tin
liên quan theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền [ 33, tr.17-18].
Việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH trước đây được thực hiện căn
cứ vào Nghị định 135/2007/NĐ-CP ngày16/8/2007 và hiện nay thực hiện

theo Nghị định 86/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHXH. Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH
của chủ sử dụng lao động được quy định trong Nghị định này đó là hành vi
không đóng BHXH cho toàn bộ số người lao động thuộc diện tham gia
BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; đóng BHXH không đủ số người thuộc
diện tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; đóng BHXH, bảo hiểm
thất nghiệp không đúng thời gian quy định; đóng BHXH, bảo hiểm thất
nghiệp không đúng mức quy định; xác nhận không đúng thời gian và mức
đóng BHXH cho người lao động. Hành vi không làm thủ tục (lập hồ sơ hoặc
văn bản) để: đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết chế độ hưu trí trước
30 ngày, tính đến ngày người lao động đủ điều kiện nghỉ việc hưởng hưu trí;
đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội giải quyết chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp sau 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ của người lao
động; Hành vi chậm trả: chế độ ốm đau, thai sản, trợ cấp dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe sau ốm đau, thai sản sau 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ
hợp lệ của người lao động; chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sau 15
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định chi trả của cơ quan bảo hiểm xã hội;
Hành vi không trả các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc cho người lao động
(trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…); Hành vi
không lập hồ sơ tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm
việc hoặc tuyển dụng; Hành vi không trả sổ bảo hiểm xã hội đúng thời hạn
cho người lao động khi người lao động không còn làm việc; Hành vi vi phạm
trách nhiệm bảo quản sổ bảo hiểm xã hội trong thời gian người lao động làm
việc dẫn đến mất mát, hư hỏng, sửa chữa, tẩy xóa
Các hành vi vi phạm pháp luật về BHXH của người lao động là không
đóng, chậm đóng BHXH bắt buộc hoặc thoả thuận với chủ sử dụng lao động
không nộp BHXH bắt buộc; Hành vi kê khai không đúng sự thật hoặc sửa
chữa, tẩy xóa những nội dung có liên quan đến việc hưởng bảo hiểm xã
hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp; Hành vi

làm giả hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự
nguyện, bảo hiểm thất nghiệp mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;
Hành vi không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin sai lệch cho người
sử dụng lao động, tổ chức bảo hiểm xã hội, cơ quan quản lý nhà nước khi có
yêu cầu.
1.1.2.4. Tổ chức bộ máy quản lý bảo hiểm xã hội
Để triển khai thực hiện chính sách BHXH theo Điều lệ BHXH, ngày
16/2/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 19/CP thành lập BHXH Việt
Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương
do ngành Lao động-Thương binh & Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đang quản lý.
Thực hiện Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg, ngày 24/01/2002 của Thủ
tướng Chính phủ về việc chuyển Bảo hiểm y tế Việt Nam về BHXH Việt
Nam, ngày 06/12/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2002/NĐ-
CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH
Việt Nam.
Chính phủ thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam bao gồm đại
diện của Bộ Lao động-TBXH, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Bộ Y tế, Phòng Thương mại công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác
xã Việt Nam và BHXH Việt Nam để giúp Thủ tướng Chính phủ quản lý, chỉ
đạo giám sát hoạt động của tổ chức BHXH.
Hội đồng quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam có nhiệm vụ như sau
- Thẩm định kế hoạch hoạt động hàng năm, giám sát, kiểm tra thực
hiện kế hoạch của tổ chức BHXH.
- Quyết định hình thức đầu tư quỹ BHXH theo đề nghị của tổ chức BHXH.
- Kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xây dựng, bổ sung
chế độ, chính sách, pháp luật về BHXH, chiến lược phát triển của ngành, kiện
toàn hệ thống tổ chức của BHXH, cơ chế quản lý và sử dụng quỹ BHXH.
- Đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các
chức danh lãnh đạo của tổ chức BHXH [33, tr.66].

Bảo hiểm xã hội Việt Nam, là đơn vị sự nghiệp thuộc Chính phủ có
chức năng thực hiện các chế độ chính sách BHXH và quản lý sử dụng các quỹ
BHXH theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam được tổ chức và quản
lý theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Ở
Trung ương là BHXH Việt Nam; ở tỉnh, thành phố là BHXH tỉnh, thành phố;
ở huyện, thị xã, thành phố là BHXH huyện, thị xã, thành phố.
Nhiệm vụ và quyền hạn của Bảo hiểm xã hội Việt Nam như sau:
- Xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển
ngành BHXH và kế hoạch năm năm về thực hiện chính sách BHXH; đề án
bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
- Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách BHXH; thu các khoản đóng
BHXH bắt buộc và tự nguyện; chi các khoản trợ cấp về BHXH cho đối tượng
tham gia BHXH đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn theo quy định.
- Cấp các loại sổ, thẻ BHXH.
- Quản lý quỹ BHXH theo nguyên tắc tập trung, thống nhất theo chế độ
tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ.
- Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan nhà
nước có liên quan về sửa đổi, bổ sung chính sách BHXH, cơ chế quản lý quỹ,
cơ chế tài chính và tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt.
- Ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện việc giải quyết chế độ
BHXH và nghiệp vụ thu, chi BHXH theo thẩm quyền.
- Kiểm tra việc thu chi BHXH đối với các cơ quan đơn vị, kiến nghị với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị sử
dụng lao động để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.
- Từ chối việc chi trả các chế độ BHXH khi đối tượng tham gia BHXH
không đủ điều kiện hưởng hoặc khi không có căn cứ pháp lý về các hành vi
giả mạo, khai man hồ sơ để hưởng BHXH.
- Bồi thường mọi khoản thu, chi sai quy định của pháp luật về chế độ
BHXH cho đối tượng tham gia BHXH.
- Giải quyết khiếu nại tố cáo của tổ chức và cá nhân về việc thực hiện

chính sách BHXH.
- Lưu trữ hồ sơ đối tượng tham gia và hưởng BHXH.
- Tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa học; ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý, điều hành hoạt động BHXH.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và thực hiện công
tác tuyên truyền, phổ biến chính sách về BHXH.
- Thực hiện hợp tác quốc tế về BHXH.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan Nhà nước có liên quan, các tổ chức
chính trị xã hội ở Trung ương và địa phương, các bên tham gia BHXH để giải
quyết các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH.
- Quản lý công chức viên chức, tài chính, tài sản và thực hiện chế độ
báo cáo với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bảo hiểm xã hội tỉnh như sau
+ Tổ chức xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách chế độ BHXH, cấp
các loại sổ, thẻ BHXH.
+Tổ chức thực hiện các khoản đóng góp BHXH bắt buộc và tự nguyện.
+Tổ chức quản lý và phát triển đối tượng tham gia BHXH.
+ Tổ chức quản lý, lưu giữ hồ sơ các đối tượng hưởng BHXH.
+ Tổ chức thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng đúng
quy định.
+ Thực hiện quản lý, sử dụng các nguồn kinh phí, chế độ kế toán thống
kê theo quy định của Nhà nước và BHXH Việt Nam.
+ Kiểm tra thực hiện chế độ thu, chi BHXH đối với các tổ chức sử
dụng lao động, cá nhân. Kiến nghị cơ quan quản lý nhà nước cấp trên, cơ
quan pháp luật để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về BHXH.

×