Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.52 KB, 21 trang )

Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
Vũ Đức Hạnh
Đại học Quốc gia Hà Nội; Khoa Luật
Chuyên ngành: Luật Hình sự; Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn: TS Phạm Mạnh Hùng
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945
cho đến nay, phân tích khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động
thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự để làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy
định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam. Đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh các quy
định trong BLTTHS (Bộ luật tố tụng hình sự) thể hiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng
nhằm kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Keywords. Pháp luật Việt Nam; Luật tố tụng hình sự; Quyền cơng tố; Luật hình sự
Content.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện na
Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, bộ máy
Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hồn thiện các cơ chế bảo
vệ pháp luật, trong đó có vấn đề thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết vì nó khơng chỉ liên quan đến tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước nói chung, trước hết và đặc biệt là các cơ quan tư pháp.
Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020


đã xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp, trong đó đề ra một định hướng quan trọng
là xây dựng nền cơng tố mạnh. Ngồi ra, một định hướng mới rất quan trọng tại Hội nghị lần thứ
chín Ban chấp hành trung ương Đảng khóa X, yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020; bảo đảm các điều kiện cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt chức


năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm của
công tố trong hoạt động điều tra. Hội nghị cũng yêu cầu Viện kiểm sát phải đổi mới tổ chức và hoạt
động để thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân, là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được
quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Việc nghiên cứu làm sáng tỏ về mặt lý luận nội dung
của nguyên tắc và thực tiễn thực hiện nguyên tắc này, tìm ra những bất cập, khó khăn để có những
kiến giải về lập pháp góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Đây là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, là lý do tôi chọn đề tài “nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự” làm luận văn Cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự được quy
định thành một nguyên tắc tố tụng, việc nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề liên quan về nguyên tắc này
ở các mức độ khác nhau đã được một số nhà khoa học pháp lý, các chuyên gia lý luận và thực tiễn quan
tâm nghiên cứu, cụ thể: Trong thời gian qua, Viện khoa học kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ và các cơ quan hữu quan tổ chức triển khai nghiên cứu các đề tài
cấp Bộ như: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ
1945 đến nay”, “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp”, “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”.
Ngồi ra, nhiều số chuyên đề của Tạp chí kiểm sát thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
cũng tập trung nghiên cưu về những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố

và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu tổng thể nội dung
của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Hơn nữa, trong cả lý luận và thực tiễn hiện nay, xung quanh vấn đề này còn chưa thực sự thống
nhất về khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự; chưa có sự phân định cụ thể, rõ ràng giữa hai chức năng và đánh
giá mối quan hệ biện chứng giữa hai chức năng này. Vì thế, nhiều nội dung xung quanh nội dung
nguyên tắc này cũng địi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu một cách tồn diện và sâu sắc hơn nữa.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng, phạm vi và thời gian nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung
cơ bản của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng


hình sự và việc áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn, từ đó xác định những bất cập để đề xuất
kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (sau đây gọi tắt là
BLTTHS) liên quan đến nguyên tắc này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau:
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của các quy phạm pháp luật về thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự Việt Nam từ năm
1945 cho đến nay, phân tích khái niệm, nội dung, phạm vi, chủ thể, mối quan hệ giữa hoạt động
thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự để
làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của nguyên tắc này theo quy định của Luật
tố tụng hình sự Việt Nam (sau đây gọi tắt là Luật TTHS).
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự nước ta, đồng thời phân tích những tồn tại xung quanh các quy định trong BLTTHS thể
hiện nguyên tắc này và thực tiễn áp dụng nhằm kiến nghị sửa đổi một số quy định của BLTTHS

liên quan đến nguyên tắc này trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng nguyên tắc thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, cụ thể là: khái niệm,
nội dung, phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự; thực tiễn áp dụng các quy định thể hiện nguyên tắc này để qua đó kiến
nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên tắc này.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo luật tố tụng hình sự Việt Nam
dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, đồng thời, luận văn cũng có đề cập đến một số quy phạm pháp
luật có liên quan nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam có liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn từ năm 2005-2008.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu
của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã
hội học pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm


khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của
một số nhà khoa học pháp lý Việt Nam.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề
tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê;
v.v... Dựa trên những số liệu thống kê một số chỉ số hoạt động nghiệp vụ được tổng kết hàng năm
trong các báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, cũng như những thơng tin trên mạng internet
để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương
ứng được nghiên cứu trong luận văn.

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Trong luận văn này, tác giả đã giải quyết về mặt lý luận những vấn đề sau:
1) Phân tích một cách có hệ thống và tồn diện những vấn đề lý luận về nguyên tắc thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự: khái niệm, nội dung,
phạm vi, chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự, ranh giới và mối quan hệ giữa hai hoạt động trên
2) Hệ thống hóa lịch sử phát triển của các quy phạm về thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự từ 1950 cho đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá.
3) Nêu ra thực trạng việc áp dụng nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn của Viện kiểm sát nhân dân từ năm 2005 – 2008
trên cơ sở các báo cáo về công tác kiểm sát năm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt
là VKSNDTC), qua đó góp phần đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự liên
quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong
thời gian qua. Đặc biệt, luận văn còn chỉ ra một số tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn và những
nguyên nhân của thực trạng này để tìm ra giải pháp khắc phục.
4) Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân trong thực tiễn áp dụng, luận văn đã đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy phạm liên quan đến nguyên tắc thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam để phục vụ yêu cầu của thực tiễn công tác phòng và chống tội phạm, cũng
như việc bảo đảm việc tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung nguyên tắc thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng
như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm có liên quan đến nguyên tắc thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.


Ngồi ra, luận văn cịn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ thực tiễn và

các sinh viên, học viên cao học, cũng như góp phần phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với
các nội dung chủ yếu sau:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Chƣơng 2: Thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự trong một số quy phạm pháp luật tố tụng hình sự.
Chƣơng 3: Thực trạng và một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện nguyên tắc thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN CƠNG TỐ, THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm, đối tƣợng, phạm vi, nội dung quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực
hiện (ở nước ta là Viện kiểm sát nhân dân) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Cơ quan có chức năng thực hành quyền cơng tố phải có trách nhiệm bảo
đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó
quyết định truy tố bị can ra trước Tịa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa.
1.1.1.2. Đối tượng, nội dung và phạm vi quyền công tố:
- Đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội.
- Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
- Phạm vi quyền công tố được bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án
có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng cáo, kháng nghị.
1.1.2. Khái niệm, đối tƣợng và phạm vi thực hành quyền công tố

1.1.2.1. Khái niệm
Thực hành quyền công tố là hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố của cơ quan được giao thực hiện quyền công tố thông qua các hành vi tố tụng theo


quy định của BLTTHS để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội trong các giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử.
1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của thực hành quyền công tố
- Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố cũng là tội phạm và người phạm tội.
- Phạm vi thực hành quyền công tố và phạm vi quyền cơng tố có những khác nhau cơ bản.
Thực hành quyền cơng tố thì thời điểm phát sinh hoạt động thực hành quyền công tố phải là thời
điểm được sử dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã được phát hiện (xác định có dấu hiệu của tội phạm) và
có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động thực hành quyền công tố có sự
trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền cơng tố, đó là khi vụ án hình sự bị đình chỉ hoặc khi có
bản án của Tịa án có hiệu lực pháp luật và không bị khác nghị.
1.1.3. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
1.1.3.1. Khái quát các quy định của pháp luật Việt Nam về chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Viện kiểm sát
Căn cứ những quy định của pháp luật nước ta từ những năm 1950 đến nay, chức năng này
của Viện kiểm sát nhân dân có những thay đổi về phạm vi, đối tượng và nội dung hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật.
- Sắc lệnh số 150-SL ngày 07/11/1950 quy định: về lĩnh vực giam giữ thì Ban giám thị đặt
dưới quyền kiểm sốt của Cơng tố ủy viên tỉnh hoặc liên khu.
- Ngày 01/7/1959, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 256-TTg tổ chức và nhiệm vụ
của Viện cơng tố, theo đó, nhiệm vụ của Viện công tố là: “Giám sát việc tuân thủ và chấp hành
pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân
chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của cơng
dân, bảo đảm cơng cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi”. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 được

ban hành. Chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, các cơ quan nhà nước ở địa phương, các nhân viên cơ quan nhà
nước và công dân.
- Sau khi Hiến pháp năm 1980 ban hành, ngày 04/7/1981 Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ
nhất đã thông qua Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật mới vẫn giữ nguyên chức năng của Viện
kiểm sát như Luật tổ chức VKSND 1960, đồng thời có những bổ sung và cụ thể hóa nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND.
- Năm 1992, Hiến pháp mới được ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát khơng có gì thay đổi so với quy định của Hiến pháp 1980.


- Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năn 2001 đã xóa bỏ cơng tác kiểm sát viêc
tn theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, nhấn mạnh việc tăng cường chức
năng thực hành quyền công tố và ghi nhận chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
1.1.3.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan, tổ chức và công dân trong việc
thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án, quyết định của cơ quan tiến hành tố
tụng…. (các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra và những “người” tham gia tố tụng)
- Kiểm sát các hoạt động tư pháp:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là việc kiểm sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ
quan tư pháp và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tố tụng hình sự.
Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự là hành
vi xử sự của các cơ quan tư pháp (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án) và
cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Như vậy, khái niệm kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự rộng hơn khái niệm kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự, phạm vi kiểm sát các hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự bao trùm phạm

vi kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự.
1.2. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của luật TTHS
Tuy có những cách hiểu khác nhau về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và nguyên tắc
cơ bản của luật tố tụng hình sự, song các quan niệm trên đều thống nhất rằng, nguyên tắc cơ bản
của luật tố tụng hình sự là những tư tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự hoặc
đối với một số giai đoạn nhất định của tố tụng hình sự, được thể hiện trong việc xây dựng và áp
dụng pháp luật.
Xuất phát từ khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự cho thấy, nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự là tư tưởng chỉ đạo, định hướng cơ bản,
“sợi chỉ đỏ” và là tiền đề quan trọng nhất quy định cách thức tổ chức và thực hiện các hoạt động tố
tụng hình sự, có vai trị chi phối hoặc là tồn bộ các hoạt động trong quá trình giải quyết vụ án hình
sự hoặc một số giai đoạn trong q trình đó.
Thứ hai, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có mối quan hệ mật thiết với mơ hình tố
tụng hình sự.


Thứ ba, nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được thể hiện thông qua các quy phạm pháp
luật tố tụng hình sự.1.
Thứ tư, các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự có tính ổn định cao do phản ánh những
nguyên lý cơ bản nhất của các qui luật cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
1.2.2. Khái niệm nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự
- Ngun tắc thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự được quy định trong BLTTHS và chi phối tồn bộ q trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hình sự và các hoạt động tố tụng hình sự khác của các chủ thể tham gia vào các
quan hệ tố tụng hình sự.
- Nguyên tắc này chứa đựng những nội dung thể hiện phương châm, định hướng quan trọng

về hoạt động TTHS của Đảng và Nhà nước ta và được thể hiện trong việc xây dựng và thực hiện
pháp luật tố tụng hình sự.
- Nguyên tắc này là sự kết hợp giữa hai chức năng của Viện kiểm sát là chức năng thực
hành quyền công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Tóm lại, ngun tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự được quy định trong BLTTHS, thể hiện ở
vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố, quyết định việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội và kiểm sát việc pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự,
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội.
1.2.3. Nội dung nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự:
Ngun tắc thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự được quy định tại Điều 23 BLTTHS bao gồm những nội dung cơ bản sau:
1.2.3.1. Viện kiểm sát thực hành quyền cơng tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Tòa án.
Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự qua các hoạt động:
- Khởi tố vụ án: Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện
kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong
trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu
cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội

1

Nguyễn Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự – những đề xuất sửa đổi, bổ sung, Tạp chí khoa
học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật 24 (2008).



phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra. Trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, mặc dù
Viện kiểm sát không trực tiếp ra các quyết định khởi tố, nhưng căn cứ các quy định của Bộ luật
TTHS thì trong trường hợp khởi tố vụ án, xét cho cùng là do Viện kiểm sát quyết định.
- Khởi tố bị can: Quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra phải được gửi cho Viện
kiểm sát xem xét phê chuẩn, nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì quyết định khởi tố bị can của
Cơ quan điều tra khơng cịn hiệu lực thực hiện.
- Điều tra vụ án hình sự: Hoạt động thực hành quyền cơng tố trong giai đoạn điều tra nhằm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời thông qua việc xử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Mặt khác, hoạt động thực hành quyền
công tố trong giai đoạn này cũng nhằm đảm bảo việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
góp phần ngăn chặn kịp thời việc khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác.
- Quyết định việc truy tố: Hoạt động truy tố là chức năng quan trọng của Viện kiểm sát
nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của
tồn bộ các hành vi tố tụng mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền đã áp dụng và để loại trừ những hậu
quả tiêu cực của các sai lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong hai giai đoạn tố tụng hình sự trước
đó thông qua các quyền năng pháp lý được quy định trong BLTTHS.
- Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử thông qua các hoạt động:
Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên
toà; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải
quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về
việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.2.3.2. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách
nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ
việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này.
- Viện kiểm sát tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thơng qua
các hoạt động: kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố; kiểm sát việc khởi tố; các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan
điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh

chấp về thẩm quyền điều tra theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia
tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu
cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết
định việc kháng nghị; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết


định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
- Trong quá trình kiểm sát, để thực hiện quyền kiểm sát, luật tố tụng hình sự quy định trách
nhiệm của Cơ quan điều tra, Tòa án, Cơ quan thi hành án hình sự về việc gửi các quyết định, hành
vi tố tụng cùng hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để tiến hành kiểm sát; quy định việc trực tiếp tham
gia các hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát; quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền trực tiếp kiểm
sát; quyền yêu cầu kiểm tra, yêu cầu gửi hồ sơ, tài liệu đến Viện kiểm sát…
- Khi tiến hành kiểm sát, nếu phát hiện những vi phạm tố tụng của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, Viện kiểm sát có quyền áp dụng các biện
pháp theo quy định của BLTTHS để khắc phục các vi phạm đó, như quyền hủy bỏ; yêu cầu; kiến
nghị và kháng nghị tùy từng giai đoạn tố tụng.
1.2.3.3. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời; việc
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thuộc
chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát được pháp luật quy định. Hai chức năng này có nội dung,
phạm vi và đối tượng và mục đích khơng giống nhau, nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ, biện
chứng và hỗ trợ cho nhau. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng hình sự để có chung một mục đích khái qt là nhằm đảm bảo cho mọi hành vi phạm tội đều
được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có hiệu quả là điều kiện để bảo đảm thực hành
quyền cơng tố đúng đắn, chính xác, khách quan và ngược lại.
CHƢƠNG 2
THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ QUY PHẠM PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN TRƢỞNG, PHÓ VIỆN TRƢỞNG
VÀ KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong tố tụng hình
sự được quy định tại các điều 36, 37 BLTTHS;


2.2. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRONG CÁC
QUY ĐỊNH VỀ VIỆC QUYẾT ĐỊNH VIỆC PHÊ CHUẨN, ÁP DỤNG, THAY ĐỔI, HỦY BỎ
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN.
Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; quyết định việc tạm giữ, tạm
giam, bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Những biện pháp
này được quy định tại các điều 80, 81, 86, 87, 88, 91, 92, 93, 120 BLTTHS.
2.3. SỰ THỂ HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở CÁC GIAI ĐOẠN
TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
2.3.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can
2.3.1.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong việc khởi tố vụ án hình sự
- Trong các quy định về việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
và kiến nghị khởi tố được quy định tại khoản 1 Điều 103 BLTTHS; khoản 2 Điều 103 BLTTHS;
Điều 107 BLTTHS thì ra quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự.

- Trong các quy định về khởi tố vụ án hình sự được thể hiện tại Điều 109 BLTTHS; khoản 1
Điều 104, Điều 112 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và khoản 1 Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân; Điều 106, Điều 112 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 và Khoản 1 Điều 13 Luật tổ
chức Viện kiểm sát.
2.3.1.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong việc khởi tố bị can
Được thể hiện ở các quy định về phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can; quyết
định thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố bị can; quyết định việc khởi tố bị can hoặc thay đổi, bổ
sung quyết định khởi tố bị can tại các điều 112, 126, 127 BLTTHS.
2.3.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Viện kiểm sát được áp dụng các biện pháp pháp lý được quy định tại Điều 112, 113
BLTTHS cùng với các biện pháp pháp lý cụ thể trong từng hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều
tra đảm bảo việc điều tra, truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội
và khơng bỏ lọt tội phạm. Ngồi ra, sự thể hiện của nguyên tắc này ở giai đoạn điều tra còn được
quy định cụ thể trong từng hoạt động tố tụng hình sự.


2.3.3. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn truy tố
Các quy định của BLTTHS trong giai đoạn truy tố đều là những quy định thể hiện nguyên
tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Khi truy tố
bị can ra Tịa án để xét xử, tức là Viện kiểm sát thực hành quyền cơng tố, hoạt động đó thể hiện qua
việc ban hành quyết định truy tố.
2.3.4. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
2.3.4.1. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bao gồm: Các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc tiến
hành xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong

trường hợp Toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát
trong kiểm sát việc chuẩn bị xét xử của Toà án; về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát đối
với việc kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa; về thẩm quyền và trách nhiệm
của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố tại phiên tòa như: Đọc cáo trạng (Đi ều 206
B LTTHS ); Tham gia xét hỏi (theo quy định tại các điều 207; 209; 210; 211; 212, 213, 215, 216
BLTTHS); Trình bày luận tội (theo quy định tại Điều 217 BLTTHS); Tranh luận của Kiểm sát viên
(theo quy định tại Điều 218 BLTTHS) và về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát sau khi
kết thúc phiên toà sơ thẩm hình sự.
2.3.4.2. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Nội dung các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát ở cấp xét xử phúc
thẩm được thể hiện qua các quy định sau: Quy định về việc kiểm sát thủ tục kháng cáo, kháng nghị;
kiểm sát nội dung kháng cáo, kháng nghị; bổ sung, thay đổi nội dung kháng cáo, kháng nghị; rút
kháng nghị của Viện kiểm sát trước khi mở phiên tòa; bổ sung chứng cứ mới; kiểm sát việc chấp
hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử; xem xét chứng cứ tại phiên toà; việc tham gia xét hỏi tại
phiên toà của Kiểm sát viên; về việc trình bày quan điểm của Viện kiểm sát; tranh luận tại toà; thẩm
quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc kiểm tra biên bản phiên toà, bản án, quyết định
của Tòa án; trách nhiệm kiến nghị của Viện kiểm sát với Tòa án, các cơ quan, tổ chức hữu quan áp
dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa vi phạm...
2.3.4.3. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự ở trong giai đoạn xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm
Thẩm quyền và trác nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm được
thể hiện qua các quy định về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm;
việc đình chỉ thi hành án; việc xác minh theo thủ tục giám đốc thẩm; việc bổ sung, rút kháng nghị;


việc tham gia phiên toà giám đốc thẩm và việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục giám
đốc thẩm...
2.3.4.4. Sự thể hiện của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự trong giai đoạn xét xử theo thủ tục tái thẩm

Thẩm quyền và trác nhiệm của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử tái thẩm được thể hiện
qua các quy định về thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát theo thủ tục tái thẩm; về việc xác
minh tình tiết mới; về việc yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án; về việc gửi kháng nghị; xác minh theo thủ
tục tái thẩm; về việc tham gia phiên toà tái thẩm và việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật ở thủ tục
tái thẩm tại phiên tòa như: Kiểm sát thành phần Hội đồng xét xử, thời hạn xét xử, thủ tục xét hỏi
những người được Tòa án triệu tập đến phiên tịa (nếu có) và việc biểu quyết của Hội đồng xét xử.
2.3.5. Sự thể hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở
giai đoạn thi hành án hình sự.
Thể hiện qua các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc thi
hành án hình sự (được quy định tại các điều 26, 27, 28, 29 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 và Điều 141 Luật thi hành án hình sự năm 2010); quy định về trách nhiệm kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự được quy định
tại Điều 142 Luật thi hành án hình sự.

CHƢƠNG 3


THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NGUYÊN TẮC
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
3.1. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
3.1.1. Đánh giá chung về việc thực hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Trong thời gian qua, ngồi những kết quả đã đạt được thì công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự vẫn cịn những tồn tại, thiếu sót như: Vẫn
cịn tình trạng oan sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; việc bắt giữ hình sự chưa thật sự
chính xác; chưa thực hiện tốt chủ trương gắn công tố điều tra; tỷ lệ án đình chỉ do khơng phạm tội
cịn cao; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung còn nhiều; chất lượng tranh tụng tại phiên tòa còn ở mức
hạn chế...Điều này ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, của

Viện kiểm sát nói riêng làm ảnh hưởng đến quyền tự do dân chủ của cơng dân.
3.1.2. Một số khó khăn, vƣớng mắc khi thực hiện một số quy định thể hiện nguyên tắc
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Thứ nhất, Trong các quy định về thẩm quyền và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện
trưởng và Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự hiện nay chưa phân biệt được rạch rịi giữa thẩm
quyền quản lý hành chính và thẩm quyền tư pháp; thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm quyền
tố tụng của những người đứng đầu cơ quan Viện kiểm sát.
Thứ hai, quy định về các hình thức bắt người, nhất là giữa bắt người phạm tội quả tang với
bắt khẩn cấp; trong việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam với biện pháp tạm giam;
về thời hạn tạm giữ và việc ra hạn tạm giữ; trong việc thực hiệc các quy định về biện pháp tạm
giam; trong việc thực hiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn khác.
Thứ ba, về các quy định liên quan đến công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong các giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can; các quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án hình sự.


3.2. NHU CẦU, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG NỘI DUNG CẦN HOÀN THIỆN BẢO
ĐẢM TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ CỦA NGUYÊN TẮC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.
3.2.1. Nhu cầu và phƣơng hƣớng hồn thiện ngun tắc thực hành quyền cơng tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nhu cầu và phương hướng hoàn thiện nguyên tắc tố tụng hình sự nói chung và ngun tắc
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS phải xuất phát tư những
chủ trương cụ thể của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp để định hướng cho hoạt động xây
dựng, thực hiện pháp luật TTHS không đi lệch những mục tiêu chung. Những chủ trương của Đảng
và Nhà nước đã được thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 08, Nghị quyết 49 của Bộ chính trị; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm khóa X của Đảng; Kết luận 37, Kết luận 79 của Bộ chính trị…
3.2.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS liên quan đến nguyên
tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự trong

pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự,
theo chúng tơi, cần giữ ngun như quy định tại Điều 23 BLTTHS hiện hành, nhưng để thể chế hóa chủ
trương của Đảng theo hướng tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố
với hoạt động điều tra và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; tăng cường công tác kiểm sát
việc bắt, giam, giữ, bảo đảm đúng pháp luật thì cần phải bổ sung thêm nguyên tắc tranh tụng trong
BLTTHS và sửa đổi, bổ sung các quy định thể hiện nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong mối quan hệ với việc hoàn thiện các chế định, quy định khác của BLTTHS bảo
đảm cho các quy định của BLTTHS thống nhất và thể hiện được các mục tiêu đề ra. Cụ thể:
- Đổi mới việc thực hiện chức năng công tố theo hướng tăng cường trách nhiệm công tố
trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra để thực hiện tốt việc
truy tố tội phạm, tranh tụng có chất lượng tại các phiên tồ xét xử vụ án hình sự, theo đó, cần sửa
đổi, bổ sung một số điều luật sau của BLTTHS:
+ Điều 103 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát phải tham gia vào quá
trình phân loại xử lý các tin báo, tố giác về tội phạm; trực tiếp thẩm tra, xác minh tin báo, tố giác tội
phạm và kiến nghị khởi tố khi thấy cần thiết.
+ Điều 104, Điều 109 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát có quyền
trực tiếp ra các quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp tiếp nhận,
thẩm tra, xác minh tin báo, tố giác tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc trường hợp Viện kiểm sát
huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan quy định tại khoản này và trong trường hợp
Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trường hợp Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự thì
Quyết định khởi tố đó phải được Viện kiểm sát phê chuẩn.


+ Điều 126 BLTTHS cần sửa đổi theo hướng Viện kiểm sát có quyền trực tiếp khởi tố bị
can trong cả quá trình điều tra.
+ Điều 110 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng Viện kiểm sát được trực tiếp
điều tra vụ án khi cần thiết;
+ Bổ sung quy định theo hướng, yêu cầu của Kiểm sát viên trong q trình điều tra có giá trị

bắt buộc đối với Điều tra viên, nếu khơng đồng ý thì Điều tra viên vẫn phải chấp hành nhưng có
quyền kiến nghị Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét.
- Điểu 207 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng, tại phiên tịa, Kiểm sát viên
phải là người xét hỏi chính, trình tự xét hỏi là Kiểm sát viên (bên buộc tội) hỏi trước sau đó đến
Luật sư (bên gỡ tội) hỏi để nâng cao tính độc lập, chủ động và trách nhiệm của Kiểm sát viên trong
việc xét hỏi, luận tội, tranh tụng.
Sửa đổi, bổ sung quy định Viện kiểm sát có quyền rút quyết định truy tố trước ngày mở phiên
tòa sơ thẩm hoặc ngay tại phiên tòa, nếu thấy có một trong các căn cứ để rút truy tố theo quy định của
BLTTHS. Khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử
không được tiến hành xét xử vụ án để đảm bảo ngun tắc có truy tố thì mới có xét xử.
- Điều 36, 37 BLTTHS cần sửa đổi, bổ sung theo hướng phân định rõ thẩm quyền quản lý
hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tố tụng của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và
việc tăng quyền cho Kiểm sát viên. Phân định thẩm quyền giữa các loại Kiểm sát viên để ở mỗi cấp
tố tụng có nhiều loại Kiểm sát viên thích ứng với từng loại công việc.
- Điều 166 BLTTHS về thời hạn quyết định truy tố cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng
không căn cứ vào sự phân loại tội phạm mà quy định chung cho mọi vụ án. Tăng thời hạn giao
nhận các quyết định tố tụng của Viện kiểm sát cho Tòa án và những người tham gia tố tụng.
- BLTTHS cần bổ sung quy định nhằm nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên trong
nghiên cứu hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển sang đề nghị truy tố theo hướng khi kết thúc
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng đầy đủ và
trung thực các vấn đề liên quan đến việc giải quyết vụ án.
- Vấn đề đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án cần phân biệt rõ trường hợp đình chỉ vụ án với
trường hợp miễn truy tố.
- Bổ sung quy định về phục hồi truy tố trong BLTTHS đối với trường hợp bắt được bị can
đang bị truy nã hoặc bị can bị đã khỏi bệnh tâm thần hoặc khỏi bệnh hiểm nghèo khác …mà không
cần thiết phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để phục hồi điều tra.
KẾT LUẬN
1. Trong tiến trình cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ nhân phẩm,
danh dự, các quyền cơ bản của con người được coi là nhiệm vụ trong tâm của công cuộc cải cách tư
pháp. Tồn tại với tích chất là một nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, thực hành quyền cơng tố và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là chức năng của Viện kiểm sát đã có quá


trình hình thành và phát triển từ lâu trong lịch tư pháp nước ta và được thể hiện ở những hình thức,
mức độ khác nhau, dần dần phát triển thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự được
quy định trong BLTTHS năm 2003.
2. Trong các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự, nguyên tắc thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự thể hiện rõ vị trí, vai trị của Viện kiểm sát
trong việc quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự, đưa người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử,
đồng thời Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tiến hành tố tụng và
tham gia tố tụng hình sự, bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy
tố và xét kịp thời trên cơ sở không để lọt tôi phạm và khơng làm oan người khơng có tội; bảo đảm
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án phải đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
3. Trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, BLTTHS hiện hành đã ghi
nhận và thể hiện trong các quy định của mình những nội dung của ngun tắc thực hành quyền
cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Điều đó cho thấy hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động mang
tính khách quan, phù hợp với thiết chế quyền lực của Nhà nước ta, góp phần đảm bảo cho bộ máy
nhà nước nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng được chơi chảy, có sự phối hợp và chế ước lẫn
nhau đảm bảo sự hài hòa và cân bằng trong việc thực hiện quyền lực tư pháp, góp phần quan trọng
trong cơng tác đấu tranh phịng và chống tội phạm đồng thời đảm bảo thực hiện tốt quyền tự do,
dân chủ trong lĩnh vực tư pháp.
4. Bảo đảm nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự trong luật tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp
thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
5. Để bảo đảm tăng cường hiệu quả của nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, việc hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự phải được
thực hiện theo hướng các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng phải rõ ràng, cụ thể, dễ hiểu, dễ áp
dụng tránh vi phạm, nhất là các quy định có liên quan đến nội dung quyền công tố, thực hành quyền

công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở các giai đoạn tố tụng mà đặc
biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đối với các chế định liên quan đến việc thực hiện
chức năng của Viện kiểm sát thì phải thể hiện được chủ trương nâng cao trách nhiệm của công tố
đối với hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra và nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tòa; tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát trong hoạt động kiểm sát việc bắt, tạm giữ,
tạm giam..


References.

1. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

2. Bộ luật hình sự của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 (1998), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 (2002), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Bộ luật hình sự của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 sửa đổi (2009),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1988
(2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003
(2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Lê Cảm (2001), "Chương IV - Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự". Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Tập I - Phần chung), Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

8. Lê Cảm (chủ biên) (2007), Bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh quốc tế và các quyền con
người bằng pháp luật hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Tư pháp, Hà
Nội.

9. Lê Văn Cảm (1997), Học thuyết về Nhà nước pháp quyền và thực tiễn của nó ở Liên
bang Nga, Nxb "Sáng tạo" Hội Khoa học-Kỹ thuật Việt Nam tại Liên bang Nga, Maxcơva.

10. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học
luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên) (2001), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02 của Hội nghị lần
thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ
nay đến năm 2020.



16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7 của Bộ Chính trị về
về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nguyễn Ngọc Điệp, Đinh Thị Ngọc Dung (1996), 900 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.

20. Giáo trình Triết học Mác - Lênin (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Phạm Hồng Hải (2001), "Về chế định miễn trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
năm 1999", Dân chủ và pháp luật, (12).

22. Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1998), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

23. Phạm Mạnh Hùng (2002), "Hồn thiện các quy định của luật tố tụng hình sự về đình
chỉ điều tra và đình chỉ vụ án", Kiểm sát, (5).

24. Đỗ Mười (1995), "Xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm của đổi mới hệ thống chính trị", Thơng tin Khoa học pháp lý, (12).

25. C. Mac - Ph. ăngghen (1978), Toàn tập, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Hoàng Thị Kim Quế (2002), "Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luật - Những
nhân tố của Nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (3).

27. Hoàng Thị Kim Quế (2007), "Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý",

Khoa học (chuyên san Kinh tế-Luật), (2).

28. Đào Trí úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đào Trí úc (chủ biên) (1994), Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV
đến thế kỷ XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

30. Đào Trí úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.

31. Tạp chí kiểm sát từ năm 2003 đến nay.
32. Nguyên Ngọc Chí, Các nguyên tắc cơ bản trong Luật Tố tụng Hình sự – những đề xuất
sửa đổi, bổ sung, Tạp chí khoa học Đại học quốc gia Hà Nội năm số 03/2008;

33. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động
công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay” - Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


34. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt độngtư pháp”, Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

35. Đề tài khoa học cấp Bộ: “Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị”, Viện
khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

36. Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp năm 2008;

37. Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về chế định quyền cơng tố (Nhìn nhận từ góc độ nhà

nước pháp quyền) - ;

38. Ts. Phạm Mạnh Hùng, Hoàn thiện nguyên tắc cơ bản trong Luật TTHS đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010 – 2011;

39. Giáo trình Cơng tác kiểm sát, Nxb Công An nhân dân năm 1996 tập 1;
40. Võ Quang Nhạn, Bàn về quyền công tố, Tạp Chí cơng tác kiểm sát số 2/1984.
41. Võ Thọ, Một số vấn đề về luật tố tụng hình sự, Nxb Pháp lý năm 1985;
42. Thạch Giản, Tìm hiểu bộ máy nhà nước, Nxb Pháp lý năm 1982.
43. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Cơng tác kiểm sát phần chung, Nxb Công
an nhân dân năm 1984;

44. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Cơng tác kiểm sát tập 1. Nxb Công an
nhân dân năm1996.

45. Thuật ngữ pháp lý phổ thông tập 1, Nxb Pháp lý năm 1986;
46. Tội phạm học, Luật hình sự và tố tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1995;
47. Đỗ Văn Đương – Khái niệm, đối tượng, phạm vi, nội dung quyền công tố (Kỷ yếu đề tài
khoa học cấp Bộ “Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt
Nam từ năm 1945 đến nay”. H 1999;

48. Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Một số vấn đề góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
H1997.

49. Lê Tài Triển, Nhiệm vụ của Cơng tố viện, Sài Gịn 1970;
50. Hồng Tuấn Lộc, Hình sự tố tụng chú giải. Quyển 1. Sài Gòn, 1973.
51. Phạm Hồng Hải, Bàn về quyền công tố (Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ “Những vấn đề
lý luận về quyền công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay”), H
1999;


52. Võ Thọ, Một số vấn đề về luật TTHS, Nxb Pháp lý năm 1985;


53. Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà
Nội, Nxb Đại học Quốc gia năm 2005.

54. Võ Khánh Vinh, Về quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân ở nước ta. Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003.

55. Nguyễn Tất Viễn, Hoạt động tư pháp và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Kỷ yếu đề tài
cấp Bộ “Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp”, H.2002-2003.

56. Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Đại học luật Hà Nội, Nxb Tư pháp năm
2006;

57. Từ điển tiếng Việt [50, tr. 672];



×