Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông áp dụng cho lưu vực sông Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.69 MB, 49 trang )

Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC CÁC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
TT CHỮ VIẾT TẮT Ý NGHĨA
1 BVMT Bảo vệ môi trường
2 CLN Chất lượng nước
3 CNTT Công nghệ thông tin
4 CSDL Cơ sở dữ liệu
5 CSSX Cơ sở sản xuất
6 CQQL Cơ quan quản lý
7 GIS Geological Information System
8 HTQL Hệ thống quản lý
9 HTTT Hệ thống thông tin
10 HTS Hệ thống sông
11 KCN Khu công nghiệp
12 KDC Khu dân cư
13 LVS Lưu vực sông
14 LVHTS Lưu vực hệ thống sông
15 NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
16 QCVN Quy chuẩn Việt Nam
17 QLMT Quản lý môi trường
18 TCCP Tiêu chuẩn cho phép
19 TCMT Tiêu chuẩn môi trường
20 TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
21 TN&MT Tài nguyên và Môi trường
22 TNN Tài nguyên nước
23 TP Thành phố
24 TTMT Thông tin môi trường


DANH MỤC BẢNG
1
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
DANH MỤC HÌNH
2
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sông Đồng Nai bắt nguồn từ Cao nguyên Liăng Biăng (Lâm Đồng) chảy qua
vùng núi cao nguyên đến hồ Trị An, sau đó chảy ngang qua thành phố Biên Hoà, về
Tp.Hồ Chí Minh, đến ngã ba Mũi Đèn Đỏ và hợp lưu với sông Sài Gòn. Tổng diện tích
lưu vực tính đến cửa sông vào khoảng 38.600 km
2
, tổng chiều dài khoảng 437 km với
độ dốc trung bình của dòng sông là 0,42%. Sông Đồng Nai có các nhánh sông chính là
sông La Ngà và sông Bé. Đây là một trong những lưu vực hệ thống sông lớn của Việt
Nam và giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của của vùng Đông Nam
Bộ.
Theo kết quả phân tích gần đây nhất, hạ lưu sông Đồng Nai đoạn từ Nhà máy
nước Thiện Tân đến Long Đại đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu cơ và chất rắn lơ lửng vượt
từ 3 đến 9 lần giới hạn cho phép. Đáng chú ý là đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu
chuẩn TCVN 5942 - 1995 đối với nguồn loại A tại lưu vực này. Vùng hạ lưu sông Đồng
Nai cũng bị nhiễm mặn nghiêm trọng và không thể sử dụng cho mục đích cấp nước sinh
hoạt và tưới tiêu.
Các cơ quan chuyên môn cho rằng, nguyên nhân của tình trạng ô nhiễm là từ các
nguồn nước thải công nghiệp, khai thác khoáng sản, làng nghề, sinh hoạt, y tế, nông
nghiệp và nuôi trồng thủy sản, chất thải rắn…, trong đó nước thải sinh hoạt và nước thải
công nghiệp đóng góp tỷ lệ lớn nhất, với tải lượng các chất ô nhiễm rất cao. Các KCN

và KCX đóng góp một lượng lớn nước thải vào lưu vực sông, trong đó lớn nhất là của
Đồng Nai (chiếm 57,2%), TPHCM (23%) và Bình Dương (9%)… Tính đến nay, trên
lưu vực hệ thống sông Đồng Nai có khoảng trên 60 KCN, KCX đang hoạt động, tuy
nhiên chỉ có khoảng trên 1/3 trong số này có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn
lại đều xả trực tiếp ra sông. Tại Đồng Nai, hiện chỉ có 9/19 khu công nghiệp có nhà máy
xử lý nước thải tập trung.
Hệ thống sông Đồng Nai chảy qua 12 tỉnh thành, đến nay vẫn chưa thống nhất
được mục đích sử dụng và bảo vệ nguồn nước. Trong nhiều trường hợp, phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh này làm ảnh hưởng đến môi trường trong phạm vi của tỉnh kia. Đặc
biệt các tỉnh đầu nguồn như Lâm Đồng, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh,
Long An nếu gây ô nhiễm thì khu vực hạ lưu như TP.Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu,
Đồng Nai phải gánh chịu hậu quả.
Trong năm 2008, Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về quản lý lưu vực hệ thống
sông đã ra đời. Với Nghị định này, tài nguyên nước trong lưu vực sông sẽ được quản lý
theo nguyên tắc thống nhất, không chia cắt giữa các cấp hành chính, giữa thượng nguồn
và hạ nguồn; bảo đảm sự công bằng, hợp lý và bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi giữa
các tổ chức, cá nhân trong cùng lưu vực. Cũng trong năm này, Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 157/2008/QĐ-CP về việc thành lập Ủy ban BVMT LVHTS Đồng Nai
(gọi tắt là Ủy ban sông Đồng Nai) với chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động được quy
định cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, hoạt động của Ủy ban này vẫn chưa thực sự hiệu
quả. Có rất nhiều lý do cho vấn đề này, nhưng cốt lõi nhất vẫn là sự thiếu hụt một công
cụ quản lý phù hợp nhằm phục vụ cho công tác quản lý môi trường nói chung, quản lý
chất lượng nước nói riêng cho cơ quan này. Một công cụ quản lý mà trong đó có sự
tham gia với nhiều cấp độ khác nhau tùy theo chức năng, nhiệm vụ của tất cả các cơ
quan quản lý môi trường các cấp: Trung ương, cấp vùng, cấp địa phương và cả sự tham
gia của cộng đồng. Ngoài ra, công cụ này cũng nhằm đáp ứng một nhu cầu bức thiết
3
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
hiện nay trong quản lý môi trường nói chung và quản lý chất lượng nước nói riêng: đó

là sự chia sẻ, trao đổi thông tin, cơ sở dữ liệu giữa các địa phương, giữa các cơ quan
quản lý môi trường với nhau. Như vậy, hiệu quả của công tác quản lý chất lượng nước
sẽ tăng lên gấp nhiều lần.
Chính vì vậy, việc phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông Đồng Nai là
vấn đề vô cùng cấp thiết trong việc ra quyết định nhằm bảo vệ môi trường và làm giảm
tổng chi phí môi trường nói chung và tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên nói riêng của
lưu vực, tạo môi trường giao tiếp gần gũi, giúp cho cộng đồng dễ dàng tiếp cận và theo
dõi chất lượng nước, tăng mức độ xã hội hóa công tác bảo vệ chất lượng nước theo chủ
trương của nhà nước. Trên cơ sở đó, đề tài “Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia
lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp dụng cho lưu vực sông Đồng Nai” được đưa
ra, nhằm đề ra một hướng ứng dụng công nghệ mới phục vụ quản lý và chia sẻ thông tin
liên quan tới chất lượng nước cũng như tính toán về phần kinh tế được giảm thiểu đến
mức tối đa trong việc bảo vệ nguồn nước khi có sự cố xảy ra.
2. Mục tiêu của đề tài
Nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình MCCRB trong công tác quản lý và
phân chia tải lượng phát thải một cách phù hợp trong khai thác lưu vực sông Đồng Nai
để phát triển bền vững.
3. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn sẽ thực hiện những nội dung cơ bản sau:
- Tìm hiểu hiện trạng quản lý chất lượng nước trên lưu vực sông Đồng Nai.
- Tìm hiểu về điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn ba tỉnh
thuộc lưu vực sông Đồng Nai.
- Thu thập số liệu về mặt cắt, biên độ thủy lực, lưu lượng, tải lượng của sông
Đồng Nai.
- Khảo sát hiện trạng môi trường của các nhà máy, khu công nghiệp trên địa bàn
ba tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu khả năng ứng dụng mô hình MCCRB trong việc phân chia tải
lượng phát thải trong lưu vực sông Đồng Nai.
- Dùng mô hình Mike 11 để đánh giá chất lượng nước trên lưu vực sông dựa
theo mô hình phân chia tải lượng phát thải.

4. Phạm vi, giới hạn luận văn
Luận văn nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lưu vực hệ thống sông Đồng Nai
với tổng diện tích toàn lưu vực khoảng 44.612 km
2
, bao gồm toàn bộ địa giới hành
chánh của 3 tỉnh thành: Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM, các kết quả đề tài và số liệu
sử dụng được đưa ra trên cơ sở phạm vi, giới hạn như sau:
- Thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội được thu thập từ một số
địa phương đại diện trong lưu vực sông: Bình Dương, Đồng Nai, TP.HCM.
- Về ranh giới lưu vực sông Đồng Nai: Từ hồ Trị An đến ngã ba đèn đỏ.
- Về số liệu: Các số liệu trong để tài được sử dụng dựa trên kết quả quan trắc
chất lượng nước mặt, nước thải của các khu công nghiệp trên lưu vực sông Đồng
Nai của Chi Cục Bảo Vệ Môi Trường Tỉnh Đồng Nai, Viện Khoa học Thủy lợi
miền Nam, Viện Môi Trường và Tài Nguyên Tp.Hồ Chí Minh, đề tài KHCN07-
17 “Xây dựng một số cơ sở khoa học phục vụ cho việc quản lý thống nhất và
tổng hợp chất lượng môi trường nước lưu vực sông Đồng Nai” cơ quan thực
hiện: Trung tâm công nghệ môi trường (ENTEC).
4
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
5. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp tổng hợp tài liệu: Tổng hợp các tài liệu, số liệu đã có từ những đề tài
nghiên cứu ứng dụng thiết lập quy hoạch, khảo sát đánh giá hiện trạng, các báo cáo tổng
hợp v.v… đúc kết các thông tin tin cậy để tổng hợp ra những diễn biến của việc thay đổi
chất lượng nước trên lưu vực sông Đồng Nai do các tác động của nguồn thải gây ra.
 Phương pháp thống kê, xử lý số liệu, thống kê, so sánh
- Phương pháp xử lý số liệu: Nhập, xử lý các số liệu điều tra, các số liệu phân
tích bằng EXCEL, WORD. Nhập các kết quả thống kê được thực hiện trên các kết quả
phân tích mẫu và xử lý để đưa ra nhận định.
- Phương pháp thống kê: sử dụng trong phân tích, xử lý số liệu, truy vấn dữ liệu

trong đánh giá công tác quản lý môi trường.
- Phương pháp so sánh: Thu thập những thông tin liên quan và những quy định,
quy chuẩn hiện có của Nhà nước về quản lý môi trường để so sánh và phát hiện những
vấn đề còn thiếu sót hoặc chưa phù hợp.
 Phương pháp mô hình hoá
- Ứng dụng mô hình MCCRB để tính toán việc phân chia tải lượng phát thải một
cách phù hợp trong khai thác lưu vực sông Đồng Nai để phát triển bền vững.
- Sử dụng mô hình MIKE 11 để đánh giá chất lượng nước theo mô hình phân
chia tải lượng phát thải.
 Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã
tham khảo ý kiến của các chuyên gia tại phòng Tin học – Môi trường, Viện Môi trường
và Tài nguyên TP.HCM, các chuyên gia về quản lý chất lượng nước, về mô hình cũng
như từ các nhà quản lý tại các đơn vị có liên quan. Trong đó, tiêu biểu là các đề tài khoa
học cấp nhà nước và cấp bộ.
5
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Vị trí địa lí
 Đồng Nai
Hình 1 Bản đồ quy hoạch tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng địa lý - kinh tế Đông Nam bộ (gồm 8 tỉnh, thành
Đông Nam bộ) và tham gia vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gồm 8 tỉnh, thành
Đông và Tây Nam bộ) là vùng kinh tế động lực trọng điểm quan trọng nhất của cả nước.
- Tọa độ vị trí địa lý của tỉnh đồng Nai: từ 10
o
31’17” đến 11
o
34’49” vĩ độ Bắc và

từ 106
o
44’45” đến 107
o
34’50” kinh độ Đông. Tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất trong
vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (590.215,47 ha) và có các tiếp giáp ranh giới cụ thể
bao gồm:
+ Phía Đông giáp với tỉnh Bình Thuận.
+ Phía Đông Bắc giáp với tỉnh Lâm Đồng.
+ Phía Tây Bắc giáp với các tỉnh Bình Dương và Bình Phước.
6
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
+ Phía Tây giáp với thành phố Hồ Chí Minh.
+ Phía Nam giáp với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường sắt phát triển như: Quốc
lộ 1A, 20, 51 và đường sắt Bắc - Nam; có sân bay quân sự Biên Hòa rộng 40
km2 và đã quy hoạch xây dựng sân bay Quốc tế Long Thành rộng 50 km
2
, đồng
thời có hệ thống giao thông đường thủy quan trọng như: sông Đồng Nai, Đồng
Tranh và Thị Vải, tạo nên nhiều lợi thế giao lưu kinh tế - văn hóa với các tỉnh,
thành khác trong phạm vi cả nước.
- Tỉnh là một địa bàn trọng yếu về kinh tế, chính trị và an ninh - quốc phòng, có
vị trí rất quan trọng trong sự phát triển của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và sự
thật tỉnh đã sớm tận dụng được một số lợi thế so sánh của vùng trong công cuộc đổi mới
kinh tế hiện nay để đạt được những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội rất đáng kể
trong thời kỳ 1995 - 2005.
 Bình Dương
Bình Dương là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, phía bắc giáp Bình Phước,

phía nam và tây nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía tây giáp Tây Ninh, phía
đông giáp Đồng Nai. Tỉnh lỵ của Bình Dương hiện nay là thị xã Thủ Dầu Một,
cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km.
7
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
:
Hình 1 Bản đồ quy hoạch tỉnh Bình Dương
- Tọa độ địa lý: vĩ độ Bắc: 110°52' - 120°18', kinh độ Đông: 106°45' -
107°67'30".
- Diện tích tự nhiên 2.681,01km
2
(chiếm 0,83% diện tích cả nước và xếp thứ
42/64 về diện tích tự nhiên).
Trên địa bàn Bình Dương có nhiều sông lớn chảy qua, nhưng quan trọng
nhất là sông Sài Gòn và sông Đồng Nai. Sông Đồng Nai là một trong những sông
lớn của Việt Nam, có tổng chiều dài 450 km, trong đó chảy qua Bình Dương 84
km.
 TP.HCM
8
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
Hình 1 Bản đồ quy hoạch Tp.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh có tọa độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' –
106°54' Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh,
Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Nằm ở miền Nam Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành
phố cách cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của
khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan

trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng
và còn là một cửa ngõ quốc tế.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông
Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây.
Vùng cao nằm ở phía Bắc - Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến
25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở
quận 9. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành
phố, có độ cao trung bình trên dưới 1 mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực
trung tâm, một phần các quận Thủ Đức, quận 2, toàn bộ huyện Hóc Môn và quận
12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét.
1.2. Điều kiện tự nhiên
 Đồng Nai
Địa hình đặc trưng của tỉnh là kiểu núi thấp và bán bình nguyên, có bề mặt
nghiêng thoải từ Tây Bắc xuống Tây Nam (tức là nghiêng về phía lòng sông
9
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
Đồng Nai). Có thể phân chia các mức địa hình theo độ cao tuyệt đối như sau
(theo chiều giảm dần của độ cao tuyệt đối):
- Mức cao 837 - 400 m: Địa hình đặc trưng bởi những núi đẳng thước, độc lập
cách xa nhau như núi Chứa Chan (837m), núi Sóc Lu (418m), núi Suối Râm (444m) và
núi Mây Tào chung với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (708m).
- Mức cao 300 - 100 m: Tương đối phổ biến trên địa bàn tỉnh, phân bố rải rác từ
Bắc xuống Nam dài gần 100 km không liên tục. Dải địa hình này có đặc điểm có nơi
dạng vòm (vùng rừng Cát Tiên - Tân Phú). Đường kính vòm rộng 25-30 km nằm giữa
hai lưu vực sông Mã Đà (thượng nguồn sông Bé) và sông Đồng Nai. Đỉnh vòm cao 372
m là nơi hội tụ của nhiều đầu nguồn suối kiểu tỏa tia đặc trưng. Về phía Nam (của hồ
Trị An) dải núi tựa như một nóc nhà khổng lồ chia nước cho hai phía Đông và Tây
thuộc lưu vực sông Đồng Nai và sông La Ngà. Mức chia cắt sâu, chia cắt ngang từ 50 -
100 m. Vùng ít lộ đá gốc, lớp vỏ khá dày.

- Mức cao 100-50 m: Khu lòng hồ Trị An, dọc thung lũng sông La Ngà, vùng
Cây Gáo, Trảng Bom, Vùng được cấu thành từ các thành tạo Kainozoi là chủ yếu
- Mức cao 50 m trở xuống: Là địa hình đồng bằng, thung lũng các sông Đồng
Nai, Thị Vải ở phía Tây Nam tỉnh giáp vùng Cần Giờ (Tp.Hồ Chí Minh). Đây là vùng
đất nông nghiệp quan trọng và nuôi trồng thủy sản.
Tỉnh có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo với hai mùa mưa và mùa
khô khác biệt. Có thể tóm tắt tình hình diễn biễn chế độ khí hậu tại tỉnh như sau:
- Diễn biến nhiệt độ trung bình: Trong 5 năm gần đây nhiệt độ trung bình năm
tại tỉnh vẫn có xu hướng tăng từ 0,1 - 0,3
o
C/năm (tổng giá trị tăng là 0,4
o
C/5 năm), trong
đó riêng tại khu vực thành phố Biên Hòa có mức tăng cao nhất tới 0,7
o
C. Tháng 01 có
nhiệt độ thấp nhất: 24,3 - 26,6
o
C, rồi tăng nhanh đến tháng 4 đạt mức cao nhất: 28,5 -
29,7
o
C (trừ tại La Ngà muộn và sớm hơn 1 tháng, là tháng 2, 3).
 Bình Dương
Là một tỉnh ở miền Đông Nam Bộ, phía bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía
nam giáp Tp. Hồ Chí Minh, phía đông giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây giáp tỉnh Tây
Ninh.
Tỉnh Bình Dương có các vùng đất đỏ trồng cao su và cà phê, vùng đất
xám, nơi có đồng cỏ chăn nuôi và trồng hoa màu; vùng đồng bằng sông bồi, nơi
có nhiều ruộng lúa, vườn cây ăn trái như Lái Thiêu, nổi tiếng với các loại: sầu
riêng, măng cụt, chôm chôm, mít tố nữ

Có các con sông lớn chảy qua địa phận tỉnh là: sông Đồng Nai, sông Sài
Gòn và sông Bé với nhiều kênh rạch, sông con, cung cấp nước tưới cho đồng
ruộng và tạo điều kiện cho ghe thuyền đi lại thuận tiện.
Khí hậu: Có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau,
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10. Nhiệt độ trung bình năm 27ºC.
 TP.HCM
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, Thành phố Hồ Chí Mình
có nhiệt độ cao đều trong năm và hai mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt
đầu từ tháng 5 tới tháng 11, còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Lượng
mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao
nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958.
10
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa
Tây – Tây Nam và Bắc – Ðông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung
bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Bắc – Ðông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4
m/s, vào mùa khô. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão.
Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa, 80%, và
xuống thấp vào mùa không, 74,5%. Trung bình, độ ẩm không khí đạt bình quân/năm
79,5%.
1.3. Kinh tế - xã hội
 Đồng Nai
Kinh tế Đồng Nai giai đoạn 2005 - 2010 đạt tốc độ tăng trưởng cao, ổn định và
khá bền vững; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng, thúc đẩy nhanh tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục đạt nhịp độ tăng trưởng cao. Một số ngành công
nghiệp chủ lực, công nghiệp có lợi thế so sánh phát triển nhanh; công nghiệp cơ khí
phục vụ nông nghiệp được đầu tư đúng mức, phục vụ đắc lực cho yêu cầu công nghiệp
hóa nông nghiệp, nông thôn; bước đầu phát triển được một số ngành công nghiệp kỹ

thuật cao.
Việc huy động các nguồn lực cho phát triển có tiến bộ, công tác đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng, quy hoạch đô thị, quy hoạch các khu dân cư tập trung được chú trọng,
tạo chuyển biến mới về bộ mặt thành thị và nông thôn, đặc biệt là về kiến trúc đô thị.
Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh 5 năm qua đạt trên 46 ngàn tỷ đồng, gấp 2,4 lần thời
kỳ 1996 - 2000 (vượt mục tiêu Nghị quyết), trong đó vốn đầu tư trong nước chiếm
47,6%, tăng gấp 3,3 lần. Cơ cấu đầu tư được triển khai đúng định hướng, tập trung xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hoàn thành cơ bản chương trình đầu tư cơ sở hạ
tầng chủ yếu ở các xã đặc biệt khó khăn, tăng đầu tư phát triển công nghiệp, đầu tư
chiều sâu, đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp.
 Bình Dương
Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu
hút đầu tư nước ngoài. Gồm có 13 khu công nghiệp đang hoạt động, trong đó
nhiều khu công nghiệp đã cho thuê gần hết diện tích như Sóng Thần II, Đồng An,
Tân Đông Hiệp A, Việt Hương, Sóng Thần 1.Các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với
tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỉ
đồng. Nhằm tăng sự thu hút đầu tư; hiện nay địa phương này đang tập trung hoàn
thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới
để phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh (Mỹ Phước 1,2,3; 6 khu
công nghiệp trong Khu liên hợp công nghiệp-dịch vụ-đô thị Bình Dương, Tân
Uyên).
 Mục tiêu kinh tế xã hội của Bình Dương thời kỳ 2006 -2010
Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VIII năm 2006 đã nêu mục
tiêu phấn đấu thời kỳ 2006-2010 về kinh tế-xã hội của tỉnh như sau:
- Tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm là 15%.
- Quy mô GDP (giá hiện hành) đến năm 2010 đạt khoảng 45.800 tỷ đồng, tương
đương 2,9 tỷ Đôla Mỹ. -GDP bình quân đầu người đạt khoảng 30 triệu đồng.
11
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp

dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
- Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp: 65,5%; dịch vụ: 30%; nông nghiệp:
4,5%.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng bình quân 14-15%/năm.
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cả thời kỳ đạt 3 tỷ USD.
- 90% trường trung học phổ thông, tiểu học đạt chuẩn quốc gia.
- Phổ cập giáo dục bậc trung học. -95% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Tỷ lệ hộ nghèo còn 2,5% (theo chuẩn mới của tỉnh 400.000 đồng/người/tháng
đối với nông thôn và 500.000 đồng/người/tháng đối với thành thị). Theo mục tiêu phấn
đấu đến năm 2020, để nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
thì nông nghiệp giảm xuống còn 15-16%, công nghiệp và xây dựng 43-44%, dịch vụ
40-41%. Với tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở mức cao như hiện nay là
35%/năm (2001-2005) thì Bình Dương sẽ là một trong những tỉnh về đích trước và sớm
trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.
 TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành phố
chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng sản
phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005,
Thành phố Hồ Chí Minh có 4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi
lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người
ở thành phố đạt 2.100 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 730
USD/năm vào 2006.
Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ,
thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính Cơ cấu
kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%,
phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm
tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông
nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%.
Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều
khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại.

Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành
hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo
máy có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố
lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp cũng gây
khó khăn cho nền kinh tế. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh
vực cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn.
1.4. Hiện trạng môi trường và thông tin chất lượng nước lưu
vực sông Đồng Nai
1.4.1. Tổng quan lưu vực hệ thống sông Đồng Nai
Sông Đồng Nai có dòng chính dài 470 km và có diện tích lưu vực tính đến thác
Trị An là 14.800 km2. Toàn bộ lưu vực có 266 sông suối với chiều dài từ 10 km trở lên.
Lưu vực đổ nước ra biển tại 2 cửa chính là vịnh Gành Rái và cửa Soài Rạp. Tổng lượng
dòng chảy hàng năm LVHTS Đồng Nai (sau đây gọi tắt là LVS Đồng Nai) khoảng 36,6
tỷ m
3
trong đó có khoảng 32 tỷ m
3
phát sinh trong lãnh thổ (chiếm 89 % tổng lượng
nước trong lưu vực).
Lưu vực sông Đồng Nai có khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân hóa theo 2 mùa rõ
rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 chiếm khoảng
85% tổng lượng mưa cả năm. Lưu vực có rất nhiều đập và công trình điều tiết với 2 hồ
12
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
chứa lớn là hồ Trị An (phát điện); hồ Dầu Tiếng (hồ thủy lợi). Trên LVHTS Đồng Nai,
lượng mưa trung bình nhiều năm vào khoảng 2100 mm, tương ứng với khối lượng nước
mưa khoảng 84 tỷ m3. Lượng nước này, ngoài phần tổn thất do bốc hơi, sẽ là nguồn
cung cấp cho nước ngầm và hình thành dòng chảy bề mặt của các sông suối.
Đoạn sông Đồng Nai từ sau hồ Trị An đến Ngã ba Đèn Đỏ có vai trò quan trọng

với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đoạn sông này
có chức năng cấp nước sạch đồng thời tiếp nhận nước thải của Tp.Hồ Chí Minh,
Tp.Biên Hòa, các KCN, vùng sản xuất nông nghiệp của tỉnh Đồng Nai, Tp.Hồ Chí
Minh, Bình Dương. Tuy nhiên nguồn tài nguyên nước có ý nghĩa sống còn này đang ở
mức nguy hiểm về chất lượng và khả năng cung cấp nước sạch. Để duy trì nguồn tài
nguyên nước quý giá này cần phải có biện pháp quản lý, bảo vệ mà bước đầu tiên là
phải phân đoạn quản lý theo các mục tiêu thích hợp nhất cho hiện tại và trong tương lai.
Nhìn chung, tài nguyên nước mặt ở LVHTS Đồng Nai tương đối khá. Tuy
nhiên, điều kiện tự nhiên không cho phép để có thể điều chỉnh lại dòng chảy cho
phù hợp với nhu cầu sinh hoạt và phát triển KTXH đối với toàn bộ vùng lãnh thổ
LVHTS Đồng Nai với lượng nước hàng năm 24,3 tỷ m
3
.
1.4.2. Diễn biến chất lượng nước sông Đồng Nai những năm gần đây
Sông Đồng Nai có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh Đồng Nai, là nguồn nước cấp cho sinh hoạt của tỉnh Đồng Nai, Bình
Dương và thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, sông Đồng Nai không chỉ là nguồn tiếp
nhận lượng chất thải từ các đô thị và khu công nghiệp trong tỉnh, mà còn tiếp nhận một
lượng chất thải khá lớn từ một số tỉnh, thành lân cận. Vì vậy, sông Đồng Nai đã được
quan trắc tác động thường xuyên nhằm theo dõi diễn biến nhạy cảm trong chất lượng
của nguồn nước sinh hoạt quan trọng này.
Bảng 1 Diễn biến chất lượng nước sông Đồng Nai trong giai đoạn 2005-2009
Thông số Giá trị 2005 2006 2007 2008 2009
TCVN
5942 – 1995
(cột A)
Số lượng mẫu xử
lý :
606 654 1.206 822 363
pH TB 7,2 7,0 7,1 7,0 6,6 6,0 – 8,5

DO TB 5,8 5,9 5,8 5,5 5,6 ≥ 6
BOD
5
TB 4,3 4,5 3,8 4,0 4,4 < 4
SS TB 35 48 37 27 12 20
NH
3
-N TB 0,4 2,1 5,5 0,4 0,6 0,05
Coliform TB 13.543 10.404 17.921 19.058 12.800 5.000
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2005-2009)
So sánh kết quả quan trắc môi trường với TCVN 5942 - 1995 (cột A) cho nhận
xét sau: Trong cả 5 năm chất lượng nguồn nước sông Đồng Nai hoàn toàn không đạt ở
các chỉ thị NH3-N và coliform (vượt 2 - 110 lần); chỉ thị SS nhìn chung không đạt tiêu
chuẩn, song có xu hướng giảm dần và đạt tiêu chuẩn vào mùa khô năm 2005; các
chỉ thị DO, BOD cơ bản chấp nhận được; chỉ thị pH đều đạt tiêu chuẩn cho
phép.
13
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
 Diễn biến chất lượng nước từ hồ Trị An đến Ngã ba Đèn Đỏ
Đoạn sông Đồng Nai từ sau hồ Trị An đến Ngã ba Đèn Đỏ có độ dài 90km, chảy
ngang qua tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và Tp.HCM. Đoạn sông này có nhiều đặc trưng
quan trọng: không có các điểm hợp lưu lớn, là nguồn cung cấp nước sạch, chịu ảnh
hưởng của triều, mặn, là nơi tiếp nhận nước thải sinh hoạt, sản xuất với số lượng lớn của
Tp.HCM, Tp.Biên Hòa. Dựa theo các đặc trưng trên có thể chia đoạn sông ra 3 đoạn
nhỏ. Trong đoạn sông Đồng Nai từ hồ Trị An đến cầu Đồng Nai hiện đang có trạm bơm
nước của nhà máy nước Thủ Đức (TP. Hồ Chí Minh) và nhà máy nước Biên Hòa (tỉnh
Đồng Nai), tổng lượng nước đang khai thác đạt 700.000m
3
/ngày đêm. Theo quy hoạch,

đến năm 2005 sẽ có thêm nhà máy nước Thiện Tân thuộc tỉnh Đồng Nai (200.000
m
3
/ngày.đêm); nhà máy nước Bình An thuộc tỉnh Bình Dương (100.000 m
3
/ngày.đêm).
Lượng nước khai thác trên sông Đồng Nai vào năm 2005 tối thiểu là 1.000.000
m
3
/ngày.đêm. Với vai trò là nguồn cung cấp nước sạch cho sinh hoạt, nước sông Đồng
Nai được bảo vệ để đạt loại A của TCVN về chất lượng nước mặt. Nồng độ các thông số
ô nhiễm của nước sông Đồng Nai được quan trắc hàng tháng. Kết quả của hệ thống
quan trắc chất lượng nước sông Đồng Nai (Cục Môi trường và Sở KHCN & MT tỉnh
Đồng Nai) cũng như các khảo sát của các cơ quan khoa học trong những năm gần đây
cho thấy chất lượng nước sông Đồng Nai (đoạn sông từ sau hồ Trị An đến điểm hợp lưu
của sông Đồng Nai và sông Sài Gòn) đã xuất hiện dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ. Nguyên
nhân chính là nước thải sinh hoạt, công nghiệp từ các khu vực đô thị, khu công
nghiệp… nằm ven sông
Bảng 1 Diễn biến chất lượng nước hồ Trị An trong giai đoạn 2005-2009
Thông số Giá trị 2005 2006 2007 2008 2009 TCVN
5942-1995
(cột A)
Tổng số mẫu: 66 66 66 66 108
pH TB 7,3 7,0 7,4 6,8 7,1 6,0 – 8,5
DO TB 6,3 6,6 6,7 5,8 6,6 ≥ 6
BOD
5
TB 4 3 2 4 7 < 4
SS TB 27 23 24 17 36 20
NH

3
-N TB 0,3 0,7 0,3 0,6 0,6 0,05
Coliform TB 40 1.138 982 518 1.958 5.000
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2005 – 2009)
Trải rộng trên địa bàn nhiều tỉnh, sông Đồng Nai chịu ảnh hưởng mạnh của
nhiều nguồn tác động trên toàn lưu vực. Phần hạ lưu của nhiều sông trong lưu vực đã bị
ô nhiễm nghiêm trọng, trong đó, có đoạn đã trở thành sông "chết". Sông Đồng Nai có
nhiều đoạn đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, đặc biệt là vùng hạ lưu nước sông Đồng Nai,
đoạn từ nhà máy nước Thiện Tân đến Long Đại - Đồng Nai đã bắt đầu ô nhiễm chất hữu
cơ và chất rắn lơ lửng, đáng chú ý là đã phát hiện hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn TCVN
5942-1995 đối với nguồn loại A. Trong đoạn sông này, chất rắn lơ lửng thường vượt
tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần, giá trị COD vượt từ 1,8 - 2,8 lần, giá trị DO thấp dưới giới hạn
cho phép.
Trên đoạn sông từ khu vực trạm bơm cấp nước Hóa An đến trạm Cát Lái, qua
địa bàn Tp.HCM cho thấy CLN tương đối ổn định từ năm 2001 đến nay; hàm lượng
BOD5 dao động trong khoảng 2 mg/l, đạt tiêu chuẩn CLN mặt dùng làm nguồn cấp
14
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
nước sinh hoạt. Hàm lượng dầu dao động từ 0,025 đến 0,029 mg/l, trong khi TCVN quy
định không cho phép dầu hiện diện trong nguồn nước dùng làm nguồn cấp nước sinh
hoạt. Ô nhiễm vi sinh ở mức cao tại các khu vực Hóa An và Cát Lái, nhưng đã có chiều
hướng giảm trong vài năm gần đây CLN sông của khu vực hạ lưu: Giá trị DO giảm
xuống rất thấp, SS vượt từ 2- 2,5 lần TCVN 5942 - 1995 (loại B). Vùng này cũng đã bị
nhiễm mặn nghiêm trọng, nước sông ở khu vực này không thể sử dụng cho mục đích
cấp nước sinh hoạt và tưới tiêu.
Hình 1 Bản đồ khu vực nghiên cứu từ hồ Trị An đến ngã ba đèn đỏ
1.5. Nguồn tác động đến CLN LVHTS Đồng Nai
Hiện nay, LVHTS Đồng Nai đang chịu áp lực mạnh mẽ của gia tăng dân số, đô
thị hóa và phát triển kinh tế, đặc biệt là các tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam. Ngoài ra, CLN còn chịu tác động mạnh bởi hoạt động phát triển thủy điện - thủy
lợi, việc sử dụng ngày càng nhiều phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật trong
nông nghiệp, hoạt động khai thác khoáng sản, phát triển giao thông vận tải thủy Trong
số các nguồn thải có lưu lượng thải lớn, nước thải công nghiệp và sinh hoạt đóng góp tỷ
lệ lớn nhất, với tải lượng các chất ô nhiễm rất cao.
[1].
1. 5.1. Hoạt động của các KCN và KCX
Tính đến nay, trên lưu vực có khoảng hơn 70 KCN và KCX đang hoạt động,
trong số đó chỉ có 21 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung, còn lại đều xả trực
tiếp vào nguồn nước, gây tác động lớn đến CLN của các nguồn tiếp nhận, chủ yếu là
15
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
khu vực trung lưu và hạ lưu sông Đồng Nai (KCN của Đồng Nai, Bình Dương), sông
Sài Gòn (KCN của TP.HCM, Bình Dương) và sông Thị Vải (KCN, cảng nước sâu của
Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu). Cùng với lượng lớn nước thải sinh hoạt, nước thải từ
các KCN và các CSSX công nghiệp phân tán đã gây ô nhiễm nghiêm trọng khu vực hạ
lưu sông Đồng Nai, sông Sài Gòn.
Bảng 1 Các khu công nghiệp trên địa bàn ba tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương,
Tp.HCM
KCN Huyện Tỉnh Diện tích
Biên Hòa 1 Biên Hòa Đồng Nai 335 ha
Biên Hòa 2 Biên Hòa Đồng Nai 376 ha
Amata Biên Hòa Đồng Nai 361 ha
Hố Nai Trảng Bom Đồng Nai 225,71 ha
Sông Mây Trảng Bom Đồng Nai 255,4ha
Loteco Biên Hòa Đồng Nai 100 ha
Bầu Xéo Trảng Bom Đồng Nai 499,87 ha
Nam Tân Uyên Tân Uyên Bình Dương 330,5 ha
Linh Trung Q.Thủ Đức Tp.HCM 326,37 ha

Cát Lái II Q.2 Tp.HCM 111,7 ha
An Phước Long Thành Đồng Nai 130 ha
Tam Phước Long Thành Đồng Nai 323,18 ha
Ông Kèo Nhơn Trạch Đồng Nai 800 ha.
Định Quán Định Quán Đồng Nai
54 ha
Thạnh Phú Vĩnh Cửu Đồng Nai 177 ha
(Nguồn: Chi cục bảo vệ môi trường)
1. 5.2. Nước thải công nghiệp
Theo thống kê đến hết năm 2007, trên LVS có khoảng hơn 10.000 doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp (riêng TP. HCM chiếm hơn 60%). Trong số đó, có rất nhiều cơ sở
sản xuất phân tán, nằm xen kẽ trong các khu dân cư, do đó công tác quản lý, kiểm soát
nguồn và lượng thải thường rất khó khăn.
Xét về tổng lượng nước thải, bình quân một ngày, LVS tiếp nhận khoảng
480.000 m
3
nước thải từ các KCN và các CSSX công nghiệp phân tán trên lưu vực. Các
KCN và KCX tập trung đóng góp một lượng lớn nước thải khoảng 120.000 m
3
/ngày)
vào LVS. Trong đó, lớn nhất là nước thải từ các KCN và KCX của Đồng Nai (57,2%),
tiếp đó là TP. HCM (23%) và Bình Dương (9%).
16
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
Hình 1 Tỉ lệ lưu lượng nước thải từ các KCN tập trung của một số Tỉnh/TP trong
LVHTS Đồng Nai
(Nguồn: Viện Môi trường và Tài nguyên, 2006)
1.5.3. Hoạt động khai thác khoáng sản
Hiện nay, hoạt động khai thác khoáng sản phát triển tương đối mạnh trong

lưu vực. Nhóm khoáng sản kim loại tập trung chủ yếu ở khu vực thượng lưu
(Lâm Đồng, Đồng Nai), nhóm khoáng sản phi kim (cát, đá, đất sét ) tập trung ở
vùng hạ lưu (Bình Dương, TP.HCM, Đồng Nai, Long An). Các hoạt động này
đang là một nguyên nhân gây ảnh hưởng đến CLN mặt (trong đó có ô nhiễm kim
loại nặng).
Khai thác quặng Bôxit (Lâm Đồng - thượng nguồn sông Đồng Nai) và
khai thác vàng (khoảng 50 điểm quặng và mỏ vàng tập trung ở phía bắc tỉnh
Đồng Nai, Lâm Đồng và một phần phía nam tỉnh Đắk Nông): chủ yếu là hoạt
động khai thác lộ thiên, phương tiện khai thác rất thủ công. Hoạt động khai thác
sử dụng đến hàng trăm nghìn m
3
nước; việc đào bới, rửa xói từ hàng chục đến
trăm nghìn tấn đất, thải ra sông suối cũng đã làm suy giảm mạnh mẽ CLN sông
Đồng Nai.
1. 5.4. Nước thải sinh hoạt
Hiện nay, trên toàn lưu vực có hơn 77 khu đô thị với dân số khoảng trên 15 triệu
người. Các khu đô thị phân bố không đồng đều, tập trung nhiều nhất trên sông Sài Gòn.
Khu vực từ trung tâm TP.HCM đến Thị xã Thủ Dầu Một tập trung khoảng gần 8 triệu
dân. Tốc độ đô thị hóa nhanh, trong khi đó hạ tầng kỹ thuật đô thị phát triển không
tương xứng, làm gia tăng ô nhiễm do nước thải sinh hoạt.
Các khu đô thị hàng ngày thải vào LVHTS Đồng Nai trung bình khoảng 992.000
m
3
nước thải sinh hoạt. Tất cả các đô thị trên LVS đều chưa có hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt. Đây là nguồn thải lớn, gây suy giảm CLN tại lưu vực, đặc biệt là ô nhiễm hữu
cơ và vi si nh.
Bảng 1 Các khu dân cư trên lưu vực sông Đồng Nai
Địa phương Tỉnh Dân số năm 1999
Tân Uyên Bình Dương 115104
17

Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
TP.Biên Hòa Đồng Nai 470528
Nhơn Trạch Đồng Nai 115874
Thống Nhất Đồng Nai 303883
Long Khánh Đồng Nai 225916
Quận 2 Tp.HCM 102543
Quận 9 Tp.HCM 149333
Thủ Đức Tp.HCM 210605
Tổng cộng: 1693786
(Nguồn: Đề tài KHCN 07-17 năm 1999)
Trong LVS, TP.HCM đóng góp lượng nước thải sinh hoạt lớn nhất (77,5%). Hạ
lưu sông Sài Gòn, đoạn chảy qua trung tâm TP, nước sông bị ô nhiễm nghiêm trọng do
đây là khu vực tiếp nhận lượng nước thải sinh hoạt lớn nhất. Đồng Nai là địa phương
đóng góp lượng nước thải sinh hoạt lớn thứ 2 trong lưu vực. Hạ lưu sông Đồng Nai là
nơi tiếp nhận chủ yếu lượng thải này, đặc biệt đoạn sông qua TP Biên Hòa (tiếp nhận
87% tổng lượng nước thải sinh hoạt của tỉnh) nên môi trường nước bị ô nhiễm hữu cơ
nặng.
1.5.5. Nước thải y tế
Hầu hết các bệnh viện và trung tâm y tế trong LVS đều chưa có hệ thống xử lý
nước thải hoặc đã có nhưng xử lý chưa triệt để.
Theo thống kê toàn lưu vực có trên 100 bệnh viện và trung tâm y tế với tổng
lượng nước thải khoảng 17.000 m
3
/ngày. Trong đó có khoảng 13.000 m
3
/ngày đã được
xử lý (chiếm 78% tổng lượng nước thải). Tuy nhiên, tỷ lệ nước thải bệnh viện được xử
lý đạt TCVN 6772 - 2000 mới chỉ chiếm 26% so với tổng lượng thải.
Lượng nước thải này hầu hết được thải trực tiếp vào hệ thống tiếp nhận nước

thải sinh hoạt và được đưa vào nguồn nước mặt trong LVS. Đây là nguồn tiềm ẩn nguy
cơ lan truyền dịch bệnh qua môi trường nước.
1.5.6. Hoạt động nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản
 Trồng trọt
LVHTS Đồng Nai hiện có khoảng 1,8 triệu ha đất nông nghiệp (chiếm 48,7%
diện tích toàn lưu vực). Hoạt động canh tác này cũng đã gây ảnh hưởng xấu đến CLN
do việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật không đúng quy cách.
Việc khai thác và cải tạo đất phèn trên một số vùng như Long An, Củ Chi, Bình
Chánh (TP.HCM), cộng với việc sử dụng phân bón có đặc tính chua làm gia tăng mức
độ axít hóa nước sông Sài Gòn và Vàm Cỏ Đông.
 Chăn nuôi
Lâm Đồng, Bình Thuận và Đồng Nai là những khu vực có hoạt động chăn nuôi
phát triển rất mạnh trong lưu vực. Tổng lượng nước thải từ hoạt động chăn nuôi trên
toàn LVS là khoảng 147.300 m
3
/ngày. Hầu hết lượng nước thải này đều được đổ trực
tiếp xuống các nguồn nước mặt mà không qua xử lý.
 Nuôi trồng thuỷ sản
Hiện nay, nuôi trồng thủy sản nước ngọt phát triển rộng trên toàn lưu vực (nuôi
cá bè, nuôi trong ao hồ, hồ chứa nước ). Tổng diện tích nước mặt nuôi trồng thủy sản
của các địa phương trên toàn lưu vực khoảng 71.800 ha, sản lượng nuôi đạt xấp xỉ
500.000 tấn/năm. Nước thải và chất thải từ hoạt động nuôi trồng thuỷ sản thường không
được kiểm soát, không qua xử lý mà thải trực tiếp vào môi trường nước, gây tác động
18
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
đáng kể đến CLN mặt trong LVS. Thêm vào đó, các sự cố do tôm, cá nuôi chết hàng
loạt không được xử lý kịp thời cũng là nguồn làm suy giảm CLN mặt nghiêm trọng.
1.5.7. Hoạt động giao thông vận tải thủy
LVHTS Đồng Nai có nhiều sông lớn, rộng, sâu và luồng lạch ổn định, đặc biệt là

khu vực hạ lưu sông Đồng Nai, Sài Gòn, Nhà Bè, Soài Rạp, Vàm Cỏ, Thị Vải Những
khu vực này có các điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông thủy và cũng như hệ
thống cảng nước sâu trong khu vực.
Tại lưu vực, hiện có tổng số 37 cảng lớn nhỏ với khả năng tiếp nhận các tàu từ
1.000 - 30.000 DWT. Sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các cảng kéo theo số lượng
tàu thuyền gia tăng. Đây là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước
mặt do việc xả thải dầu cặn và các chất thải có nguồn gốc dầu mỡ khoáng. Theo nhiều
công trình nghiên cứu thì khối lượng dầu phát sinh trong quá trình vệ sinh các tàu chở
dầu chiếm khoảng 0,67% trọng tải tàu. Hiện nay, hoạt động súc rửa vệ sinh tàu và đổ
thải ngay tại chỗ đã gây ô nhiễm dầu trên một số sông rạch khu vực hạ lưu của LVS.
Ngoài ra, các sự cố tràn dầu đang ngày càng gia tăng do các vụ va chạm, chìm
tàu chở dầu Đối với tỉnh ven biển như Bà Rịa - Vũng Tàu thì số lượng sự cố tràn dầu
còn lớn hơn vì ngoài hoạt động giao thông vận tải thủy còn có công nghiệp khai thác
dầu khí. Sự cố môi trường do vỡ đường ống dẫn dầu vào các bồn chứa xăng dầu tại các
kho cảng nằm ven sông Đồng Nai - Sài Gòn cũng là nguồn gây ô nhiễm môi trường
nước vùng hạ lưu của LVS.
1.6. Hiện trạng công tác quản lý chất lượng nước tại lưu
vực hệ thống sông Đồng Nai
1.6.1. Công tác ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm chất lượng nước
1.6.1.1. Tình hình thực hiện công tác ĐTM
Trong những năm qua, công tác ĐTM tại LVS đã được triển khai một cách
có hệ thống tại các địa phương và ngày càng mạnh mẽ. Tổng số báo cáo ĐTM và
bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi trường (TCMT) được phê duyệt và thẩm định
trong 10 năm qua ngày càng tăng. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn
chế như: tỷ lệ báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt TCMT được thẩm định và phê
duyệt trên tổng số các dự án và cơ sở thuộc diện phải lập báo cáo ĐTM còn thấp;
số báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt TCMT được phê duyệt giữa các tỉnh/thành
cũng không đồng đều; hoạt động sau thẩm định báo cáo ĐTM còn rất yếu; nhiều
dự án được phê duyệt nhưng sau đó không xây dựng các công trình xử lý nước
thải hoặc có xây dựng nhưng không vận hành đúng quy cách thiết kế Song, nỗ

lực thực hiện công tác ĐTM của các tỉnh/TP trong thời gian qua là rất đáng khích
lệ, góp phần không nhỏ trong việc BVMT cũng như bảo vệ CLN tại LVS.
1.6.1.2. Tình hình cấp phép xả nước thải
Việc xin và cấp phép xả nước thải vào nguồn nước đã được quy định tại Điều
18, Luật Tài nguyên nước. Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
149/2004/NĐ-CP ngày 27/7/2004 quy định cụ thể về việc cấp phép thăm dò, khai thác,
sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước và Bộ TN&MT cũng đã ban hành Thông tư
số 02/2005/TT-BTNMT ngày 24-6-2005 hướng dẫn việc thực hiện Nghị định này.
Theo báo cáo của các địa phương trong lưu vực, nhiều nơi đã thực hiện việc
thống kê các cơ sở xả thải thuộc diện phải xin cấp phép, nhưng cho đến nay trên cả
LVS, số lượng giấy phép xả nước thải vào nguồn nước cấp được còn rất ít so với số
lượng các đối tượng phải xin cấp phép. Tính đến cuối tháng 6 năm 2006, có rất ít giấy
19
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
phép được cấp trong tổng số khoảng hàng trăm các CSSX kinh doanh thuộc diện phải
xin cấp phép xả nước thải, cho thấy công tác này cần triển khai chặt chẽ hơn nữa trong
thời gian tới.
1.6.1.3. Tình hình áp dụng các công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế như phí, thuế, quỹ…đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
CLN LVS. Công cụ kinh tế giúp các tổ chức và cá nhân lựa chọn cách ứng xử hiệu quả
trong khai thác, sử dụng và bảo vệ CLN, mà cụ thể là trong thủy nông, cấp thoát nước
đô thị và khắc phục ô nhiễm nguồn nước, bao gồm: định giá dịch vụ nước, tự chủ tài
chính của doanh nghiệp, thuế TNN và các thuế khác, chính sách huy động vốn đầu tư
phát triển, thu phí BVMT đối với các hộ dân, CSSX kinh doanh… trên LVS.
Tại LVHTS Đồng Nai, các công cụ kinh tế cũng được áp dụng nhằm hạn chế
đến mức thấp nhất sự suy giảm CLN, cụ thể là tiến hành thu phí nước thải. Đồng thời,
Quỹ BVMT Việt Nam ra đời với mục đích hỗ trợ tài chính trong lĩnh BVMT trên phạm
vi cả nước mà không vì mục đích lợi nhuận. Mặc dù số dự án lập hồ sơ vay vốn và số
dự án được chấp thuận cho vay vốn tại các tỉnh, TP thuộc LVHTS Đồng Nai còn rất ít

song đây là dấu hiệu đáng mừng, tạo đà cho việc phát triển và áp dụng các công cụ kinh
tế khác trong BVMT tại LVS.
1.6.2. Công tác kiểm tra, thanh tra
Kiểm tra, thanh tra (định kỳ và đột xuất) về hoạt động BVMT của các CSSX,
kinh doanh, dịch vụ và KCN có nước thải công nghiệp gây nguy cơ ô nhiễm nước sông
là việc làm hết sức cấp thiết nhằm bảo vệ CLN các LVS. Tại LVHTS Đồng Nai, công
tác thanh kiểm tra bao gồm: thanh kiểm tra về TNN, kiểm tra các hoạt động BVMT sau
phê duyệt báo cáo ĐTM, các chương trình thanh kiểm tra các cấp, Gần đây nhất, từ
tháng 9/2008, Bộ TN&MT đã tiến hành tổng kiểm tra các cơ sở thuộc LVHTS Đồng
Nai, phát hiện và xử lý theo pháp luật các đối tượng vi phạm, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến CLN.
Ngoài ra, thực hiện ý kiến chỉ đạo của TTCP về việc xử lý ô nhiễm môi trường
sông Thị Vải thuộc địa bàn các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai, Bộ TN&MT đã
phối hợp với UBND hai tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Đồng Nai tổ chức kiểm tra các
CSSX, kinh doanh và KCN đang hoạt động trên sông Thị Vải. Qua kết quả kiểm tra tại
chỗ và kết quả phân tích các chỉ tiêu ô nhiễm trong nước thải của 77 cơ sở và KCN cho
thấy hầu hết các cơ sở sau khi được thẩm định Báo cáo ĐTM hoặc Bản đăng ký đạt
TCMT đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nội dung đã được phê duyệt
hoặc xác nhận; có 49/77 cơ sở đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhưng chỉ có
12 cơ sở xử lý đạt TCVN (chiếm 15,6%); 28/77 cơ sở sản xuất và KCN vi phạm các
quy định về xả nước thải vượt TCVN gây ô nhiễm môi trường nước sông Thị Vải, một
số cơ sở và KCN có tải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải lớn; 8/12 KCN chưa xây
dựng trạm xử lý nước thải tập trung đáp ứng yêu cầu xử lý nước thải của các dự án
trong KCN, nước thải có nhiều chỉ tiêu ô nhiễm vượt TCVN.
1.6.3. Công tác quy hoạch LVS Đồng Nai
 Quy hoạch tài nguyên nước LVS
Ngày 13/02/2006, Bộ TN&MT đã có các Quyết định phê duyệt đề cương và
tổng dự toán dự án Quy hoạch TNN LVS Đồng Nai, Vùng cực Nam Trung Bộ và Vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Mục tiêu của ác dự án quy hoạch là:
+ Xây dựng khuôn khổ chung cho công tác bảo vệ, khai thác, phát triển và sử

dụng TNN; phòng chống, giảm thiểu tác hại do nước gây ra và BVMT có liên quan đến
20
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
TNN LVS (vùng lãnh thổ), bao gồm xác định các mục tiêu, các vấn đề ưu tiên và giải
pháp tổng thể cho việc thực hiện các mục tiêu đạt ra của quy hoạch;
+ Xác định các quy tắc, các họat động cần thực hiện để quản lý sử dụng tổng
hợp và bền vững TNN LVS, bao gồm: chia sẻ, khai thác, sử dụng và phát triển TNN;
Bảo vệ TNN và các hệ sinh thái dưới nước; Phòng, chống và giảm thiểu tác hại do nước
gây ra.
 Phân vùng khai thác, sử dụng TNN và xả nước thải
Việc quy hoạch phân vùng khai thác, sử dụng TNN và xả nước thải vào nguồn
nước là hết sức quan trọng. Khi chưa có các quy hoạch này, sẽ xảy ra tình trạng nước
thải được xả vào đoạn sông phía trên nhưng phía dưới lại lấy nước dùng cho sinh hoạt.
Vì vậy, tuy chưa có quy hoạch đầy đủ về khai thác, sử dụng và bảo vệ TNN, nhưng một
số địa phương đã có quy định về phân vùng khai thác, sử dụng TNN và xả nước thải
vào nguồn nước như: Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Đây cũng là một căn cứ tốt cho
việc cấp phép xả nước thải vào nguồn nước. Tuy nhiên, để thực hiện tốt việc quản lý
tổng hợp LVS nhằm tránh những xung đột, mâu thuẫn giữa các địa phương, giữa các
vùng thượng, trung và hạ lưu các con sông, việc phân vùng khai thác sử dụng TNN và
xả nước thải vào nguồn nước cần được thực hiện, góp phần bảo vệ CLN chung cho toàn
lưu vực.
 Quy hoạch của các ngành khai thác sử dụng nước
Trong các quy hoạch của ngành khai thác, sử dụng nước, quy hoạch thủy lợi và
thủy điện là hai ngành có tác động lớn làm thay đổi nguồn nước do các hồ, đập, công
trình thủy lợi, thủy điện điều tiết lại dòng chảy. Cho đến nay, đã có khá nhiều quy hoạch
thủy lợi và thủy điện trên LVS như: Quy hoạch thủy lợi LVS Đồng Nai; Quy hoạch lũ
sông Đồng Nai; Quy hoạch bậc thang thủy điện trên HTS Đồng Nai. Điều này cũng góp
phần tác động đến CLN chung của lưu vực.
1.6.4. Công tác quan trắc, thông tin môi trường

Tại LVS, nhiều chương trình quan trắc CLN mặt phục vụ cho các mục tiêu khác
nhau đã được thực hiện. Việc quan trắc CLN mặt ngày càng được tổ chức một cách hệ
thống hơn, thu được nhiều số liệu quan trọng theo không gian và thời gian đối với từng
lưu vực.
1.6.4.1. Về mạng lưới quan trắc
Hoạt động quan trắc CLN các LVS ở cấp trung ương hiện nay chủ yếu do một số
đơn vị trong Bộ TN&MT và một số bộ/ngành khác tham gia: Trung tâm Khí tượng
Thuỷ văn Quốc gia, mạng lưới quan trắc nước dưới đất do Cục Địa chất và Khoáng sản
quản lý. Trong đó, quan trọng nhất là Hệ thống quan trắc môi trường Quốc gia do Cục
BVMT quản lý.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành khác cũng tiến hành quan trắc nước mặt LVS, phục
vụ các yêu cầu của Bộ, ngành mình. Chẳng hạn Bộ Thuỷ sản quan trắc CLN nuôi trồng
thuỷ sản, Bộ Y tế giám sát CLN đảm bảo điều kiện vệ sinh, Bộ NN&PTNT quan trắc
CLN nước phục vụ nông nghiệp Ngoài các trạm quan trắc môi trường quốc gia, nhiều
tỉnh/thành trong các LVHTS cũng đã thành lập Trung tâm Quan trắc nhằm theo dõi,
giám sát diễn biết CLN nói chung, phục vụ công tác quản lý bảo vệ CLN của địa
phương như: TP. HCM, Đồng Nai và Bình Dương…
Một số hạn chế trong hoạt động quan trắc CLN mặt thể hiện như sau:
- Kinh phí đầu tư và nguồn lực cán bộ cho công tác quan trắc môi trường
nước còn hạn chế do đó tần suất quan trắc thưa, thông số quan trắc hạn chế và số
lượng điểm quan trắc ít so với yêu cầu thực tế.
21
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
- Các hoạt động quan trắc CLN chưa liên tục. Do đó khó phát hiện và
cảnh báo kịp thời các vấn đề ô nhiễm khi mới xuất hiện hoặc đang tiềm tàng.
- Một số địa phương đã trang bị được các thiết bị quan trắc và phân tích
môi trường, tuy nhiên chưa chú trọng đến phát triển dài hạn cũng như vấn đề đào
tạo nguồn nhân lực.
- Hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng (QA/QC) trong

hoạt động quan trắc môi trường còn yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng và tính
thống nhất của số liệu.
1.6.4.2. Hệ thống thông tin (HTTT) và cơ sở dữ liệu (CSDL)
Hiện tại, chưa có HTTT môi trường LVHTS cả ở mức quốc gia cũng như ở mức
lưu vực, cũng như chưa có chuẩn thống nhất cho HTTT và cơ chế cập nhật thông tin
môi trường (TTMT) các LVS trong cả nước. Trong năm 2006, Cục BVMT phối hợp với
các tỉnh trong lưu vực tiến hành xây dựng và cập nhật thông tin cho trang thông tin điện
tử về môi trường LVS. Một số địa phương trên các LVS đã tiến hành xây dựng CSDL
môi trường tại địa phương mình. Tuy nhiên, chưa có các CSDL ở cấp lưu vực hoặc tiểu
lưu vực. Việc trao đổi, chia sẻ số liệu, TTMT giữa các tỉnh trong lưu vực và giữa các
lưu vực với nhau cũng còn nhiều hạn chế. Nghị định số 162/2003/NĐ-CP ngày
19/12/2003 của Chính phủ về việc Ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, sử
dụng dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước, là văn bản cung cấp cơ sở pháp lý cho việc
phát triển các mô hình quản lý dữ liệu về TNN cùng với việc xác định rõ vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc quản lý số liệu. Tuy nhiên, đến nay Quy
chế vẫn chưa được thực thi một cách hiệu quả.
1.6.5. Công tác xây dựng nguồn nhân lực
1.6.5.1. Đội ngũ cán bộ
Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực BVMT LVS bao gồm: cán bộ quản lý
(QLMT LVS, kiểm soát ô nhiễm LVS, quản lý TNN mặt, thanh tra môi trường) và cán
bộ quan trắc môi trường (nước mặt lục địa, nước biển ven bờ) đang rất thiếu hụt về số
lượng. Bộ máy quản lý nhà nước về BVMT nói chung và bảo vệ CLN LVS nói riêng
tuy đã được tăng cường, nhưng còn thiếu về số lượng (đặc biệt ở cấp địa phương) và
hạn chế về năng lực.
Trong số 12 tỉnh, thành phố trên LVHTS Đồng Nai, TP.HCM là địa phương có
điều kiện tốt nhất về nguồn nhân lực cho công tác QLMT, đặc biệt là quản lý CLN. Tại
Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi Cục BVMT TP đã được tăng cường về nhân sự và cơ
sở vật chất để thực hiện các hoạt động tác nghiệp như: quan trắc môi trường, thu phí
nước thải, tư vấn cho các tổ chức và doanh nghiệp về quản lý CLN,… Tại 24
quận/huyện của TP cũng đều có Phòng TNMT với biên chế trung bình khoảng 3-4

người. Ngoài ra, Ban quản lý KCN/KCX của thành phố (HEPZA) với phòng môi
trường chuyên đảm trách công tác QLMT chung và quản lý CLN tại các KCN, KCX
của TP.
1.6.5.2. Năng lực đội ngũ cán bộ
Các cán bộ hiện tại đang làm việc trong lĩnh vực BVMT phần lớn đều không
được đào tạo chuyên ngành về môi trường và TNN, lại phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực
nên kiến thức về bảo vệ CLN LVS thường không sâu. Trung bình mỗi tỉnh có khoảng 5-
7 cán bộ QLMT cấp tỉnh (riêng các tỉnh có trạm quan trắc môi trường như Đồng Nai,
Bình Dương, Long An, Bà Rịa -Vũng Tàu, thì số lượng có nhiều hơn). Số lượng cán bộ
QLMT cấp huyện, xã còn rất hạn chế và nhiều huyện vẫn chưa hoàn thiện Phòng
TNMT. Trong khi đó, nhu cầu QLMT tại các địa phương đòi hỏi phải giải quyết một
22
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
khối lượng lớn các công việc có liên quan, từ việc xây dựng chính sách, chiến lược
BVMT của địa phương, xây dựng báo cáo hiện trạng môi trường hàng năm cho đến
thực thi các hoạt động cụ thể như: thẩm định báo cáo ĐTM, kiểm soát ô nhiễm, thu phí
nước thải, thanh tra môi trường, giải quyết sự cố môi trường, giải quyết các tranh chấp,
khiếu nại về môi trường,… Do vậy, nhân sự tập trung cho QLMT tại LVS là rất thấp.
Ngoài ra, những kỹ năng truyền thống cũng như trình độ hiện tại của đội ngũ
cán bộ hiện nay đã bắt đầu bộc lộ việc không phù hợp với điều kiện mới, đặc biệt trong
lĩnh vực đa ngành và tổng hợp như BVMT LVS.
1.6.6. Sự tham gia của cộng đồng trong quản lý chất lượng nước
Thực tế những năm qua cho thấy, thành công của các hoạt động bảo vệ CLN phụ
thuộc rất nhiều vào sự tham gia của cộng đồng. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại
Việt Nam trong thời gian qua đã chỉ cho thấy rằng: cộng đồng có vai trò và tầm ảnh
hưởng rất quan trọng đối với công tác quản lý và BVMT nói chung. Các mô hình quản
lý và bảo vệ CLN LVS thành công trên thế giới đều có sự tham gia tích cực từ phía cộng
đồng. Khái niệm “cộng đồng” được hiểu ở đây bao hàm tất cả các thành phần và các tổ
chức trong xã hội, từ các cơ quan quản lý cao nhất cho đến dân cư trong vùng. Tuy

nhiên, sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ CLN LVS hiện vẫn còn nhiều
hạn chế:
- Tiềm năng của cộng đồng vẫn chưa được phát huy đầy đủ, sự tham gia
của cộng đồng vào các quá trình ra quyết định, hoạch định chính sách và các hoạt
động bảo vệ CLN vẫn còn nhiều hạn chế.
- Trách nhiệm bảo vệ CLN LVHTS và tuân thủ pháp luật của các doanh
nghiệp cũng như cộng đồng chưa cao.
- Nhận thức của cộng đồng dân cư với công tác bảo vệ CLN LVS còn là
vấn đề cần được quan tâm. Vấn đề này sẽ còn tồn tại cho đến khi chuyển biến
được tư tưởng cố hữu vốn không quen coi việc BVMT là trách nhiệm của bản
thân của cộng đồng.
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
2.1. Cơ sở pháp lý liên quan
Ở cấp quốc gia, Cục BVMT - Bộ TN&MT đóng vai trò chủ đạo trong công tác
quản lý CLN tại LVS. Bên cạnh đó, tùy theo chức năng, các Bộ ngành khác có sự phối
hợp thực hiện công tác quản lý CLN, như Bộ NN&PTNT, Bộ Y tế,
Trong thời gian qua, Bộ TN&MT đã đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể
chế về quản lý TNN, trình Chính phủ ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành
Luật TNN, trình TTCP quyết định phê duyệt Chiến lược TNN quốc gia đến năm 2020;
xúc tiến xây dựng quy hoạch một số LVS qua đó tăng cường đáng kể công tác quản lý
TNN. Tuy nhiên, việc quy định quản lý LVS còn có sự chồng chéo, thể hiện ở Nghị
định 91/2003/NĐ-CP giao Bộ TN&MT quản lý TNN trong khi Nghị định 86/2004/NĐ-
CP lại giao Bộ NN&PTNT quản lý vật thể chứa nước (LVS), gây khó khăn cho việc
quản lý thống nhất TNN. Các quyết định gần đây của TTCP đã phân định rõ vai trò của
các cơ quan liên quan trong một số công việc cụ thể. Tại Quyết định số 123/2006/QĐ-
TTg ngày 03/6/2006, TTCP đã giao cho Bộ TN&MT chức năng lập quy hoạch về sử
23
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai

dụng, quản lý tổng hợp và bảo vệ TNN ở các LVS chính và giao Bộ NN&PTNT thực
hiện chức năng rà soát, sửa đổi, bổ sung quy hoạch phát triển hệ thống tưới tiêu, rừng và
nông nghiệp đặc biệt cho các mục đích sử dụng nước trong tưới tiêu, cấp nước, phát
triển thủy điện và nuôi trồng thủy sản.
Trong thời gian qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật có liên quan được ban
hành đã góp phần luật hoá công tác bảo vệ nguồn nước các LVS. Trong đó có thể kể ra
các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như: Luật BVMT (2005), Luật TNN (1998),
Luật Đất đai (2003), Hệ thống TCVN - Các tiêu chuẩn CLN sông, hồ (ban hành năm
1995, sửa đổi năm 2001 và 2005), và hàng loạt các văn bản dưới luật khác.
Trên cơ sở Luật TNN, Hội đồng Quốc gia về TNN đã được thành lập theo quyết
định số 67/2000/QĐ-TTg ngày 15/6/2000. Theo chức năng của mình cùng với các uỷ
viên là đại diện các Bộ ngành liên quan, Hội đồng này sẽ giúp tiến tới quản lý TNN một
các tổng hợp. Đồng thời Hội đồng sẽ tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề chính sách,
chiến lược và thông qua quy hoạch LVHTS và các dự án lớn về phát triển nguồn nước,
giải quyết tranh chấp về nước, quản lý CLN và các khía cạnh Quốc tế về TNN.
Ở cấp độ liên vùng, dưới sự chỉ đạo của TTCP và Bộ TN&MT, Ủy ban sông
Đồng Nai được thành lập theo thỏa thuận của 12 tỉnh, TP trong lưu vực theo QĐ số
157/2008/QĐ-TTCP. Tuy nhiên, trên thực tế, Ủy ban này vẫn hoạt động chưa thực sự
hiệu quả. Ở các địa phương, từ năm 2003, các Sở TN&MT được thành lập và đều có
Chi cục BVMT (trước kia là Phòng QLMT).
Liên quan đến quản lý và bảo vệ CLN LVS, Luật BVMT 2005 đã đưa ra các
điều khoản quy định việc quản lý và bảo vệ CLN sông. Nội dung về BVMT nước sông
theo Luật BVMT 2005: Mục 2, Chương VII gồm các Điều cụ thể là:
- Điều 59 quy định các nguyên tắc BVMT nước sông: (1) BVMT nước sông là
một trong những nội dung cơ bản của quy hoạch khai thác, sử dụng và quản lý TNN
trong LVS. (2) Các địa phương trên LVS phải cùng chịu trách nhiệm BVMT nước trong
LVS; chủ động hợp tác khai thác nguồn lợi do TNN trong LVS mang lại và bảo đảm lợi
ích cho cộng đồng dân cư.
- Điều 60 quy định về kiểm soát, xử lý ô nhiễm, suy thoái môi trường nước
trong LVS.

- Điều 61 quy định về trách nhiệm của UBND cấp tỉnh đối với BVMT nước
trong LVS.
- Điều 62 quy định về tổ chức BVMT nước của LVS.
Các tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường liên quan đến bảo vệ CLN sông, hồ cho
các mục đích sử dụng nước được ban hành lần đầu tiên vào năm 1995, sửa đổi năm
2001 và 2005. Năm 2008, Bộ TN&MT đã ký quyết định ban hành một số quy chuẩn đối
với nước mặt và nước thải . Tuy nhiên, các quy chuẩn liên quan đến trầm tích đáy và
bùn thải vẫn chưa được xây dựng và ban hành.
Luật Tài nguyên Nước (1998) có các quy định liên quan đến nước mặt, nước
mưa, nước dưới đất và nước biển. Luật này nghiêm cấm thải các chất thải độc hại, nước
thải chưa qua xử lý hoặc nước thải đã qua xử lý nhưng chưa đạt TCCP cho phép vào
nguồn nước. Việc cấp phép xả thải phải căn cứ vào khả năng chịu tải của nguồn tiếp
nhận. Nước thải phải được xử lý đạt TCCP trước khi xả thải. Song, việc áp dụng và thực
thi Luật BVMT, Luật TNN và Hệ thống Tiêu chuẩn/Quy chuẩn Việt Nam về môi trường
nhằm mục tiêu kiểm soát ô nhiễm và quản lý CLN vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Tại LVHTS Đồng Nai, sự phối hợp trong BVMT cũng như công tác quản lý
CLN được thể hiện qua các cột mốc sau:
24
Bước đầu ứng dụng mô hình phân chia lợi ích trong khai thác lưu vực sông – áp
dụng cho lưu vực sông Đồng Nai
- Tháng 11 năm 2001, đại diện của 12 UBND các tỉnh, TP trong lưu vực đã thoả
thuận và thành lập Uỷ ban BVMT LVS Đồng Nai.
- Ngày 28/12/2001, tại TP.HCM đã tổ chức Hội nghị Chủ tịch UBND các
tỉnh/TP trên lưu vực để thảo luận về hợp tác giữa các địa phương trong việc quản lý
nguồn nước toàn LVS.
- Ngày 21/3/2002, Chính phủ có công văn số 291/CP-KG, giao UBND TP.HCM
chủ trì, phối hợp với UBND các tỉnh trong lưu vực xây dựng đề án BVMT LVHTS
Đồng Nai.
- Tháng 5/2004, Bộ TN&MT đã phối hợp với các địa phương thuộc lưu vực và
các cơ quan khoa học họp bàn triển khai Chương trình BVMT LVHTS Đồng Nai.

- Ngày 31/5/2005, Bộ TN&MT và UBND TP.HCM đã phối hợp với các địa
phương thuộc lưu vực tổ chức Hội nghị bàn tròn đánh giá tình hình thực hiện cam kết
hợp tác BVMT LVHTS Đồng Nai.
- Ngày 25/12/2005, Bộ TN&MT cùng các tỉnh trong lưu vực đã đồng thuận cam
kết gồm 8 điểm về các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường trên LVS.
- Ngày 3/12/2007, TTCP đã ra quyết định 187/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt
“Đề án BVMT LVHTS Đồng Nai đến năm 2020”. Đây là một trong những quyết định
đánh dấu mức độ cấp bách trong vấn đề ngăn chặn suy thoái và cải thiện môi trường tại
lưu vực này. Ngày 01/12/2008, TTCP ký quyết định số 157/2008/QĐ-TTg thành lập Ủy
ban BVMT LVHTS Đồng Nai (gọi tắt là Ủy ban sông Đồng Nai) quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ủy ban này.
Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ quan Bộ, ngành và địa phương để giải quyết
các vấn đề về môi trường chung cũng như bảo vệ CLN còn yếu. Giữa các địa phương
trong cùng lưu vực chưa tìm được tiếng nói chung, chưa thống nhất và hợp tác chặt chẽ
trong công tác bảo vệ CLN lưu vực. Quan niệm về trách nhiệm của địa phương, các
ngành về bảo vệ CLN LVS là chưa đầy đủ. Nhiều địa phương quan niệm không đúng về
mục đích bảo vệ CLN LVS, về vai trò và trách nhiệm của địa phương trong tổ chức
BVMT chung trên lưu vực.
Bảng 2 Trách nhiệm có liên quan đến tài nguyên nước của một số cơ quan Bộ
TT Cơ quan Trách nhiệm liên quan đến tài nguyên nước
1 Bộ TN và MT • Quản lý tài nguyên nước, CLN.
•Lập quy hoạch về sử dụng, quản lý tổng
hợp và bảo vệ TNN ở các LVHTS chính.
2 Bộ NN và PTNT• Tưới tiêu, phòng chống lụt bão, cấp nước
sinh hoạt nông thôn, quản lý các công trình
thủy lợi và đê điều.
3 Bộ KHĐT • Hướng dẫn và kiểm tra các Bộ ngành về
việc lập và thực hiện chiến lược phát
triển KTXH.
4 Bộ Công nghiệp • Phát triển thủy điện thông qua Tổng

Công ty điện lực Việt Nam.
5 Bộ KHCN • Thẩm định dự thảo và công bố các tiêu
chuẩn CLN do Bộ TN&MT xây dựng.
6 Bộ Xây dựng • Quản lý các công trình công cộng đô thị;
• Thiết kế và xây dựng các công trình cấp
25

×