Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (767.91 KB, 102 trang )













LUẬN VĂN:

Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta
hiện nay







mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là chủ trương lớn của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.


Trong Nhà nước pháp quyền, tư pháp có vai trò đặc biệt quan trọng, đảm bảo cho
các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền được thể hiện đầy đủ, toàn diện. Vì vậy, kiện
toàn và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm.
Trong nền tư pháp nước nhà, Tòa án được xác định là trụ cột. Hoạt động của Tòa
án là nơi thể hiện rõ nhất chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống các cơ quan tư
pháp nói riêng và toàn bộ quyền lực nhà nước nói chung, vì vậy, để cải cách, nâng cao
chất lượng hoạt động của Toà án trong đó trọng tâm là hoạt động xét xử là khâu đột phá
của quá trình cải cách tư pháp nước nhà trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Thực tế hoạt động xét xử trong những năm gần đây cho thấy các vụ án dân sự
ngày càng tăng đặc biệt là các tranh chấp về nhà, đất. Mặc dù Luật đất đai năm 2003 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2004 đã có nhiều quy định mới rõ ràng hơn tạo thuận lợi
cho mọi công dân đưa quyền sử dụng đất vào giao lưu dân sự, góp phần thúc đẩy kinh tế
gia đình và xã hội phát triển thông qua hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật về đất
đai vẫn còn nhiều khoảng trống, tính ổn định thấp, đặc biệt có những thời kỳ pháp luật
đất đai chưa phù hợp với cuộc sống đã tạo ra các hoạt động ngầm trong lĩnh vực đất đai
như chuyển nhượng quyền sử dụng đất không qua chính quyền địa phương. Trong khi đó,
yêu cầu của xã hội và công dân đối với công tác này ngày càng cao; Luật đất đai năm
2003 có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 nhưng nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công
tác xét xử loại tranh chấp này chưa được hướng dẫn, tập huấn kịp thời; bên cạnh đó, tổ
chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, cơ sở, vật chất của các Tòa án chưa được tiếp tục kiện toàn

để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp trong đó có việc tăng thẩm quyền
trong xét xử cho Tòa án cấp huyện.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao thì trong những năm gần đây các vụ,
việc dân sự đều tăng đáng kể. Số lượng đơn đề nghị Tòa án xem xét vụ án theo trình tự
giám đốc thẩm, tái thẩm ngày một tăng và tính chất ngày càng phức tạp. Trong đó phần
lớn là các vụ, việc liên quan đến tranh chấp nhà ở, chuyển nhượng quyền sử dụng đất
chiếm tỷ lệ lớn và là loại tranh chấp gay go nhất, phức tạp nhất trong số các tranh chấp về

dân sự. Do số lượng các vụ án tăng, tính chất ngày càng phức tạp và do nhiều nguyên
nhân khác nhau mà hoạt động xét xử của Tòa án còn bộc lộ những hạn chế nhất định như
để quá thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật, tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa,
hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và do áp dụng sai pháp luật về nội dung, về
thủ tục tố tụng vẫn còn nhiều. Tuy số bản án bị hủy, sửa không nhiều nhưng là nhược
điểm lớn nhất trong hoạt động xét xử. Đáng chú ý có một số vụ án tranh chấp về nhà, đất
kéo dài qua nhiều năm, nhiều cấp xét xử làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Vẫn còn tình trạng một số bản án giải quyết tranh chấp nhà, đất tuyên
không rõ ràng, gây khó khăn cho công tác thi hành án dân sự. Trong quá trình giải quyết
vụ án, do việc nghiên cứu các văn bản pháp luật chưa đầy đủ dẫn đến việc đánh giá
chứng cứ thiếu khách quan toàn diện, áp dụng văn bản pháp luật không đúng dẫn đến
phán quyết sai lầm hoặc vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án cấp trên phải
hủy hoặc sửa án của Tòa án cấp dưới. Trước tình hình đó ngành Tòa án nhân dân đã tập
trung mọi nguồn lực đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án,
đặc biệt là các vụ án dân sự đảm bảo thời hạn xét xử theo quy định của pháp luật, hạn chế
đến mức thấp nhất các bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm nghiêm trọng, khắc phục
việc áp dụng sai pháp luật; tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng thống nhất các quy
định của pháp luật liên quan đến công tác xét xử và tổ chức hoạt động của ngành Tòa án
nhân dân. Tiếp tục củng cố và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo
đức và bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp. Hầu
hết các bản án, quyết định của Tòa án được ban hành đúng pháp luật, khách quan,thấu
tình đạt lý đúng thời hạn luật định và có tính giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật trong
quần chúng nhân dân. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của ngành Tòa

án nhân dân đã và đang đặt ra những yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài để không ngừng
nâng cao chất lượng xét xử trong quá trình thực hiện cải cách tư pháp ở nước ta theo
đúng đường lối của Đảng. Vì vậy, chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án là một trong những yếu tố quan trọng có tính chất quyết định chất lượng xét
xử của Tòa án nhân dân. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì
về mặt lý luận và thực tiễn có nhiều vấn đề đặt ra cần nghiên cứu, trong đó có vấn đề áp

dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung và áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân nói riêng.
Chính vì ý nghĩa lý luận và thực tiễn như đã nêu trên tôi đã lựa chọn vấn đề
"Nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án
nhân dân là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Đặc biệt trong tình
hình hiện nay thì số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về cải cách tư pháp và áp dụng
pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án tăng lên rõ rệt. Nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử đã được một số nhà khoa học, các bộ
thực tiễn ngành Tòa án thực hiện và đã được công bố trong các công trình khoa học như:
- Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Thân: "áp dụng pháp luật trong hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay", năm 2004.
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Chu Đức Thắng: "áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân ở cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay", năm
2004.
- Tác giả Lưu Tiến Dũng với bài "Bàn về áp dụng pháp luật trong công tác xét
xử", Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng 5/2005.
- Tác giả Phạm Thanh Hải Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Hà Tây với bài
"Trao đổi thêm về việc áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003", Tạp chí Tòa án tháng
5/2005.

- Tiến sĩ Nguyễn Văn Cường với bài "Những vấn đề cần trao đổi khi áp dụng
Điều 136 Luật đất đai năm 2003", Tạp chí Tòa án tháng 8/2005.
- Tác giả Thủy Nguyên với bài " áp dụng luật hôn nhân gia đình khi giải quyết vụ án
có yếu tố nước ngoài", Tạp chí Tòa án nhân dân số 17 tháng 9/2005.
- Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân với bài "Những vấn đề trao đổi khi áp
dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003", Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 9/2005.
Ngoài ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Dân chủ và pháp

luật cũng có những bài viết nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật. Các công trình nêu
trên hoặc nghiên cứu việc áp dụng pháp luật trong việc xét xử của Tòa án nhân dân nói
chung hoặc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự, các vụ án dân sự
của Tòa án nhân dân ở một số địa phương cụ thể. Cho đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu nào phân tích một cách toàn diện, đầy đủ, có hệ thống dưới góc độ lý luận
chung về Nhà nước và Pháp luật vấn đề áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các
tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân - loại tranh chấp gay go nhất, phức tạp
nhất trong tất cả các tranh chấp về dân sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận áp dụng pháp luật vào việc
giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân, nghiên cứu thực trạng
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, nguyên nhân
và những bất cập trong việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng việc áp dụng các văn bản pháp luật vào việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất.
* Về phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành lý luận Nhà nước và
pháp luật, luận văn chỉ bao gồm những nội dung lý luận, thực tiễn có liên quan đến vấn
đề áp dụng pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung trong việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.

Giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất là một lĩnh vực rộng với nhiều cơ
quan khác có thẩm quyền tham gia. Tuy nhiên, với khuôn khổ một luận văn thạc sĩ, tác giả
chỉ đi sâu nghiên cứu về việc áp dụng các văn bản pháp luật trong việc giải quyết các tranh
chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân trong đó đi sâu phân tích nguyên nhân và đưa
ra các giải pháp khắc phục.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Về mục đích:
Luận văn nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng

pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.
* Về nhiệm vụ của luận văn:
- Phân tích cơ sở lý luận của việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của
Tòa án đối với các tranh chấp quyền sử dụng đất. Dưới góc độ lý luận Mác - Lênin về
Nhà nước pháp luật, luận văn nêu khái niệm, đặc điểm, quy trình áp dụng pháp luật, tiêu
chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.
- Đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh
chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân từ năm 2000 đến năm 2005, rút ra những ưu
điểm, thành tựu đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất và luận chứng những quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đặc biệt
là các quan điểm của Đảng chỉ đạo về cải cách tư pháp.

* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử Mác xít, trong đó chú trọng các phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra còn sử dụng
các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn phân tích khái niệm, đặc điểm, quy trình áp dụng pháp luật, xác định
tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng áp dụng pháp luật trong việc xét
xử của Tòa án nhân dân nói chung và trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
tại Tòa án nhân dân nói riêng.

Đánh giá thực trạng chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân.
Đề xuất giải pháp phù hợp thực tiễn hiện nay nhằm nâng cao chất lượng áp dụng
pháp luật của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất.
7. ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và phát triển lý luận phục vụ
yêu cầu thực tiễn của việc không ngừng nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử nói chung và trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại
Tòa án nhân dân nói riêng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Kết quả nghiên cứu
của luận văn có thể làm tư liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu giảng dạy
khoa học pháp lý nói chung và đào tạo chức danh Tư pháp nói riêng. Nội dung của luận
văn cũng có thể góp phần xây dựng kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán, kỹ năng
nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt là đối với các Thẩm phán dân sự, giải quyết các vụ án tranh
chấp quyền sử dụng đất và các vụ án có liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.

chương 1
cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án
nhân dân

1.1. Khái quát những vấn đề chung về áp dụng pháp luật
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là tổng hợp các quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản được cơ
quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo trình tự nhất định với các hình
thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hình thức thể hiện của pháp luật xã hội

chủ nghĩa là các quy phạm pháp luật được các chủ thể ban hành dưới dạng văn bản có tên
gọi khác nhau và có hiệu lực pháp lý khác nhau. Khi ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, Nhà nước hướng tới mục đích là dùng các văn bản quy phạm pháp luật để điều
chỉnh, quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục,
an ninh quốc phòng, khoa học kỹ thuật Tuy nhiên, để pháp luật thực sự đi vào đời sống
thì ngoài các yếu tố như sự phù hợp của hệ thống quy phạm pháp luật bởi các điều kiện
kinh tế, lịch sử, trình độ phát triển của xã hội, Nhà nước còn phải quan tâm đến hoạt động
không kém phần quan trọng là tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật một cách nghiêm
minh. Bởi vì, văn bản pháp luật khi ban hành dù hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các quy
định của văn bản đó không thực hiện được trên thực tế thì mục đích điều chỉnh pháp luật
vẫn chưa đạt được.
Thực hiện pháp luật là hành vi của con người phù hợp với những quy định của
pháp luật, không trái, không vượt quá phạm vi các quy định của pháp luật và có lợi cho
xã hội, cho Nhà nước và cho cá nhân. Đó là những hoạt động, những phương cách,
những quá trình làm cho những quy tắc xử sự chung chứa đựng trong các quy phạm pháp
luật trở thành hành vi, cách xử sự của các chủ thể pháp luật. Thực hiện pháp luật rất đa
dạng và phong phú, phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân, nhưng cũng có thể chỉ phụ

thuộc vào ý chí của Nhà nước; có thể được thực hiện xuất phát từ nhiều nguyên nhân như
sự tự giác của bản thân chủ thể hoặc do ảnh hưởng của dư luận xung quanh hoặc là kết
quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Thực hiện pháp luật có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào
cuộc sống. Do các quy phạm pháp luật rất phong phú nên cũng có nhiều hình thức thực
hiện khác nhau. Khoa học pháp lý đã xác định có bốn hình thức thực hiện pháp luật là
tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật.
Tuân thủ pháp luật: Là hình thức các chủ thể pháp luật không thực hiện những
hành vi mà pháp luật ngăn cấm, mà cho các quy phạm pháp luật ngăn cấm được tôn trọng
và thực hiện trên thực tế. Ví dụ: Việc tuân thủ các quy định về điều kiện chuyển quyền sử
dụng đất. Hộ gia đình và cá nhân muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đầy đủ
giấy tờ theo quy định của Luật đất đai.v.v. Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật

là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức, cá nhân và mọi công dân
trong xã hội.
Thi hành pháp luật (còn gọi là chấp hành pháp luật): Các chủ thể pháp luật thực
hiện nghĩa vụ pháp lý chủ động, tích cực bằng các hành vi cụ thể mà pháp luật quy định
được thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật cụ thể. Ví dụ: Thực hiện
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư
đang sử dụng đất, thực hiện các quy định về sinh đẻ có kế hoạch, thực hiện các nghĩa vụ
chăm sóc, nuôi dưỡng con cái của cha mẹ v.v Chủ thể thực hiện hình thức thi hành
pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và
mọi công dân trong xã hội.
Sử dụng pháp luật: Các chủ thể thực hiện pháp luật, chủ động sử dụng các quyền
thực hiện hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình.
Hình thức thực hiện pháp luật này khác hai hình thức tuân thủ pháp luật và chấp hành
pháp luật là các chủ thể quan hệ pháp luật có quyền thực hiện hoặc không thực hiện các
quyền của mình, không bị bắt buộc phải thực hiện như 2 hình thức tuân thủ pháp luật và
chấp hành pháp luật. Ví dụ: Quyền khởi kiện hay không khởi kiện vụ án dân sự của cá
nhân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, quyền chuyển nhượng hay không

chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở của mình.v.v Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng
pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, cá nhân, tổ chức và mọi
công dân trong xã hội.
áp dụng pháp luật: Là một trong những hình thức thực hiện pháp luật và bao giờ
cũng có sự tham gia của cơ quan nhà nước, cán bộ Nhà nước có thẩm quyền. áp dụng
pháp luật là một trong những hình thức của thực hiện pháp luật. Nhà nước thông qua các
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền hoặc cá nhân có thẩm quyền để ban hành các quyết định
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Thông qua đó,
hoạt động áp dụng pháp luật bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất: các quyền của chủ thể pháp luật được thực hiện và được bảo vệ trên
thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật được xử lý nghiêm minh và kịp thời. Hoạt động áp
dụng pháp luật diễn ra hàng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà

nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Việc áp dụng pháp luật thường do cơ
quan nhà nước được giao quyền hoặc người có thẩm quyền tiến hành theo thủ tục hành
chính như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định giao đất hoặc thu hồi đất.
Trong hoạt động tư pháp, áp dụng pháp luật được điều tra viên, kiểm sát viên, Thẩm
phán, hội thẩm nhân dân tiến hành theo thủ tục nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh,
điều tra nhằm xác định sự thật khách quan sự việc, xác định quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể pháp luật.
Hình thức áp dụng pháp luật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, do có sự can thiệp
của nhà nước buộc các chủ thể pháp luật thực hiện pháp luật làm cho các quy định của
pháp luật đều được thực hiện chính xác, triệt để. Qua đó tác động vào các quan hệ xã hội,
vào cuộc sống đạt hiệu quả cao nhất. áp dụng pháp luật được tiến hành trong các trường
hợp sau:
- Khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước hoặc áp dụng các chế tài
pháp luật đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham
gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Chẳng hạn, trong một hợp
đồng dân sự, do một hoặc các bên tham gia ký kết không thực hiện đúng nghĩa vụ đối với

bên kia mà các bên không thể trao đổi, thỏa thuận tự giải quyết được. Trường hợp này,
bên bị vi phạm có quyền đề nghị Tòa án can thiệp và đưa ra phán quyết buộc bên vi phạm
phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
- Trong một số quan hệ pháp luật, Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia để
kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên hoặc xác nhận sự tồn tại một số sự việc, sự kiện
thực tế. Chẳng hạn như công chứng, chứng thực hợp đồng mua bán nhà, đất; chứng nhận
giấy đăng ký kết hôn, chứng nhận giấy khai sinh, khai tử
Như vậy, áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính thực tiễn cụ thể và sinh động
do cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước được giao quyền tiến hành theo một thủ tục
nhất định do pháp luật quy định và đồng thời là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục
bắt buộc để Nhà nước tổ chức cho các chủ thể thực hiện pháp luật. áp dụng pháp luật
mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động và được tiến hành theo một thủ tục nhất định do

pháp luật quy định. áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc
để các cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp
luật; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
chủ thể hoặc khi nhà nước cần phải can thiệp để thực thi các quyền của chủ thể theo quy
định của pháp luật. áp dụng pháp luật có vai trò rất to lớn và rất quan trọng trong việc
thực hiện quyền lực nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh
tế,văn hóa, an ninh quốc phòng.
1.1.2. Đặc điểm của việc áp dụng pháp luật
áp dụng pháp luật có các đặc điểm chủ yếu sau:
- áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, thể hiện quyền lực nhà nước. Hoạt động
áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền tiến
hành và mỗi cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ được giao một số hoạt động
áp dụng pháp luật nhất định trong phạm vi thẩm quyền của mình. Trong một số trường
hợp cá biệt, một số tổ chức xã hội được Nhà nước trao quyền cũng có thể tiến hành áp
dụng pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn
phương của các cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào
ý chí của những chủ thể có liên quan. Trường hợp cần thiết, áp dụng pháp luật được bảo

đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Trong quá trình áp dụng pháp luật các
cơ quan nhà nước hay những người có thẩm quyền phải xem xét, cân nhắc thận trọng và
dựa trên những quy phạm pháp luật đã được xác định để ra văn bản áp dụng pháp luật cụ
thể. Văn bản áp dụng pháp luật là hình thức thể hiện chính thức của hoạt động áp dụng
pháp luật; là văn bản pháp lý cá biệt mang tính quyền lực do các cơ quan nhà nước, người
có thẩm quyền xây dựng, được Nhà nước trao quyền ban hành trên cơ sở những quy
phạm pháp luật, nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ
chức hoặc xác định những biện pháp, trách nhiệm pháp luật đối với chủ thể vi phạm pháp
luật.
- áp dụng pháp luật là hoạt động theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định. Pháp luật xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên tham gia trong quá trình áp dụng pháp luật. Các cơ quan nhà nước, người có

thẩm quyền và các bên liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định có tính thủ tục đó, để tránh những sự tùy tiện có thể dẫn đến việc áp
dụng pháp luật không đúng, không chính xác. Hình thức thể hiện của hoạt động áp dụng
pháp luật là văn bản áp dụng pháp luật do cơ quan nhà nước, người và tổ chức có thẩm
quyền ban hành có tính chất cá biệt, một lần đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể trong
những trường hợp xác định, phải phù hợp với pháp luật và dựa trên những quy phạm
pháp luật cụ thể; được thể hiện trong những hình thức pháp lý xác định như bản án, quyết
định, lệnh Văn bản áp dụng pháp luật có hai loại: văn bản xác định quyền và nghĩa vụ
của chủ thể và văn bản bảo vệ pháp luật chứa đựng những biện pháp trừng phạt, cưỡng
chế đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật.
- áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh cá biệt, cụ thể đối với các quan hệ xã
hội xác định trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Hoạt động áp
dụng pháp luật cá biệt hóa một cách cụ thể và chính xác những quy phạm pháp luật nhất
định.
- áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo. Các cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền khi áp dụng pháp luật phải nghiên cứu kỹ vụ việc, phân tích làm
sáng tỏ cấu thành pháp lý của nó, trong trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy
định chưa rõ thì phải áp dụng tương tự để từ đó lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp, ra

văn bản áp dụng pháp luật và tổ chức thi hành. Trong quá trình áp dụng pháp luật, người
có thẩm quyền phải có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm phong phú, có đạo đức trong
sáng và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao.
Tóm lại, hoạt động áp dụng pháp luật mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà
nước, được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền hoặc các tổ
chức xã hội khi được Nhà nước trao quyền, nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật
vào các trường hợp cụ thể đối với các cá nhân, tổ chức cụ thể.
1.1.3. Quy trình áp dụng pháp luật
Để hoạt động áp dụng pháp luật được chính xác, đạt chất lượng, hiệu quả cao cần
tiến hành theo quy trình sau đây:
* Xác định đối tượng, phân tích đánh giá đúng, chính xác mọi tình huống, hoàn

cảnh điều kiện của vụ việc thực tế đã xảy ra.
Trước khi quyết định áp dụng pháp luật, các cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền phải điều tra, xem xét, kể cả các biện pháp chuyên môn đặc biệt như xem xét thực
địa, trưng cầu giám định, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để làm sáng tỏ những
sự việc có liên quan. Khi điều tra, xem xét phải đảm bảo sự khách quan, toàn diện và đầy
đủ những tình tiết của vụ việc; phải nghiên cứu, xác định vụ việc đó thực sự có ý nghĩa
pháp lý hay không, đánh giá được tầm quan trọng về mặt pháp lý của nó; tuân thủ các
quy định mang tính thủ tục gắn với mỗi loại vụ việc. Các cơ quan áp dụng pháp luật phải
quan tâm không chỉ kết quả việc xem xét đánh giá sự việc khách quan mà phải xác minh
kết quả đó có mang tính chân lý và đúng pháp luật hay không?
Trên cơ sở đó xem xét có cần phải áp dụng pháp luật đối với vụ việc cụ thể hay
không? Nếu cần thì chuyển sang giai đoạn tiếp theo của quy trình.
* Lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp, phân tích làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa
của quy phạm pháp luật đối với trường hợp cần áp dụng pháp luật.
Trước hết, phải xác định ngành luật điều chỉnh để đi đến lựa chọn quy phạm
pháp luật cụ thể thích ứng với vụ việc. Quy phạm được lựa chọn phải từ các văn bản
quy phạm pháp luật đang có hiệu lực tại thời điểm xảy ra sự việc cần áp dụng. Trong

trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có quy định hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi
tố) thì áp dụng theo quy định đó. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật có quy
định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy phạm trong văn bản pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật không quy
định trách nhiệm pháp lý hoặc quy trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra
trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng quy phạm pháp luật của văn bản mới.
Khi đã lựa chọn được quy phạm pháp luật cụ thể, cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền phải tư duy khoa học, logic, biện chứng làm sáng tỏ, nhận thức đúng đắn nội
dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật.
* Ban hành văn bản áp dụng pháp luật. Giai đoạn này là quan trọng nhất của quá
trình áp dụng pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật cá biệt hóa, cụ thể hóa những quyền
và nghĩa vụ chung chứa đựng trong các văn bản quy phạm pháp luật để ấn định những

quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các chủ thể pháp luật hoặc những biện pháp, trách
nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm.
Văn bản áp dụng pháp luật phải phù hợp với lợi ích và mệnh lệnh của Nhà nước
được thể hiện trong các đạo luật và văn bản quy phạm pháp luật khác. Vì vậy, khi ra văn
bản, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải đánh giá những tình tiết của vụ
việc mang tính pháp lý, có cơ sở khoa học và thực tiễn; phải "chí công, vô tư" không thể
xuất phát từ động cơ cá nhân hoặc quan hệ riêng tư. Văn bản áp dụng pháp luật phải đáp
ứng những yêu cầu sau:
- Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành đúng thẩm quyền đúng tên gọi
và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định; nội dung văn bản phải rõ ràng, chính xác, đầy
đủ, hình thức văn bản phải đảm bảo các quy định của thủ tục hành chính.
- Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở pháp lý, chỉ rõ chi tiết
cụ thể tới điểm, khoản, điều của văn bản pháp luật áp dụng. Nếu văn bản áp dụng pháp
luật được ban hành trong trường hợp áp dụng pháp luật tương tự thì phải có sự lý giải kỹ
càng về tính hợp pháp, hợp lý của việc áp dụng pháp luật tương tự đó, đồng thời cũng
phải ghi rõ đã áp dụng tương tự quy phạm pháp luật nào hoặc nguyên tắc pháp luật nào.

- Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở thực tế, căn cứ vào
những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và có thật thì mới đảm bảo áp
dụng pháp luật chính xác, có tính thuyết phục.
Văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành phù hợp với nhu cầu thực tế của
cuộc sống thì mới bảo đảm cho văn bản quy phạm pháp luật có tính hiện thực. Nếu văn
bản áp dụng pháp luật không phù hợp với thực tế thì khó được thi hành nghiêm chỉnh, thi
hành kém hiệu quả, thậm chí không thể thi hành.
* Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cuối cùng của
quá trình áp dụng pháp luật, tiến hành những hoạt động tổ chức nhằm bảo đảm cho việc
thực hiện đúng văn bản áp dụng pháp luật như việc tổ chức thi hành bản án v.v Trong
quá trình tổ chức thực hiện văn bản cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc
thi hành quyết định áp dụng pháp luật nhằm đảm bảo để quyết định đó được thực hiện
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.

Cuộc sống xã hội hàng ngày có không ít những sự kiện, những quan hệ xảy ra
trong thực tế liên quan tới lợi ích cá nhân, tổ chức cần phải được pháp luật điều chỉnh
ngay lập tức để đảm bảo lợi ích của công dân, các tổ chức và của Nhà nước, song pháp
luật không thể điều chỉnh hết các quan hệ xã hội để có những quy phạm pháp luật mới,
điều chỉnh vấn đề này đòi hỏi phải có thời gian. Mặt khác, rất nhiều sự kiện xảy ra đột
xuất, nhất thời nên cũng chưa hẳn đã cần đến các quy phạm pháp luật mới. Giải pháp cho
những tình huống này là áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết. Tuy nhiên, việc áp
dụng pháp luật tương tự phải rất hạn chế, chỉ khi thật sự cần thiết mới nên áp dụng. Việc
áp dụng pháp luật tương tự phải xuất phát từ lợi ích của xã hội, của Nhà nước và của
công dân, đồng thời phải đảm bảo những yêu cầu của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Không
được tùy tiện áp dụng nguyên tắc tương tự.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân
Theo pháp luật hiện hành thì xét xử là hoạt động đặc trưng, là chức năng riêng có
của Tòa án nhân dân. Hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân là hoạt động trung tâm và
chủ yếu của hoạt động tư pháp. áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án là
một nội dung cụ thể, đặc biệt và quan trọng của hình thức áp dụng pháp luật nói chung.
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói chung và áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân hiện nay là
việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong quá trình xác định sự
thật khách quan của vụ án để ban hành các bản án, quyết định nhân danh Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phán xét, phân xử đúng, sai, xác định tính có căn cứ hay
không có căn cứ, có hợp pháp hay không hợp pháp đối với các tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật. Xét xử là chức năng đặc biệt của Tòa án, "Tòa án
nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
[20, tr. 3].

Có thể thấy rằng, Tòa án nhân dân là cơ quan duy nhất được giao quyền xét xử
các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính nên hoạt động xét xử của Tòa
án nhân dân chính là hoạt động áp dụng pháp luật trong các lĩnh vực giải quyết vụ án
hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và hành chính. Khi giải quyết các tranh chấp quyền sử
dụng đất, hội đồng xét xử có quyền và nghĩa vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và tiến hành xét
xử, đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ đối với việc yêu cầu của đương sự có căn cứ
pháp lý hay không? Ai là người có quyền sử dụng đất đó? Có quyền lựa chọn các văn
bản, quy phạm pháp luật phù hợp, chính xác và ban hành các bản án, quyết định nhằm
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể pháp luật hoặc buộc các chủ thể phải thực
hiện nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Trong đời sống xã hội, tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh giữa các chủ thể
quan hệ pháp luật (gọi chung là các đương sự) bởi do đất đai là tài sản có giá trị lớn đối
với các bên đương sự, việc tranh chấp thắng hay thua có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống,
kinh tế và hoạt động kinh doanh của họ. Trong quá trình tranh chấp luôn tồn tại một hoặc
tất cả các bên đương sự không thực hiện theo các quy định của pháp luật. Có nhiều
nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng tựu trung lại có các nguyên nhân chính sau:
- Khi các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về cách thức giải quyết
tranh chấp phát sinh, một bên hoặc các bên đương sự không muốn thực hiện đúng các
quy phạm pháp luật.
- Khi tranh chấp quyền sử dụng đất, không phải đương sự nào cũng biết hoặc
cũng hiểu được các quy phạm pháp luật của Bộ luật dân sự, Luật đất đai cũng như các
hướng dẫn thi hành Luật đất đai, vì vậy họ hành xử một cách tự nhiên, bột phát theo thói
quen cuộc sống đời thường. Đây là tình trạng phổ biến nhất đối với các loại quan hệ pháp
luật dân sự nói chung cũng như quan hệ pháp luật về đất đai nói riêng. Bên cạnh đó, hệ
thống quy phạm pháp luật dân sự về giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất có số
lượng lớn, quy định lại chung chung, không rõ ràng nên cần có nhiều văn bản dưới luật
như Nghị định của Chính phủ; Thông tư liên ngành; Nghị quyết của hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành.
- Khi các tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra, nếu các đương sự không tự giải

quyết được thì họ có quyền gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền để
yêu cầu Tòa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Sau khi
nhận được đơn khởi kiện của đương sự, Tòa án tiến hành thụ lý vụ án và giải quyết theo
trình tự mà pháp luật tố tụng dân sự quy định như thẩm tra, xác minh các tình tiết liên
quan đến vụ án; lựa chọn quy phạm pháp luật điều chỉnh để giải quyết vụ án và cuối cùng
là ra bản án, quyết định buộc các đương sự thi hành bằng các hình thức tự nguyện thi
hành hoặc có sự cưỡng chế thi hành của cơ quan thi hành án dân sự.
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, ngoài
cơ quan Tòa án còn có sự tham gia của cơ quan Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân
sự cùng giữ vai trò là chủ thể của hoạt động áp dụng pháp luật. Nếu thiếu sự tham gia của

các chủ thể này thì có thể sẽ dẫn tới việc áp dụng pháp luật không chính xác, khách quan
và triệt để. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân luôn là chủ thể chủ yếu trong việc áp dụng pháp
luật để giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất.
Qua sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân là hình thức thực hiện pháp
luật mang tính tổ chức, tính quyền lực của Nhà nước được thực hiện thông qua Hội đồng
xét xử, do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ trì nhằm xác định sự thật khách quan, phân
xử đúng, sai, xác định tính có căn cứ hay không có căn cứ để ban hành các bản án, quyết
định nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giải quyết các tranh
chấp quyền sử dụng đất đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự góp phần
ổn định trật tự xã hội và củng cố mối đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất của Tòa án
nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân và tổ chức, góp phần to lớn
vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do
dân, vì dân.
1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa

án nhân dân là sự biểu hiện cụ thể của việc áp dụng pháp luật dân sự và pháp Luật đất đai
nói chung. Vì vậy, nó mang đầy đủ các đặc điểm của áp dụng pháp luật (đã trình bày cụ
thể ở mục 1.1.2.). Tuy nhiên, với tính chất phong phú đa dạng của các quan hệ pháp luật
dân sự về đất đai cùng với những quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc
tranh chấp quyền sử dụng đất do pháp luật tố tụng dân sự quy định thì áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân có những đặc
điểm riêng biệt, đó là:
- ở giai đoạn đầu tiên của quy trình áp dụng pháp luật là tiến hành thu thập chứng
cứ, lấy lời khai của đương sự và tiến hành một số hoạt động tố tụng khác để làm rõ các
tình tiết liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất. Tòa án nhân dân là chủ thể chủ yếu

của hoạt động này. Hoạt động đối chất, xem xét, thẩm định tại chỗ, ủy thác thu thập
chứng cứ là nhiệm vụ của Tòa án chứ không phải của các cơ quan điều tra như trong tố
tụng hình sự, Tòa án tiến hành một số hoạt động tố tụng theo một trình tự, thủ tục do Bộ
luật tố tụng dân sự quy định. Tuy nhiên, pháp luật cũng quy định Viện kiểm sát nhân dân
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự nói chung và trong giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất nói riêng. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với
những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự khiếu nại, các việc dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản
án, quyết định của Tòa án.
Sự khác nhau giữa hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự và hoạt động xác minh,
thu thập chứng cứ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong tố tụng dân sự, không chỉ
đơn thuần ở chủ thể của hoạt động mà còn thể hiện ở nhiệm vụ điều tra. Nếu như trong tố
tụng hình sự, việc chứng minh tội phạm là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, thì
trong tố tụng dân sự nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là
thuộc về đương sự. Xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như
tính chất, đặc điểm của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, khi Tòa án nhân dân
thụ lý giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất thì Tòa án nhân dân đã có hồ sơ về vụ
tranh chấp quyền sử dụng đất đó. Khi khởi kiện, bên nguyên đơn và bên bị đơn đều phải có
nghĩa vụ xuất trình chứng cứ liên quan và tự chứng minh yêu cầu của mình. Trường hợp cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện thì Tòa án nhân dân cũng yêu cầu các chủ thể này
cung cấp những tài liệu, chứng cứ cần thiết và Tòa án chỉ tiến hành xác minh, thu thập những
chứng cứ trong trường hợp cần thiết do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Trong nhiều trường
hợp đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ, nhất là các chứng cứ có liên quan đến
việc quản lý hồ sơ của các cơ quan nhà nước thì Tòa án phải làm thay họ.
Việc quy định nhiệm vụ xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân trong
giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như trên là cơ sở để Tòa án nhân dân thực hiện
tốt nhiệm vụ tố tụng của mình, mặt khác tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng
khác thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định. Thực trạng ở
nước ta hiện nay trình độ dân trí nói chung, sự hiểu biết pháp luật nói riêng của các
đương sự chưa cao, cho nên Tòa án nhân dân cần phải tích cực giúp đỡ, hướng dẫn

đương sự hiểu rõ quyền lợi hợp pháp của họ, trên cơ sở đó thực hiện tốt nghĩa vụ chứng
minh.
- Hoạt động áp dụng pháp luật nói chung được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn
phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể
bị áp dụng pháp luật. Trong quan hệ pháp luật dân sự, chủ thể chủ yếu của tranh chấp quyền
sử dụng đất là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình. Xuất phát trừ nguyên tắc bình đẳng và quyền
tự định đoạt của các đương sự, Tòa án nhân dân với vai trò là chủ thể chính của hoạt động áp
dụng pháp luật chỉ là "trọng tài" trong việc giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự.
Trước khi đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa, Tòa án nhân dân phải tiến hành hòa giải, chỉ khi
nào các bên đương sự (với sự trung gian hòa giải của Tòa án nhân dân) không tự giải quyết
được tranh chấp với nhau thì Tòa án nhân dân mới đưa ra phán quyết trên cơ sở pháp luật để
bảo vệ quyền và các lợi ích chính đáng của các đương sự buộc bên vi phạm phải thực hiện.
Khi các đương sự không tự giác thi hành phán quyết của Tòa án nhân dân thì mới thực hiện
sự cưỡng chế của cơ quan thi hành án.
- Khi áp dụng pháp luật đối việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất,
pháp luật có quy định nguyên tắc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật. Đây là
đặc điểm riêng biệt, khác hẳn với áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các loại vụ án
khác. Nguyên tắc này xuất phát từ tính đa dạng, phong phú, phức tạp của các quan hệ dân

sự, đặc biệt là trong tranh chấp quyền sử dụng đất. Pháp luật không thể dự liệu hết được
mọi tình huống, trường hợp phát sinh trong thực tế, khi giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất, nhưng Tòa án không thể từ chối đơn yêu cầu giải quyết vì lý do pháp luật chưa
có quy định cụ thể.
- Trước đây, giai đoạn tổ chức thi hành án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân
dân, nhưng từ ngày 01 tháng 10 năm 1993, Pháp lệnh thi hành án dân sự mới có hiệu lực
thì thẩm quyền thi hành các văn bản áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử
dụng đất thuộc về cơ quan thi hành án dân sự. Như vậy, hiện nay áp dụng pháp luật trong
giải quyết các vụ án dân sự nói chung, trong việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
nói riêng của Tòa án nhân dân chỉ bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn xác minh, thu thập
chứng cứ, giai đoạn lựa chọn quy phạm pháp luật và giai đoạn ban hành văn bản áp dụng
pháp luật.

1.2.3. Quy trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
Để áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa
án nhân dân được chính xác, đạt hiệu quả cao, cần tiến hành theo những giai đoạn sau:
*Giai đoạn thứ nhất: nghiên cứu, phân tích, đánh giá các tình tiết, tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến vụ việc
Đây là bước đầu tiên, có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở cho việc cho việc áp
dụng pháp luật chính xác trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa
án nhân dân. Việc xem xét, đánh giá, đối chiếu các chứng cứ không toàn diện, khách
quan, thận trọng thì rất dễ dẫn đến những sai lầm khi ban hành văn bản áp dụng pháp
luật.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì việc nghiên cứu hồ sơ của người
Thẩm phán là công việc không thể thiếu được trước khi tiến hành giải quyết tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân. Trong khi nghiên cứu hồ sơ, người Thẩm phán cần
có phương pháp nghiên cứu phù hợp mới có thể nắm vững nội dung cơ bản cần giải quyết.
Không nắm được trọng tâm, yêu cầu cơ bản cần giải quyết của vụ việc, người Thẩm phán sẽ
không thể có phương hướng đúng đắn để xem xét, đánh giá các chứng cứ; các tài liệu, thông

tin được thu thập qua nghiên cứu hồ sơ không kết nối thành một thể thống nhất. Để có sự
đánh giá mang tính khách quan và toàn diện, cần có phương pháp nghiên cứu đúng đắn.
Người Thẩm phán sẽ rất dễ ràng phát hiện các thông tin, các tình tiết chủ yếu của vụ việc
thông qua hồ sơ vụ án. Từ đó, việc phân loại đánh giá chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gián tiếp,
chứng cứ có ý nghĩa quyết định, chứng cứ có ý nghĩa bổ trợ, liên quan…cũng sẽ dễ dàng và
thuận lợi.
Thông thường, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất cần
được tiến hành từ yêu cầu khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của bên nguyên đơn trước.
Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo Tòa án xác định cụ thể
vấn đề họ yêu cầu, các tài liệu kèm theo có độ tin cậy hay không, còn thiếu những tài liệu
gì, mức độ chứng minh của của các tài liệu này như thế nào. Người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan, nhân chứng của bên nguyên đơn, bên bị đơn đã khai báo những gì…Cũng

tương tự, việc nghiên cứu, xem xét các tài liệu chứng cứ liên quan phía bị đơn nhằm làm
sáng tỏ lý lẽ, chứng cứ phản bác yêu cầu của nguyên đơn có hay không có cơ sở; mức độ
chứng minh và độ tin cậy của các tài liệu chứng cứ do bị đơn xuất trình ra sao, có cần
phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ mới hay không Nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ việc sẽ
giúp cho người Thẩm phán có được sự tự tin và tính chủ động hơn, giúp việc áp dụng
pháp luật có chất lượng tốt hơn.
* Giai đoạn thứ hai: Tìm lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp với vấn đề cần
giải quyết của vụ việc
Tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật là đối chiếu tình tiết sự việc xảy ra với quy
phạm pháp luật để điều chỉnh phù hợp. Có hay không có quy phạm pháp luật điều chỉnh?
quy pháp luật điều chỉnh còn hiệu lực không? nếu chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh
thì có quy phạm pháp luật nào gần giống để áp dụng tương tự hay không?
Trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân nói chung, trong việc giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng, việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật để áp
dụng là một giai đoạn bắt buộc, có ý nghĩa to lớn trong việc bảo đảm tính đúng đắn và
hợp pháp của quyết định khi ban hành. Hiện nay số lượng văn bản quy phạm pháp luật
liên quan lĩnh vực quản lý đất đai được Nhà nước ta ban hành là rất lớn để đáp ứng yêu

cầu thực tiễn quản lý đất đai. Vì vậy, người Thẩm phán cần có sự tích lũy và cập nhật văn
bản pháp luật đất đai, văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực đất đai nhằm phục vụ
tốt cho việc tra cứu, tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp khi xem xét giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất. Tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai
thường là việc không đơn giản vì số lượng văn bản trong lĩnh vực này là rất lớn và khá
phức tạp. Việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật không chỉ dựa trên các văn bản quy
phạm pháp luật do các đương sự cung cấp mà còn phải nghiên cứu mở rộng ra các văn
bản khác có liên quan; tìm hiểu xem văn bản quy phạm pháp luật đó có còn hiệu lực
không hay đã được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ chưa? nếu là bản sao thì phải đối chiếu với
văn bản gốc để đảm bảo tính chính xác khi áp dụng. Sau đó, nghiên cứu kỹ nội dung văn
bản quy phạm pháp luật cần áp dụng để giải quyết vụ án là một bước quan trọng không
thể bỏ qua.

Việc tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật chính xác, đúng đắn và phù hợp để áp
dụng khi giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đảm bảo cho việc ra bản án, quyết định
chính xác, phù hợp là việc làm quan trọng của người Thẩm phán. Việc tìm và lựa chọn
quy phạm pháp luật phải trở thành kỹ năng nghề nghiệp của người Thẩm phán qua quá
trình áp dụng pháp luật từ thực tiễn. Chính kỹ năng nghề nghiệp và sự nhanh nhạy của
người Thẩm phán sẽ mách bảo quy phạm pháp luật nào cần phải xem xét, nghiên cứu để
áp dụng. Kỹ năng nghề nghiệp càng ở trình độ cao thì việc tìm và lựa chọn quy phạm
pháp luật phù hợp càng nhanh nhạy và càng chính xác.
* Giai đoạn thứ ba: Ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Ban hành văn bản áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất tại Tòa án nhân dân chính là việc ban hành bản án, ban hành quyết định giải quyết
tranh chấp quyền sử dụng đất giữa các đương sự. Bản án và quyết định của Hội đồng xét
xử được ban hành sau khi đã điều tra, xác minh, xem xét, đối chiếu các tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án và qua thẩm tra, tranh luận công khai tại phiên tòa có giá trị phán
xét, phân xử nhằm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo đúng quy định của pháp
luật.
Người Thẩm phán ban hành văn bản áp dụng pháp luật, giải quyết tranh chấp

quyền sử dụng đất phải biết tổng hợp các tình tiết vụ việc một cách chính xác, lôgic từ
việc đối chiếu các chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ với các lời khai, tài liệu đã
được xem xét tại phiên tòa thì mới chọn được quy phạm pháp luật một cách chính xác để
ban hành bản án và quyết định một cách đúng đắn. Bản án, quyết định giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân phải đảm bảo khách quan, nghiêm minh,
đúng pháp luật, nhưng có tình, có lý, có tính thuyết phục lòng người; nội dung, hình thức
bản án phải theo đúng quy định của pháp luật. Cách lập luận, phân tích, đánh giá, nhận
định bằng lời văn trong sáng. Chất lượng của bản án, của quyết định là một trong những
thước đo rất quan trọng để đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật trong việc xét xử của
cơ quan Tòa án, đánh giá năng lực, trình độ chuyên môn của người Thẩm phán.

1.3. Tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân
1.3.1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật trong việc giải
quyết tranh chấp quyền sử dụng đất
Tiêu chí đánh giá chất lượng áp dụng pháp luật trong giải quyết các tranh chấp
quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân bao gồm:
* Tiêu chí thứ nhất: Mức độ chính xác, đúng pháp luật, phù hợp với thực tiễn và
khả năng thi hành của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân về giải quyết các tranh
chấp quyền sử dụng đất.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân về việc giải quyết các tranh chấp quyền
sử dụng đất là một loại văn bản áp dụng pháp luật, đòi hỏi phải được ban hành một cách
hợp pháp, đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục, có căn cứ pháp lý, phù hợp với thực
tiễn cụ thể của sự việc và có khả năng thi hành trên thực tế. Muốn vậy, nội dung, lý lẽ và
nhận định của bản án và quyết định của Tòa án nhân dân phải xuất phát từ sự nhận xét,
đánh giá khách quan sự việc, không thiên lệch vì bất cứ lý do gì để đưa ra những phán
quyết công bằng, phù hợp, thuyết phục được lòng người, có khả năng thi hành.
Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân trong giải quyết các tranh chấp quyền sử
dụng đất được ban hành đúng thẩm quyền, theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân
sự là một trong những nội dung quan trọng thể hiện tính hợp pháp của bản án, quyết định

đó. Trường hợp một bản án, quyết định sai thẩm quyền thường dẫn đến nhiều hậu quả
xấu cho các đương sự, cho nền dân chủ và pháp chế của đất nước, vi phạm các quyền tự
do dân chủ của công dân. Nếu như việc tranh chấp quyền sử dụng đất không thuộc thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân mà Tòa án nhân dân lại đưa ra xét xử, hoặc như vụ
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng Tòa án nhân dân
cấp tỉnh lại giải quyết là sai thẩm quyền, theo quy định của pháp luật thì bản án, quyết
định được ban hành sẽ không hợp pháp. Nghiêm trọng hơn là tình trạng nhầm lẫn từ quan
hệ pháp luật dân sự trong tranh chấp quyền sử dụng đất để rồi biến thành quan hệ pháp
luật hành chính dẫn đến việc áp dụng pháp luật hành chính ban hành bản án, quyết định
oan, sai, không bảo vệ được quyền lợi cho công dân.

Tính hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân về giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất còn thể hiện ở việc bản án, quyết định được ban hành đúng trình
tự, thủ tục và trong thời hạn luật định. Theo quy định của pháp luật nước ta, các bản án,
quyết định phải được ban hành theo nguyên tắc xét xử tập thể, quyết định theo đa số và
phải đảm bảo các thủ tục chặt chẽ, trong thời gian luật định. Việc áp dụng các thủ tục tố
tụng dân sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án,
nếu trong quá trình xem xét, giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất, người Thẩm
phán vi phạm thủ tục quy định trong Luật tố tụng dân sự, dù là nhỏ, cũng đều có ảnh
hưởng không tốt đến chất lượng xét xử. Thời hạn tiến hành giải quyết một vụ việc tranh
chấp quyền sử dụng đất cũng được luật tố tụng dân sự quy định chặt chẽ, đòi hỏi người
Thẩm phán phải thực hiện nghiêm chỉnh. Mọi vi phạm thủ tục và thời hạn ban hành bản
án và quyết định của Tòa án nhân dân đều ảnh hưởng xấu đến tính hợp pháp của nó.
Tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân giải
quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất biểu hiện ở toàn bộ nội dung văn bản, từ việc mô
tả các tình tiết của sự việc một cách khách quan đến việc xem xét đối chiếu các tài liệu,
chứng cứ có trong hồ sơ và việc tranh luận công khai tại phiên tòa đến việc nhận định
một cách chính xác, khách quan về sự việc. Việc đánh giá chứng cứ và nhận định các tình
tiết của sự việc không khách quan, còn thiếu sót, cho dù là tình tiết có lợi hay bất lợi cho
một trong các bên đương sự đều dẫn đến kết quả áp dụng pháp luật không chính xác.

Tính chính xác và tính khách quan trong các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân còn
biểu hiện ở việc chọn quy phạm pháp luật đúng, viện dẫn điều luật, giải thích nội dung
quy phạm pháp luật đầy đủ và chính xác; nếu như viện dẫn điều luật không đầy đủ, giải
thích, áp dụng pháp luật theo chủ quan của mình thì bản án, quyết định được ban hành
không còn khách quan, chính xác nữa.
Tính chính xác, khách quan của bản án, quyết định của Tòa án nhân dân thể hiện ở
khả năng tìm và lựa chọn quy phạm pháp luật, khả năng áp dụng chính xác pháp luật. Thực
tế cho thấy, pháp luật về đất đai cũng như pháp luật liên quan đến đất đai được các cơ quan
có thẩm quyền ban hành nhiều, liên tục để điểu chỉnh cho phù hợp với chính sách, pháp luật
của Nhà nước qua từng giai đoạn lịch sử khác nhau, do đó đòi hỏi người Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân phải nghiên cứu, tìm tòi và lựa chọn chính xác văn bản pháp luật để áp dụng

×