Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

LUẬN VĂN: Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa tại Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 153 trang )















LUẬN VĂN:

Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật đấu thầu quốc tế mua sắm
hàng hóa tại Việt Nam








mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam, kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các văn bản qui phạm


pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hoá nói riêng mới
bắt đầu ban hành. Mục tiêu lúc đó là là sử dụng nguồn vốn thuộc sở hữu toàn dân hay
có nguồn gốc từ các hiệp định vay vốn của nước ngoài có hiệu quả nhất. Trong đó mục
tiêu minh bạch là một trong những yếu tố quan trọng nhất, tránh các vi phạm của chủ
đầu tư - là những người được giao trách nhiệm tiêu tiền của nhân dân.
Tinh thần Đại hội Đảng lần thứ X cũng nhấn mạnh trong cương lĩnh về các hoạt
động tăng cường, chủ động hội nhập và tranh thủ đầu tư của các tổ chức và các nhà đầu
tư, nhà tài trợ nước ngoài nhằm "sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát
triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại" [22].
Các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB), Tổ chức các quốc gia có nền kinh tế phát triển (OECD), Ngân hàng hợp tác
quốc tế Nhật Bản (JBIC), Luật mẫu mua sắm công của Ủy ban Luật thương mại quốc tế
Liên hợp quốc (UNCITRAL)… đều có các qui định, hướng dẫn mua sắm riêng, nhằm
chi tiêu có hiệu quả nhất vốn đầu tư của mỡnh, đồng thời đảm bảo cho các nhà thầu đến
từ các nước thành viên được đối xử bỡnh đẳng, công bằng.
Trong đấu thầu, bên mua bao giờ cũng muốn cú thứ mỡnh cần với giỏ rẻ nhất.
Bờn bỏn (cỏc nhà thầu) bao giờ cũng muốn bỏn nhanh thứ mỡnh cú với lợi nhuận cao
nhất. Tuy nhiờn, để đạt được mục đích đó, người mua phải tạo ra luật chơi đảm bảo tính
công bằng, minh bạch nhằm thu hút các nhà thầu có năng lực tham gia cung cấp hàng
húa, dịch vụ cho mỡnh. Thực tế trong thời gian qua, mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong
công tác đấu thầu mua sắm nhưng còn rất nhiều gói thầu mua sắm hàng hoá quốc tế đó
gặp phải những khú khăn ngay từ khâu lập kế hoạch, mời thầu cạnh tranh quốc tế, lựa
chọn nhà thầu quốc tế, đến khâu giải ngân do thiếu hiểu biết về quy định của Việt Nam



cũng như quy định của các tổ chức quốc tế cho vay, viện trợ vốn, đó gõy ra những thất
thoỏt ngân sách, lóng phớ vốn vay ưu đãi và làm giảm uy tín của Việt Nam trong thu
hút đầu tư nước ngoài nói chung.

Thực tế sau hơn 10 năm thực hiện, Quy chế đấu thầu, ban hành kèm theo Nghị
định số 43/CP ngày 16 tháng 7 năm 1996, đó đem lại rất nhiều hiệu quả kinh tế đồng
thời cũng cũn những hạn chế. Để hiểu rừ vấn đề này cần phải phân tích cụ thể các quy
định có liên quan mang tính bất đồng, từ đó tỡm ra giải phỏp thỳc đẩy công tác đấu thầu
quốc tế hiện nay ở nước ta sao cho hoạt động đấu thầu quốc tế trở nên công khai, minh
bạch, đạt sự tín nhiệm cao đối với các tổ chức tín dụng, nhà tài trợ quốc tế, nhằm thu
hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn ưu đói trong thời gian tới, đồng thời tránh thất thoát
lóng phớ, tăng cường hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế toàn diện, phát huy hiệu quả
lợi thế so sánh của Việt Nam khi đó là thành viờn chớnh thức của Tổ chức thương mại
quốc tế (WTO).
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về quy chế đấu thầu quốc tế mua sắm
hàng hoá trong thời gian qua. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu chỉ tập chung vào lý
luận và dàn trải mà chưa đưa ra những giải pháp, tình huống cụ thể để hoàn thiện pháp
luật đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hoá trong mối quan hệ giữa các quy định của Việt
Nam và các tổ chức quốc tế. Luận văn xin được tiếp cận một khía cạnh nhỏ nhưng
thường xuyên gặp nhất trong công tác đấu thầu thông qua các quy định quốc tế và trong
nước về đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa.
Ngoài ra, hiện nay đã có nhiều sự thay đổi trong chính sách của cả Việt Nam và
các tổ chức quốc tế liên quan tới các quy định về mua sắm đấu thầu hàng hoá quốc tế.
Do vậy, luận văn cũng cập nhật, phát hiện những điểm mới, những quy định mới và
nhận xét để thấy rõ bản chất của đấu thầu mua sắm trong thời điểm hiện nay. Đồng thời,
luận văn cũng xin được đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm hài hoà hoá các quy định
về đấu thầu giữa pháp luật Việt Nam và luật quốc tế có liên quan.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn



Nghiên cứu khái quát các cơ sở lý luận của quy chế đấu thầu mua sắm hàng hoá
quốc tế; nguyên tắc cơ bản, thực tiễn áp dụng quy chế đấu thầu hiện hành của Việt Nam

và quốc tế; phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật trong nước và quốc tế về
đánh giá tồn tại, vướng mắc trong đấu thầu, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm
thực hiện tốt và hài hoà quy định pháp luật về quy chế đấu thầu trong nước và quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sâu các quy định về đấu thầu mua sắm hàng hoá
quốc tế trên cơ sở thực tiễn hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế tại một số dự
án nhóm A mà chính tác giả đã thực hiện tại Bộ Y tế.
5. Cơ sở khoa học của đề tài
- Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường
lối chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền và chính sách hội
nhập quốc tế.
- Cơ sở khoa học: Dựa trên phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, quy nạp
để rút ra kết luận đúng đắn nhất.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tế công tác mua sắm đấu thầu trang thiết bị tại một số Dự
án nhóm A của Bộ Y tế và ở một số nước.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu: Lịch sử, thống kê, tổng hợp, phân
tích, so sánh, đối chiếu, trao đổi với chuyên gia, quy nạp để rút ra kết luận đúng đắn
nhất.
7. Điểm mới của đề tài
- Nghiên cứu, phân tích cụ thể pháp luật đấu thầu quốc tế một các có hệ thống
trên cơ sở khái quát lý luận và thực tiễn để thấy rõ quy trình mà luật pháp quy định.
- Nghiên cứu các kinh nghiệm hay của một số nước để áp dụng cho việc quản lý
các dự án vay ODA hoặc viện trợ không hoàn lại tại Việt Nam trong thời gian tới.



- Nêu ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện, hài hoà quy chế đấu thầu quốc tế của
Việt Nam và của các tổ chức quốc tế dưới nhiều góc độ.

- Kiến nghị hoàn thiện Luật đấu thầu 2005.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hoá.
Chương 2: Nội dung cơ bản các quy định về đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế
hiện nay
Chương 3: Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đấu thầu
quốc tế mua sắm hàng hóa tại Việt Nam



Chương 1
Một số vấn đề lý luận
về đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hoá

1.1. Khái niệm về đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hoá
1.1.1. Sự ra đời của pháp luật đấu thầu quốc tế
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì xã hội cộng
sản nguyên thủy chưa có nhà nước, do đó chưa hình thành hệ thống pháp luật. Tuy
nhiên, chế độ cộng sản lại là tiền đề vật chất cho sự xuất hiện nhà nước và pháp luật. Về
lý luận đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, những nguyên
nhân làm hình thành và phát sinh Nhà nước cũng chính là các nguyên nhân dẫn đến sự
ra đời của pháp luật. Đó là nguyên nhân về chuyển biến trong đời sống kinh tế - xã hội.
Xã hội loài người đã trải qua ba lần phân công lao động lớn ở cuối chế độ cộng sản
nguyên thủy: 1. Chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; 2. Thủ công nghiệp tách khỏi nông
nghiệp; 3. Buôn bán phát triển và thương nghiệp xuất hiện. Nhờ có các cuộc cách mạng
đó, sản phẩm xã hội ngày càng nhiều làm nảy sinh việc chiếm các sản phẩm dư thừa đó
làm của riêng và chế độ tư hữu tài sản và tư liệu sản xuất ra đời. Mặt khác, một số người
giàu lên do tự tiến hành sản suất hoặc do tích lũy được kinh nghiệm sản xuất, hoặc do

lợi dụng vị trí nào đó trong xã hội. Những người giàu có, chiếm hữu được nhiều tư liệu
sản xuất, bóc lột nô lệ; những người lợi dụng quyền lực được thị tộc giao cho trước đây
hợp thành giai cấp thống trị. Còn những nô lệ, người nghèo khổ trong thị tộc hợp
thành giai cấp bị bóc lột.
Do quyền lợi của hai bộ phận này đối lập nhau dẫn đến mâu thuẫn giai cấp ngày
càng khốc liệt. Để điều hành, duy trì ổn định xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức ra đời
với công cụ quyền lực của nó nhằm giải quyết các xung đột giai cấp và giữ cho chúng
vận động trong ổn định. Tổ chức đó là "nhà nước" với công cụ của nó là "pháp luật".
Nhà nước và pháp luật là hai phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển, tiêu
vong và gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật là công cụ mà nhà nước sử dụng thực hiện



quyền lực của mình. Nhà nước ban hành pháp luật và đảm bảo cho pháp luật đó được
thực thi. Cùng với nhà nước, pháp luật ngày càng thể hiện và thực hiện vai trò to lớn
của mình trong xã hội hiện đại.
Nhà nước ra đời ngoài việc ban hành pháp luật nói chung, còn phải thực hiện các
công việc khác cần thiết để đảm bảo sự tồn tại và hoạt động của nó cũng như sự ổn định
của xã hội như: xây dựng các công trình công ích, các dịch vụ công cộng phục vụ cùng
lúc cho nhiều thành viên trong xã hội và phát triển những ngành kinh tế cần thiết cho xã
hội có hiệu quả kinh tế thấp, cần nhiều vốn đầu tư, lâu hoàn vốn thông qua việc mua
sắm công cụ, phương tiện, cơ sở vật chất cho hoạt động của chính phủ. Những "mua
sắm" chi tiêu của chính phủ với số vốn khổng lồ và các đặc trưng riêng của nó đã trở
thành mục tiêu cạnh tranh gay gắt của các nhà cung cấp, tổ chức kinh tế tài chính lớn.
Theo thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh thì mua sắm có xuất xứ là từ
"Procurement". Tại Điều 2, khoản a, Luật mẫu của UCITRIAL thì "Procurement" cũng
được định nghĩa là sự có được hàng hóa, công trình hay dịch vụ nào đó. Riêng về "hàng
hóa", Điều 2 khoản c, Luật mẫu định nghĩa là tất cả các vật thể mô tả được bao gồm cả
nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết bị, các vật thể định hình hoặc dưới dạng lỏng,
điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa nhưng có giá trị thấp hơn hàng hóa (và các loại

hàng hóa khác theo quy định của từng nước). Theo Từ điển tiếng Việt (do Viện ngôn
ngữ biên soạn năm 1998) thì "đấu thầu" là việc "đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán
với điều kiện tốt nhất thì được giao cho làm hoặc được bán hàng". Còn theo quy định
của WB thì các từ "bid" và "tender" (trong tiếng Anh) đều có nghĩa như nhau là "đấu
thầu" [33, tr. 1].
Khi việc mua sắm với số lượng lớn do các cơ quan, tổ chức hay cá nhân được chính
phủ ủy quyền thì việc lợi dụng các kẽ hở trong quản lý để họ trục lợi cho cá nhân một số
người là rất có khả năng và cơ hội xảy ra. Để ngăn chặn những hành vi được gọi là tham
nhũng này, một biện pháp đã được áp dụng rất lâu ở nhiều nước tiên tiến trên thế giới là áp
dụng biện pháp mua sắm công khai và cạnh tranh. Trong đó, một người mua và nhiều
người bán có năng lực, công khai cạnh tranh nhau để đưa ra những điều khoản và điều kiện



về tiêu chuẩn kỹ thuật, giá cả và thương mại cạnh tranh nhất. Đây chính là biện pháp đấu
thầu.
ở nhiều nước tư bản, luật mua sắm đấu thầu công tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Thực chất thì hoạt động đấu thầu dưới nhiều hình thức diễn ra rất sớm trong
xã hội nhưng luật, quy chế đấu thầu thì ra đời muộn hơn. Ví dụ các hoạt động mua sắm
ở chợ cũng được coi là đấu thầu vì ở đó với một người mua nhất định họ có rất nhiều cơ
hội để lựa chọn món hàng mình định mua của nhiều người bán khác nhau với giá và đặc
tính kỹ thuật của từng món hàng được công khai niêm yết. Trong thuật ngữ thương mại
quốc tế thì mua sắm quốc tế "International shopping" cũng đã được nhiều tổ chức tài chính
quốc tế như WB hay ADB sử dụng và coi đó là một trong nhiều hình thức đấu thầu.
Cùng với sự phát triển phức tạp của xã hội, đấu thầu ngày càng trở thành biện
pháp, phương thức và công cụ hữu hiệu được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Đấu
thầu không chỉ được nhà nước áp dụng, mà được rất nhiều tổ chức phi chính phủ, tổ
chức liên chính phủ, tổ chức nhân đạo, chính trị - xã hội và rất nhiều cá nhân quan tâm
tìm hiểu và áp dụng. Mới đầu các hoạt động đấu thầu chỉ được quy định một cách đơn
giản là: công khai và cạnh tranh. Nhưng thực tế áp dụng đòi hỏi các quy định đó phải

đầu đủ, không chỉ dừng lại ở chế quy, quy định tạm thời mà cần thiết phải có một hệ
thống pháp lý đầy đủ. Điều này thực sự cần thiết và phù hợp với các quy luật trong một
xã hội phát triển có nền kinh tế hàng hóa thị trường.
Ngày nay, mua sắm đấu thầu không chỉ dừng lại ở mua sắm hàng hóa mà còn mua
sắm đấu thầu các dịch vụ tư vấn, xây lắp. Đồng thời có rất nhiều phương thức và hình thức
đấu thầu mua sắm được thừa nhận rộng rãi trên toàn thế giới (vấn đề này được xem xét cụ
thể ở mục 1.2, Chương I). Nó mang tính quy ước hoặc mang tính cưỡng chế thi hành đối
với khoản vay nhất định của nhà tài trợ nhất định. Kể từ khi Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư
vấn (FIDIC) do ba hiệp hội quốc gia các kỹ sư tư vấn ở Châu Âu sáng lập năm 1913 [25],
thì các mẫu hợp đồng, mẫu hồ sơ mời thầu do tổ chức này xuất bản năm 1999 đã được
hoàn thiện rất nhiều, thông qua các quy định về quy chế, luật pháp đấu thầu của các tổ chức
quốc tế và quy chế, luật pháp đấu thầu của các quốc gia trên khắp thế giới.



Đối với đấu thầu cạnh tranh quốc tế, ngoài việc phải tuân theo quy định của
Chính phủ còn phải tuân theo quy định, hướng dẫn của nhà tài trợ và luật pháp quốc tế.
Do dó, các thể lệ, quy trình đấu thầu ngày càng phức tạp, chặt chẽ và hoàn thiện hơn.
1.1.2. Vai trò của hình thức đấu thầu quốc tế
Trước tiên phải xem xét đến lợi ích về mặt kinh tế - xã hội của việc áp dụng biện
pháp đấu thầu trong mua sắm hàng hóa quốc tế. Thực tế đấu thầu quốc tế cũng đã chứng
minh được sức sống tiềm tàng của mình. Trong tương lai nó sẽ được sử dụng rộng rãi
hơn, không chỉ ở các nước phát triển, đang phát triển mà còn ở các nước chậm phát
triển như là một công nghệ hiện đại đối với việc mua bán hàng hóa, dịch vụ, công
trình…
1.1.2.1. Đối với bên chủ đầu tư (mời thầu)
Họ luôn mong muốn với một số tiền nhất định, được phép chi tiêu theo kế họach,
sẽ đựợc thỏa mãn tốt nhất về chất lượng sản phẩm và giá cả hợp lý. Trong khi đó, họ
chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước, các công ty, các tổ chức (các ban quản lý)
không phải lúc nào cũng am hiểu về thị trường, không có kinh nghiệm về mua bán,

không có kinh nghiệm về chủng loại hàng hóa cũng như chất lượng của hàng hóa. Vì
vậy, đấu thầu là biện pháp hiệu quả nhất đối với họ. Bởi vì, trong mối quan hệ giữa các
bên trong đấu thầu thì thị trường thuộc về người mua hàng, trong đó chỉ có một người
mua và rất nhiều người bán. Người mua sẽ có nhiều cơ hội để đạt được lợi ích tối đa
trong thị trường này liên quan đến giá cả, chất lượng sản phẩm, và các điều kiện tài
chính, thương mại khác như: Thời hạn giao hàng; thời hạn bảo hành; dịch vụ hỗ trợ kỹ
thuật; dịch vụ cung cấp vật tư tiêu hao; mức độ uy tín và kinh nghiệm của nhà cung cấp.
Các hoạt động mua sắm thông qua đấu thầu đều phải thông qua các bước và quy
trình báo cáo, trình phê duyệt, lấy ý kiến không phản đối của chủ đầ tư hoặc nhà tài trợ rất
chặt chẽ, dù cho người mua có là công ty nhà nước hay một công ty kinh doanh. Để áp
dụng được phương pháp đấu thầu, các hoạt động mua sắm bao gồm từ khâu nghiên cứu
tiền khả thi, khả thi; phân tích xác định nhu cầu mua sắm; lập kế hoạch, trình phê duyệt
kế hoạch; thuê tư vấn xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, hồ sơ mời thầu; mời thầu; chấm thầu;



trình phê duyệt kết quả; đàm phán, ký kết hợp đồng; thực hiện hợp đồng; giao nhận hàng
hóa; thanh toán, giải ngân, thanh lý hợp đồng. Điều này giúp cho chủ đầu tư quản lý, sử
dụng có hiệu quả đúng mục đích của nguồn vốn. Thông qua việc hướng dẫn mua sắm của
nhà tài trợ, chẳng hạn như danh sách các nước hợp lệ về xuất xứ hàng hóa, "danh sách
đen" các công ty vi phạm, cá nhân không hợp lệ…, sẽ giúp cho chủ đầu tư tránh các rủi ro
trong khi thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, đấu thầu còn là biện pháp đảm bảo thi hành các
cam kết thông qua các loại bảo lãnh như tiền bảo lãnh dự thầu (theo Điều ITB 21.1. mục
D, Phần II, Hướng dẫn mua sắm của ADB) [30] (thường là 2% giá chào thầu), bảo lãnh
thực hiện hợp đồng (thường là 10% giá trị hợp đồng), bảo lãnh bảo hành (5% giá trị hợp
đồng). Tiến độ thanh toán cũng được quy định rất chặt chẽ theo tiến độ thực hiện hợp
đồng và được quy định bắt buộc các nhà thầu chấp nhận vô điều kiện khi tham dự thầu.
Điều này đảm bảo tuyệt đối cho chủ đầu tư về nguồn vốn không bao giờ bị thất thoát nếu
áp dụng biện pháp đấu thầu trong mua sắm hàng hóa quốc tế.
Mặt khác, biện pháp đấu thầu thường áp dụng với lô hàng có gía trị và số lượng

lớn, do đó chủ đầu tư có lợi rất nhiều trong quá trình đàm phán giá, tiêu chuẩn kỹ thuật
và các điều kiện hậu mãi. Ví dụ, chủ đầu đầu tư có thể được giảm giá dưới các hình
thức sau: giảm giá mua số lượng lớn, giảm giá do giá trị lớn, giảm giá ưu tiên, giảm giá bí
mật, giảm giá công khai… Mục đích của việc nhà thầu dành cho chủ đầu tư nhiều như vậy,
ngoài lý do kinh tế, lợi nhuận còn có lý do về việc làm tăng tính cạnh tranh, uy tín, thương
hiệu của chính nhà thầu thông qua các hợp đồng lớn cung cấp hàng hóa. Hầu hết các nhà tài
trợ lớn như WB, ADB, JBIC,…đều đánh giá rất cao nếu một nhà thầu nào đó đã từng có
kinh nghiệm trong việc thực hiện các hợp đồng tương tự hoặc thực hiện hợp đồng sử
dụng vốn của chính nhà tài trợ đó. Đây là quy định rất phổ biến và cụ thể trong hầu hết
các hướng dẫn mua sắm của các nhà tài trợ quốc tế.
Như vậy, qua đấu thầu quốc tế, chủ đầu tư được lợi rất nhiều. Họ có khả năng cắt
giảm được các chi phí so với mua sắm thông thường. Đấu thầu quốc tế còn là biện pháp
để chủ đầu tư khắc phục những yếu kém về trình độ và kinh nghiệm mua sắm. Thông
qua đấu thầu quốc tế, thông qua các nhà tư vấn, chủ đầu tư cũng tích lũy được rất nhiều
kinh nghiệm về tổ chức, quản lý sử dụng vốn hiệu quả. Việc đấu thầu công khai, rộng



rãi cạnh tranh quốc tế còn giúp cho cơ quan quản lý chủ đầu tư tránh các thiên vị, tham
nhũng… thúc đẩy cạnh tranh tự do phát triển. Cuối cùng thì việc sử dụng vốn hiệu quả
đến lượt nó lại làm nâng cao uy tín của chủ đầu tư đối với các nhà tài trợ quốc tế để thu
hút ngày càng nhiều hơn nguồn vốn ưu đãi.
ở Việt Nam hiện nay có tới trên 45 nhà tài trợ quốc tế hoạt động liên tục gối đầu
với khoản 1.400 dự án lớn nhỏ và trên 350 tổ chức phi chính phủ (NGO) với những yêu
cầu giải ngân rất khác nhau. Trong các nhà tài trợ thì WB, ADB và Nhật Bản tài trợ lên
tới 80% tổng số vốn ODA [23]. Tuy nhiên, tốc độ giải ngân rất chậm và đến cuối dự án
chỉ thực hiện được khoản 60% tổng số vốn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút
vốn đầu tư của Việt Nam. Trong thời gian tới việc thay đổi cơ chế quản lý dự án và luật
pháp về đấu thầu ở Việt Nam là điều cần thiết để tăng cường năng lực cạnh tranh của
Việt Nam so với Trung Quốc, Thái Lan và các nước khác trong khu vực đối với nguồn

vốn đầu tư ưu đãi, ân hạn dài, lãi xuất thấp.
1.1.2.2. Đối với nhà thầu
Về lợi ích kinh tế, thì đấu thầu là sân chơi bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh nhất
mà qua đó nhà thầu sẽ dành được những hợp đồng rất lớn, với khả năng thanh toán đảm
bảo. Nhờ các hợp đồng lớn này nhà thầu có khả năng đầu tư nâng cao công nghệ, tăng
cường năng lực cạnh tranh, mở rộng sản suất và thu hút được nhiều lao động. Như vậy
bên cạnh việc tăng vốn đầu tư, giá trị cổ phiếu tăng cao, nhà thầu còn giúp giải quyết
các vấn đề xã hội như thất nghiệp, nâng cao thu nhập cho công nhân… Khi nhà thầu được
cung cấp bất kỳ hợp động nào sẽ là điều kiện để chủ đầu tư mở rộng hợp đồng thêm 10-
20% (theo điều ITB 41.1. mục D, Phần II, Hướng dẫn mua sắm của ADB) [30] mà
không cần phải tham gia đấu thầu lại.
Một mặt, lợi ích kinh tế đối với nhà thầu thông qua đấu thầu có thể nhận thấy
ngay thông qua lợi nhận và doanh số. Tuy nhiên còn một mặt khác rất quan trọng mà
không phải bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng có thể dễ dàng có được, đó là uy tín, kinh
nghiệm trong đấu thầu quốc tế cung cấp hàng hóa. Như đã nói ở trên, điểm về kinh
nghiệm là rất quan trọng và mang tính quyết định đối với đấu thầu cạnh tranh quốc tế.



Vì hầu hết các nhà tài trợ cũng như luật pháp đấu thầu trong nước đều quy định, đánh
giá kỹ thuật trước khi đánh giá về giá của các hồ sơ chào thầu. Một số nhà tài trợ và một số
ngành còn quy định điểm kỹ thuật (bao gồm cả kinh nghiệm của nhà thầu đối với việc đã
từng cung cấp hàng hóa tương tự) có 70% tổng số điểm thì mới được đưa vào xét giá. Như
vậy uy tín của nhà thầu hay nói cách khác thương hiệu của nhà thầu đã được đánh giá rất
cao trong thương mại quốc tế hiện đại. Ngược lại, nhà thầu chưa từng có hợp đồng cung
cấp hàng hóa tương tự, hoặc nằm trong "danh sách đen" của nhà tài trợ thì thực sự là vấn
đề rất nghiêm trọng, khả năng trúng thầu thấp hoặc không có. Theo quy định của ADB
các công ty trong danh sách đen sẽ được ngân hàng đối chiếu khi chủ đầu tư đề nghị
trao hợp đồng và nếu đã nằm trong danh sách đen thì sẽ vĩnh viễn không bao giờ có cơ
hội tham gia tất cả các gói thầu ở tất các các nước thành viên của ngân hàng.

1.1.2.3. Đối với nhà tài trợ
Hầu hết các nhà tài trợ ngoài mục đích tài trợ vào một lĩnh vực nhất định đòi hỏi
bên được hưởng lợi là chủ đầu tư phải đạt được như các chỉ số phát triển, cải cách hành
chính, kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục… họ còn muốn tham gia sâu vào quá trình sử dụng
số tiền tài trợ thông qua kiểm soát một số công đoạn của quy trình đấu thầu như thẩm
định tiêu chuẩn kỹ thuật, thẩm định báo cáo xét thầu… Do vậy, biện pháp đấu thầu quốc
tế được coi là hiệu quả nhất trong qúa trình sử dụng vốn đúng mục đính. Trong hướng
dẫn mua sắm họ rất khuyến khích đối với các hoạt động đấu thầu quốc tế. Đồng thời
quy định chặt chẽ trong các hiệp định tài trợ rằng hoạt động nào cần phải đấu thầu, hoạt
động nào không đấu thầu. Việc quy định như vậy sẽ kiểm soát tốt việc tổ chức đấu thầu,
tránh tình trạng xé nhỏ gói thầu gây lãng phí vốn đầu tư (có thể thấy rõ nội dung này
trong Hướng dẫn mua sắm đấu thầu sử dụng nguồn vốn của ADB tại điều 201, 205,
206, 211).
Việc quy định các hoạt động nào phải áp dụng đấu thầu quốc tế còn tạo điều kiện
cho các nhà thầu hợp lệ tham gia cung cấp hàng hóa trong môi trường cạnh tranh bình
đẳng, công khai và minh bạch. Qua đó sẽ tại điều kiện phát triển cho chính các công ty
của nước có nhà tài trợ hoặc là thành viên của nhà tài trợ để nâng cao năng lực sản suất,
thu lại lợi nhận nhiều hơn nữa. Đi đầu trong các nhà tài trợ mang lại hiệu quả kinh tế



cho chính các công ty của nước mình phải kể đến Nhật Bản, với chiến dịch "đàn sếu
bay", đã mang lại lợi ích và thu nhập vô cùng lớn khi luồng vốn đầu tư quay trở về Nhật
thông qua chính sách viện trợ ODA cho các nước Châu á, trong đó có Việt Nam.
Thông qua việc áp dụng đấu thầu quốc tế với mua sắm hàng hóa, các nhà tài trợ
còn thực hiện được mục tiêu chi phối, định hướng đối với thể chế, chính sách và pháp
luật của nước được hưởng lợi thông qua các điều kiện về nhà thầu hợp lệ. Ví dụ ADB
và WB hiện nay đều quy định các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp quân đội
không được tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa có sử dụng vốn vay của họ. Hệ quả là
ngay lập tức Chính phủ nước được hưởng lợi từ vốn của nhà tài trợ WB và ADB phải có

văn bản hướng dẫn để phù hợp với quy định này. Tiếp theo đó, Chính phủ phải thay đổi
cơ chế kinh tế, hệ thống pháp luật như: yêu cầu một số doanh nghiệp nhà nước phải sớm
tiến hành cổ phần, hoạt động theo Luật doanh nghiệp, độc lập hạch toán kinh doanh,
hoạt động theo luật Thương mại, đồng thời xây dựng, hoàn thiện pháp luật đấu thầu
theo hướng phù hợp với các hiệp định đã ký với nhà tài trợ và hướng dẫn mua sắm đấu
thầu của họ.
Cuối cùng, thông qua đấu thầu các nhà tài trợ có khả năng nâng cao uy tín của
mình về năng lực thực hiện các cam kết, hiệp định. Từ đó mở rộng phạm vi hoạt động,
tăng cường quy mô, cũng như mở rộng ảnh hưởng tới các nước là thành viên, chưa là
thành viên và cộng đồng quốc tế.
1.1.2.4. Đối với chính phủ nước được hưởng lợi
Trong mua sắm hàng hóa, đặc biệt là việc mua sắm của chính phủ với số lượng lớn
do các cơ quan nhà nước, công ty hoặc cá nhận được ủy quyền thường xảy ra tình trạng
tham nhũng và gian lận (WB định nghĩa trong điều 3 Chương 2: Hướng dẫn nhà thầu của
Hồ sơ mời thầu chuẩn - Xuất bản tháng 5/2004, sửa đổi tháng 5/2005). Nguyên nhân của sự
việc này là do hoạt động mua sắm tiềm ẩn nhiều yếu tố mang tính cảm tính. Để khắc phục
tình trạng này, việc áp dụng biện pháp đấu thầu trong mua sắm quốc tế là rất hiệu quả. Nó
giúp cho các chính phủ hưởng lợi từ nguồn vốn của nhà tài trợ cơ sở để kiểm tra giám sát
toàn bộ quá trình mua sắm nếu thông qua đấu thầu quốc tế. Trước tiên, chính phủ có quyền



phê duyệt đối với kế hoạch đấu thầu, liên quan tới chia gói thầu và giá kế hoạch trên cơ sở
phải có giải trình của chủ đầu tư. Tiếp đến các đề xuất trao hợp đồng và quy trình giải ngân
đều được chính phủ kiểm soát thông qua các quy trình rất chặt chẽ về việc phê duyệt, thẩm
định… Trong bất kỳ giai đoạn nào của quy trình đấu thầu, các cơ quan chức năng của chính
phủ đều có khả năng can thiệp để đảm bảo việc mua sắm đấu thầu là đúng quy trình pháp
luật.
Tóm lại, đấu thầu quốc tế là nơi diễn ra các giao dịch mua và bán, là sự tổng hợp
các quan hệ kinh tế, chính trị của nhiều bên. Trong đó các lợi ích của các bên đan xen

nhau trong một thể thống nhất, cân bằng phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị
trường. Đó là tự do cạnh tranh, công bằng và minh bạch. Người mua được thỏa mãn cao
nhất về giá cả, chất lượng hàng hóa và dịch vụ; Người bán được đáp ứng về các tiêu chí
như doanh số, lợi nhuận, uy tín, kinh nghiệm; Thị trường hoạt động đúng quy luật cung
cầu, giá cả.
Qua phân tích sự ra đời của pháp luật đấu thầu và tác dụng về mặt lợi ích kinh tế của
việc đấu thầu ở trên chúng ta nhận thấy rằng, đấu thầu mua sắm hàng hóa nói riêng và đấu
thầu quốc tế mua sắm nói chung, ngày càng phát triển phổ biến và đem lại những hiệu qủa to
lớn về cả lĩnh vực quản lý nhà nước và kinh tế - xã hội. Vậy nguyên nhân nào làm cho nó
phổ biến và cần thiết đến như vậy? Trước hết, đó là do yêu cầu của quy luật cạnh tranh tự do
trong nền kinh tế thị trường. Các bên tham gia vào giao dịch quốc tế đều đòi hỏi phải có cơ
hội ngang nhau về quyền được cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Còn bên chủ đầu tư (mời thầu)
thì mong muốn thông qua đấu thầu để có cơ hội được lựa chọn nhà cung cấp có đầy đủ
năng lực về tài chính, kinh nghiệm, giá cả và tiêu chuẩn kỹ thuật. Để thống nhất được lợi
ích cả hai bên, cần thiết phải có một hệ thống pháp luật về đấu thầu.
Tiếp đến, đấu thầu quốc tế còn là cánh phân chia rủi ro giữa bên mời thầu và nhà
thầu thông qua việc bảo lãnh từ khâu dự thầu, thực hiện hợp đồng đến bảo hành sản
phẩm. Ngoài ra, chủ đầu tư cũng tránh được những rủi ro do có sự quy định chặt chẽ về
năng lực tài chính đối với nhà thầu. Điều này cho phép chỉ nhà thầu có đủ năng lực tài
chính hoặc phải liên kết để tạo thành liên danh cùng chịu trách nhiệm đối với những gói
thầu quốc tế lớn và phức tạp. Còn đối với nhà thầu, họ tránh được rủi ro trong kinh doanh



khi đối tác của mình chủ yếu là chính phủ, hoặc cơ quan nhà nước được ủy quyền và được
đảm bảo thanh toán bằng những ngân hàng uy tín hoặc nhà tài trợ lớn. Việc thực hiện
nghiêm túc các quy định hướng dẫn của nhà tài trợ và luật về đấu thầu sẽ là điều kiện tốt
để tránh các rủi ro cho các bên khi tham gia đấu thầu quốc tế.
Cuối cùng, do yêu cầu bắt buộc của nhà tài trợ, pháp luật quốc gia cũng phải
được xây dựng phù hợp với các hiệp định tài trợ. Đây là một quá trình phát triển lâu dài

dẫn đến sự hài hòa giữa pháp luật quốc gia và quy định hướng dẫn của nhà tài trợ. Nó
giúp cho các hoạt động đấu thầu được tiến hành một cách nhanh chóng, theo khuân khổ
luật pháp.
Tóm lại, đấu thầu quốc tế với những quy định chặt chẽ của nó là thực sự cần thiết
và đã phát huy được nhiều lợi ích đối với nhà thầu, chủ đầu tư, nhà tài trợ và Chính phủ
của nước được hưởng lợi. Điều này cũng một lần nữa được khẳng định trong lời nói đầu
của Luật mẫu đấu thầu mua sắm của Liên Hợp quốc (UNCITRIAL) về mục đích vai trò
của luật đấu thầu mua sắm [37]:
a. Tăng cường tối đa tính kinh tế và hiệu quả của đấu thầu
b. Khuyến khích các đối tác, nhà thầu, nhà cung cấp không phụ thuộc vào quốc
tịch tham gia quy trình mua sắm, từ đó phát triển thương mại quốc tế.
c. Tăng cường tính cạnh tranh giữa các nhà thầu
d. Đối xử công bằng với tất cả các nhà thầu
e. Tăng cường liêm chính, công bằng và đạt được lòng tin của công chúng
f. Đảm bảo sự rõ ràng, minh bạch của các khâu liên quan trong quá trình mua
sắm.
1.2. Phân loại theo phương thức đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa
1.2.1. Theo quan điểm của WB (IBRD, IDA)
Nhóm Ngân hàng Thế giới (WB) là tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc được
thành lập với cơ cấu gồm 5 cơ quan: (1) Ngân hàng Tái thiết và Phát triển quốc tế



(IBRD); (2) Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA); (3) Công ty Tài chính quốc tế (IFC); (4)
Cơ quan Bảo lónh Đầu tư Đa biên (MIGA); (5) Trung tâm quốc tế Giải quyết Tranh
chấp Đầu tư (ICSID).
Kể từ khi quay trở lại đầu tư ở Việt Nam vào năm 1993, WB đó tài trợ cho 35 dự
ỏn để giúp cho cuộc chiến xoá đói giảm nghèo tại Việt Nam thông qua hỗ trợ tài chính
cho nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, các chương trỡnh y tế, trường học và các nhu cầu thiết
yếu khác. Kể từ tháng 11 năm 1993 đến nay, WB giới cam kết cho Việt Nam vay 3,8 tỷ

đô la Mỹ trong đó đó cú 1,7 tỷ đô la Mỹ đó được giải ngân [39].
Đi cùng với các khoản tài trợ của WB là các quy định về đấu thầu. Về định nghĩa
đấu thầu cạnh tranh quốc tế mua sắm hàng hóa được WB nêu tại điểm 2.1 trong hướng
dẫn mua sắm: "Đấu thầu cạnh tranh quốc tế (ICB) là nhằm thông báo đầy đủ và kịp thời
cho tất cả những người dự thầu có khả năng và đủ tư cách hợp lệ về yêu cầu của Bên vay
và tạo cho họ một cơ hội đấu thầu bình đẳng để cung cấp các hàng hoá" [33].
Đối với hình thức đấu thầu ICB, thì WB chia ra làm hai phương thức đấu thầu
chính là một giai đoạn và hai giai đoạn căn cứ vào quy mô và tính phức tạp của từng gói
thầu:
a) Đấu thầu một giai đoạn: Cho phép nhà thầu nộp cùng lúc báo giá và để xuất
kỹ thuật. Tất cả hồ sơ dự thầu sẽ cùng được mở và đánh giá cùng một lúc (Điểm 2.4 của
Hướng dẫn mua sắm) [33].
b) Đấu thầu hai giai đoạn: áp dụng trong trường hợp các hợp đồng chìa khoá
trao tay hoặc các hợp đồng cho các nhà máy lớn, phức tạp hoặc các công trình công
nghệ thông tin và truyền thông phức tạp thì việc chuẩn bị trước đầy đủ các yêu cầu kỹ
thuật có thể là không nên làm hoặc không thực tế. Trong các trường hợp như vậy, nên
sử dụng thủ tục đấu thầu hai giai đoạn. Giai đoạn một mời các nhà thầu đưa ra các đề
xuất kỹ thuật chưa có giá trên cơ sở thiết kế sơ bộ hoặc yêu cầu tính năng sử dụng. Các
đề xuất này sẽ được làm rõ và điều chỉnh về mặt kỹ thuật và thương mại. Giai đoạn hai
mời thầu bằng hồ sơ mời thầu đã điều chỉnh và các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm
phương án kỹ thuật hoàn chỉnh và giá chào.



1.2.2. Theo quan điểm của ADB
Với tôn chỉ hoạt động là giúp các nước đang phát triển giảm đói nghèo và tăng
cường hợp tác trong khu vực, ADB chính thức đi vào hoạt động từ 19/12/1966, với trụ
sở chính đặt tại Manila, Philipin. Cho đến nay, sau 38 năm hỡnh thành và phỏt triển,
ADB đó trở thành một tổ chức gồm 65 nước hội viên bao gồm 47 nước trong khu vực
và 18 nước ngoài khu vực châu Á - Thỏi Bỡnh Dương.

Đấu thầu cạnh tranh quốc tế - ICB là một trong nhiều hỡnh thức đấu thầu của
ADB nhằm mục đích giúp bên mời thầu có nhiều cơ hội lựa chọn mua sắm tốt nhất từ
việc cạnh tranh giữa các nhà cung cấp và tạo Điều kiện cho các nhà thầu từ các nước
hợp lệ có cơ hội bỡnh đẳng tham gia đấu thầu cung cấp hàng hóa, theo quy trỡnh mua
sắm của ngân hàng [6]. Trong hỡnh thức đấu thầu này ADB phê chuẩn 4 phương thức
đấu thầu sau [27]:

- a) Phương thức đấu thầu một giai đoạn: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong
một phong bỡ, gồm giá dự thầu và đề xuất kỹ thuật. Phong bỡ này sẽ được mở công
khai vào ngày giờ đó được quy định trong hồ sơ mời thầu.
- b) Phương thức đấu thầu hai phong bỡ (một giai đoạn): Các nhà thầu nộp đồng
thời 2 phong bỡ dỏn kớn gồm: đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính. Chỉ đề xuất kỹ
thuật được mở vào ngày giờ quy định trong hồ sơ mời thầu. Cũn đề xuất tài chính được
bảo quản cẩn thận. Việc đánh giá hồ sơ kỹ thuật, không được sửa đổi, độc lập mà không
xét đến giá. Chỉ những hồ sơ đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật mới được xét giá sau khi được
phê duyệt của ADB tại một ngày giờ nhất định.
- c) Phương thức đấu thầu 2 phong bỡ (hai giai đoạn): Các nhà thầu nộp đồng thời
2 phong bỡ dỏn kớn gồm: đề xuất kỹ thuật và đề xuất tài chính. Chỉ đề xuất kỹ thuật
được mở vào ngày giờ quy định trong hồ sơ mời thầu. Cũn đề xuất tài chính được bảo
quản cẩn thận. Đề xuất kỹ thuật có thể được sửa đổi trong quá trỡnh đánh giá kỹ thuật,
sau đó nhà thầu có thể bổ xung đề xuất tài chính trên cơ sở đề xuất kỹ thuật nào đó được
sửa đổi. Giai đoạn 2 sẽ mời các nhà thầu đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật dự buổi mở đề
xuất tài chính.



- d) Phương thức đấu thầu 2 giai đoạn: Các nhà thầu được mời nộp hồ sơ đề xuất
kỹ thuật trước (mà không kèm theo hồ sơ đề xuất tài chính). Trong quá trỡnh đánh giá
kỹ thuật, nhà thầu có thể bổ xung, Điều chỉnh đề xuất kỹ thuật để có sự thống nhất về
giải pháp kỹ thuật. Sau khi ADB phê duyệt kết quả đề xuất kỹ thuật, các nhà thầu hợp lệ

mới được mời nôp đề xuất tài tài chính sau một thời gian, tại một thời điểm nhất định.
Trong các phương thức đấu thầu trên, vấn đề tiêu chuẩn kỹ thuật luôn được đặt ra
hàng đầu. Vỡ cú đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật đó được phê duyệt, thỡ ADB mới
cho phộp sử dụng vốn của họ với mục đích đúng và hiệu quả cao. Ngoài ra Phương thức
đấu thầu một giai đoạn là phương thức được sử dụng nhiều nhất và hầu hết trong các
gói thầu mua sắm do ADB tài trợ. Phương thức đấu thầu 2 phong bỡ (1 giai đoạn) cho
phép đánh giá hồ sơ thầu về mặt kỹ thuật và hiệu quả kinh tế mà chưa xét đến giá. Nên
sử dụng phương thức đấu thầu 2 phong bỡ (2 giai đoạn) cho những giải pháp kỹ thuật
khác nhau, ví dụ: nhà máy chế tạo hay máy móc, thiết bị. Có thể chấp nhận phương thức
đấu thầu 2 giai đoạn đối với việc mua sắm hàng hóa lớn, phức tạp, đặc biệt là trường
hợp có nhiều giải pháp kỹ thuật khác nhau.
Tuy nhiên, mọi phương thức mua sắm phải theo nguyên tắc phải tuân thủ hình
thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế được thống nhất giữa bên mời thầu và ABD trong thời
gian thẩm định dự án. Hợp đồng thỏa thuận được đưa vào nội dung hiệp định vay vốn.
Trong đó quy định hoạt động mua sắm nào được thì phải qua đấu thầu cạnh tranh quốc
tế với một phương thức đấu thầu nhất định. ADB sẽ không dễ dàng chấp nhận đề xuất
sửa đổi những thỏa thuận đó.
1.2.3. Theo UNCITRIAL
Luật mẫu của UNCITRAL về đấu thầu do Ủy ban Luật thương mại quốc tế của
Liên hợp quốc ban hành theo quyết định tại kỳ họp thứ 19 vào năm 1986. Ngày 5 đến
ngày 23 tháng 7 năm 1993 bộ luật mẫu này (kèm theo hướng dẫn ban hành) đó được Ủy
ban luật của Liên hợp quốc thông qua tại kỳ họp thứ 26. Mục đích là giúp các quốc gia
có thể ban hành hoặc sửa đổi bộ luật của riêng mỡnh trờn cơ sở một Luật mẫu về mua
sắm. Tại kỳ họp thứ 27 ngày 31 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1994 tại New York, Ủy



ban luật của Liên hợp quốc đó bàn bạc và đi đến bổ sung, sửa đổi một số Điều cho phù
hợp với thực tế và được gọi với tên duy nhất là "Luật mẫu" (bản chính thức của Đại hội
đồng Liên hợp quốc, kỳ họp 49, số 17(A/49/17).

Phương thức đấu thầu được UNCITRAL nêu trong Chương II: Điều 19, 20, 21,
22 gồm: đấu thầu 2 giai đoạn, đấu thầu hạn chế, chào hàng và mua sắm từ một nhà cung
cấp duy nhất.
Hỡnh thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế được UNCITRAL coi là chỉ áp dụng đối
với phương thức đấu thầu 2 giai đoạn, trong đó các nhà thầu được mời nộp hồ sơ đề
xuất kỹ thuật trước (mà không kèm theo đề xuất tài chính). Trong quá trỡnh đánh giá kỹ
thuật, nhà thầu có thể bổ sung, điều chỉnh đề xuất kỹ thuật để có sự thống nhất về giải
pháp kỹ thuật. Giai đoạn hai các nhà thầu hợp lệ, không bị loại ở giai đoạn 1 mới được
mời nộp đề xuất tài chính sau một thời gian, tại một thời điểm nhất định (Điều 19 và 46
- Luật mẫu).
1.2.4. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam
Theo định nghĩa tại Điều 3 Quy chế đấu thầu kèm NĐ88/1999/NĐ-CP: "Đấu
thầu" là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu; "đấu thầu
quốc tế" là cuộc đấu thầu có các nhà thầu trong và ngoài nước tham dự.
Luật đấu thầu 2005 có định nghĩa đầy đủ hơn về đấu thầu và đấu thầu quốc tế,
trong đó coi "Đấu thầu quốc tế" là quỏ trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của
bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà thầu trong nước. Quá
trỡnh lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện gói thầu
thuộc các dự án trong phạm vi Điều chỉnh của bộ Luật này (quy định tại Điều 1) trên cơ
sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế;
Ngoài ra, trong Luật cũn định nghĩa hoạt động đấu thầu bao gồm các hoạt động
của các bên liên quan trong quá trỡnh lựa chọn nhà thầu; trỡnh tự thực hiện đấu thầu
gồm các bước chuẩn bị đấu thầu, tổ chức đấu thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, thẩm định và
phê duyệt kết quả đấu thầu, thông báo kết quả đấu thầu, thương thảo, hoàn thiện hợp
đồng và ký kết hợp đồng.



Hỡnh thức đấu thầu, Luật đấu thầu 2005 quy định tại Điều 18 về đấu thầu rộng rói;
khụng hạn chế số lượng nhà thầu tham dự, phát hành hồ sơ mời thầu phải thông báo mời

thầu rộng rói để các nhà thầu biết thông tin tham dự. Bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời
thầu cho các nhà thầu có nhu cầu tham gia đấu thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được nêu
bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho
một hoặc một số nhà thầu gõy ra sự cạnh tranh khụng bỡnh đẳng. Trong hỡnh thức đấu
thầu cạnh tranh quốc tế có nghĩa là đấu thầu rộng rói, cú cỏc phương thức đấu thầu sau:
a) Phương thức đấu thầu một túi hồ sơ: Được áp dụng đối với hỡnh thức đấu
thầu rộng rói và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa. Nhà thầu nộp hồ sơ
dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính theo yêu cầu của hồ sơ mời
thầu. Việc mở thầu được tiến hành một lần.
b) Phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ: Được áp dụng đối với đấu thầu rộng rói
và đấu thầu hạn chế. Nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính riêng biệt
theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất
về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu có
đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp.
Trường hợp gúi thầu cú yờu cầu kỹ thuật cao thỡ đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt
số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét, thương thảo.
c) Phương thức đấu thầu hai giai đoạn: Được áp dụng đối với hỡnh thức đấu
thầu rộng rói, đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, công nghệ mới, phức
tạp, đa dạng và được thực hiện theo trỡnh tự sau đây:
i) Giai đoạn một: theo hồ sơ mời thầu ở giai đoạn này, các nhà thầu nộp đề xuất
về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có giá dự thầu; trên cơ sở trao đổi với từng
nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
ii) Giai đoạn hai: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đó tham gia giai
đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất về kỹ thuật; đề xuất về
tài chính, trong đó có giá dự thầu, biện pháp bảo đảm dự thầu.



Như vậy Việt Nam quy định hình thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế nói chung là
giống WB và ADB. Tuy nhiên, các phương thức thực hiện trong hình thức đấu thầu này

thì có sự khác biệt.
1.3. Đặc điểm chung của các chế định về đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc
tế
1.3.1. Về chủ thể
Như hầu hết các định nghĩa đã nêu, đấu thầu mua sắm hàng hóa quốc tế là giao
dịch đặc trưng. Trong đó có một người mua và nhiều người bán. Chính người mua cũng
mang trên mình đặc trưng riêng: Đa số họ là những cơ quan của chính phủ, các công ty,
tập đoàn lớn sử dụng nguồn vốn lớn để mua sắm hàng hóa theo quy định của nhà tài trợ,
của chính phủ nước được hưởng lợi. Nói chung họ là những người thiếu chuyên môn,
hiểu biết về chính hàng hóa mà mình định mua. Trong khi đó họ lại đòi hỏi việc mua
sắm phải đúng mục đích, tối ưu, hiệu quả và tiết kiệm nhất.
Nếu như người mua chỉ có duy nhất thì trong đấu thầu lại xuất hiện rất nhiều
người bán. Họ là những nhà sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Người bán đòi hỏi hàng
hóa của mình bán ra phải đạt lợi nhuận cao nhất, đồng thời yêu cầu phải được tự do
cạnh tranh về các điều kiện thương mại, kỹ thuật, năng lực pháp lý, năng lực kinh
nghiệm.
Thực tế thì còn có sự hiện diện của nhiều chủ thể khác cũng tham gia vào quá
trình đấu thầu như: Chủ đầu tư (Ban quản lý dự án thường là người đại diện); bên cho
vay; bên tư vấn; giám định, thẩm định
1.3.2. Về đối tượng giao dịch
Đối tượng của đấu thầu quốc tế rất rộng, đó là các loại hàng hóa, dịch vụ, công
trình, bí quyết kỹ thuật… Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu tới đối
tượng cơ bản của đấu thầu quốc tế là mua sắm hàng hóa có khối lượng lớn về giá trị và
số lượng. Đặc điểm của hàng hóa là đặc tính, tiêu chuẩn kỹ thuật được xác định trước và
được nêu rõ trong hồ sơ mời thầu. Ví dụ: đặc tính của hàng hóa phải đáp ứng đầy đủ, rõ



ràng các tính năng mà chủ đầu tư đưa ra, còn tiêu chuẩn phải đáp ứng theo quy định của
một tổ chức quốc tế hay quốc gia nào đó như: tiêu chuẩn châu âu, ISO 9001-BQVI,

TUV Các nhà thầu muốn làm rõ một số đặc tính kỹ thuật của hàng hóa đó có quyền
được hỏi và được trả lời theo quy định. Ví dụ: tại Điểm 7.1, Chương 1. Mẫu hồ sơ mời
thầu chuẩn ADB, xuất bản tháng 6 năm 2000.
Hàng hóa trong đấu thầu quốc tế cũng được phân biệt rất rõ và cụ thể về mức độ
ưu tiên nội địa, như tại Hướng dẫn của WB tại Điểm 2 - Phụ lục 2 [33] hoặc Hướng dẫn
mua sắm hàng hóa của ADB tại Điểm 5.1, Phần III [30].
Một loại hàng hóa khác cũng hay xuất hiện trong các gói thầu quốc tế, đó là hàng có
mức độ phức tạp cao, tinh xảo và cần có sự phối hợp của nhiều nhà thầu.
1.3.3. Điều kiện mua bán được quy định trước
Mặc dù các nhà cung cấp được tự do cạnh trong phương thức đấu thầu mua sắm
hàng hóa quốc tế, nhưng quy định và các hướng dẫn đấu thầu lại cho phép quy định
trước trong hồ sơ mời thầu về: tiêu chuẩn hàng hóa; điều kiện hợp đồng; thời gian: nộp
hồ sơ, mở hồ sơ, giao hàng…; ngôn ngữ, đồng tiền, …; năng lực nhà thầu: tài chính, kinh
nghiệm, pháp lý.
Nhà thầu bắt buộc phải chấp nhận các điều kiện trên nếu muốn tham gia dự thầu
bằng một văn bản tại đơn xin dự thầu (ví dụ: theo mẫu đơn dự thầu quy định tại điểm a -
Hướng dẫn mua sắm của ADB [30]: "Chúng tôi đã nghiên cứu và hoàn toàn nhất trí với
Hồ sơ mời thầu, kể cả các phụ lục kèm theo").
1.3.4. Điều kiện pháp lý khác
Ngoài các đặc điểm về các chế định của quy chế đấu thầu quốc tế nói trên, Hồ sơ
mời thầu mẫu theo hướng dẫn mua sắm của WB và ADB còn quy định cụ thể về: Trình
tự các bước đấu thầu; tiến độ, mức độ thanh toán, kiểm soát ; nhà thầu hợp lệ; xuất xứ
hàng hóa hợp lệ.
Thời gian đăng thông tin mời thầu, thời gian chuẩn bị dự thầu và thời gian chấm
thầu, cũng như gia hạn cũng được các nhà tài trợ và pháp luật quốc gia quy định chặt



chẽ. Ví dụ: thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu tối thiểu là 6 tuần đối với hàng hóa thông
thường và 12 tuần đối với hàng hóa phức tạp (theo quy định tại Điểm 2.44, Hướng dẫn

mua sắm của WB) [33].
1.4. Nguyên tắc trong đấu thầu mua sắm hàng hóa quốc tế của một số nhà
tài trợ
1.4.1 Nguyên tắc của WB
Mục tiêu tôn chỉ hoạt động của Nhóm WB là hỗ trợ sự phát triển và nâng cao
mức sống của người dân tại các quốc gia thành viên.
a) Nguyên tắc khách quan: Đây là nguyên tắc chung và cơ bản nhất của đấu
thầu mua sắm hàng hóa quốc tế. Nguyên tắc này xuất phát từ đòi hỏi đấu thầu phải công
bằng. Chỉ có sự khách quan mới tạo lập được sự công bằng, bình đẳng cho các nhà thầu.
Nội dung của nguyên tắc này là trong đấu thầu cạnh tranh quốc tế, việc đánh giá thầu
phải tuân theo quy định của luật pháp, phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá, thang
diểm… đã được thống nhất áp dụng và chỉ ra trong hồ sơ mời thầu.
Theo hướng dẫn của WB [33] thì hệ thống tiêu chuẩn đánh giá được nêu rõ trong
hồ sơ mời thầu (quy định tại Điểm 2.19).
Việc đánh gía theo thống nhất theo tiêu chuẩn khách quan được xác định từ trước
sẽ loại trừ được những hiện tượng tiêu cực, khuyến khích các nhà thầu tham gia một sân
chơi bình đẳng có luật lệ.
b) Nguyên tắc nhất quán: WB quy định rất chặt chẽ rằng các tiêu chuẩn, thang
điểm, ưu tiên, chào giá… phải đảm bảo nhất quán trong suốt qúa trình đấu thầu. Đây là
nguyên tắc đảm bảo cho sự công bằng trong đấu thầu.
Để đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện nghiêm túc, WB yêu cầu chủ đầu
tư chỉ thực hiện các bước đấu thầu quốc tế sau khi WB phê duyệt một số bước như hồ
sơ tiêu chuẩn kỹ thuật, hồ sơ mời thầu…
c) Chia các gói thầu phù hợp: Theo quy định của IBRD và IDA thì quy mô gói
thầu và phạm vi hợp đồng sẽ tùy thuộc vào độ lớn, tính chất và địa điểm thực hiện dự



án. Mục đích của nguyên tắc này là tạo ra sự cạnh tranh tối đa, thu hút được nhiều nhà
thầu tham gia và tăng cường khả năng quản lý của chủ đầu tư và nhà tài trợ. Việc phân

chia gói thầu phải hợp lí về các hạng mục trong gói thầu cũng như độ lớn và độ phức
tạp của nó. WB cũng có thể tham gia vào việc chia gói thầu nếu nhận thấy có sự cấu kết
giữa chủ đầu tư và nhà thầu trong việc chia gói thầu, đồng thời sẽ nhận xét về tính hợp
lý của việc chia gói thầu thông qua bước trình WB phê duyệt hoặc lấy ý kiến không
phản đối của ngân hàng.
d) Thông báo phù hợp, công khai: Để tăng tính cạnh tranh giữa các nhà thầu
cũng như hạn chế tiêu cực, tất cả các gói thầu mua sắm hàng hóa quốc tế đều phải được
thông báo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng hàng ngày bằng cả Việt và
tiếng Anh và trên trang WEB của WB để các nhà thầu có cơ hội như nhau về thông tin.
Thời gian thông báo và số lần thông báo cũng được quy định cụ thể để đạt mục đích của
nguyên tắc là thu hút nhiều nhà thầu có tiềm năng tham gia. Đồng thời, thời gian chuẩn
bị thầu cũng phải là thời gian hợp lý để các nhà thầu có khả năng chuẩn bị hồ sơ thầu
một cách đầy đủ và tốt nhất. WB quy định: 6 tuần đối với hàng hóa thông thường và 12
tuần đối với hàng hóa phức tạp (theo quy định tại Điểm 2.44, Hướng dẫn mua sắm của
WB) [33].
e) Không phân biệt đối xử: WB khuyến khích bên mời thầu tạo điều kiện để có
nhiều nhà thầu tiềm năng tiếp cận, tìm hiểu hồ sơ mời thầu thông qua việc quảng cáo và bán
hồ sơ mời thầu. Ngân hàng yêu cầu việc quảng cáo phải được thông báo rộng rãi trên các
phương tiện thông tin đại chúng trong một thời gian nhất định (Điểm 2.7 và 2.8, Hướng dẫn
mua sắm của WB) [33]. Mức bán hồ sơ thầu không khuyến khích báo giá quá cao (thường
thì tử 50USD đến 200USD). Việc làm rõ hồ sơ mời thầu cũng phải được gửi tới tất cả
các nhà thầu đã mua hồ sơ thầu. Như vậy sẽ đảm bảo được tính công bằng đối với tất cả
nhà thầu.
g) Nguyên tắc trung lập: Ngoài các thông tin, hướng dẫn đã cung cấp trong hồ
sơ mời thầu, sẽ không có bất kỳ thông tin không chính thức nào của bên mời thầu
chuyển cho nhà thầu. Trong trường hợp cần giải thích, làm rõ, sửa đổi hồ sơ mời thầu



thì phải được lập bằng văn bản gửi cho tất cả nhà thầu và phải thông qua tư vấn trung

gian.
h) Nguyên tắc hình thức: Đấu thầu quốc tế là biện pháp mua sắm mang nặng
tính hình thức nhất. Bất kỳ sự không tuân thủ nào của nhà thầu đối với những quy định
trong phần hướng dẫn nhà thầu và bảng dữ liệu thầu thì hồ sơ thầu đó bị coi là phạm
quy và bị loại. Tuân thủ nguyên tắc này, nhà thầu phải: đảm bảo hồ sơ bằng văn bản;
nộp không muộn hơn thời hạn đã quy định tại một địa điểm nhất định; việc gia hạn hiệu
lực hồ sơ thầu hoặc bảo lãnh phải được thực hiện băng văn bản với chữ ký của người có
thẩm quyền hoặc được ủy quyền hợp pháp; số lượng hồ sơ bản gốc và bản copy phải
đúng như hướng dẫn; tuyên bố chào hàng phải chấp nhận vô điều kiện các điều khoản
của hợp đồng mẫu và giá chào thầu phải là cố định; việc thương thảo và mở thầu công
khai đều phải được lập biên bản có chữ ký đầy đủ của các bên tham gia… Nguyên tắc
hình thức có giá trị rất quan trọng đối với tất cả nhà thầu và phải được xem xét và áp
dụng theo phần hướng dẫn trong hồ sơ mời thầu.
i) Nguyên tắc bảo mật: Bảo mật là yêu cầu rất quan trọng trong đấu thầu. Nó có
tính quyết định và ảnh hưởng đến việc trúng thầu. Do vậy, nguyên tắc này được nêu rõ
trong các quy định về hướng dẫn mua sắm không chỉ của WB và các nhà tài trợ khác
mà còn có cả trong pháp luật về đấu thầu của các quốc gia. Việc bảo mật phải được thực
hiện từ khâu lập kế hoạch mua sắm và đặc biệt là quá trình xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật
của hàng hóa. Trong quá trình đánh giá thầu, công tác bảo mật càng được quy định chặt
chẽ hơn. Bất kỳ sự liên hệ hay cố gắng nào của nhà thầu nhằm gây ảnh hưởng đến quá
trình này sẽ dẫn đến nhà thầu bị loại.
1.4.2 Nguyên tắc của ADB
ADB có mục đích trọng tâm là nâng cao phúc lợi cho người dân ở khu vực Châu
Á - Thỏi Bỡnh Dương. Các nguyên tắc cơ bản được nêu trong Hiến chương thành lập
ADB như sau:
- Tiền của mọi khoản vay chỉ được sử dụng để mua sắm ở các nước thành viên,
các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ở các nước thành viên;

×