Tải bản đầy đủ (.pdf) (133 trang)

Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát Nhân dân cấp Huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.18 KB, 133 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





LƯƠNG THÚY HÀ






NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









HÀ NỘI - 2012



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LƯƠNG THÚY HÀ






NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRONG CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở NƯỚC TA

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: TS. Trịnh Quốc Toản



HÀ NỘI - 2012

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
6
1.1.
Khái niệm và vai trò của hoạt động thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân
6
1.1.1.
Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
6
1.1.2.
Vai trò và ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố
16
1.1.3.
Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp
19
1.2.
Khái quát lịch sử pháp luật quy định về hoạt động thực hành
quyền công tố ở Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
23
1.3
Những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố ở
một số nước
30
1.3.1.
Một số quốc gia theo hệ thống án lệ
31

1.3.2.
Một số quốc gia theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa
33
1.3.3.
Một số quốc gia khu vực châu Á- Thái Bình Dương
36

Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
44
2.1.
Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành
44
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
2.1.1.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi)
44
2.1.2.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
45
2.1.3.
Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
49
2.1.4.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
49
2.1.5.
Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004

62
2.1.6.
Một số ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp luật thực hành
quyền công tố ở Việt Nam hiện nay
64
2.2.
Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
65
2.2.1.
Vài nét về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện thành phố Hà Nội
65
2.2.2.
Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội
67
2.3.
Những tồn tại, hạn chế của hoạt động thực hành quyền công
tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và những nguyên
nhân của nó
76

Chương 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CẢI CÁCH TƢ
PHÁP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

84
3.1.
Những quan điểm cơ bản nâng cao chất lượng thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
84
3.2.
Những phương hướng nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp
89
3.2.1.
Đổi mới và nâng cao chất lượng của bộ máy tổ chức cán bộ
và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
89
3.2.2.
Quán triệt và nắm vững các đường lối chính sách và yêu cầu
đổi mới trong thực hành quyền công tố, nâng cao ý thức
chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ, năng lực chuyên
môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên cấp huyện
92
3.2.3.
Nâng cao trách nhiệm và năng lực thực hành quyền công tố
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
94
3.2.4.
Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, phân định
trách nhiệm trong công tác thực hành quyền công tố
98
3.2.5.
Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng

cấp huyện
102
3.2.6.
Tăng cường sự phối hợp giữa Viện kiểm sát cấp huyện với
các phòng ban, đơn vị khác trong công tác đấu tranh phòng,
chống vi phạm và tội phạm
103
3.2.7.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật - cơ sở pháp lý của hoạt động
thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát và tăng cường
công tác giải thích, hướng dẫn luật
105
3.2.8.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định sự
thành công của công cuộc cải cách tư pháp
108
3.2.9.
Tăng cường cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện và hoàn thiện chế độ chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên cấp huyện
109
3.3.
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
112

KẾT LUẬN
117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

118




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống các cơ quan cấu thành bộ máy nhà nước, Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) đóng một vai trò rất quan trọng trong việc duy trì trật
tự pháp luật, bảo vệ chế độ. Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ
quan này, thời gian qua, cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã
chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp trong
đó có VKSND. Đây là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể
hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công

việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000, Nghị
quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà mục tiêu là "xây dựng một nền
tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng
bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa…" [13], trong đó có yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động và đề cao
trách nhiệm của các cơ quan và cán bộ tư pháp.
Cho đến thời điểm hiện nay, qua triển khai thực hiện các nghị quyết
trên của Đảng, đã có nhiều hội nghị tổng kết xác định công tác tư pháp đã đạt
được những kết quả khả quan, có nhiều chuyển biến tích cực trong công tác
đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, công dân: Đã khắc phục một bước trong việc lạm dụng bắt khẩn
cấp, bắt oan, sai; tỷ lệ bắt, giam, giữ đưa ra truy tố đạt cao; công tác giải quyết
án trọng điểm và đấu tranh chống tội phạm đã được đẩy nhanh tiến độ và đạt
kết quả tốt, đã và đang giải quyết được nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả
nghiêm trọng, xử lý nghiêm minh,
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, công tác tư pháp vẫn còn bộc lộ nhiều
hạn chế cần được nghiên cứu làm rõ và tìm ra cách khắc phục nguyên nhân

2
nhằm đẩy mạnh tiến trình cải cách tư pháp, đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của
công cuộc đổi mới. Theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Điều 1 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định: Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật. Việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của VKSND là một dạng thực hành quyền lực nhà nước trong lĩnh
vực tư pháp. Không có cỏ nhân, cơ quan nhà nước nào có thể thay thế VKSND
trong việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà, trong việc thực hiện quyền kiểm sát

hoạt động điều tra, kiểm sát hoạt động xét xử…Đây là một chức năng mà
VKSND đã đảm đương từ nhiều năm, nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều
vướng mắc, chưa đạt được sự thống nhất cao trên cả phương diện lý luận và
thực tiễn. Đây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả việc thực hiện chức năng của VKSND. Do đó, nghiên cứu làm sáng
tỏ các vấn đề trên không chỉ có giá trị về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực
tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác tư pháp nói chung, công tác
kiểm sát nói riêng, hoàn thành nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó, đáp ứng
với yêu cầu cải cách tư pháp.
Để góp phần vào việc cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng hoạt động
của VKSND, đồng thời làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn
thông qua hoạt động của VKSND ở cấp huyện, đề xuất một số giải pháp để
nâng cao chất lượng của hoạt động này, tác giả chọn đề tài "Nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong cải cách tư pháp ở nước ta" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là các
chức năng hiến định của VKSND. Để thực hiện các chức năng nhiệm vụ đặt
ra cho VKSND, pháp luật đã quy định cụ thể thẩm quyền của VKSND các
cấp trong từng giai đoạn để thực hiện chức năng hiến định này. Các quy định

3
về thẩm quyền của VKSND các cấp không nằm trong một bộ luật cụ thể mà
được thể hiện xuyên suốt trong hệ thống pháp luật, nhằm mục đích tạo điều
kiện cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở từng mối quan hệ pháp
luật trong từng giai đoạn tố tụng khác nhau. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài
viết của nhiều tác giả với các ý kiến và quan điểm khác nhau về vấn đề này đã
được công bố. Đáng chú ý là các công trình sau:
- "Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra", của Lê Hữu Thể (chủ biên), Nhà xuất bản Tư pháp, 2005.

- Luận án tiến sĩ Luật học "Quyền công tố ở Việt Nam", của Lê Thị
Tuyết Hoa, 2002.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí
Minh", của Trần Văn Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội", của Hà Thị
Minh Hạnh, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2007.
- Luận văn thạc sĩ Luật học: "Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân", của Phan Thị Thuý Lan, Học viện Hành chính quốc gia, 2007.
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: "Cải cách hệ thống tư pháp Việt
Nam", của Bộ Tư pháp, 2005.
Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng trên
các báo và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các năm, các đề tài
khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ…
Các công trình nghiên cứu, bài viết trước đây chỉ đề cập đến tình hình
cải cách hệ thống tư pháp nói chung hoặc đi sâu vào từng vấn đề nghiệp vụ

4
chuyên ngành mà chưa tổng hợp nghiên cứu những căn cứ pháp lý, chức năng
nhiệm vụ của toàn bộ quá trình tố tụng từ khi có dấu hiệu tội phạm đến khi
xét xử xong, để từ đó phát hiện và kiến nghị đổi mới theo tinh thần của Nghị
quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Vì vậy, việc nghiên cứu
"Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta" nhằm phát hiện những khó khăn,
vướng mắc, hạn chế, bất cập, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của VKSND, đặc biệt đối với VKSND cấp huyện là vấn

đề cần thiết và cấp bách trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn tập trung nghiên cứu và góp phần làm sáng tỏ hơn một số
vấn đề lý luận chức năng của VKSND, thực trạng hoạt động thực hành quyền
công tố ở VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó,
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác này theo yêu
cầu của cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố,
thực hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp
của VKSND, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Những quy định của pháp luật thực định về thực hành quyền
công tố, thực trạng áp dụng những quy định đó trong hoạt động thực hành
quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội trong
những năm gần đây. Trên cơ sở đó, đánh giá chất lượng của công tác này,
những kết quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm rõ nguyên
nhân của chúng, đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về quyền công tố,
chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, thực
tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2005 đến 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp
nói riêng, chính sách pháp luật Đảng và Nhà nước ta trong tố tụng hình sự,

luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, thống kê và so
sánh, kết hợp lý luận và khảo sát thực tiễn,…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan
đến thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND cấp
huyện, thực tiễn của chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện
trên một địa bàn có vị trí quan trọng về nhiều mặt là Thủ đô Hà Nội, đánh giá
các kết quả cũng như các thiếu sót, tồn tại và đề ra các giải pháp khắc phục nhằm
nâng cao chất lượng của việc thực hiện chức năng này của VKSND cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân
Chương 2: Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thực hành
quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và thực tiễn áp dụng ở
Việt Nam hiện nay.

6
Chương 3: Những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÕ CỦA HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
Luật tổ chức VKSND năm 2002 thì VKSND thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Đây là chức năng hiến định của VKSND trong giai đoạn
hiện nay và cũng là một nhiệm vụ mà VKSND vốn đảm nhiệm đã từ nhiều năm,
ngay từ khi tổ chức tiền thân của nó là Viện công tố ra đời. Mặc dù vậy, cho đến
nay, trong khoa học pháp lý nói chung, trong khoa học kiểm sát nói riêng và ngay
cả trong thực tiễn hoạt động của VKSND vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao
về các vấn đề này cả trên phương diện khái niệm, nội dung, đối tượng và phạm vi
của thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng như mối
quan hệ giữa chúng. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến nhận thức mà còn tác
động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của các chủ thể trong hệ thống các cơ quan tư pháp nói chung, cơ quan VKSND
nói riêng. Để góp phần từng bước nâng cao hiệu quả và dần đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ của công tác kiểm sát, điều không thể thiếu được là cần phải làm rõ từ
trong nhận thức về các vấn đề cơ bản có liên quan đến các hoạt động chức năng
này: Khái niệm thế nào là quyền công tố, thực hành quyền công tố, thế nào là
kiểm sát các hoạt động tư pháp, đối tượng, nội dung, phạm vi cũng như mối quan
hệ của chúng.
1.1.1. Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Quyền công tố
a) Khái niệm quyền công tố

8
Quyền công tố là một hoạt động tố tụng vì lợi ích công cộng đối với
người phạm tội đã được biết đến ngay từ những thời đại xa xưa của xã hội
loài người. Cùng với thời gian, đến nay, quyền công tố đã trở thành một chế
định pháp lý độc lập được thừa nhận chung trong luật tố tụng hình sự ở đa số
các nước văn minh trên thế giới. Ở nước ta, về mặt lập pháp, thuật ngữ quyền
công tố được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến
chức năng, nhiệm vụ của VKSND (tại cụm từ "thực hành quyền công tố"). Từ

đó đến nay, trong khoa học và trong thực tiễn có nhiều ý kiến, quan điểm
khác nhau về khái niệm cũng như các vấn đề có liên quan: đối tượng, phạm
vi, nội dung, chủ thể thực hành của quyền công tố và theo đó là thực hành
quyền công tố nhưng chưa có quan điểm nào được các cơ quan có thẩm quyền
chính thức công nhận và cũng chưa có một văn bản nào của cơ quan có thẩm
quyền hướng dẫn một cách chính thức về các vấn đề này.
Theo Từ điển tiếng Việt thì "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố,
buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án". Như vậy, theo từ
điển tiếng Việt thì "công tố" được hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm:
Điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án.
Trong giới nghiên cứu khoa học, về khái niệm thế nào là quyền công
tố có thể kể đến một số quan điểm như sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát tuân theo pháp luật của VKSND đều là thực hành quyền công tố. Những
người theo quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt
động kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND. Theo họ, công tố không phải
là một chức năng độc lập của VKSND mà chỉ là một quyền năng, một hình
thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND.
Theo tác giả, quan điểm này đã đánh đồng quyền công tố với quyền
kiểm sát tuân theo pháp luật của VKSND và như vậy là không chính xác. Bởi
vì, thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật là hai chức năng

9
hoàn toàn độc lập của VKSND. Mặc dù trong quá trình thực hiện, hai chức
năng này có thể có những nội dung đan xen nhau, có quan hệ mật thiết với
nhau, tác động qua lại với nhau nhưng không phải trong mọi công tác thực
hiện chức năng của VKSND, trong mọi hoạt động thực hiện chức năng của
Kiểm sát viên đều bao hàm cả hai chức năng đó, có hoạt động chỉ nhằm thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và có hoạt động chỉ nhằm thực hiện
chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật. Vì vậy, không thể phủ nhận tính độc

lập của hai chức năng này về cả nội dung lẫn phạm vi áp dụng và vì vậy
không thể đồng nhất chúng.
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Toà án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật. Ở Việt Nam, quyền này
được giao cho VKSND. Quan điểm này có thể coi là quan điểm phổ biến
trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo trình giảng dạy của Trường Cao
đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được nhắc đến trong các văn bản
hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực tiễn của ngành kiểm sát.
Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự,
về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến nay thì
quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà còn có
cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền
năng khác của VKSND trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải
quyết các vụ án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba: Là quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại
trong lĩnh vực hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố
kẻ phạm tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên toà
hình sự sơ thẩm (duy trì quyền công tố). Ở Việt Nam, quyền này được Nhà

10
nước giao cho VKSND. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể
có quyền công tố - đó là VKSND, việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở
một lĩnh vực duy nhất là TTHS và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của
TTHS là giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Theo tác giả, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá
thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố.
Không những vậy, còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố và

hơn thế nữa còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành quyền công tố bởi
vì truy tố và buộc tội chỉ là một trong số các quyền năng, là một số hoạt động
cụ thể trong số những hoạt động của VKSND ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
trong TTHS khi thực hành quyền công tố. Ngoài các quyền năng đó ra,
VKSND còn có nhiều quyền năng khác nữa khi thực hành quyền công tố cả ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm hình sự và ở các giai đoạn khác.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố
không chỉ có VKSND mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan
điều tra, Toà án, Thi hành án). Và như vậy, quyền công tố có trong tất cả các
giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Quan điểm này đã đồng
nhất khái niệm quyền công tố với nguyên tắc TTHS, đã nhầm lẫn giữa các
chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử…).
Quan điểm thứ năm: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
VKSND truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Cơ quan công tố
có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội
phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó, quyết định truy tố bị can ra trước Toà
án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên toà. Theo quan điểm này thì quyền
công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm; quyền công tố

11
chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là TTHS. Ở nước ta, quyền công tố được Nhà
nước giao cho duy nhất VKSND, không có cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan
điểm khác nhau. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý
của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công
tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của
VKSND trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của

quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu hẹp phạm
vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ năm nêu trên
với khái niệm quyền công tố bởi các lý do sau:
Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này phù hợp với quan điểm
truyền thống nghiên cứu lịch sử nhà nước - pháp luật về quyền công tố:
"Quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh Nhà nước buộc tội đối với
người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự xem xét là tội phạm xâm hại
trật tự chung của toàn xã hội".
Thứ hai, quan điểm này cũng phù hợp với các quy định của pháp luật
của Nhà nước ta qua các thời kỳ khác nhau về quyền công tố, cụ thể:
- Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước ta qua các thời kỳ đều khẳng
định "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố…".
- Khi nói về vai trò, nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã
khẳng định: Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát
để sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc VKSND phải trông nom,
đảm bảo tốt.

12
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp"
[10].
- Tại báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729
ngày 14/3/2002) về dự án Luật tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động công
tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án đến
truy tố bị can và tranh tụng tại phiên toà" [47].
- Hiến pháp năm 1992 (đã sửa đổi bổ sung - Điều 137) và các văn bản pháp

luật của Nhà nước ta (Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002, Điều
23 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)) quy định: "Viện kiểm sát có nhiệm vụ
kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, thực hành quyền công tố"
[40].
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những
nội dung cơ bản của Luật tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng
tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện
trưởng VKSNDTC đã khẳng định: Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Từ các ý kiến, tư tưởng chỉ đạo nêu trên, có thể thấy thực hành quyền
công tố là việc truy cứu người có hành vi phạm tội ra trước Toà án; quyền
công tố ở nước ta được giao cho chủ thể duy nhất là VKSND; quyền công tố
chỉ có trong lĩnh vực hình sự và có ở tất cả các giai đoạn từ khi khởi tố, điều
tra đến truy tố và xét xử hình sự. Các công tác khác như giải quyết án dân sự,
giam giữ cải tạo, giải quyết án hành chính, kinh tế lao động, thi hành án…của
VKSND là hoạt động thuộc lĩnh vực kiểm sát các hoạt động tư pháp khác.
Từ những ý kiến phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền công
tố ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKSND thực hiện các quyền

13
năng theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội.
b) Đối tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố
Như đã phân tích trên, do hiện nay còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau về quyền công tố nên hệ quả cũng có nhiều quan điểm khác nhau về đối
tượng, nội dung, phạm vi của quyền công tố:
* Đối tượng của quyền công tố
- Những người có quan điểm đồng nhất quyền công tố với kiểm sát
tuân theo pháp luật thì cho rằng đối tượng của quyền công tố là sự tuân thủ

pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người thực hành tố
tụng và người tham gia tố tụng.
- Với quan điểm "quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các
vụ việc vi phạm pháp luật thống trị ra trước Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi
ích Nhà nước, bảo vệ trât tự pháp luật" thì đối tượng của quyền công tố là tất cả
các hành vi vi phạm pháp luật. Tức là đối tượng của quyền công tố rất rộng và
không cụ thể bởi lẽ các hành vi vi phạm pháp luật thì rất đa dạng, phong phú và
không chỉ có trong lĩnh vực TTHS mà còn có cả trong lĩnh vực tố tụng tư pháp
khác.
Theo tác giả, vì chức năng duy nhất của quyền công tố là chức năng
buộc tội nhân danh Nhà nước, và vì chỉ có lĩnh vực TTHS là lĩnh vực duy nhất
liên quan đến việc truy tố và buộc tội đối với người phạm tội, các lĩnh vực tư
pháp khác là các lĩnh vực chỉ liên quan đến các vi phạm, tranh chấp khác cho
nên quyền công tố chỉ có duy nhất trong lĩnh vực TTHS, không thể có trong các
lĩnh vực tư pháp khác. Với quan điểm tán đồng với quan điểm thứ năm như đã
nêu trên, tác giả cho rằng đối tượng của quyền công tố là tội phạm và người
phạm tội.
* Nội dung của quyền công tố

14
Về nội dung của quyền công tố, cũng còn tồn tại những quan điểm rất
khác nhau song xuất phát từ quan điểm về bản chất của quyền công tố là sự buộc
tội nhân danh Nhà nước, đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và
người phạm tội, tác giả thống nhất với quan điểm nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người đã thực hiện tội phạm.
* Phạm vi của quyền công tố
Do hiện đang tồn tại những quan điểm khác nhau về quyền công tố
nên cũng có các cách lý giải khác nhau về phạm vi của quyền công tố (cả
phạm vi về không gian lẫn phạm vi về thời gian).
Về phạm vi không gian: Phần lớn các quan điểm cho rằng quyền công

tố chỉ có duy nhất trong lĩnh vực hình sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có quan
điểm cho rằng quyền công tố được thực hiện không chỉ trong lĩnh vực hình sự
mà còn trong các lĩnh vực hoạt động tư pháp khác (tố tụng dân sự, kinh tế, lao
động…). Theo quan điểm của tác giả, vì bản chất của quyền công tố là buộc
tội cho nên quyền công tố không thể có trong các lĩnh vực khác không liên
quan đến sự buộc tội như trong tố tụng dân sự, kinh tế, lao động…Và vì vậy,
tác giả có quan điểm rằng quyền công tố chỉ có trong duy nhất lĩnh vực có
liên quan đến tội phạm và sự buộc tội - đó là lĩnh vực TTHS.
Về phạm vi thời gian (tức thời điểm bắt đầu và kết thúc của quyền
công tố): Vấn đề này cũng tồn tại nhiều quan điểm:
- Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng phạm vi quyền công tố
bắt đầu từ khi có quyết định truy tố của VKSND và kết thức khi Kiểm sát
viên thực hiện xong việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm. Theo
quan điểm này, quyền công tố chỉ có ở duy nhất một giai đoạn của TTHS đó
là giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có ở các giai đoạn khác kể cả giai đoạn
điều tra. Theo họ, giai đoạn điều tra chỉ là giai đoạn thu thập các tài liệu
chứng cứ để phục vụ cho việc đưa vụ án ra Toà.

15
Tác giả thấy rằng, quan điểm như vậy là đã quá thu hẹp phạm vi của
quyền công tố và thậm chí đã nhầm lẫn giữa quyền công tố và thực hành
quyền công tố. Bởi vì, truy tố bị can ra Toà và thực hiện sự buộc tội tại phiên
toà sơ thẩm chỉ là một trong các biện pháp thực hành quyền công tố (quyền
năng) của VKSND. Ngoài các quyền năng trên, khi thực hành quyền công tố,
VKSND còn có nhiều quyền năng khác trong suốt quá trình TTHS kể cả trong
giai đoạn điều tra như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, yêu cầu điều tra, điều tra,
áp dụng hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, quyết định truy tố…đến giai đoạn
xét xử. Cho nên, nếu quan điểm như vậy thì sẽ không lý giải được việc thực
hiện các quyền năng khác của VKSND như khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can…có thuộc quyền công tố hay không trong khi đó, pháp luật lại quy định

rõ đó là các nội dung thực hành quyền công tố (Điều 112 BLTTHS). Và nếu
quan niệm như vậy, cũng sẽ không lý giải được những hoạt động của VKSND
các cấp sau phiên toà sơ thẩm: VKSND kháng nghị bản án hình sự, Kiểm sát
viên phát biểu quan điểm của VKSND tại các phiên toà phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm…là hoạt động gì. Trong khi đó, các hoạt động này cũng
chính là để tiếp tục sự buộc tội nhân danh Nhà nước, để truy cứu trách nhiệm
hình sự đến cùng đối với người phạm tội - chính là nội dung của thực hành
quyền công tố.
- Quan điểm thứ hai: Là quan điểm cho rằng phạm vi của quyền công tố
bắt đầu từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
So với quan điểm thứ nhất, quan điểm này tuy có mở rộng hơn phạm
vi của quyền công tố, theo đó thì quyền công tố có cả trong giai đoạn điều tra
nhưng lại giới hạn thời điểm kết thúc của quyền công tố là chỉ đến khi bản án
sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. Cũng như quan điểm thứ hai, quan điểm này
vẫn bộc lộ những hạn chế, chưa đầy đủ và thiếu tính thuyết phục bởi không
phù hợp với thực tiễn, không lý giải được vai trò của VKS khi thực hiện chức

16
năng thực hành quyền công tố trong các phiên toà khác sau phiên toà sơ thẩm
(trong phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm).
- Quan điểm thứ ba: Phạm vi của quyền công tố là từ khi khởi tố vụ
án đến khi người phạm tội chấp hành xong bản án. Theo quan điểm này thì
quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn của TTHS từ giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử đến thi hành án hình sự, tức là quyền công tố có cả sau khi mà
bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Quan điểm này đã mở rộng hơn nữa phạm vi của quyền công tố nhưng
cũng lại chưa đầy đủ và cũng chưa có sức thuyết phục. Bởi vì, bản chất của
quyền công tố là sự buộc tội nhân danh Nhà nước đối với người phạm tội.
Cho nên, cứ ở đâu và bất cứ khi nào có tội phạm xảy ra, thì ở đó và thời điểm
ấy, cũng đồng thời xuất hiện đòi hỏi đối với các cơ quan chức năng trong việc

buộc phải tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật, xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội để thực hành quyền công
tố. Cho nên, quyền công tố thực ra không chỉ có từ khi vụ án được khởi tố mà
nó xuất hiện từ trước đó, ngay từ khi tội phạm được thực hiện. Và vì, quyền
công tố là quyền nhân danh công quyền buộc tội đối với những người có hành
vi phạm tội. Cho nên, một khi đã có được bản án có hiệu lực pháp luật thì việc
buộc tội đã chấm dứt, không thể còn quyền công tố kéo dài hơn nữa. Vì vậy,
trong giai đoạn thi hành án, không thể nói vẫn còn có sự hiện diện của quyền
công tố.
- Quan điểm thứ tư: Là quan điểm cho rằng quyền công tố có từ khi
tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật…Theo
quan điểm này, quyền công tố bắt đầu xuất hiện từ khi tội phạm được thực
hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp vụ án được
tạm đình chỉ, đình chỉ).
Các quan điểm trên đây, tuy có khác nhau nhưng cùng có điểm chung
là cùng khẳng định quyền công tố là quyền truy tố và buộc tội của VKS nhân

17
danh Nhà nước. Xuất phát từ quan điểm, quyền công tố là quyền của Nhà
nước giao cho VKS thực hiện các chức năng do pháp luật tố tụng hình sự quy
định, trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội, góp phần ra được bản án có căn cứ, đúng pháp
luật, tác giả đồng tình với quan điểm thứ tư nêu trên về phạm vi của quyền
công tố là từ khi tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật
(hoặc khi có quyết định đình chỉ trong trường hợp vụ án được đình chỉ).
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố
a) Khái niệm thực hành quyền công tố
Việc xác định rõ quyền công tố và theo đó là thực hành quyền công tố
có ý nghĩa không chỉ giúp phân định rõ ràng, đúng đắn chức năng nhiệm vụ,
xác định vị trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói

chung, trong mối quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng, mà còn giúp cho
nhận thức thống nhất và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn cải cách tư pháp.
Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội; quyền công
tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS; phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội
phạm xảy ra, tiếp diễn suốt từ khởi tố, điều tra đến truy tố bị can ra Toà, tranh
tụng tại phiên toà và kết thúc bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (hoặc
quyết định của Toà án - trong trường hợp vụ án bị đình chỉ). Để thực hiện
được quyền công tố đó, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các quyền
năng pháp lý khác nhau để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng
trong từng giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự (hay nói cách khác đó là
các phương pháp khác nhau để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong
những giai đoạn tố tụng khác nhau) - đó là thực hành quyền công tố. Ở Việt
Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn thì từ

18
trước đến nay quyền này được giao cho duy nhất VKS. Vậy, chủ thể thực
hành quyền công tố ở Việt Nam là VKSND.
Như vậy, có thể đi đến khái niệm sau: Thực hành quyền công tố là
việc Nhà nước tổ chức và giao cho cơ quan đại diện của mình (VKS) các
quyền năng pháp lý để thực hiện trong tất cả giai đoạn của TTHS từ điều tra,
truy tố đến xét xử nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
phạm tội và áp dụng đối với họ các chế tài hình sự cần thiết.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động thực hành quyền công tố
Theo các quy định của BLTTHS và Luật tổ chức VKSND năm 2002
thì "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố trong tất cả các giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử bằng các biện pháp theo quy định của pháp
luật". Cụ thể:
Trong giai đoạn điều tra:

- Khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Đây là các biện pháp phát động quyền
công tố, mở đầu cho cả quá trình TTHS, là điểm mốc làm phát sinh quan hệ
pháp luật hình sự giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với người có
hành vi phạm tội. Bởi từ đây, cơ quan có thẩm quyền chính thức bắt đầu các
hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình
tiết của vụ án…Theo quy định của pháp luật, VKS là cơ quan duy nhất trong
TTHS có quyền quyết định việc có hay không khởi tố vụ án hình sự, bị can để
điều tra: Có quyền phê chuẩn các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các
quyết định thay đổi và bổ sung quyết định khởi tố vụ án, bị can của Cơ quan
điều tra… Các quyết định khởi tố vụ án, bị can của các chủ thể khác được
pháp luật giao cho thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can đều phải chịu sự
giám sát và phụ thuộc vào quyết định của VKS: Sau khi có quyết định khởi tố
vụ án, khởi tố bị can, các quyết định khởi tố của các cơ quan đó phải được gửi
đến VKS cùng các tài liệu có liên quan để VKS xem xét quyết định phê chuẩn

19
hay không phê chuẩn. Trong trường hợp không được sự phê chuẩn của VKS
thì các quyết định đó bị triệt tiêu về hiệu lực.
Ngoài ra, VKS còn có thẩm quyền đặc biệt hơn cả trong số các chủ
thể có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can: Có quyền độc lập quyết định
khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không phải chịu sự chi phối của bất cứ cơ quan
nào, các quyết định này của VKS có hiệu lực ngay sau khi ban hành.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra,
trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra:
Trong TTHS, Cơ quan điều tra được giao trách nhiệm điều tra tội
phạm, có quyền áp dụng tất cả các biện pháp theo quy định của pháp luật để
điều tra làm rõ vụ án, làm rõ hành vi phạm tội cũng như các tình tiết có liên
quan như: động cơ, mục đích của tội phạm, nhân thân của người phạm tội, các
tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra… Đây là những hoạt động mà không có cơ quan nào có thể

thay thế cho Cơ quan điều tra được bởi họ có biên chế là đội ngũ các Điều tra
viên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ về điều tra và khám phá tội phạm.
Nhưng bởi việc đưa một con người vào vòng tố tụng và xử lý họ về hình sự là
vấn đề không hề đơn giản, động chạm đến rất nhiều quyền cơ bản của công
dân được pháp luật bảo hộ, cần phải đảm bảo tính thận trọng và chính xác.
Cho nên, cần phải có sự chế ước giữa các cơ quan nhà nước với nhau trong
TTHS nhằm đảm bảo tất cả mọi hành vi phạm tội đã được phát hiện phải
được khởi tố, xử lý kịp thời và nghiêm minh nhưng cũng cần phải có căn cứ
và đúng pháp luật. Vì vậy, pháp luật quy định giao cho một cơ quan nhà nước
trách nhiệm kiểm tra, giám sát, đảm bảo cho các tài liệu, chứng cứ liên quan
đến việc chứng minh hành vi phạm tội và nhân thân của người phạm tội phải
được thu thập đầy đủ, toàn diện, khách quan và hợp pháp - Cơ quan đó là
VKS. VKS là cơ quan duy nhất có quyền can thiệp trực tiếp vào quá trình
điều tra, đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Cơ quan
điều tra mà cụ thể là các Điều tra viên có trách nhiệm phải thực hiện tất cả các

×