LUẬN VĂN:
Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hà Nội
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) là một trong những nguyên tắc cơ bản làm nền
tảng cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước XHCN. Nguyên
tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước trước hết phải dựa
trên cơ sở pháp luật và được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi cán bộ, công
chức nhà nước phải nghiêm chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi thực hiện quyền hạn và nhiệm
vụ của mình. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm
pháp luật cũng là một nội dung quan trọng của nguyên tắc pháp chế XHCN.
Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một trong bốn hệ thống cơ quan cấu thành
nên bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chế định về VKSND là một
đặc điểm riêng có của kiểu Nhà nước XHCN theo sáng kiến vĩ đại của V.I. Lênin. Cùng
với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, thời gian qua ngành Kiểm sát nhân dân
(KSND) đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Từ năm 2001 trở về trước, VKSND là
cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật và thực hành quyền công tố. Từ khi ra đời (ngày 26/7/1960) cho đến nay, hệ thống
VKSND đã phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức năng của mình, góp phần
đáng kể vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN nhằm mục đích bảo vệ và xây dựng
thành công Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đang chủ trương đổi mới toàn diện
đất nước theo hướng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Thực hiện chủ trương đó,
Đảng ta xác định phải đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đổi mới của đất nước. Một trong những
trọng tâm của quá trình đổi mới đó là việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp, trong đó có hệ thống VKSND các cấp.
Quan điểm về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp đã được đề
cập trong các văn kiện của Đảng trong các nhiệm kỳ từ Đại hội lần thứ VII của Đảng đến
nay như: Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII, Đại hội VIII
và Đại hội IX của Đảng.
Trong Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương khóa VII tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ của cải cách tổ chức và
hoạt động tư pháp trong giai đoạn hiện nay là:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật làm cơ
sở cho tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp, bảo đảm mọi vi
phạm pháp luật đều bị xử lý, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Củng cố kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp, phân định lại thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ
thẩm cho Tòa án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, các cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan tổ chức bổ
trợ tư pháp.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng xác định:
Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công
tác bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không được để xảy ra những
trường hợp oan sai. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống Tòa án nhân dân, tổ chức lại
Cơ quan điều tra và Cơ quan thi hành án theo nguyên tắc gọn đầu mối.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa
X tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi một số điều của Hiến pháp
năm 1992. Theo đó, chức năng của VKSND là: "thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp". Để thực hiện chức năng theo Hiến pháp quy định, hệ thống VKSND
phải đổi mới cả về tổ chức và phương pháp hoạt động sao cho phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh mới.
Trong hoàn cảnh đó, việc tăng cường pháp chế XHCN không chỉ là một nhiệm vụ
mà còn là một quan điểm cơ bản có tính nguyên tắc chỉ đạo việc tiếp tục cải cách bộ máy
nhà nước nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
nhằm đảm bảo thắng lợi cho quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Để tăng cường pháp
chế, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, không chỉ xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật, mà quan trọng hơn là tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực
hành thường xuyên và nghiêm chỉnh, đấu tranh kiên quyết với những hành vi vi phạm
pháp luật. Pháp luật không được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất thì pháp luật sẽ
không có hiệu lực và trên thực tế cũng sẽ không có pháp chế.
Muốn cho pháp luật của Nhà nước được đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh và thống
nhất thì điều quan trọng trước nhất là các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế,các cán bộ của Đảng và công chức nhà nước phải
tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, phải tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của
nhân dân, phải làm đúng trách nhiệm là người thừa hành ý kiến của nhân dân, là người bảo
vệ và phục vụ lợi ích của nhân dân. Từ đó đòi hỏi phải tăng cường pháp chế XHCN trong
hoạt động của VKSND nói chung và của mỗi cán bộ, kiểm sát viên của VKSND thành phố
Hà Nội nói riêng.
Trong những năm qua, VKSND thành phố Hà Nội đã thực hiện tốt công tác kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tư pháp trên địa bàn Thủ đô và
thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh và thống nhất,
phát huy vai trò tích cực của mình trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm,
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Song, bên cạnh những ưu điểm trên, công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố còn bộc lộ những sai sót cần khắc phục. Để hoàn thành tốt chức năng của
mình, xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng trong việc bảo vệ nền pháp chế XHCN,
ngành KSND phải tiếp tục phấn đấu phát huy thành tích, hạn chế và khắc phục khuyết điểm.
Nhằm góp phần làm sáng rõ thêm về mặt lý luận và thực tiễn của việc tăng cường pháp chế
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tác giả chọn đề
tài: "Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc
sĩ luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Pháp chế XHCN là một phạm trù khoa học pháp lý cơ bản, đã được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau. Lý luận về pháp
chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã được hình thành và phát triển rực rỡ trong
nền khoa học pháp lý Xô-viết và các nước XHCN trước đây. ở nước ta, vấn đề tăng cường
pháp chế XHCN đã trở thành quan điểm chính thống và nhất quán được thể hiện trong các
văn kiện của Đảng ta qua nhiều kỳ Đại hội; quan điểm đó cũng đã được thể hiện trong
nhiều tác phẩm của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, vấn
đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN đã trở thành một nội dung khoa học có
vị trí không thể thiếu trong giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của các
trung tâm đào tạo Chính trị - Pháp lý như: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại
học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Luật Hà Nội v.v
Hiện nay vấn đề "tăng cường pháp chế XHCN"đã trở thành một nguyên tắc hiến
định, chính vì vậy nó đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học
pháp lý; có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về pháp chế và tăng cường pháp chế
XHCN gần đây đã được công bố như:
- Luận án TS Luật học của Nguyễn Phùng Hồng về "Tăng cường pháp chế XHCN
trong hoạt động của lực lượng công an nhân dân trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia ở
nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1994.
- Luận án TS học Luật học của Quách Sỹ Hùng về "Tăng cường pháp chế về kinh
tế trong quản lý nhà nước nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.
- Luận án TS Luật học của Nguyễn Nhật Hùng về "Tăng cường pháp chế XHCN
trong lĩnh vực bảo vệ sức khỏe nhân dân ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, năm 1996.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn Huy Bằng về "Tăng cường pháp chế
XHCN trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2001.
Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.
Như vậy, vấn đề pháp chế và tăng cường pháp chế XHCN trong một số lĩnh vực
cụ thể đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ. Tuy nhiên, về pháp chế và
tăng cường pháp chế XHCN trong lĩnh vực hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp của VKSND thì chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
toàn diện.
Chính vì vậy có thể coi đề tài " Tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hà Nội " là công trình đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp
tục tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế trong hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
- Đánh giá thực trạng pháp chế trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp thông qua việc phân tích kết quả hoạt động của VKSND thành
phố Hà Nội trong một số năm gần đây.
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND
thành phố Hà Nội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu một cách tổng quát cơ sở lý luận về pháp chế XHCN và pháp chế
trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND
thành phố Hà Nội và trong một số năm gần đây.
5
. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật; cũng như các quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam để chỉ
đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân hiện nay.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu của triết học Mác
- Lênin như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng
hợp; phương pháp nghiên cứu lịch sử, cụ thể và toàn diện. Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các phương
pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, mô hình hóa
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về pháp chế XHCN trong hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
-
Lần đầu tiên đánh giá có hệ thống về pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp VKSND thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tăng cường pháp chế XHCN trong hoạt
động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về pháp chế và pháp chế
trong hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp
1.1. Cơ sở lý luận chung về pháp chế xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là một khái niệm khoa học được hình thành trong nền khoa học
pháp lý XHCN. ở nước ta đã từ lâu, pháp chế XHCN không chỉ được quan tâm về khái
niệm mà đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như hoạt
động của công dân trong đời sống xã hội. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; chính vì vậy, pháp chế XHCN càng phải là
một nguyên tắc cơ bản được xếp trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước XHCN (như các nguyên tắc: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân; tập trung dân chủ; nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự
phân công, phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; giữa nhà nước
Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương ).
Trước khi đi sâu tìm hiểu về khái niệm pháp chế XHCN, chúng ta hãy tìm hiểu
quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này.
1.1.1.1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về pháp chế
XHCN
C.Mác và Ph.ăngghen là những người đã đề ra phương pháp luận tiên tiến và khoa
học để nghiên cứu lý luận về Nhà nước và pháp luật. Tuy hai ông không nêu ra một khái
niệm cụ thể nào về pháp chế song qua các tác phẩm của mình, tư tưởng của các ông về
pháp chế đã được đề cập trong khi nghiên cứu pháp luật trong các nhà nước bóc lột.
Trong bộ Tư bản, tuy C. Mác không bàn trực tiếp về vấn đề pháp chế nhưng khi
nghiên cứu các quan hệ giữa nhà nước và công dân trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
C.Mác cho rằng pháp chế là một chế độ tuân thủ pháp luật trong thực tiễn.
Còn Ph.ăngghen, trong tác phẩm "Bàn về vấn đề nhà ở" đã luận về pháp chế như
sau:
ở một giai đoạn rất cổ xưa nào đấy của sự phát triển xã hội, nhu cầu làm
cho người ta thấy cần phải tập hợp dưới một quy tắc chung. Những hành vi sản
xuất phân phối và trao đổi sản phẩm tái diễn hàng ngày cần phải làm thể nào để
mọi người phải phục tùng những điều kiện chung về sản xuất, trao đổi. Quy tắc
đó thoạt tiên là thói quen sau đó trở thành pháp luật. Có pháp luật thì những cơ
quan có nhiệm vụ duy trì pháp luật đó tất phải xuất hiện: quyền lực công cộng,
nhà nước. Trong tiến trình phát triển sau này của xã hội, pháp luật phát triển
thành pháp chế ít nhiều rộng rãi. Pháp chế càng phức tạp bao nhiêu thì thuật ngữ
của nó càng xa rời thuật ngữ biểu hiện những điều kiện kinh tế thông thường
của xã hội bấy nhiêu. Lúc đó pháp chế ấy xuất hiện như một nhân tố độc lập mà
lý do tồn tại và cơ sở của sự tiến triển sau này của nó không phải xuất phát từ
những điều kiện kinh tế mà từ chính những nguyên nhân sâu sắc của bản thân
nó hay có thể nói ra từ khái niệm về ý chí [38, tr. 752].
Phát triển tư tưởng pháp chế của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã đề cập rõ nét
tư tưởng pháp chế XHCN ở nhiều bài nói, bài viết trong đó có thể kể đến những tác phẩm
tiêu biểu như: "Sơ thảo đề cương nghị quyết về tuân thủ pháp luật", "Bàn về chế độ song
trùng trực thuộc và pháp chế’, "Thư gửi công dân và nông dân về việc đánh thắng Côn-
tsắc" Và chúng ta có thể nói rằng, V.I. Lênin chính là người đầu tiên đã đưa ra các luận
điểm cơ bản về pháp chế XHCN.
Trong các tác phẩm của mình, Lênin đã đưa ra nhưng luận điểm cơ bản về pháp
chế. Không những thế, Người còn cho rằng, việc thực hiện pháp luật là một chế độ trong đời
sống xã hội. Nó là vấn đề thường xuyên phải chăm lo. Pháp chế phải là một chế độ tuân
thủ pháp luật của nhà nước cách mạng. Lênin yêu cầu phải thiết lập một nền pháp chế
thống nhất trong toàn nước cộng hòa. Người cũng quan tâm đến cơ chế bảo đảm pháp chế
được tôn trọng trong đó có nhấn mạnh "nhà nước và mọi công dân phải chịu kiểm sát" mà
sự kiểm sát này được giao cho một cơ quan không tổ chức theo mô hình "song trùng trực
thuộc".
V.I. Lênin là người đầu tiên đưa ra các luận điểm cơ bản về pháp chế XHCN.
Ngay từ năm thứ hai của nhà nước Xô viết, Lênin đã viết "Sơ thảo đề cương quyết định về
việc tuân thủ đúng pháp luật" - Đề cương này đã trở thành cơ sở đề ra nghị quyết về việc tôn
trọng nghiêm chỉnh pháp chế. Năm 1922, trong bức thư "Bàn về chế độ trực thuộc song
trùng và pháp chế", Lênin đã đưa ra những luận điểm cơ bản làm cơ sở cho pháp chế
XHCN. ở đây, Người đã nêu lên những nội dung cơ bản về pháp chế XHCN.
Trong bối cảnh cách mạng Nga mới thành công, một chính sách kinh tế, một đạo
luật, sắc lệnh được ban hành và thực hiện là một cuộc đấu tranh giai cấp hết sức gian khổ.
Bên cạnh sự thù địch của các thế lực phản cách mạng còn là sự cản trở của bệnh hành
chính quan liêu trong bộ máy nhà nước và hiện tượng không tuân thủ các đạo luật của
chính quyền Xô viết trong đời sống xã hội. Một sự thật mà Lênin đã nói là: "Chúng ta
đang sống trong tình trạng mà đâu đâu cũng có những hiện tượng không tôn trọng pháp
luật và ảnh hưởng của địa phương là một trong những trở ngại lớn nhất cho công cuộc
thiết lập pháp chế" [32, tr. 234].
Người thường gắn việc củng cố quyền lực nhà nước, quyền lực của nhân dân với
việc củng cố pháp chế cách mạng, pháp chế XHCN. V.I. Lênin cho rằng: "Điều kiện của
một chính quyền vững vàng và chắc chắn càng tiến bộ, sự trao đổi của dân chúng càng
phát triển, thì phải cấp bách đề ra khẩu hiệu kiên quyết phải có pháp chế cách mạng rộng
lớn " [33, tr. 404].
Trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, việc tổ chức và hoạt động của nó phải trên cơ
sở bảo vệ chế độ thực hiện pháp luật thống nhất trong cả nước cộng hòa. Vì vậy, V.I.
Lênin cho rằng tổ chức Viện kiểm sát (VKS) theo nguyên tắc "Song trùng trực thuộc" như
các cơ quan nhà nước khác là một sai lầm. VKS theo V.I. Lênin là cơ quan kiểm sát toàn
bộ chế độ tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước và mọi công
dân. Nó bảo đảm cho "bất cứ quyết định nào của bất cứ một cơ quan hành chính địa
phương nào cũng không đi ngược lại pháp luật" [32, tr. 233]. Cho nên "Viện kiểm sát địa
phương chỉ trực thuộc vào Trung ương" [32, tr. 236].
Tư tưởng pháp chế của V.I. Lênin có thể khái quát như sau:
Thứ nhất: Pháp chế là sự thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để pháp luật trong thực tế
của mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã hội.
Thứ hai: Chính sách của Đảng cộng sản phải được khẳng định bằng pháp luật. Quá
trình ban hành pháp luật, hoàn thiện pháp luật phải đi đôi với việc thiết lập nền pháp chế
XHCN.
Thứ ba: Đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp - cơ sở thiết lập một chế độ pháp chế
thống nhất trong cả nước.
Thứ tư: Pháp chế là những phương pháp chuyên chính vô sản, phương pháp quản
lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ năm: Pháp chế XHCN là phương pháp bảo đảm, bảo vệ quyền con người,
thực hiện nền dân chủ XHCN, xóa bỏ bóc lột và bất công, thiết lập bình đẳng, công bằng
xã hội.
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về pháp chế XHCN
ý tưởng về việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và
tăng cường pháp chế không phải gần đây mới được đề cập tới, mà từ lâu đã được Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Đảng ta quan tâm và chú trọng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường của cách mạng Việt Nam, từ năm 1919, Nguyễn ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã nói lên
tiếng nói của các dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam về khao khát một xã hội thực sự
có luật pháp và những thiết chế cần thiết cho sự duy trì và thi hành pháp luật:
"Bẩy xin Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền".
Đây là một trong 8 yêu sách mà Nguyễn ái Quốc gửi cho các nước đồng minh tại
Hội nghị Vessailles năm 1919. Và trên cơ sở nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng
của Hiến pháp trong việc xây dựng và củng cố một Nhà nước kiểu mới, nhằm phát huy các
quyền tự do, dân chủ của nhân dân và bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân
dân, trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam độc lập - Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ
thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp. Nhân
dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp
dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau một thời gian ngắn, ngày
09-11-1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được Quốc
hội khóa I thông qua.
Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và bản Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập ra đời cho đến nay, trong suốt hơn 50 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước ta trong mọi thời kỳ phát triển khác nhau của đất nước
không chỉ chú trọng tới việc ban hành Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác mà còn
luôn đòi hỏi sự chấp hành và thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật.
Trên cơ sở lý luận Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật, sự kế thừa và phát triển
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã sớm hình thành và từng bước hoàn thiện
tư tưởng về pháp chế XHCN, và tăng cường pháp chế XHCN. Điều đó thể hiện rõ trong
văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng, các bản Hiến pháp qua các thời kỳ khác nhau của cách
mạng nước ta.
Ngay tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần III (Đại hội đầu tiên sau khi
miền Bắc được giải phóng) vấn đề pháp chế đã được quan tâm. Trong Văn kiện Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III đã ghi:
Nhà nước cần nghiêm trị những cán bộ lợi dụng cương vị công tác của
mình để xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm pháp luật của nhà nước, đồng
thời cần khen thưởng những cán bộ có công và có đạo đức.
Cần phải tăng cường vai trò của cơ quan nhà nước các cấp, thực hiện
đúng chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt của các cơ quan nhà nước. Tất cả
những chế độ pháp luật, thể lệ của Nhà nước phải được cơ quan chính quyền các
cấp chấp hành nghiêm chỉnh. Kế hoạch nhà nước là một pháp lệnh, các cơ quan
nhà nước phải chấp hành đúng và phải đảm bảo cho mọi người chấp hành đúng
[5, tr. 118].
Có thể thấy rằng, cách đề cập này còn sơ sài. Ngay thuật ngữ pháp chế cũng chưa
được nêu một cách trực diện. Điều đó cũng dễ hiểu bởi thời điểm đó đất nước còn chia
thành hai miền với hai nhiệm vụ chiến lược, việc nghiên cứu lý luận còn hạn chế. Đáng
chú ý là tại Đại hội lần này, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã trình bày tham luận quan trọng
với nhan đề "Mấy vấn đề về Nhà nước dân chủ nhân dân" trong đó khẳng định: "Tăng
cường nhà nước dân chủ nhân dân là tăng cường pháp chế XHCN" [5, tr. 64]. Ông còn
nói: " chúng ta phải rất xem trọng công tác lập pháp, dần dần xây dựng nền pháp chế
XHCN ngày càng đầy đủ. Đồng thời, chúng ta phải ra sức giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh
thi hành pháp luật và có thái độ xử lý nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm pháp
luật" [5, tr. 65]. ở đây, pháp chế đã được đề cập rõ hơn song vẫn còn chưa tách bạch giữa
"pháp chế" và "hệ thống pháp luật".
Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã khẳng định:
Quyền làm chủ tập thể của nhân dân bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng phải được xác định bằng Hiến pháp và pháp luật. Sức mạnh và nội
dung cơ bản của pháp chế XHCN chính là quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
Cần tăng cường pháp chế XHCN, làm cho mọi hoạt động của các cơ quan Nhà
nước đi vào khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm
chủ tập thể và đảm bảo quyền lợi của công dân.
Pháp luật phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đòi
hỏi công dân phải làm tròn nghĩa vụ, phải tuân theo pháp luật. Đối với những
người không tự giác thì phải cưỡng chế và bất cứ ai vi phạm pháp luật đều phải
xử phạt thích đáng [6, tr. 146- 147].
Rõ ràng là trong giai đoạn này, tư tưởng pháp chế XHCN của Đảng ta không
những được xác định rõ hơn về vai trò, nội dung mà còn được quan tâm đến cả cơ chế đảm
bảo. Một mặt nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; mặt khác là thực hiện sự
cưỡng chế đối với các hành vi vi phạm pháp luật.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V thì vấn đề tăng cường pháp chế XHCN
đã được đề cập một cách trực diện. Đó là: "Tăng cường pháp chế XHCN là một yêu cầu
cấp thiết để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, bảo đảm quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động" [7, tr. 114]. Không những thế trong văn kiện của Đại hội còn nêu lên
vấn đề "khắc phục cho được tình hình không bình thường là nhiều luật và pháp lệnh được
ban hành không được thi hành nghiêm chỉnh, thậm chí không được thi hành" [7, tr. 115].
Nhiều biện pháp nhằm tăng cường pháp chế XHCN đã được đưa ra trong đó đáng chú ý là
"đưa việc giáo dục về pháp luật vào các trường học, các cấp học, xây dựng ý thức sống có
pháp luật và tôn trọng pháp luật" [7, tr. 115]. Bên cạnh đó là việc tăng cường công tác
kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu tố và yêu cầu cán bộ, đảng viên gương mẫu thi hành
pháp luật, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống các hành vi vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế XHCN.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thì trong Nghị quyết đã chỉ rõ: "Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc
theo pháp luật. Mọi vi phạm đều phải xử lý" [8, tr. 121]. Do vậy, Nghị quyết cũng đặt ra yêu
cầu đối với các cấp ủy Đảng từ Trung ương tới địa phương phải thường xuyên quan tâm
lãnh đạo công tác pháp chế, kiểm tra hoạt động của tất cả các cơ quan và đặc biệt là các cơ
quan pháp chế. Phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân và dư luận xã hội để đấu
tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các biểu hiện tiêu cực, vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII cũng xác định: "Điều quan trọng để phát huy
dân chủ là xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nâng cao trình độ dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật
của nhân dân" [9, tr. 121]. Tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, trong công tác xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Đảng ta tiếp tục quán triệt sâu
sắc quan điểm "Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức"
[10, tr. 79].
Như vậy, vấn đề pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN từ lâu đã trở
thành quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Pháp chế XHCN và tăng cường
pháp chế XHCN không chỉ đơn thuần là những vấn đề lý luận mà còn mang ý nghĩa thực
tiễn to lớn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm và củng cố chế độ xã hội XHCN, và đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình mới. Từ sự phân tích về vai trò và
ý nghĩa của pháp chế XHCN và tăng cường pháp chế XHCN, có thể nhận thức một cách
khái quát về pháp chế XHCN.
1.1.1.3. Khái niệm và những nội dung cơ bản của pháp chế XHCN
Dựa vào những nguyên lý cơ bản của Lênin, các nhà khoa học pháp lý ở Liên Xô
trước đây đã xây dựng khái niệm mới về "pháp chế cách mạng" -pháp chế XHCN. Cơ sở
thiết lập pháp chế XHCN là hệ thống pháp luật của Nhà nước kiểu mới. Điều kiện quyết
định để pháp luật đi vào cuộc sống là Nhà nước XHCN và ý thức tự giác của đông đảo
quần chúng nhân dân. Nội dung cơ bản của pháp chế XHCN được các nhà khoa học pháp
lý tập trung nhấn mạnh ở những điểm chủ yếu. Đó là:
Pháp chế XHCN là sự đòi hỏi sự tuân thủ và chấp hành pháp luật đối với các cơ
quan nhà nước, các cán bộ nhân viên trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức và nhân
viên của các tổ chức chính trị - xã hội và mọi công dân.
Cùng với sự ra đời của khái niệm pháp chế XHCN, ngày nay với sự phát triển của
khoa học pháp lý các khái niệm, phạm trù pháp lý nói chung và pháp chế nói riêng đã được
xây dựng hoàn thiện hơn; phản ánh thực tế khách quan của đời sống nhà nước và xã hội.
Trong sự hoàn thiện khái niệm pháp chế, nội dung chủ yếu đã được làm rõ là "ranh giới"
của hiện tượng pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm pháp luật và hiện tượng của
hệ thống các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật. Trong thực tế định nghĩa về
pháp chế có tính khoa học được nhiều người thừa nhận và ghi vào sách giáo trình môn Lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật là: "Pháp chế XHCN là chế độ của đời sống chính trị
xã hội trong đó Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; các cơ quan nhà nước; các tổ
chức chính trị; các tổ chức chính trị - xã hội; các đơn vị kinh tế và mọi công dân đều phải
tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật; mọi vi phạm pháp luật đều bị xử lý".
Trong nền khoa học pháp lý Xô viết, các khái niệm, phạm trù pháp lý khác cũng
hình thành và phát triển. Trong đó phải kể đến các khái niệm gần gũi với khái niệm pháp
chế như: Thực hiện pháp luật và trật tự pháp luật. Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt
động có chủ định của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật nhằm làm cho pháp luật được
thực hiện trong cuộc sống. Quá trình hoạt động đó bao hàm các dạng hành vi thực hiện
pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, chấp hành pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp
luật. Như thế hệ thống quy phạm pháp luật của Nhà nước thông qua chế độ thực hiện pháp
luật đã được chuyển hóa thành pháp chế.
Như vậy, quan điểm cơ bản từ trước tới nay vẫn coi: "Pháp chế chính là sự đòi hỏi
mọi cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức
chính trị - xã hội và các tổ chức kinh tế cũng như mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh
thực hiện pháp luật trong hoạt động của mình". Theo đó, định nghĩa này tập trung nhấn
mạnh nội dung cơ bản đó là sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của mọi chủ thể pháp luật.
Đặc trưng lớn nhất của pháp luật là tính qui phạm phổ biến, pháp luật mang tính
bắt buộc chung đối với mọi đối tượng tham gia các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh, điều
này được nhà nước thừa nhận và được đảm bảo bằng các biện pháp cưỡng chế mang tính
nhà nước. Mọi chủ thể pháp luật đều phải xử sự phù hợp với pháp luật. Bản thân nhà nước
- chủ thể ban hành và đảm bảo sự thi hành pháp luật cũng phải tự đặt mình vào việc
nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Bởi Nhà nước và pháp luật của chúng ta mang tính nhân
dân sâu sắc, phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và lợi ích của nhân dân, đường lối
chính sách của Đảng đã được thể chế hóa thành luật. Nhà nước pháp quyền XHCN không
cho phép Nhà nước và các chủ thể quyền lực công đứng ngoài và hành xử ngoài pháp luật.
Đứng trước pháp luật, mọi người đều bình đẳng, tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều bị
trừng trị, mọi chủ thể vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm pháp lý. Pháp chế
XHCN xa lạ với sự phân biệt đối xử, đặc quyền đặc lợi, không có đất cho các biểu hiện lạm
dụng chức quyền.
Định nghĩa như vậy không có nghĩa là phủ nhận hay coi nhẹ vai trò tiền đề của
pháp luật đối với pháp chế. Bởi pháp chế và pháp luật là hai khái niệm gần gũi, có quan hệ
chặt với nhau nhưng không đồng nhất. Trong đó pháp luật được hiểu là hệ thống các qui
phạm do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là một trong
những yếu tố bảo đảm sự phát triển của xã hội. Đồng thời, pháp luật ghi nhận và thể chế
hóa các quyền tự do dân chủ của công dân, thiết lập nên các bảo đảm pháp lý đảm bảo cho
các quyền đó được thực hiện trên thực tế. Qua đó, người dân tìm thấy ở pháp luật phương
tiện bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN, pháp luật còn là phương tiện thể chế hóa các đường lối của Đảng
và đưa nó vào cuộc sống.
Tuy nhiên, để pháp luật thực sự phát huy được các vai trò quan trọng đó trong thực
tiễn cuộc sống, để pháp luật không chỉ là những trang giấy chứa đựng các qui phạm, đòi
hỏi phải có pháp chế. Bởi pháp chế là phạm trù thể hiện yêu cầu và đòi hỏi đối với mọi chủ
thể pháp luật trong xã hội phải tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật. Như vậy, pháp luật
là điều kiện tiền đề của pháp chế. Song việc có pháp luật chưa hẳn là đã tồn tại pháp chế.
Một hệ thống pháp luật thiếu hoàn thiện, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ kéo theo một cơ chế
điều chỉnh pháp luật khiếm khuyết. Hay pháp luật khi được ban hành nhưng không được
các chủ thể pháp luật chấp hành và tuân thủ hoặc được thi hành nhưng không thực sự
nghiêm minh thì trật tự xã hội sẽ bị đảo lộn, xã hội rơi vào trạng thái vô pháp chế. Hậu quả
tất yếu sẽ là tình trạng xã hội với các mặt đời sống phát triển không bình thường, các
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân không được đảm bảo. Do đó, vấn đề mấu chốt là:
pháp luật chỉ thực sự có hiệu lực khi nó dựa trên nền tảng vững chắc của pháp chế, bên
cạnh đó pháp chế chỉ có thể được củng cố và tăng cường trong điều kiện một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Trước sự vận động không ngừng của đời sống xã hội, quan điểm trên đây về pháp
chế XHCN dường như đã không còn mang tính chính xác khoa học cao. Quan điểm đó vẫn
đúng nhưng chưa thực sự đủ. Hiện nay đang phổ biến một quan điểm khoa học cho rằng:
"Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ
xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện
đầy đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ
chức và đối với công dân" [49, tr. 680].
Trong định nghĩa này có mấy nội dung chính yếu sau đây:
- Sự hiện diện của một hệ thống pháp luật; và hệ thống pháp luật này là điều kiện
cần và đủ cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật.
- Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và mọi công
dân phải tuân thủ và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh pháp luật.
Cách tiếp cận thứ nhất cho ta thấy một cách nhìn cận cảnh về pháp chế, nói một cách
khác, định nghĩa thứ nhất về pháp chế là một định nghĩa hẹp về pháp chế. Cách tiếp cận
thứ hai hàm chứa định nghĩa hẹp về pháp chế đồng thời có bổ sung hai nội dung mới cho ta
một cái nhìn bao quát hơn về pháp chế XHCN. Cách tiếp cận này đáp ứng được những đòi
hỏi hiện nay của lý luận cũng như thực tiễn là phải trả lời câu hỏi: pháp chế dựa trên cơ sở
nào, để làm gì và duy trì nó như thế nào. Nó cho chúng ta một định nghĩa rộng về pháp chế.
Định nghĩa này trước hết đã trực tiếp xác định vai trò vô cùng quan trọng của một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh trong vai trò là nền tảng của việc thiết lập pháp chế XHCN.
Như chúng ta đã biết, bất cứ một xã hội nào cũng đều cần có sự quản lý nhằm ổn
định trật tự xã hội và phục vụ cho nhu cầu phát triển xã hội. Kể từ khi xã hội có giai cấp
dẫn đến xuất hiện nhà nước, giai cấp cầm quyền luôn mong muốn một trật tự xã hội phù
hợp với ý chí giai cấp mình. Giai cấp cầm quyền tìm thấy ở pháp luật công cụ hữu hiệu
nhất trong quản lý xã hội. Chính sự nhập cuộc của pháp luật vào đời sống xã hội đã tạo ra
đời sống pháp lý của xã hội và tạo ra pháp chế. Đến lượt mình, pháp chế tạo ra một trạng
thái bảo đảm cao về mặt pháp luật cho mọi chủ thể trong xã hội. Đó chính là ý nghĩa lớn
lao của pháp chế XHCN; và ngày nay quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền cũng
có những điểm tương đồng trong lĩnh vực này.
Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân
dưới cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, pháp chế XHCN được
đặt lên như một nguyên tắc hàng đầu trong mọi quan hệ về tổ chức và hoạt động của bất cứ
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội nào. Do vậy, pháp luật, hơn lúc nào hết, cần
thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng làm tiền đề cho pháp chế. Điều đó tạo nên cơ sở
pháp lý cho các quan hệ chính trị đáp ứng nhu cầu ổn định xã hội, phát huy tính dân chủ,
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. "Tuy nhiên, hệ thống pháp luật cũng chỉ nên
dừng lại ở mức đáp ứng cần và đủ cho các quan hệ xã hội. Pháp chế XHCN đòi hỏi việc
điều chỉnh pháp luật phải đúng cách" [49, tr. 689]. Một triết gia phương Đông nổi tiếng đã
từng nói: việc trị quốc ví như nấu một nồi cá, nếu quấy mạnh thì nó nát, nếu không quấy
thì nó cháy, tốt nhất là nên quấy vừa phải và đúng lúc, đúng cách.
Còn về nội dung cơ bản của pháp chế: đòi hỏi tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
của các cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật, về nội
hàm không có gì đổi khác so với cách định nghĩa thứ nhất.
Theo lôgíc của các quan hệ biện chứng trên từ pháp luật đến chế độ thực hiện pháp
luật cấu thành chế độ pháp chế; các nhà khoa học pháp lý đã xem xét hiện tượng xã hội
pháp lý đó và cho rằng đó là trạng thái trật tự pháp luật. Trật tự pháp luật phải chăng là
một hệ thống các quan hệ xã hội hình thành và phát triển dưới sự tác động điều chỉnh của
hệ thống các quy phạm pháp luật.Vậy trật tự pháp luật có phải là pháp chế không? Đã từng
có hai quan niệm để lý giải mối quan hệ giữa pháp chế và trật tự pháp luật. Quan niệm thứ
nhất coi trật tự pháp luật là yếu tố cấu thành của pháp chế. Quan niệm thứ hai có thể là hợp
lý hơn khi cho rằng trật tự pháp luật không phải là yếu tố bên trong trùng khớp với nội
hàm pháp chế mà trật tự pháp luật là mục đích của pháp chế, là hiệu quả của quá trình thiết
lập và tăng cường pháp chế.
Tóm lại, trong lịch sử ra đời, tồn tại, phát triển của mỗi nhà nước có một lịch sử ra
đời, tồn tại của pháp luật và pháp chế tương ứng. Thấu suốt trong dòng lịch sử đấu tranh
chống lạm dụng quyền lực, độc đoán chuyên quyền từ phía nhà nước và chống tư tưởng
còng như hoạt động vô chính phủ, coi thường pháp luật của công dân nhằm đảm bảo cho
pháp luật thực sự ngự trị trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội; thành lập nên một
trật tự pháp luật theo ý chí và mục đích của giai cấp thống trị xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra định nghĩa pháp chế XHCN như sau: Pháp chế
XHCN là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả các cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội
và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để
và chính xác.
1.1.2. Những nguyên tắc của pháp chế XHCN
Ngày nay Đảng ta đang chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của dân, do dân, và vì dân. Trong quan niệm về nhà nước pháp quyền có nhiều
điểm trùng hợp với quan niệm về pháp chế. Thí dụ, các yêu cầu về một hệ thống pháp luật
tương đối hoàn chỉnh; về tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật; về sự tuân thủ nghiêm
chỉnh pháp luật của các chủ thể; về sự tôn trọng và bảo đảm các quyền công dân. Tuy
nhiên, quan niệm về Nhà nước pháp quyền có nội dung rộng hơn. Nó bao hàm cả vấn đề
trách nhiệm qua lại giữa nhà nước và công dân, công dân và nhà nước, vấn đề trách nhiệm
của quốc gia trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, v.v… Đặt vấn đề từng bước xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là đáp ứng được các đòi hỏi của một xã hội đang
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đồng thời cũng đáp ứng
được đòi hỏi của một quốc gia đổi mới muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới theo
nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Những nguyên tắc của pháp chế XHCN là những tư tưởng chủ đạo thể hiện bản
chất và các đặc điểm của pháp chế trong xã hội ta. Các nguyên tắc cơ bản đó là:
1.1.2.1. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế
Nội dung của nguyên tắc này là: pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống
nhất trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và ở tất cả các ngành, không thể đem lợi ích của địa
phương, lợi ích ngành đối lập với lợi ích chung của nhà nước. Văn bản của cơ quan nhà
nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với các văn bản pháp luật do các cơ
quan nhà nước ở trung ương ban hành. Những biểu hiện cục bộ, bản vị địa phương, có hại
cho sự thống nhất pháp chế, đi chệch lợi ích chung của cả nước cần phải được loại trừ.
Không nên quan niệm rằng tính thống nhất của pháp chế loại bỏ việc cân nhắc những điều
kiện của địa phương. Các cơ quan nhà nước ở địa phương có nghĩa vụ, một mặt, thực hiện
nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất cho cả nước, mặt khác, trong hoạt
động của mình cần tính toán đầy đủ những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của địa phương.
Song, sự tính toán đó không phải để vi phạm pháp luật mà để tìm kiếm những hình thức,
biện pháp và phương sách đặc thù của địa phương nhằm thực hiện pháp luật tốt hơn.
Pháp luật luôn mang trong nó tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức nên pháp luật
phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Điều đó
cũng có nghĩa: Luật, Pháp lệnh không được mâu thuẫn với Hiến pháp, các văn bản dưới luật
không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản luật, các văn bản pháp luật của địa
phương, của các bộ, ngành không được đặt lợi ích cục bộ của địa phương và của ngành mình
đối lập với lợi ích của quốc gia. Đặt vấn đề như vậy không có nghĩa là triệt tiêu hoàn toàn tính
chủ động sáng tạo của các địa phương và các bộ ngành, bỏ qua tính đặc thù của từng địa
phương và bộ ngành. Trên cơ sở sự thống nhất, các địa phương và các bộ ngành có thể vừa
tính toán tới những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mình vừa thực hiện nghiêm chỉnh pháp
luật đã được qui định thống nhất trong phạm vi cả nước.
Trong quan hệ với các văn bản luật và các văn bản qui phạm dưới luật, Hiến pháp
là đạo luật mang tính tối cao, do Quốc hội ban hành và là đảm bảo cao nhất của pháp chế.
Điều này được chính Hiến pháp qui định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp
luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Bản thân Hiến pháp cũng được xây dựng và ban
hành theo một trình tự thủ tục riêng theo qui trình lập hiến với yêu cầu phải được 2/3 số
đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Về vấn đề này, để đảm bảo tính thống nhất của
pháp luật, tính tối thượng của Hiến pháp và quan trọng hơn để tăng cường pháp chế
XHCN cần sớm khắc phục những sai lầm cơ bản, những biểu hiện vi hiến. Như việc các
cơ quan hữu quan đã đưa cả nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992 vào các chương trình lập
pháp năm 2000 và năm 2001 của Quốc hội để rồi nội dung này được thông qua theo qui
trình lập pháp (chỉ cần quá 1/2 số đại biểu Quốc hội tán thành) thay vì lẽ ra phải được
thông qua theo một qui trình lập hiến (yêu cầu phải được 2/3 số đại biểu Quốc hội biểu
quyết tán thành theo đúng qui định tại Điều 147 Hiến pháp 1992).
1.1.2.2. Mọi chủ thể đều có nghĩa vụ phải chấp hành pháp luật
Nguyên tắc này đòi hỏi phải đưa những yêu cầu của pháp luật vào thực tế đời
sống; mọi chủ thể cần phải xử sự phù hợp với pháp luật. Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật, bất cứ chủ thể nào có hành vi vi phạm pháp luật đều bị truy cứu trách nhiệm
pháp lý. Pháp chế XHCN xa lạ với những biểu hiện phân biệt đối xử và đặc quyền, đặc lợi,
không cho phép lạm dụng chức vụ, quyền hạn lẩn tránh hoặc cố tình làm trái pháp luật.
Để tránh tình trạng hệ thống pháp luật của Nhà nước đã được ban hành đáng kể
nhưng chấp hành không nghiêm, trước hết Nhà nước mà cụ thể trong đó là các cơ quan
trong bộ máy nhà nước, các cán bộ công chức phải nghiêm chỉnh thi hành và chấp hành
pháp luật. Nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép nhằm hạn chế tối đa sự lạm
quyền trong tổ chức cũng như hoạt động của bộ máy nhà nước. Đối với các chủ thể pháp
luật khác ngoài nhà nước thì được làm tất cả trừ những gì luật cấm. Đó là cơ sở pháp lý
vững chắc đảm bảo cho các quyền tự do dân chủ của công dân được thực hiện.
1.1.2.3. Bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và các đạo luật
Điều 146 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản
pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp". Những đạo luật có hiệu lực thấp hơn Hiến
pháp nhưng cao hơn những văn bản dưới luật. Những văn bản dưới luật phải được ban
hành trên cơ sở và để thi hành Hiến pháp và các đạo luật, không được trái với Hiến pháp
và các đạo luật đó.
1.1.2.4. Bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền và tự do của công dân đã được
pháp luật quy định
Trong xã hội ta, công dân có những quyền tự do, dân chủ rộng rãi. Một trong
những yêu cầu quan trọng nhất của pháp chế là phải bảo đảm và bảo vệ những quyền dân
chủ đó. Công dân khi sử dụng các quyền tự do được pháp luật ghi nhận, không được gây
thiệt hại cho lợi ích nhà nước và xã hội, cũng như lợi ích của các công dân khác.
1.1.2.5. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nhanh chóng, công minh mọi vi phạm pháp
luật
Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng có hại cho lợi ích của nhà nước, xã hội và công
dân. Bởi vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng, công minh và
có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Để làm được điều này cần phải chỉnh đốn tổ chức,
thi hành những biện pháp có hiệu lực nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ,
cửa quyền, nghiêm trị những phần tử biến chất, lợi dụng danh nghĩa Đảng và chính quyền
để đục khoét, áp bức quần chúng. Các cơ quan tòa án, kiểm sát, thanh tra, công an,… phải
dựa vào nhân dân để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật. Mỗi công
dân cũng cần hiểu rõ nếu họ vi phạm pháp luật sẽ không tránh khỏi phải chịu sự cưỡng chế
của nhà nước dưới hình thức các biện pháp trách nhiệm pháp lý.
Các qui phạm pháp luật nói riêng và pháp luật nói chung luôn là đại lượng của dân
chủ, công bằng và tự do. Do đó, nó là khuôn mẫu, là chuẩn mực hành vi, là thước đo của
hành vi xử sự trong đời sống xã hội. Bất cứ hành vi nào vi phạm pháp luật, trái với các qui
phạm pháp luật đều là đi ngược lại với lợi ích của của cộng đồng, lợi ích của toàn xã hội.
Do vậy, để bảo đảm trật tự xã hội cần thiết phải ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân và của nhà nước. Việc ngăn
chặn và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật cũng đồng thời là phương tiện bảo đảm các
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Bởi trong Nhà nước pháp quyền XHCN, thì
pháp luật, các cơ quan thi hành pháp luật và pháp chế XHCN luôn là chỗ dựa vật chất và
tinh thần của người dân trong việc tìm đến công lý và công bằng.
1.1.2.6. Tính pháp chế thống nhất với tính hợp lý và sự công bằng
Giữa pháp chế và tính hợp lý có mối liên hệ chặt chẽ, vì pháp luật XHCN thể hiện
chính sách có cơ sở khoa học của Đảng và là ý chí của đại đa số các tầng lớp nhân dân.
Bởi vậy, các quy phạm pháp luật mang tính công bằng và hợp lý. Tính pháp chế đòi hỏi
mọi hoạt động phải trong khuôn khổ pháp luật và không trái với pháp luật. Không một sự
vi phạm pháp luật nào có thể biện hộ bằng tính hợp lý. Sự lạc hậu của những quy phạm
pháp luật trước yêu cầu mới của cuộc sống không làm đình chỉ hiệu lực của nó. Chỉ những cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mới có quyền sửa đổi các quy phạm đó.
1.1.2.7. Tuân thủ nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước và xã hội
Trong xã hội ta, những yêu cầu cơ bản của kỷ luật nhà nước, kỷ luật xã hội và
cách thức bảo đảm nó được xác định trong những văn bản pháp luật. Mặt khác, sự tuân thủ
pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng nhất của kỷ luật nhà nước và kỷ luật xã
hội. Để đảm bảo tính tổ chức của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cần phải chấp
hành nghiêm chỉnh kỷ luật nhà nước.
1.2. Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp ở nước ta
Pháp chế XHCN là một khái niệm pháp lý sâu rộng. Xét về hình thức, hiện tượng,
pháp chế XHCN là trạng thái hành vi pháp lý (hành vi hành động và không hành động)
phù hợp với quy định của pháp luật của tất cả các chủ thể tham gia các quan hệ pháp luật.
Xét về bản chất, pháp luật của một nhà nước quy định bản chất của chế độ pháp chế mà
nhà nước đó thiết lập và duy trì. Tính đa dạng của pháp chế thể hiện trong các loại hành vi
pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Nói một cách khác,
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội pháp chế được thiết lập và mang những đặc điểm
riêng. Bởi vì các lĩnh vực của đời sống xã hội khác nhau có các loại quan hệ xã hội khác
nhau; phản ánh và điều chỉnh nó là các ngành luật tương ứng.
Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng; Vì vậy "nhà lập pháp không
sáng tạo ra các quan hệ xã hội, mà chỉ ghi chép phản ánh nó trong pháp luật". Nhưng nhà
nước ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự pháp luật.
Vì thế, pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Theo lôgíc đó
pháp luật phải là cơ sở, xuất phát điểm của việc đề ra các giải pháp tăng cường pháp chế
trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo hướng đã cần làm rõ khái niệm "pháp chế
XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân" ở nước ta là gì? và xem xét những đặc trưng của pháp chế trong
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND với
mục đích tìm kiếm các giải pháp tăng cường pháp chế XHCN trên lĩnh vực quan trọng này
theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay ở nước ta.
1.2.1. Khái niệm và nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1.1. Quyền tư pháp và hoạt động thực hiện quyền tư pháp
Để có cơ sở xác định pháp chế XHCN trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND; trước hết cần làm rõ quyền tư pháp và hoạt
động thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta:
Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và
quyền tư pháp. ở nước ta quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất không thể phân chia
song có sự phân công phân nhiệm cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện các
quyền đó.
Quyền lập pháp thuộc về Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Quyền lập pháp là quyền làm Hiến pháp và làm luật. Song việc xây dựng hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật ở nước ta ngoài Quốc hội ra còn có các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Những văn bản quy phạm pháp luật
này là văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp và luật.
Quyền hành pháp do Chính phủ thực hiện. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội đồng thời là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước ta. "Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật" nên đương nhiên quản lý hành chính nhà nước cũng chủ yếu
bằng pháp luật. Vì thế, khái niệm quyền hành pháp được hiểu là việc tổ chức thực hiện
pháp luật bằng quyền uy của Nhà nước.
Sản phẩm hoạt động lập pháp và lập quy là hệ thống các văn bản quy phạm pháp
luật; là hệ thống pháp luật hiện hành của nhà nước. Để pháp luật được thực hiện, các cơ
quan hành chính nhà nước, tổ chức, duy trì để pháp luật vào được cuộc sống. Mục đích
chung, chủ yếu của việc thực hiện quyền lập pháp và quyền hành pháp là thiết lập pháp
chế và trật tự pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, pháp luật không phải khi nào cũng vào cuộc sống một cách suôn
sẻ. Pháp luật vẫn bị vi phạm trong đời sống xã hội ở những mức độ và tính chất nguy hiểm
ít nhiều khác nhau, do những hành vi vi phạm pháp luật của con người.
Khoa học pháp lý đã khái quát trong thực tế bốn loại vi phạm pháp luật. Các loại
vi phạm pháp luật đó là: vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm pháp luật hành chính, vi phạm
kỷ luật nhà nước và vi phạm pháp luật hình sự. Do đó, nhiệm vụ của Nhà nước phải bảo vệ
pháp luật nhằm loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật ra khỏi đời sống xã hội. Quyền tư