Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

luận văn thạc sĩ Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.86 KB, 102 trang )

¸p dông ph¸p luËt trong gi¶i quyÕt
c¸c vô ¸n d©n sù cña tßa ¸n nh©n d©n
thµnh phè lµo cai - tØnh lµo cai
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
10
1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 10
1.2. Các giai đoạn, nội dung và các yếu tố đảm bảo áp dụng pháp luật
trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện 22
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI (GIAI
ĐOẠN 2004-2008)
46
2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai 46
2.2. Thực trạng hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai 51
2.3. Quan điểm và giải pháp đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai 69
2.4. Một số giải pháp nhằm đảm bảo áp dụng pháp luật trong giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai 73
KẾT LUẬN
92


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ADPL : Áp dụng pháp luật
BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo từ Đại hội VI (1986) đến nay đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay
đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường
quốc tế không ngừng nâng cao [6, tr.67].
Trong những năm qua, kinh tế tăng trưởng nhanh, với tốc độ tăng
GDP năm 2001 là 6,9% đến năm 2007 tăng lên 8,3% [14], đời sống nhân
dân được nâng cao, chính trị xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố, niềm tin của nhân dân vào chế độ xã hội và sự lãnh đạo của Đảng
được tăng cường.
Trong thời kỳ đổi mới, việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng
pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa được đề cao hơn bao giờ
hết. Để thực hiện được mục tiêu đó, yêu cầu khách quan đặt ra là phải tiến
hành cải cách bộ máy nhà nước, điều chỉnh phạm vi nội dung và phương thức
hoạt động của Nhà nước cho phù hợp. Trong cải cách bộ máy nhà nước, cải
cách tư pháp có vị trí rất quan trọng. Bởi lẽ, các cơ quan tư pháp là công cụ

quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ nhân dân, các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân,
bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong những năm qua, các cơ quan tư pháp luôn
1
luôn đứng ở tuyến đầu của nhiệm vụ bảo vệ pháp chế và trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với tội phạm và các vi phạm pháp luật,
giải quyết nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật các tranh chấp nảy sinh
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần ổn định xã hội, phát triển
kinh tế, phát huy tính chủ động, sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân. Đồng
thời, các cơ quan tư pháp đã tham gia tích cực và chủ động vào việc soạn thảo
văn bản pháp luật, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tổ chức thực
hiện pháp luật, từng bước nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân.
Có thể khẳng định rằng, quyền lực tư pháp đã được thực hiện có hiệu quả với
sự đóng góp lớn lao của toàn bộ hệ thống tư pháp.
Trong lĩnh vực hoạt động tư pháp, đường lối của Đảng, Hiến pháp và
pháp luật của Nhà nước Việt Nam luôn đề cao các nguyên tắc về tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, nguyên tắc bình đẳng, công bằng, công khai, minh
bạch trong xây dựng và thực hiện pháp luật. Để hoạt động của các cơ quan tư
pháp đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về
vấn đề này như: Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Trung ương
3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII). Tại Đại hội IX, Đảng ta đã đề ra
nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân. Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở hệ thống các tư
tưởng, quan điểm đề cao pháp luật, pháp chế trong tổ chức hoạt động của bộ
máy nhà nước và trong đời sống xã hội. Đồng thời, là nhà nước được tổ chức
và quản lý theo pháp luật và đề cao các giá trị nhân văn, tôn trọng và bảo đảm
quyền của con người, quyền công dân. Căn cứ vào những đặc trưng của Nhà
nước pháp quyền, có thể thấy nhiệm vụ cấp bách hàng đầu hiện nay là phải
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật
nghiêm minh. Do đó yêu cầu "cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt

2
động của các cơ quan tư pháp" [5, tr.90] là một trong những đòi hỏi bức xúc ở
nước ta hiện nay.
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
ngày 02 tháng 01 năm 2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08/NQ-TƯ
về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, trong
đó đề ra các nhiệm vụ cụ thể nhằm cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng hệ
thống pháp luật động bộ ngày 24 tháng 05 năm 2005 Bộ Chính trị ban hành
Nghị quyết số 48-NQ/TW về “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng nền tư pháp
trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao.
Phương hướng và nội dung cải cách tư pháp ở Việt Nam là tiến hành
cải cách tư pháp khẩn trương đồng bộ; hoàn thiện chính sách, pháp luật
hình sự, dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm
tính đồng bộ, dân chủ công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người; tổ chức các cơ quan tư pháp và các định chế bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện
làm việc. Trong đó, xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt
động trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp; xây dựng
đội ngũ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo
hướng nâng cao quyền hạn trách nhiệm, tiêu chuẩn chính trị, đạo đức,
3
chuyên môn; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử của công

dân và nhân dân đối với hoạt động tư pháp; đổi mới và tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức Tòa án năm
2002, nhiệm vụ trọng tâm của Tòa án là xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh tế, hành chính, lao động và giải quyết các việc khác
theo quy định của pháp luật. Trên thực tế, hoạt động trọng tâm của Tòa án là
một hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự và
được tiến hành theo một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Các giai đoạn của áp
dụng pháp luật có mối liên hệ mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn này
làm tiền đề cho giai đoạn tiếp theo với mục đích là giải quyết một vụ án được
chính xác, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy, sai
lầm trong bất cứ giai đoạn nào cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả chung
của việc giải quyết vụ án.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, các vụ án dân sự với tính
chất ngày càng phức tạp, tinh vi, do đó việc áp dụng pháp luật để giải quyết
án dân sự của Tòa án hiện nay là một vấn đề được coi trọng. Việc áp dụng
pháp luật thế nào cho đúng, chính xác và thấu tình đạt lý được dư luận xã hội
quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế thì việc giải quyết các vụ dân sự còn nhiều
bất cập và nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội. Theo quy định của
Luật Tổ chức Tòa án và Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2005, Tòa án nhân dân
thành phố Lào Cai có thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự theo trình tự sơ
thẩm. Ở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai trong những năm gần đây số
lượng các vụ án dân sự ngày càng gia tăng, tính chất các vụ án rất phức tạp.
Trong những năm qua Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai đã giải quyết
những tranh chấp, những vụ kiện phát sinh trong đời sống của nhân dân, bảo
4
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Việc áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự đã góp phần ổn định xã hội và cải thiện
các mối quan hệ trong đời sống hàng ngày tại cộng đồng dân cư, giữ gìn kỷ
cương pháp luật, trật tự an toàn xã hội, đồng thời góp phần tằng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa trên toàn tỉnh Lào Cai nói chung và trên địa bàn Thành
phố Lào Cai nói riêng.
Trong thực tế, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
không chỉ đơn thuần đấu tranh đối với các hành vi trái pháp luật mà còn phổ
biến, tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, để người dân hiểu
biết về pháp luật, chủ động tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật và
tích cực trong việc tố giác các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời, thông
qua việc áp dụng pháp luật trong giải quyết án dân sự còn phát hiện ra những
bất cập, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm sửa đổi, điều chỉnh các điều
khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai
đoạn cụ thể. Bên cạnh đó, quá trình kiểm tra xét xử án phúc thẩm và giám đốc
thẩm của Tòa án cấp trên trong những năm qua cho thấy, việc giải quyết các
vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai còn nhiều bất cập dẫn
đến nhiều vụ án bị hủy, sửa, tình trạng án tồn đọng chưa được giải quyết. Còn
tồn tại nhiều vụ án bị kéo dài vượt quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự và có nhiều vụ án áp dụng pháp luật chưa thật sự chuẩn xác, nghiêm
minh đã dẫn đến việc bị sửa, hủy làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân.
Là một cán bộ của ngành tòa án, bản thân tôi mong muốn thông qua đề
tài nghiên cứu của mình sẽ góp phần vào việc hoàn thiện và nâng cao chất
lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Vì lẽ đó, tôi
lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai” làm luận văn thạc sỹ
5
chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật. Hy vọng rằng, kết
quả nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử và áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự của ngành Tòa án nói chung, Tòa án
nhân Thành phố Lào Cai nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng cũng đã được nhiều
nhà khoa học pháp lý, nhất là những người làm công tác xét xử của nhành Tòa
án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập đến
những vấn đề trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự như:
TS Đặng Quang Phương (1999) “Thực trạng của các bản án hiện nay và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án”- Tạp chí Tòa án nhân dân số 7,8; Lê Thu
Hà “Án dân sự bị kéo dài- vài nguyên nhân và giải pháp”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 10/1997; Lê Thu Hà “Một số vấn đề về thẩm quyền xét xử các vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 01/1999; Ngô
Vĩnh Bạch Dương : "Vấn đề áp dụng hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự ở Việt
Nam”- Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2001. Một số luận văn thạc sỹ Luật
học của Ngô Thị Minh Ngọc (2000) “Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên
tòa sơ thẩm”; Phạm Thị Dần (2000) “Điều tra trong tố tụng dân sự”; Chu Đức
Thắng (2004) “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay”; Hoàng Văn Hạnh (2006) Luận
văn thạc sỹ Luật học “Áp dụng pháp luật trong việc giải quyết án hôn nhân và
gia đình của Tòa án nhân dân Tỉnh Thái Nguyên”; Ngô Minh Ngọc (2000) “
Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm”.
Như vậy cho đến nay chưa có một đề tài, công trình nghiên cứu khoa
học tương đối toàn diện, có hệ thống về mảng áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm nói chung và ở Tòa án nhân dân
6
thành phố Lào Cai nói riêng từ khi Bộ Luật tố tụng Dân sự 2004 và Bộ Luật
Dân sự năm 2005 ra đời.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Là việc áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai - tỉnh Lào Cai.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu xem xét tình hình áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai trong khoảng
thời gian từ năm 2004 đến năm 2008.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích của luận văn
+ Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai
+ Thông qua các số liệu báo cáo tổng kết công tác xét xử của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai đánh giá thực trạng tình hình hoạt động áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành
phố Lào Cai, Từ đó đề ra giải pháp mang tính hệ thống để nâng cao hiệu quả
hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách
chính xác, công bằng, hiệu quả góp phần ổn định xã hội và mang lại cho nhân
dân niềm tin vào pháp luật.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ cụ thể sau:
+ Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung, các giai đoạn của áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự.
7
+ Đánh giá thực trạng của áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, những kết quả đạt được,
những ưu điểm, hạn chế của hoạt động áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai.
+ Từ đó nêu lên các quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân thành phố Lào Cai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin,

tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà
nước và pháp luật, trong đó có áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng của
triết học Mác- Lê nin, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh,
khảo sát thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Lào Cai.
Trên cơ sở thực trạng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án
dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai, nêu ra những điểm mới trong
việc áp dụng pháp luật khi có bộ luật ra đời, đồng thời chỉ ra những bất cập
trong hoạt động ADPL trong việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án
nhân dân Thành phố Lào Cai và đề ra giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật trong hoạt động giải quyết các vụ
8
án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai nói riêng và hoạt động áp
dụng pháp luật của ngành Tòa án nói chung có hiệu quả, bảo vệ lợi ích hợp
của nhân dân và đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao nhận thức và cung
cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho những cán bộ trực tiếp làm công tác
xét xử của ngành Tòa án trong hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các
vụ án dân sự.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,

giảng dạy, cho các cán bộ đang trực tiếp làm công tác giải quyết án dân sự
của Ngành Tòa án nhân dân nói chung và của Tòa án nhân dân Thành phố
Lào Cai nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương, 6 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
1.1.1. Một số vấn đề chung có liên quan
Để làm rõ khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện, thì cần thiết phải làm sáng tỏ một số khái
niệm liên quan sau đây:
1.1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Ở bất cứ một hình thức nhà nước nào thì pháp luật luôn là một công cụ
để đảm bảo cho một xã hội phát triển ổn định, khi đặt ra những quy phạm
pháp luật, Nhà nước ta mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ
xã hội, đáp ứng lợi ích của nhân dân lao động và sự tiến bộ xã hội. Mục đích
đó chỉ đạt được khi các chủ thể thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong đời
sống thực tế.
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách
quan của quản lý nhà nước bằng pháp luật. Pháp luật được ban hành nhiều
nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước
kém hiệu quả. Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai hoạt
động có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thực hiện pháp luật là hành vi (hành động hoặc không hành động) của

con người phù hợp với những quy định của pháp luật, thực hiện pháp luật có
thể là hành vi của mỗi cá nhân nhưng cũng có thể là hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội.
10
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực
tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật (QPPL) rất
phong phú, do đó hình thức thực hiện cũng rất phong phú và khác nhau. Căn
cứ vào tính chất của hoạt động, thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã xác
định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
pháp luật kiềm chế không tiến hành những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định.
- Áp dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ
chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật
hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết
định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp
luật cụ thể.
Áp dụng pháp luật (ADPL) là một hình thức thực hiện pháp luật.Mục
đích của áp dụng pháp luật là đảm bảo cho những quy phạm pháp luật được
thực hiện trong đời sống xã hội. Trong thực tế đời sống xã hội thì áp dụng
pháp luật được thể hiện rất rõ trong các trường hợp như: khi một chủ thể thực
hiện hành vi phạm tội thì ngay sau đó trách nhiệm hình sự không phát sinh và
người vi phạm tự giác chấp hành hình phạt tương ứng mà cần có hoạt động
của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật để xét xử, ra bản án trong đó ấn
định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, hay khi xảy ra tranh chấp

giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật nhưng các chủ thể không tự mình
11
giải quyết được, trong trường hợp này quan hệ pháp luật đã phát sinh nhưng
quyền và nghĩa vụ giữa các bên không thực hiện được và có sự tranh chấp, thì
áp dụng pháp luật sẽ được áp dụng khi các chủ thể yêu cầu cơ quan Tòa án
giải quyết.
Trong một số quan hệ pháp luật mà nhà nước thấy cần thiết phải tham
gia để kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia quan hệ đó, hoặc
nhà nước xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế như việc xác
nhận di chúc, chứng thực thế chấp…
Nghiên cứu áp dụng pháp luật cho thấy có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, áp dụng pháp luật về nguyên tắc chỉ do những cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật quy định các cơ quan nhà nước khác
nhau có thẩm quyền áp dụng pháp luật khác nhau.
Thứ hai, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính tổ chức- quyền lực
nhà nước. Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến
hành áp dụng pháp luật theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí
của chủ thể bị áp dụng. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị áp
dụng và được bảo đảm bởi sức mạnh cưỡng chế nhà nước.
Thứ ba, áp dụng pháp luật là hoạt động phải tiến hành theo các thủ tục
chặt chẽ do pháp luật quy định. Ví dụ: việc áp dụng pháp Luật Hình sự để giải
quyết một vụ án hình sự phải tuân thủ Luật Tố tụng hình sự với những quy
định chặt chẽ.
Thứ tư, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính sáng tạo. Bởi vì, áp
dụng pháp luật là quá trình vận dụng cái chung (các quy phạm pháp luật) để
giải quyết các vụ việc cụ thể. Điều này đòi hỏi người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật phải vận dụng cái chung cái phù hợp với cái riêng rất phong phú, đa
dạng và phức tạp.
12
Từ sự phân tích trên, cơ thể đưa ra khái niệm: Áp dụng pháp luật là

hoạt động mang tính tổ chức quyền lực của nhà nước được thực hiện thông
qua những cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhà chức trách hoặc các tổ chức
xã hội khi được nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp
luật vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.1.2 Khái niệm vụ án dân sự
Các quan hệ xã hội rất đa dạng và phức tạp. Khi tham gia vào các
quan hệ xã hội các chủ thể phải thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của
mình theo quy định của pháp luật. Việc một chủ thể không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp
luật có thể sẽ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác,
dẫn đến tranh chấp. Khi có chủ thể yêu cầu bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của họ trong trường hợp có vi phạm hoặc có tranh chấp thì Tòa án
phải xem xét thụ lý giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Các vụ việc phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh thương mại và lao động do Tòa án giải quyết được gọi là vụ
việc dân sự. Trong đó, đối với những việc có tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên được gọi là vụ án dân sự.
Đặc trưng của vụ án dân sự là có tranh chấp giữa các bên tham gia quan
hệ dân sự, đó là sự không thống nhất việc thực hiện hay không thực hiện
quyền hoặc nghĩa vụ của một trong hai bên khi tham gia các quan hệ dân sự
trong cuộc sống thường là (mỗi bên có thể là một hoặc nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức), trong đó một bên yêu cầu Tòa án buộc bên kia phải thực hiện
một số nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh thương mại, lao động.
13
Trong vụ án dân sự đương sự ít nhất phải có hai bên nguyên đơn và bị
đơn, một số trường hợp có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến nguyên
đơn hoặc bị đơn hoặc có yêu cầu độc lập.
Để hiểu thêm về vụ án dân sự ta cần phân biệt những tranh chấp dân sự
thuần túy theo nghĩa hẹp và tranh chấp kinh doanh thương mại được quy định

trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Trong tranh chấp dân sự chủ thể của những tranh chấp này có thể bất cứ
là cá nhân, cơ quan, tổ chức nào tham gia vào các quan hệ dân sự trong đời
sống xã hội hàng ngày, khi các quan hệ đó không được thống nhất giải quyết
theo thỏa thuận hoặc bất đồng trong việc giải quyết hậu quả của một quan hệ
dân sự trong đời sống xã hội dẫn đến tranh chấp không giải quyết được và
một trong hai bên yêu cầu Tòa án giải quyết. Mục đích tham gia các quan hệ
dân sự của các chủ thể là tiêu dụng.
Còn trong tranh chấp kinh doanh thương mại; chủ thể là các thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Mục đích tham gia các quan hệ kinh doanh thương mại của các chủ thể là
lợi nhuận, qua hoạt động kinh doanh các thương nhân thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản suất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong đời sống xã hội chứa đựng nhiều các quan hệ đa chiều, phức tạp,
trong đó vấn đề quyền và lợi ích của các chủ thể là vấn đề quan trọng, là động
lực để các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy nhiên không phải chủ
thể nào khi tham gia các quan hệ xã hội cũng đảm bảo được sự chuẩn mực
hay nói cách khác là tuân thủ theo những quy tắc và quy định của pháp luật,
14
do đó dẫn đến những tranh chấp phát sinh, để duy trì trật tự xã hội, Nhà nước
thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Theo
đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức hay chủ thể khác (sau đây gọi chung là các
đương sự) có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền sử dụng các biện
pháp do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích đó như yêu cầu người có
hành vi trái pháp luật chấm dứt hành vi trái pháp luật, yêu cầu tòa án hoặc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Có nhiều lý do và nguyên nhân dẫn đến việc xảy ra các tranh chấp dân
sự mà các bên đương sự không tự mình giải quyết được, cần phải có sự can
thiệp của Tòa án. Khi có sự không đồng thuận giữa các bên đương sự về cách
thức giải quyết tranh chấp phát sinh thì một hoặc các bên đương sự không
muốn thực hiện đúng các quy phạm pháp luật dân sự quy định về các loại vụ
việc đó vì nếu như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Loại vi
phạm này thường xảy ra trong các tranh chấp mà các đương sự có sự hiểu biết
nhất định về pháp luật.
Khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự không phải chủ thể nào cũng
hiểu biết hết về các quy định của pháp luật dân sự, vì vậy họ thường hành xử
theo thói quen một cách bộc phát tự nhiên để bảo vệ lợi ích của mình mà
không biết đến việc làm của mình sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác.
Khi có tranh chấp xảy ra, các đương sự không tự mình giải quyết được
thì theo quy định của pháp luật, đương sự có quyền gửi đơn khởi kiện đến
Tòa án nhân dân có thẩm quyền để đề nghị giải quyết tranh chấp nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của
đương sự Tòa án sẽ xem xét nếu thấy đủ điều kiện thì sẽ cho thụ lý vụ án và
giải quyết theo trình tự của Luật Tố tụng dân sự quy định như thu thập tài liệu
chứng cứ liên quan đến vụ án, lựa chọn quy phạm pháp luật điều chỉnh để ra
15
bản án hoặc quyết định buộc các đương sự thi hành bằng các hình thức tự
nguyện hoặc có sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định của BLTTDS thì Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng
chủ yếu trong việc áp dụng pháp luật giải quyết các vụ án dân sự nói chung và
cơ quan thi hành án, riêng cơ quan Viện kiểm sát thì theo quy định của
BLTTDS năm 2004 có nhiều điểm mới; đó là Viện Kiểm sát chỉ có nhiệm vụ,
quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện
các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm
bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Như vậy cho

thấy Tòa án nhân dân là chủ thể chủ yếu trong việc giải quyết các vụ án
dân sự vì trong hầu hết các giai đoạn áp dụng pháp luật thì Tòa án đều trực
tiếp tiến hành mà không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của bất cứ chủ
thể nào khác.
Qua sự phân tích ở trên, có thể định nghĩa: Áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện là hoạt động
mang tính tổ chức, tính quyền lực Nhà nước, được thực hiện thông qua hoạt
động của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ở cấp sơ thẩm nhằm cá biệt hóa
những quy phạm pháp luật dân sự vào các tranh chấp dân sự cụ thể nhằm đảm
bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự góp phần làm ổn định trật tự
xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện là trình tự sơ thẩm, đây là lần xét xử đầu tiên, hầu hết các vụ
án dân sự đều được xét xử ở cấp huyện. Trước đây việc áp dụng pháp luật để
giải quyết các vụ án dân sự ở cấp sơ thẩm của Tòa án cấp huyện được thực
hiện theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, từ ngày
1.1.2005 trình tự giải quyết các vụ án dân sự được áp dụng theo Bộ Luật tố
tụng dân sự năm 2004.
16
1.1.3. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân
sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân
dân cấp huyện là sự biểu hiện của áp dụng pháp luật nói chung, nó mang đầy
đủ đặc điểm của áp dụng pháp luật. Tuy nhiên do tính chất phong phú, đa
dạng và phức tạp của các quan hệ pháp luật dân sự cùng với những quy định
về trình tự thủ tục giải quyết các vụ án dân sự của pháp luật tố tụng dân sự
trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án cho nên áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án dân sự có những đặc điểm riêng biệt khác.
1.1.3.1. Đặc điểm về thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của tòa
án nhân dân cấp huyện

Thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự của tòa án được quy định rất
cụ thể và rõ ràng tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, quy định về thẩm
quyền giải quyết của tòa án giúp cho việc giải quyết các vụ án dân sự của tòa
án được thuận lợi, tạo điều kiện cho đương sự cũng như đáp ứng được yêu
cầu theo quy định của pháp luật.
Điều 32 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và điều 33 của Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) quy định Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
+ Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam
+ Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản
+ Tranh chấp về hợp đồng dân sự
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ
trường hợp quy định tại khoản 2 điều 29 BLTTDS (tranh chấp về quyền sở
hữu trí tuệ chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau đều có mục
đích lợi nhuận)
+ Tranh chấp về thừa kế tài sản
17
+ Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy
định của pháp luật về đất đai
+ Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định
của pháp luật
Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình
+ Những tranh chấp về kinh doanh thương mại theo quy định tại khoản
1 điều 29 của BLTTDS
+ Những tranh chấp về lao động quy định tại khoản 1 Điều 31
của BLTTDS.
Như vậy, tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết sơ thẩm
tất cả các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại…việc
quy định về thẩm quyền giải quyết cho tòa án nhân dân cấp huyện giúp cho

việc phân cấp xét xử được rõ ràng hơn và nhằm đảm bảo được các yêu cầu
cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và việc giải quyết
vụ việc của tòa án được nhanh chóng, thuận tiện hơn.
1.1.3.2. Đặc điểm về nguyên tắc áp dụng luật, văn bản quy pháp
pháp luật để giải quyết vụ án dân sự của tòa án nhân dân cấp huyện
Hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án gồm cả hai việc: áp dụng pháp
luật nội dung để giải quyết vụ án và áp dụng pháp luật tố tụng. Pháp luật nội
dung để phân định quyền hạn và nghĩa vụ của đương sự, để giải quyết về mặt
nội dung còn áp dụng pháp luật tố tụng để xác định vị trí trách nhiệm của
thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án
Giai đoạn đầu tiên của quá trình áp dụng pháp luật trong giải quyết các
vụ án dân sự- giai đoạn thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, sau khi Tòa án nhận
đơn khởi kiện của đương sự nếu xét thấy đã có đủ điều kiện và căn cứ thì Tòa
án cho thụ lý vụ án và yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ chứng minh cho
18
yêu cầu khởi kiện của mình. Nếu như trước đây tại Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định thì việc điều tra, làm rõ các tình
tiết của vụ án là nhiệm vụ của Tòa án, Tòa án phải đi điều tra, thu thập chứng
cứ, các tình tiết liên quan đến vụ án, Tòa án là chủ thể trong hoạt động này thì
hiện nay theo quy định của BLTTDS, tại Điều 79 thì đương sự phải tự mình
đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ
và hợp pháp. Trong tố tụng hình sự, việc điều tra vụ án để chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan điều tra- cơ quan công an và Viện kiểm sát, sự khác
nhau giữa hoạt động điều tra tố tụng hình sự và trong tố tụng dân sự không
chỉ đơn thuần ở chủ thể hoạt động điều tra mà còn thể hiện ở nhiệm vụ điều
tra. Trong tố tụng hình sự nếu không có hoạt động điều tra thì hồ sơ vụ án sẽ
không được lập, do đó không có cơ sở để tiến hành hoạt động xét xử, còn
trong tố tụng dân sự, xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các
đương sự cũng như tính chất, đặc điểm của việc giải quyết các vụ án dân
sự, khi Tòa án thụ lý vụ án thì hồ sơ vụ án đã được lập, vì khi khởi kiện vụ

án theo quy định tại các Điều 161, 165 và Điều 166 của BLTTDS các
đương sự khởi kiện (nguyên đơn) phải có nghĩa vụ gửi kèm đơn khởi kiện
tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là hợp pháp
và có căn cứ.
Sau khi tiến hành các bước áp dụng pháp luật tố tụng để giải quyết vụ
án dân sự thì cơ quan Tòa án mà chủ thể là Hội đồng xét xử hoặc thẩm phán
đối chiếu các quy phạm pháp luật nội dung (cụ thể là Bộ luật dân sự hoặc các
luật chuyên ngành khác có liên quan như Luật đất đai, Luật thương mại…) để
giải quyết phân định quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ án.
Hoạt động áp dụng pháp luật nói chung được tiến hành theo ý chí
đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phụ thuộc vào
ý chí của chủ thể bị áp dụng, thì trong việc giải quyết các vụ án dân sự của
Tòa án lại không hoàn toàn như vậy, xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng và
19
quyền tự định đoạt của các đương sự, Tòa án với vai trò là chủ thể chính
của hoạt động áp dụng pháp luật, là “trọng tài” trong việc giải quyết các
tranh chấp giữa các bên đương sự, sau khi nhận đơn khởi kiện thụ lý vụ án
và thu thập đủ chứng cứ, hoàn thiện hồ sơ vụ án, Tòa án đã cơ bản nắm
được nội dung vụ án, những vấn để thuộc về nguyên nhân và điều kiện phát
sinh tranh chấp cũng như những vướng mắc trong tâm tư tình cảm của các
đương sự, nếu không có căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án thì
trước khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự tự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên cũng như giữ được mối quan hệ tốt cho các
đương sự.
Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của tòa án cần phải
tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây;
- Nguyên tắc chung - riêng: thực chất là mối quan hệ giữa BLDS và
các đạo luật chuyên ngành khác như Luật đất đai, Luật thương mại, Luật xây
dựng, Luật kinh doanh bất động sản… chẳng hạn trong một tranh chấp dân sự

liên quan đến nhà đất, ngoài việc áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự để
gải quyết thì Tòa án cần phải đối chiếu xem xét các quy phạm pháp luật được
quy định trong Luật đất đai để áp dụng giải quyết nhưng tranh chấp liên quan
đến đất đai mà pháp luật dân sự không quy định.
- Nguyên tắc trước - sau: đó là việc áp dụng pháp luật trong trường hợp
các văn bản cùng điều chỉnh về một quan hệ nhưng các văn bản đó được ban
hành ở các thời điểm khác nhau… ví dụ khi Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời
để thi hành BLDS cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Quốc hội ban hành
nghị quyết 45/2005/NQ-QH11 về việc thi hành BLDS có quy định: giao dịch
dân sự đang được thực hiện mà có nội dung khác với quy định của BLDS
hoặc giao dịch dân sự được thực hiện xong trước ngày BLDS có hiệu lực mà
20
có tranh chấp xảy ra thì áp dụng qui định của BLDS năm 1995 và các văn bản
pháp luật hướng dẫn áp dụng BLDS năm 1995 để giải quyết.
- Nguyên tắc trên - dưới: nghĩa là giá trị pháp lý của các văn bản pháp
luật khi áp dụng. Trong giải quyết các vụ án dân sự trước hết Tòa án phải áp
dụng các Bộ luật chung nhất là Bộ luật tố tụng dân sự và Bộ luật dân sự, sau
đó là các Nghị quyết hướng dẫn áp dụng pháp luật cụ thể của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết vào từng trường hợp cụ thể trong
từng vụ án.
- Nguyên tắc thỏa thuận - quy định: nguyên tắc này không được quy định
trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật bởi nếu trong phạm vi quan
hệ của một quốc gia thì không thể có sự thỏa thuận luật áp dụng song nếu các
quan hệ dân sự vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam thì phải xác định nguồn luật
điều chỉnh, trong trường hợp này các bên đương sự có thể tự thỏa thuận lựa
chọn luật áp dụng.
Ngoài ra, trong áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án dân sự của
Tòa án có một đặc điểm riêng biệt đó là áp dụng tập quán, quy định tương tự
của pháp luật, nguyên tắc này xuất phát từ tính chất đa dạng và phức tạp của
các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội, pháp luật không thể dự liệu được

hết các tình huống, trường hợp có thể phát sinh trong giao lưu dân sự, vì vậy
tại Điều 3 của Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 quy định “Trong trường hợp
pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì có thể áp dụng
tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật.
Tập quán và quy định tương tự của pháp luật không được trái với những
nguyên tắc quy định trong bộ luật này” [21, tr.8].
Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự của
Tòa án không chỉ tuân thủ và đối chiếu theo các quy định của luật hình
thức là Bộ luật tố tụng dân sự mà còn phải áp dụng các quy định của luật
21
nội dung để giải quyết các vụ án dân sự; đó là việc Tòa án đối chiếu căn cứ
vào các quy định cụ thể trong Bộ luật dân sự hoặc văn bản pháp luật liên
quan khác để áp dụng vào giải quyết trong từng tranh chấp cụ thể nhằm
phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Chẳng hạn khi giải
quyết một vụ án dân sự có quan hệ pháp luật tranh chấp là Hợp đồng vay
tài sản thì khi áp dụng luật nội dụng để phân định rõ quyền và nghĩa vụ cụ
thể của mỗi đương sự trong vụ án, Tòa án phải căn cứ vào những quy định
về Hợp đồng vay tài sản được quy định tại Mục 4 chương XVIII của Bộ
luật dân sự về Hợp đồng vay tài sản hoặc khi giải quyết tranh chấp đất đai
thì luật nội dung cần phải áp dụng tại các chương XXIX, XXX, XXXI,
XXXII, XXXIII của Bộ luật dân sự quy định về các vấn đề liên quan đến
đất đai, ngoài ra còn phải đối chiếu với các quy định về đất đai trong Luật
đất đai để giải quyết nội dung của vụ án.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN, NỘI DUNG VÀ CÁC YẾU TỐ ĐẢM BẢO ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA TOÀ ÁN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện
cũng là sự biểu hiện cụ thể của ADPL nói chung, tuy nhiên do đặc trưng của

của các quan hệ dân sự luôn là phức tạp và đa dạng và những quy định về thủ
tục tố tụng dân sự nên việc ADPL trong giải quyết các vụ án dân sự có những
giai đoạn sau:
Một là, phân tích các tình tiết khách quan của vụ án dân sự, làm rõ các
đặc trưng pháp lý của vụ án.
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn ADPL giải quyết các vụ
án dân sự của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án phải xác định loại vụ việc
thuộc thẩm quyền của Tòa án nào giải quyết, thuộc Tòa án cấp huyện hay cấp
22

×