Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

LUẬN VĂN:Báo chí cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.83 KB, 111 trang )












LUẬN VĂN:

Báo chí cho trẻ em ở Thành phố
Hồ Chí Minh











MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở mọi người quan tâm,
chăm sóc và bảo vệ quyền lợi của trẻ em. Theo Người, trẻ em như búp trên cành; biết ăn
ngủ, biết học hành là ngoan… Lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, trẻ


em ngày nay ngoan, không chỉ biết ăn, ngủ mà còn năng động, sáng tạo trong học tập
cũng như trong lao động.
Trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. Trong công
cuộc kháng chiến giành độc lập cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
(BVCS&GDTE). Công tác này được thể chế hoá trong hệ thống pháp luật của Việt
Nam. Cụ thể, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1948 có 2 điều
nói về trẻ em. Đặc biệt, sau khi Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em
của Liên Hiệp Quốc vào ngày 20.2.1990 (gọi tắt là Công ước), các quyền cơ bản của trẻ
em trong Công ước được Việt Nam tôn trọng và luật hoá trên cơ sở phù hợp với Hiến
pháp và pháp luật, điển hình là Luật BVCS&GDTE đã sửa đổi, bổ sung, được Quốc hội
thông qua vào ngày 15.6.2004. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta cũng đã đề ra và thực
hiện nhiều chiến lược, chương trình hành động quốc gia vì sự sống còn, bảo vệ và phát
triển của trẻ em.
Dưới sự quan tâm đó, trẻ em trở thành đối tượng phản ánh đặc biệt của báo chí.
Hầu hết báo, đài từ trung ương đến địa phương luôn ưu tiên phản ánh những vấn đề liên
quan đến trẻ em nhằm bảo vệ quyền lợi cho trẻ em. Các đài phát thanh (PT), truyền hình
(TH), báo in đều tổ chức nhiều chuyên mục, chuyên trang dành riêng cho trẻ em. Đặc
biệt, đã có nhiều báo ra đời chỉ để phục vụ cho trẻ em. Từ đây cho thấy, vấn đề
BVCS&GDTE ngày càng được báo chí quan tâm sâu sắc với nhiều góc độ, mức độ
khác nhau, góp phần giáo dục trẻ em trở thành những công dân tốt trong xã hội, đồng
thời nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân để cùng Đảng, Nhà nước thực hiện
mục tiêu hàng đầu là xây dựng con người cho đất nước.

Việt Nam có khoảng 86 triệu dân, trong đó có 24 triệu trẻ em, chiếm 28% dân số
cả nước [56]. Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), trong tổng số 7,1 triệu dân
thì có tới 1,86 triệu trẻ em dưới 16 tuổi, chiếm hơn 26% dân số của Thành phố [93].
Xác định đây là nguồn lực quan trọng trong tương lai nên việc BVCS&GDTE được
xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân Thành
phố.

Đối với trẻ em ở TP HCM, báo chí không xa lạ và trở thành món ăn tinh thần
trong cuộc sống. Sinh ra và lớn lên ở một thành phố năng động, phát triển về mọi mặt
và có hoạt động báo chí sôi động nhất cả nước nên trẻ em ở TP HCM có nhiều thuận lợi
hơn trong việc tiếp cận báo chí so với trẻ em các tỉnh, thành khác. Hiện nay, TP HCM
có 39 đơn vị báo chí, bao gồm đài PT - Đài Tiếng nói nhân dân TP HCM (Đài TNND
TP HCM) và đài TH - Đài TH TP HCM (Đài TH TP HCM), 19 báo, 18 tạp chí, với 28
phụ bản và 3 nhà xuất bản. Trong đó, có 4 đơn vị báo chí chuyên sản xuất các ấn phẩm,
chương trình PT, TH cho trẻ em, như: Báo Khăn Quàng Đỏ với 4 ấn phẩm chính là
Khăn Quàng Đỏ (KQĐ), Mực Tím (MT), Rùa Vàng (RV), Nhi Đồng Thành phố
(NĐTP) thuộc Thành Đoàn TP HCM; Báo Yêu Trẻ với cẩm nang Yêu Trẻ (YT) thuộc
Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP HCM (Sở LĐTB&XH); Đài TH TP HCM với
các chương trình TH dành cho thiếu nhi và Đài TNND TP HCM với các chương trình
PT thiếu nhi.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ (PGS, TS) Nguyễn Văn Dững cho rằng:
Viết báo, làm chương trình phát thanh, truyền hình cho trẻ em và vì
cuộc sống của trẻ em tốt đẹp hơn, đã từ lâu trở thành một nhiệm vụ quan
trọng của các nhà báo, các cơ quan báo chí ở Việt Nam. Đòi hỏi của công
chúng về những tác phẩm báo chí có liên quan đến trẻ em không những hay,
hấp dẫn, mà còn phải chính xác, kịp thời và thể hiện sự hiểu biết của nhà báo
về các quyền của trẻ em [14, tr.3].
Thực tế, báo chí cho trẻ em ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu này.
Báo chí cho trẻ em ở TP HCM cũng không ngoại lệ. So với những năm trước đây, chất
lượng báo chí cho trẻ em ở TP HCM có nhiều chuyển biến tích cực: đa dạng, phong phú về
nội dung và hình thức. Tuy nhiên, báo chí cho trẻ em hiện nay còn nhiều bài viết chưa phù

hợp với lứa tuổi và trình độ của trẻ em; nhiều bài còn viết theo “kiểu mì ăn liền”, thiếu định
hướng, giáo dục; thông tin chưa chính xác, vi phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp; bài
viết về ngôi sao điện ảnh, ca sĩ và chuyện đời tư của người nổi tiếng đang chiếm diện tích
khá rộng trên mặt báo… Đây là điều lo ngại vì báo chí chẳng những làm giảm các chức
năng xã hội của mình, mà còn làm cho trẻ em xao nhãng chuyện học hành, tập tành lối

sống hưởng thụ, ăn chơi đua đòi. Văn phong sử dụng trên báo cũng còn nhiều điều cần bàn
như: câu chữ dài dòng, khó hiểu, vừa “tiếng tây”, vừa “tiếng ta”, lạm dụng từ lóng, từ
láy…, làm ảnh hưởng không ít đến sự trong sáng của tiếng Việt trong việc học tập của các
em.
Cũng như những trẻ em ở các địa phương khác, trẻ em ở TP HCM đang trong
giai đoạn phát triển về thể chất lẫn tinh thần nên rất dễ bị tác động bởi môi trường sống
xung quanh. Những năm gần đây, sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, sự
bùng nổ của truyền thông đại chúng như internet, đầu kỹ thuật số, TH cáp…, đã tạo điều
kiện cho các văn hóa phẩm nước ngoài du nhập vào Thành phố, cả tốt lẫn xấu. Tình
trạng truyện tranh có nội dung đồi truỵ, bạo lực được bày bán tràn lan trở thành mối lo
ngại lớn không chỉ của các bậc cha mẹ mà của toàn xã hội. Chỉ cần thiếu sự quản lý,
kiểm soát, định hướng, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, những ấn phẩm độc
hại sẽ rơi vào tay trẻ em, gây ảnh hưởng xấu cho các em. Từ đây càng đòi hỏi, báo chí
cho trẻ em ở TP HCM không ngừng nâng cao vị trí, vai trò, trách nhiệm “vừa là trường
học, vừa là nhà hát” và là người bạn thân thiết của trẻ em.
Trong các văn kiện của Đảng về BVCS&GDTE đều ghi rõ:
Các em thiếu niên, nhi đồng ngày nay sẽ là lớp người xây dựng chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản sau này. Quan tâm đến thiếu niên nhi đồng là quan
tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho sự
nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện nay mà còn là cho sự nghiệp xây dựng cộng sản chủ
nghĩa sau này [57, tr.14].
Từ đây chúng tôi nhận thấy, việc khảo sát, đánh giá thực trạng báo chí cho trẻ em
ở TP HCM, từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng báo chí cho trẻ em là cần
thiết. Vì vậy, tôi chọn “Báo chí cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng của mình.

2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài “Báo chí cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh”,
chúng tôi đã tham khảo nhiều tài liệu có liên quan đến báo chí và trẻ em. Trước hết là
những công trình nghiên cứu được biên soạn thành sách như:

- Sổ tay phóng viên báo chí với trẻ em do PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên,
được xuất bản vào năm 2001. Cuốn sách này nêu rõ những kiến thức chung về trẻ em;
vấn đề BVCS&GDTE; kỹ năng và kinh nghiệm hoạt động báo chí cho trẻ em. Năm
2004, cuốn sách được tái bản lần thứ hai, có sửa đổi, bổ sung một số vấn đề về kỹ năng
cũng như kinh nghiệm trong quá trình làm báo cho trẻ em.
- Truyền thông, đạo đức nghề nghiệp với trẻ em của tác giả Helena Thorfinn, do
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản vào năm 2003. Đây là cuốn sách đúc kết
những phẩm chất cần thiết của nhà báo viết về trẻ em.
- Báo chí với trẻ em do PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên, xuất bản năm
2004 cũng đã cung cấp cái nhìn tổng quan về trẻ em và kỹ năng nghiệp vụ của nhà báo
với trẻ em.
- Văn hóa nghe và nhìn của giới trẻ là công trình nghiên cứu của TS. Đỗ Nam Liên về
phương thức tiếp nhận thông tin qua truyền hình và băng đĩa của giới trẻ ở TP HCM, được
xuất bản năm 2005. Trong đó, tác giả đề cập đến thói quen tiếp nhận thông tin của trẻ em ở
Thành phố, cụ thể là trẻ em ở tuổi dậy thì.
- Tâm lý trẻ và giáo dục gia đình được xuất bản năm 2005 của tác giả Trần Thị
Cẩm, đã cơ bản phân tích những đặc điểm tâm lý chủ yếu của trẻ em trong từng giai
đoạn phát triển và một số cách giáo dục thường được áp dụng trong gia đình Việt Nam.
Ngoài những công trình nghiên cứu được biên soạn thành sách, chúng tôi còn
tham khảo thêm các luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp liên quan đến đề tài, như:
- Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng Góp phần hình thành và giáo dục nhân
cách cho tuổi thơ qua chương trình văn nghệ thiếu nhi Đài Truyền hình Việt Nam của
tác giả Nguyễn Lan Hương, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm 1997.
- Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng Giáo dục thiếu niên, nhi đồng trên
sóng Đài Truyền hình Việt Nam của tác giả Trần Thị Thu Hương, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, năm 2005.

- Luận văn thạc sĩ truyền thông đại chúng Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành
niên trên báo chí hiện nay của Trần Thị Dung, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà
Nội, năm 2006.

- Khóa luận tốt nghiệp đại học chuyên ngành báo chí Nâng cao chương trình
“Ngộ nghĩnh tuổi thơ” trên kênh VTV2 của Trần Văn Dương, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội, năm 2007.
- Luận án tiến sĩ Kỹ năng viết báo cho trẻ em của tác giả Nguyễn Ngọc Oanh,
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, năm 2009.
Để làm phong phú nguồn tư liệu, chúng tôi còn tham khảo một số bài báo, bài
viết đề cập đến báo chí và trẻ em ở TP HCM được công bố trên các phương tiện thông
tin đại chúng hoặc các tạp chí nghiên cứu khoa học như:
- Bài viết Nhóm báo chí dành cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả
Nguyễn Ngọc Oanh, đăng trong sách Báo chí - Những điểm nhìn từ thực tiễn, tập 2, do
PGS, TS. Nguyễn Văn Dững chủ biên, xuất bản vào năm 2001. Trong bài này, tác giả
đã giới thiệu một số ấn phẩm của báo Khăn Quàng Đỏ dành cho trẻ em ở Thành phố.
- Bài báo Truyền hình với trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh, đăng trên website
Báo chí với trẻ em, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội vào ngày 10.14.2005 của
tác giả Nguyễn Ngọc Oanh cũng giới thiệu sơ nét một số chương trình tiêu biểu dành
cho thiếu nhi của Đài TH TP HCM.
- Bài báo Tìm hiểu tâm lý trẻ em - một nhóm công chúng đặc thù của báo chí của
tác giả Đỗ Thu Hằng đăng trên website Báo chí với trẻ em, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội vào ngày 11.27.2005.
Tóm lại, cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh vấn đề
báo chí và trẻ em trên cả hai phương diện: lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, những công
trình này mới cho chúng ta cái nhìn tổng quan về báo chí và trẻ em, kỹ năng nghiệp vụ
viết báo cho trẻ em, chưa đi sâu nghiên cứu báo chí cho trẻ em ở một địa phương cụ thể
như ở TP HCM. Trong khi đó, báo chí cho trẻ em ở TP HCM đã và đang phát triển rất
mạnh mẽ không thua kém báo chí cho trẻ em ở trung ương. Như vậy, có thể nói, thực
hiện đề tài “Báo chí cho trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh” vừa mang ý nghĩa lý luận
vừa mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát thực trạng báo chí cho trẻ em ở TP HCM, luận văn nêu ra
những thành công và hạn chế, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng báo chí cho trẻ em ở TP HCM, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng
trẻ em.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt mục đích nghiên cứu, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các tài liệu, sách lý luận báo chí, trẻ em để rút ra những vấn đề
lý luận làm cơ sở cho nghiên cứu thực tế.
- Khảo sát các báo cho trẻ em ở TP HCM để làm sáng tỏ thực trạng trên các
phương diện: nội dung và hình thức; cơ cấu tổ chức; đội ngũ những người làm
báo
- Vận dụng lý luận báo chí và căn cứ vào tình hình thực tế để đề ra giải pháp
nâng cao chất lượng báo chí cho trẻ em ở TP HCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định đối tượng nghiên cứu chính là các sản
phẩm báo chí cho trẻ em ở TP HCM. Cụ thể là các ấn phẩm, các chương trình PT,
chương trình TH được sản xuất ra nhằm phục vụ cho đối tượng chính là trẻ em.
Trong đó, chúng tôi tập trung khảo sát ở các phương diện: số lượng; thời lượng;
chất lượng (nội dung và hình thức); đội ngũ những người làm báo; công tác tổ
chức, sản xuất các sản phẩm báo chí cho trẻ em ở TP HCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành khảo sát các báo, đài cho trẻ em trên địa bàn TP HCM. Cụ
thể là Đài TH TP HCM với các chương trình TH dành cho trẻ em phát trên kênh HTV7,
HTV9, HTV3; Đài TNND TP HCM với các chương trình PT thiếu nhi phát trên sóng
AM và FM; Báo Khăn Quàng Đỏ với các ấn phẩm KQĐ, MT, RV, NĐTP và Báo Yêu
Trẻ với cẩm nang YT.
Tháng 6.2008, chúng tôi bắt đầu khảo sát và kết thúc vào tháng 6.2009.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về báo chí và trẻ em, các tài
liệu lý luận về báo chí, truyền thông đã được xuất bản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vận dụng, kết hợp các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp khảo sát thực tế để làm sáng rõ diện mạo của báo chí cho trẻ em ở
TP HCM.
- Các phương pháp thống kê, phân tích để thấy rõ những thành công và hạn chế,
nguyên nhân của hạn chế, từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng
báo chí cho trẻ em ở TP HCM.
- Phương pháp phỏng vấn sâu lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên làm báo cho
trẻ em.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi anket, được thực hiện với 250
phiếu dành cho công chúng trẻ em ở TP HCM và 33 phiếu dành cho các phóng viên,
biên tập viên báo, đài.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
- Đây là đề tài đầu tiên khảo sát hoạt động báo chí cho trẻ em ở một địa phương
cụ thể - TP HCM - thành phố năng động, phát triển và có số lượng trẻ em đông nhất cả
nước. Đề tài không chỉ góp phần làm sáng rõ diện mạo, nội dung và hình thức của các
báo cho trẻ em ở TP HCM mà còn đánh giá tương đối chính xác, khách quan về vai trò,
vị trí của báo chí cho trẻ em hiện nay.
- Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy về
những vấn đề có liên quan đến báo chí cho trẻ em nói chung và báo chí cho trẻ em ở TP
HCM nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn


- Luận văn cung cấp cơ sở dữ liệu báo chí cho trẻ em ở TP HCM cho các cơ quan
quản lý báo chí trên địa bàn hiểu sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, thực trạng hoạt động của
báo chí cho trẻ em, từ đó có cách lãnh đạo, quản lý phù hợp và đạt hiệu quả hơn.
- Thông qua luận văn này, các cơ quan báo chí cho trẻ em ở TP HCM nhận thấy
những mặt được và chưa được trong hoạt động của mình; có thể nghiên cứu, tham khảo,
áp dụng những giải pháp luận văn đưa ra để đổi mới, cải tiến nội dung và hình thức các
báo, đáp ứng nhu cầu công chúng.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng, giảng
viên và học viên ở các trường đào tạo chuyên ngành báo chí; tạo tiền đề cho các công
trình nghiên cứu tiếp theo. Đồng thời, qua tìm hiểu hoạt động báo chí cho trẻ em ở TP
HCM, chúng tôi cũng nâng cao sự hiểu biết của mình khi làm báo cho trẻ em.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, những nội dung chủ yếu của
luận văn được trình bày trong 3 chương, 8 tiết, 91 trang.



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ CHO TRẺ EM

1.1. TRẺ EM VÀ TRẺ EM Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1.1. Trẻ em
1.1.1.1. Định nghĩa trẻ em
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” từ lâu đã trở thành khẩu lệnh trong các
chương trình hành động vì trẻ em và cho trẻ em ở mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Thế nhưng, việc định nghĩa về trẻ em đến nay vẫn chưa được thống nhất. Bởi tùy theo
môi trường, hoàn cảnh, trình độ văn hoá và nhận thức của mỗi người, mỗi quốc gia, trẻ
em được định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, để dễ dàng xác định ai là đối tượng trẻ em
và để thuận lợi trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở mỗi quốc gia, Công ước đã
đưa ra một quy định chung mang tính quốc tế là “Trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ

trường hợp luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn” [58, tr.2].
Theo Pháp luật Việt Nam “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [65, tr.4].
Như vậy, do điều kiện cụ thể của đất nước, trẻ em Việt Nam được hiểu nhỏ hơn trẻ em
quy định trong Công ước.
1.1.1.2. Trẻ em - đối tượng luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà
nước ta
Trẻ em là người kế tục sự nghiệp cách mạng của thế hệ đi trước, vì vậy, các em
luôn nhận sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội qua đạo lý dân tộc,
đạo đức xã hội và trách nhiệm pháp lý. Điều này thể hiện rõ tại điều 65, Hiến pháp nước
CHXHCN năm 1992: “Trẻ em được gia đình, Nhà nước, và xã hội bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục” [63, tr.39]; điều 5, Luật BVCS&GDTE (sửa đổ, bổ sung): “Việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và
công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan
đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu” [65, tr.6].
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành tình yêu thương vô bờ cho trẻ em.
Người viết trong bài Nâng cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng:
“Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của đất nước… Vì tương lai của con em

ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các bé
cho tốt” [60, tr.467-468]. Thực hiện lời dạy của Người, trong mọi chặng đường phát
triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn xác định “Quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng một lớp người mới không những phục vụ cho sự nghiệp xã hội chủ nghĩa hiện
nay mà còn cho sự nghiệp xây dựng cộng sản chủ nghĩa sau này” [57, tr.14]. Vì vậy,
công tác BVCS&GDTE được Đảng đưa ra bàn luận tại các kỳ đại hội, hội nghị lớn.
Điển hình nhất là tại Hội nghị toàn quốc kiểm điểm 4 năm thực hiện Chỉ thị 38-CT/TW
của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, Đảng đã tập trung bàn luận nhiều biện pháp
đẩy mạnh công tác BVCS&GDTE. Tại đây, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng - Lê
Khả Phiêu phát biểu:
Một trong những quan điểm cơ bản chi phối toàn bộ đường lối của
Đảng ta là coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát

triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trẻ em là lớp măng non,
là nguồn hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc khi các em
còn chưa phát triển đầy đủ, còn non nớt cả thể chất và tinh thần, dễ bị tổn
thương thì việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn luôn là mối quan
tâm đặc biệt, hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta [75, tr.1].
Trẻ em chiếm tỷ lệ càng cao, Đảng và Nhà nước càng quan tâm hơn. Từ khi ký
Công ước, Việt Nam luôn tôn trọng và luật hoá các quyền cơ bản của trẻ em trên cơ sở
phù hợp với hiến pháp và pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật BVCS&GDTE nhiều lần
đã được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn phát triển; hàng loạt các chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em đã được triển khai. Trong cuộc tiếp đón Phó Giám
đốc điều hành Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF) - Kul Gautam, ngày
27.3.2007, tại Hà Nội, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội - Trương Quang Được khẳng
định: “Việt Nam luôn hết sức nỗ lực thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế và bảo vệ
quyền trẻ em. Đây cũng là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” [92, tr.2].
1.1.2. Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh
1.1.2.1. Vài nét về Thành phố Hồ Chí Minh năng động và phát triển

Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm
kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của miền Nam Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển
tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, “Thành phố Hồ Chí Minh
có diện tích tự nhiên 2.095 km
2
, khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, nhiệt độ trung
bình từ 25-27 độ [66, tr.447]. Tính đến ngày 1.4.2009, Thành phố có trên 7,1 triệu dân
đang sinh sống tại 24 quận, huyện. Về cơ cấu dân tộc, người Kinh chiếm 92,9%, tiếp
đến là người Hoa với 6,69%, còn lại là các dân tộc Chăm, Khơ me
Chính vị trí địa lý đã làm cho TP HCM đa dạng về văn hóa. Sự giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc đang sinh sống và làm việc trên địa bàn, sự hấp thụ thêm nhiều nền văn
hóa của các nước trên thế giới qua hoạt động kinh tế, du lịch càng làm cho Thành phố

tuy hình thành chỉ hơn 300 năm, đã chứa đựng trong lòng nhiều giá trị văn hoá nhân văn
- văn hoá lịch sử trên nền tảng văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc. Với vai trò là
một trong những trung tâm văn hóa lớn của cả nước, TP HCM hiện có 22 đơn vị nghệ
thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện.
Về kinh tế, TP HCM là địa phương đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, đạt được những
thành tựu quan trọng trong việc khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển. Hiện
nay, TP HCM vẫn giữ vai trò đầu tàu kinh tế của Việt Nam. Năm 2007, thu nhập bình quân
đầu người ở Thành phố đạt 2.100 USD/năm, cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 730
USD/năm vào năm 2006. “Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố cao hơn tốc
độ chung cả nước 1,6 lần (ước đạt 11%). Tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn Thành
phố ước đạt 290.905 tỷ đồng (giá thực tế), tăng khoảng 11% (năm 2007 là 12,6%)” [86].
Về nhân văn, con người Thành phố luôn thể hiện tính năng động, sáng tạo, nhạy
bén với kỹ thuật và công nghệ mới. GS, TS. Nguyễn Minh Hòa nhận định: “Thành phố
là nơi mà bất kỳ ai, cho dù trước đó sống ở nơi đâu, khi đến định cư nơi đây đều trở nên
năng động, cởi mở, hòa đồng, bớt dần màu mè hình thức, đố kỵ, cực đoan để hướng đến
tính hiệu quả và thực dụng tích cực” [31, tr.11].
Từ những đặc điểm trên,
TP HCM được cả thế giới biết đến không chỉ là một thành phố anh
hùng trong các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, mà còn biết đến là một
trong năm thành phố lớn nhất Đông Nam Á (Bangkok, Metro Malia,

Jakarta, Kuala Lumpur, TP HCM) và là thành phố đông dân nhất Việt
Nam, hơn thế nữa nó là thành phố năng động, cởi mở, có tốc độ tăng
trưởng kinh tế vào loại nhanh ở Đông Nam Á trong hai thập kỷ qua [31,
tr.3,11].
Bước vào thế kỷ mới, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học
công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, TP HCM đang tăng tốc thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2010. Trong đó, mục tiêu phát triển kinh tế song hành với mục
tiêu phát triển con người. Cụ thể, TP HCM phấn đấu đạt “quy mô dân số khoảng 10
triệu người và GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4540 USD vào năm 2010” [66,

tr.447]. Để đạt mục tiêu,
Thành phố quan tâm nhiều hơn công tác chăm lo phát triển, nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo để nhanh chóng nâng cao dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực có chất lượng cao, đào tạo nguồn nhân tài cho Thành phố và cho đất
nước; phát triển đi đôi với chỉ đạo và quản lý chặt chẽ các hoạt động phát
thanh, truyền hình, internet, báo chí, xuất bản… và quan tâm chăm sóc trẻ em
[62, tr.23].
1.1.2.2. Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh
“Thành phố Hồ Chí Minh hiện có hơn 7,1 triệu dân (chưa tính người vãng lai),
trong đó có 1,86 triệu trẻ em dưới 16 tuổi” [95]. So với các thành phố khác, trẻ em ở
TP HCM đông nhất cả nước.
0
1000000
2000000
3000000
4000000
5000000
6000000
7000000
8000000
Hà Nội TP. HCM Cần Thơ
Trẻ em
Tổng số dân

Bảng 1.1: Trẻ em ở Thành phố Hồ Chí Minh so với các thành phố khác

Ghi chú: Thành phố Cần Thơ : 260.000/1,2 triệu dân
Thành phố Hà Nội : 1,5 triệu/6,4 triệu dân
Thành phố Hồ Chí Minh : 1,86 triệu/7,1 triệu dân
Bà Phan Thanh Minh - Trưởng Phòng Bảo vệ và chăm sóc trẻ em TP HCM

thuộc Sở LĐTB&XH cho rằng: “Đây là nguồn lực dồi dào và cũng là nỗi lo lớn
trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của Thành phố hiện nay”. Là
thành phố có nền công nghiệp, du lịch phát triển, TP HCM không chỉ thu hút lực
lượng lao động người lớn (tỷ lệ dân nhập cư chiếm khoảng 30% dân số Thành phố),
mà còn thu hút một lượng lớn trẻ em [79]. Có trẻ theo cha mẹ lập nghiệp, cũng có trẻ
tự di cư một mình. Các em kiếm sống bằng nhiều việc như bán vé số, đánh giày,
phục vụ quán ăn… Với mức thu nhập trung bình 20.000 đồng/ngày đã làm cho tỷ lệ
trẻ em nghèo của Thành phố tăng thêm. “Ngoài số trẻ lao động xa gia đình chưa
thống kê được, toàn Thành phố có 16.500 trẻ có hoàn cảnh khó khăn cần được hỗ
trợ, trong đó, trẻ từ các tỉnh khác đến chiếm 70%” [82].
Nghèo đi đôi với các vấn đề an sinh xã hội. Tình trạng trẻ em lang thang, ăn xin,
bị lạm dụng tình dục, phạm pháp ở Thành phố chiếm tỷ lệ cao, đứng đầu cả nước.
Năm 2008, trong tổng số 11.500 bị can bị khởi tố thì có 1.118 bị can
dưới 18 tuổi, chiếm tỷ lệ bình quân 9,7% ở các loại tội phạm, đặc biệt một số
loại tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao như cướp
giật tài sản 17,2%, giết người 19,3%, cướp tài sản 30,2%, hiếp dâm trẻ em
51%. Đáng chú ý là, có một số vụ giết người, cố ý gây thương tích mà đối
tượng phạm tội hoặc nạn nhân là học sinh cấp 2, cấp 3. Theo Viện phó Viện
Kiểm sát nhân dân TP HCM - Nguyễn Ngọc Điệp, có nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng này, trong đó có nguyên nhân kinh tế xã hội, bị tác động của
mặt trái thị trường, sự phân hoá giàu - nghèo, dân cư tăng đột biến về cơ học
[55].
Tuy còn một phận trẻ em ở TP HCM sống trong khó khăn, phức tạp nhưng nhìn
chung trẻ em ở Thành phố luôn được các cấp ủy đảng, chính quyền quan tâm thông qua
việc cụ thể hóa luật, các văn bản dưới luật liên quan đến trẻ em, đưa công tác
BVCS&GDTE vào trong các nghị quyết phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố. Đặc

biệt, hàng năm, Thành phố thực hiện các chính sách hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Từ năm 2006-2008, có 1.700 em được chăm sóc, nuôi dạy tại 6 Trung tâm Bảo trợ xã
hội thuộc Sở LĐTB&XH, 1.300 em được hưởng trợ cấp thường xuyên tại cộng đồng

với mức 150.000 đồng/em/tháng. Ngoài ra, Thành phố còn thực hiện một số chế độ hỗ
trợ cho trẻ có hoàn cảnh khó khăn như cấp xe lăn miễn phí, cấp thẻ xe buýt miễn phí,
miễn giảm học phí
Phải thừa nhận rằng, so với trẻ em ở các tỉnh, thành khác, trẻ em ở TP HCM may
mắn thừa hưởng một nền văn hoá đa dạng, tiên tiến, một nền kinh tế phát triển cùng
những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại. Các em có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt
nhờ mạng lưới y tế rộng khắp từ xã, phường, quận, huyện đến các bệnh viện lớn nhất
miền Nam, trong đó có 2 bệnh viện dành riêng cho đối tượng trẻ em là Nhi Đồng 1 và
Nhi Đồng 2. Việc học hành của trẻ em cũng được Thành ủy, UBND Thành phố chăm lo
với hệ thống trường lớp khang trang, trang thiết bị giảng dạy hiện đại. Hàng năm, “TP
HCM huy động 100% trẻ em vào mẫu giáo, 100% trẻ đến trường tiểu học, và 99,9% trẻ
đến trường trung học cơ sở” [79]. Ngoài hệ thống trường công lập, trên địa bàn Thành
phố còn có hàng chục trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở (THCS), trung học
phổ thông (THPT) dân lập đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo cơ hội cho trẻ em được học tập,
tiếp cận với các phương pháp giảng dạy hiện đại của thế giới, đáp ứng nhu cầu trau dồi
trình độ ngoại ngữ, vi tính, phát huy năng khiếu của phần lớn trẻ em ở Thành phố. Về
giải trí, mỗi quận, huyện của Thành phố đều có nhà thiếu nhi, trung tâm văn hóa - thể
dục - thể thao, nhiều tụ điểm vui chơi giải trí lớn như Đầm Sen, Suối Tiên, Sài Gòn
Water Park… Hệ thống thư viện không ngừng được mở rộng. Hiện nay, Thư viện Tổng
hợp TP HCM có phòng đọc dành riêng cho trẻ em với hàng ngàn đầu sách, báo tiếng
Việt lẫn tiếng Anh nhằm hỗ trợ trẻ em trau dồi kiến thức.
Đặc biệt, trẻ em ở TP HCM có điều kiện tiếp cận, hưởng thụ hàng chục sản phẩm
văn hóa được sản xuất từ 39 đơn vị báo chí và 113 văn phòng đại diện báo chí trung
ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của Thành phố và 21 chi nhánh nhà xuất bản trung
ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài PT, TH địa phương và trung ương. TP
HCM có báo chí dành cho trẻ em rất phát triển, không thua kém so với báo chí dành cho
người lớn.

Từ đầu những năm 2000, TP HCM có sự bùng phát về tăng trưởng
thông tin báo chí, bùng phát về số lượng phát hành, nâng chỉ số được thu

nhận và hưởng thụ thông tin của nhân dân với nhu cầu và trình độ không
ngừng tăng lên nhiều lần so với trước. Trong danh sách các báo ngày và
tuần báo tăng ấn phẩm, tăng trang, số lượng phát hành lớn nhất ở TP
HCM phải kể đến Báo Khăn Quàng Đỏ với tờ Mực Tím [20, tr.121].
1.1.2.3. Tâm lý tiếp nhận báo chí của trẻ em Thành phố Hồ Chí Minh
Vị trí địa lý ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, phong tục tập quán từ đó dẫn đến hệ
quả về thói quen, văn hóa đọc, nghe, xem của người dân Thành phố, trong đó có trẻ em.
Trẻ em phát triển phụ thuộc vào điều kiện sống và chịu sự phi phối của xã hội,
nhất là về kinh tế, văn hóa… Vì thế, có ý kiến cho rằng trẻ em ở Thành phố phát triển
sớm hơn trẻ em ở nông thôn. Điều này hoàn toàn đúng. Bởi càng sống trong môi trường
năng động, hiện đại thì nhu cầu vui chơi giải trí, học tập của trẻ em càng cao. Dù vậy,
về phương diện nào đó, trẻ em ở TP HCM cũng như những trẻ em khác, vẫn phải trải
qua những giai đoạn phát triển cơ bản “phát triển thể chất - sinh lý, phát triển nhận
thức và phát triển nhân cách” [26]. Đặc biệt, giai đoạn phát triển tâm lý chủ yếu chia
theo từng nhóm tuổi cụ thể như tuổi trước đi học (từ 0-6 tuổi), tuổi nhi đồng (cấp tiểu
học, từ 6-12 tuổi), tuổi thiếu niên (cấp THCS và THPT, từ 12-18 tuổi). Và, theo nhà tâm
lý học Eric Ericson, sự phát triển nhân cách của trẻ em được chia thành 5 giai đoạn: sơ
sinh; nhà trẻ; mẫu giáo; đi học; vị thành niên.
- Giai đoạn sơ sinh (từ 0-1,5 tuổi) là giai đoạn trẻ em chủ yếu ăn, ngủ, phối hợp
với các phản xạ mang tính bột phát. Đến khoảng từ 4-12 tháng tuổi, trẻ mới phát triển
các động tác biểu cảm, cộng sinh cảm xúc. Các em rất cần sự quan tâm, chăm sóc của
cha mẹ.
- Giai đoạn nhà trẻ (từ 1,5-3 tuổi) là lúc trẻ mới tập đi, tập định hướng, hình
thành sự tự chủ (cảm giác sự tự kiểm soát và quyết định). Đặc điểm nổi bật của trẻ trong
giai đoạn này là tỏ ra độc lập và không vâng lời.
Ở hai giai đoạn trên, trẻ em chưa có khả năng tiếp nhận báo chí. Báo chí cho trẻ
em ở giai đoạn này chính là kênh thông tin hỗ trợ đắc lực cho người lớn, nhất là các bậc
cha mẹ, thầy cô nhằm cung cấp những kiến thức cần thiết trong việc chăm sóc thể chất

lẫn tinh thần cho trẻ em, giúp các em vượt qua cuộc “khủng hoảng lứa tuổi”, “tuổi bất

trị” (theo cách gọi của J. Henry và P. Bertrand, 1998; Vưgôtsky, 1987) [94]. Đây chính
là nền tảng, cơ sở vững chắc cho sự phát triển tâm lý của trẻ sau này.
- Giai đoạn mẫu giáo (từ 3-6 tuổi) là giai đoạn trẻ em thể hiện sự hiếu thắng, hiếu
động, hiếu kỳ, bắt chước và giàu sức tưởng tượng. Ở lứa tuổi này, trẻ em tiếp nhận được
báo chí, nhất là TH nhưng tiếp nhận một cách thụ động, máy móc. Trẻ thích xem những
gì mới, lạ và bắt chước lời nói, hành động của nhân vật. Các em chưa phân biệt lợi - hại,
tốt - xấu. Vì thế, các ấn phẩm báo chí, những chương trình TH, PT dành cho trẻ em
mang tính khám phá, giáo dục, hỗ trợ trẻ em phát triển nhận thức trực quan, hướng dẫn
trẻ tiếp cận và tìm hiểu thế giới âm thanh, màu sắc, thế giới động vật, thực vật, môi
trường xung quanh… là rất cần thiết.
- Giai đoạn đi học (từ 6-tuổi dậy thì): Từ lớp 1-2, trẻ em chú ý vô thức và tư duy
hình tượng cụ thể. Từ lớp 2-9, các em đã nhận thức được ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết
và hình ảnh. Vì thế, các em có khả năng tiếp cận và chịu ảnh hưởng từ báo chí. Hiện
nay, trẻ em ở TP HCM, từ 6 tuổi trở lên đã tiếp cận được với báo chí như đọc báo, nghe
PT, xem TH, truy cập internet. Ngoài ra, các em có khả năng tham gia sản xuất báo chí,
ví dụ như tham gia các chương trình TH, PT dành cho thiếu nhi. Đặc biệt, các em đã
nhận thức, nhận xét được các tác phẩm báo chí. Chẳng hạn, sau khi xem xong bộ phim
hoạt hình, các em có thể nhận xét hay hay dở; nhân vật trong bộ phim có hành vi tốt hay
xấu. Vì thế, những câu chuyện thường nhật dễ hiểu, gần gũi, những vấn đề khoa học -
đời sống, thưởng thức… rất cần đối với trẻ em, góp phần kích thích sự sáng tạo của trẻ,
giúp trẻ hiểu và học những điều hay lẽ phải, có cách cư xử và hành vi đúng. Các em
cũng cần nhiều chuyên trang, chuyên mục, chương trình về từng vấn đề cụ thể của lứa
tuổi nhằm mở rộng hiểu biết, suy nghĩ, kiểm soát, điều chỉnh hành động của mình.
- Giai đoạn vị thành niên (từ tuổi dậy thì-18 tuổi) là giai đoạn trẻ em phát triển
nhanh về thể lực và trí lực. Đây là thời kỳ then chốt sự phát triển tâm lý của con người.
Về trí nhớ, nam từ 11-12 tuổi, nữ từ 10-11 tuổi đã chuyển một phần từ ghi nhớ máy móc
sang ghi nhớ ý nghĩa. Nam từ 14-15 tuổi, nữ từ 13-14 tuổi chuyển từ nhớ ý nghĩa từng
phần sang nhớ ý nghĩa toàn bộ. Về tư duy, từ tư duy cụ thể, lấy tôi làm trung tâm đã
phát triển tới tư duy lô gíc, tư duy trừu tượng; khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận và


phán đoán được nâng cao. Về tính tình, ở thời kỳ đầu và giữa của tuổi dậy thì, tính tình
các em không ổn định, rất dễ chuyển từ cực này sang cực khác. Nguyên nhân, nếu xét
theo cơ chế sinh lý là do chức năng nội tiết phát triển nhanh nhưng tác dụng ức chế của
vỏ não thì chưa ở mức hoàn hảo. Nếu xét ở khía cạnh xã hội, đó chính là mâu thuẫn
giữa nhu cầu ngày càng nhiều và mạnh của vị thành niên với nhận thức chưa đầy đủ về
tính phức tạp của xã hội, cũng như chưa hiểu rõ tính hợp lý và tính khả thi trong hành vi
của bản thân. Vì nguyện vọng và hiện thực chưa thống nhất được nên dẫn đến những
xáo động lớn trong tính tình. Nhưng nhìn chung, dù có tính thất thường và lưỡng cực,
thì đặc điểm tính nết của lứa tuổi vị thành niên vẫn là mạnh mẽ, tình cảm phong phú và
nhiệt tình. Ngoài ra, ở lứa tuổi này, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm lý giới tính,
có thể chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn có ý thức phân biệt người khác giới, giai đoạn
sắp trở thành người khác giới và mối tình đầu.
Có thể nói, trẻ em ở giai đoạn này rất cần sự đa dạng hoá của báo chí, nhất là về
nội dung. Các em rất cần những kiến thức về giới tính, định hướng nghề nghiệp, cung
cấp tri thức, kinh nghiệm xã hội - lịch sử, cách ứng xử trong tình bạn, tình yêu, thông tin
thời sự nóng bỏng liên quan đến lứa tuổi dậy thì… Báo chí cho trẻ em dựa vào đặc điểm
nổi bật này để sáng tạo ra những tác phẩm báo chí đáp ứng nhu cầu của các em. Tác
phẩm báo chí hay sẽ tác động tích cực đến nhận thức và hành vi của nhóm tuổi này. Để
các em phát triển hoàn hảo nhân cách, thẩm mỹ, báo chí cho trẻ em phải mang tính định
hướng và giáo dục cao. Nên lưu ý tính liều lượng và tính lưỡng cực của lứa tuổi này,
bởi nó có tác động trực tiếp đến việc hình thành định hướng giá trị, thị hiếu thẩm mỹ và
nhân cách của vị thành niên. Báo chí cũng cần tổ chức các hoạt động giao lưu trực tiếp
và gián tiếp, sử dụng có hiệu quả sự tham gia của trẻ em trong hoạt động sáng tạo.
Tóm lại, sự phân chia giai đoạn phát triển nhận thức và phát triển nhân cách của
trẻ em nhằm khẳng định những đòi hỏi riêng biệt của trẻ em đối với báo chí dành cho
chính mình.
1.2. BÁO CHÍ VÀ TRẺ EM
1.2.1. Báo chí và các chức năng xã hội của báo chí
1.2.1.1. Khái niệm báo chí


Tại điều 3, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999, quy
định:
Báo chí gồm báo in (báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn); báo
nói (chương trình phát thanh); báo hình (chương trình truyền hình, chương
trình nghe - nhìn thời sự được thực hiện bằng các phương tiện kỹ thuật khác
nhau); báo điện tử (được thực hiện trên mạng thông tin máy tính) bằng tiếng
Việt, tiếng các dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài [18, tr.212].
Trong đó:
- Báo in ở đây là những ấn phẩm xuất bản định kỳ, đăng tải các sự kiện và vấn đề
thời sự, phát hành rộng rãi nhằm phục vụ công chúng - nhóm đối tượng nào đó với mục
đích nhất định.
- Báo nói (phát thanh) là kênh truyền thông đại chúng sử dụng kỹ thuật sóng điện
từ và hệ thống truyền dẫn truyền đi âm thanh tác động trực tiếp vào thính giác người
tiếp nhận. Hay nói cách khác, báo nói là một phương tiện truyền thông đại chúng truyền
tải thông tin dưới dạng ngôn ngữ và âm thanh, không có hình ảnh.
- Báo hình (truyền hình) là kênh truyền thông chuyển tải thông điệp bằng hình
ảnh động với đầy đủ sắc màu vốn có từ cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng
động. Sự xuất hiện của TH như một điều thần kỳ trong sáng tạo của con người. Với sự
kết hợp giữa hình ảnh động và âm thanh, TH mang lại cho con người cảm giác về một
cuộc sống rất thật hiện diện trước mắt.
- Báo mạng điện tử là kênh truyền thông đặc thù, kênh truyền thông đa phương
tiện, truyền tải dung lượng thông tin khổng lồ, có thể nói là vô hạn định với tốc độ siêu
nhanh nhờ vào mạng thông tin toàn cầu internet (International Network).
1.2.1.2. Chức năng xã hội của báo chí
Xuất phát từ nền tảng cơ sở lý luận: Báo chí Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự giám sát và xây dựng của nhân dân. Ngay tại điều 1,
Luật Báo chí ban hành ngày 2.1.1989 đã khẳng định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ
quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội (dưới đây gọi
chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân” [89].


Trong tác phẩm Cơ sở lý luận báo chí do PGS, TS. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên) đã
nêu chức năng của báo chí gồm “chức năng tư tưởng, chức năng quản lý và giám sát xã
hội, chức năng khai sáng - giải trí” [84, tr.83-128]. Tác phẩm Cơ sở lý luận báo chí
truyền thông của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, báo chí có chức năng
“giáo dục tư tưởng, chức năng quản lý và giám sát xã hội, chức năng phát triển văn
hóa và giải trí” [81, tr.73-93].
Nói đến báo chí là nói đến thông tin, là nói đến những sự kiện, vấn đề mới nảy
sinh hoặc đang thu hút sự quan tâm của nhiều người, nhiều giai tầng trong xã hội. Chức
năng thông tin là chức năng đầu tiên và cũng là chức năng muôn đời của báo chí.
Nguyên Tổng Bí thư - Lê Khả Phiêu trong bài phát biểu tại Hội thảo toàn quốc Trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo do Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ngày
27.12.1998 đã nhấn mạnh:
Thông tin là chức năng cơ bản của báo chí, xã hội càng phát triển thì
nhu cầu thông tin càng cao, càng đa dạng, phong phú. Là nhà báo chân
chính, phải lựa chọn, xử lý thông tin nhanh chóng, trung thực, chính xác,
phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của công chúng, đúng định hướng chính
trị của Đảng, tác động tích cực có hiệu quả đến tiến bộ xã hội. Đó là sức
mạnh của báo chí [32].
Báo chí là loại hình truyền thông quan trọng của Đảng thực hiện chức năng giáo
dục tư tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dặn: “… Chính trị phải làm chủ”, “Chính trị
đúng thì việc khác mới đúng” [61, tr.414]. Theo quan điểm của V.I. Lênin, báo chí
“tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ chức tập thể” [45, tr.5], đưa đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân, tạo nên hành
động cách mạng sôi nổi, rộng khắp, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mặt khác, báo chí còn là diễn đàn tin cậy của nhân
dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Báo chí tuyên truyền, cổ vũ các nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, kiên quyết đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực trong xã hội, chống thông tin
quan điểm sai trái, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động.


Báo chí còn có vai trò quan trọng và sức mạnh to lớn trong hoạt động kiểm tra,
giám sát, can dự vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Báo chí thực hiện chức năng
quản lý và giám sát xã hội bằng việc cung cấp thông tin cho xã hội, hình thành và định
hướng dư luận xã hội theo mục đích nhất định của chế độ, của giai cấp, bằng các nội
dung chủ yếu như: đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước và các cấp, ngành cho các tổ chức và các thành viên xã hội biết, hiểu, nhận thức và
hành động trong thực tiễn; tham gia tích cực vào việc xây dựng và hoàn thiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các ngành trong xã hội; phản ánh, phân
tích kịp thời tình hình thực tế, hiện trạng công việc của các địa phương, cơ sở sản xuất
hoặc một số vấn đề nào đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cùng nhân dân
đề xuất sáng kiến, đưa ra kiến nghị, giải pháp cho hoạt động quản lý hiệu quả hơn.
Bên cạnh chức năng giáo dục tư tưởng và quản lý, giám sát xã hội, phát triển văn
hóa và giải trí là một trong những chức năng khách quan của báo chí. Báo chí là kênh
truyền bá, phổ biến một cách sinh động, hấp dẫn các loại hình và tác phẩm văn hóa -
văn nghệ để nâng cao trình độ hiểu biết và đáp ứng nhu cầu văn hóa - giải trí của nhân
dân. Thực hiện chức năng này, báo chí quan tâm hàng đầu đến những giá trị văn hóa -
nhân văn. Đó là phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc, điêu khắc, hội họa,
kiến trúc… Đây là điều kiện quan trọng để đại chúng hóa các giá trị văn hóa, tinh thần
tốt đẹp của dân tộc và nhân loại, giúp cho mọi thành viên của xã hội không ngừng bổ
sung vốn tri thức, làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mình.
Báo chí vừa là công cụ tích cực, hữu hiệu trong việc truyền bá sản phẩm
văn hóa, vừa là địa chỉ hội tụ và kiểm nghiệm những giá trị văn hóa. Sức
mạnh và ưu thế của báo chí trong việc truyền bá, phổ biến các sản phẩm văn
hóa - giải trí là thông qua hoạt động này để cùng lúc đạt hai mục đích: giáo
dục chính trị - tư tưởng và giáo dục đạo đức, thẩm mỹ cho công chúng,
hướng công chúng tới chân - thiện - mỹ, làm phong phú và giàu có đời sống
tinh thần của họ. Vì vậy, có thể nói, báo chí là thước đo tầm cao của văn
hóa, là công cụ để truyền bá, hướng dẫn và lưu giữ các nội dung và giá trị
văn hóa và bản thân báo chí cũng là văn hóa [81, tr.92].


Đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng của xã hội, làm phong phú thêm nội
dung thông tin của báo chí và đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhân dân, báo chí còn thực
hiện chức năng quảng cáo, dịch vụ, chỉ dẫn, dự báo thời tiết, giá cả thị trường… Qua
những hoạt động này, báo chí có thể giúp công chúng tìm kiếm những hàng hóa và dịch
vụ cần thiết, tiết kiệm thời gian và mang lại không ít lợi ích kinh tế cho người dân.
Đồng thời truyền bá phong tục, tập quán, đạo đức, lối sống của một dân tộc.
Với các chức năng trên, báo chí không ngừng tác động đến tư tưởng, tình cảm,
đạo đức, nhân cách, lối sống của con người, trong mối quan hệ mọi lĩnh vực đời sống xã
hội, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội trên bình diện cộng đồng cũng như hình
thành nhân cách cá nhân, trong đó có trẻ em.
1.2.2. Mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em
Báo chí và trẻ em có mối quan hệ gắn kết với nhau. Trẻ em là đối tượng phản
ánh của báo chí. Báo chí tiếp cận vấn đề từ trẻ em để sáng tạo ra những tác phẩm báo
chí cho trẻ em và cho cả người lớn. Trẻ em là công chúng của báo chí, là đối tượng
tiếp nhận, theo dõi, đánh giá các sản phẩm báo chí. Đồng thời, trẻ em còn là người
tham gia sáng tạo tác phẩm báo chí (trực tiếp hoặc gián tiếp). Ngược lại, báo chí là
diễn đàn để trẻ em nói lên tiếng nói, suy nghĩ của mình về cuộc sống xung quanh; là
phương tiện truyền tải những chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước dành cho trẻ em và là công cụ giám sát việc thực hiện, thu nhận ý kiến phản
hồi của trẻ em, các bậc cha mẹ để Đảng, Nhà nước kịp thời điều chỉnh, bổ sung
chính sách, pháp luật cho phù hợp với lợi ích của trẻ em. Báo chí ngày nay trở thành
món ăn tinh thần không thể thiếu đối với đời sống của trẻ em. Trẻ em xem báo chí là
trường học thứ hai để trau dồi kiến thức, mở rộng tầm nhìn.
Mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em được xác định khi Hiến pháp nước
CHXHCN Việt Nam ra đời. Tại điều 69 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin” [63, tr.39-40]. Như mọi công dân khác,
trẻ em “có quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội.
Cụ thể là có quyền được tiếp cận thông tin phù hợp với sự phát triển của trẻ em, được
bày tỏ ý kiến, nguyện vọng về những vấn đề mình quan tâm. Trẻ em được tham gia hoạt

động xã hội phù hợp với nhu cầu và năng lực của mình” [65, tr.11].

Khi Việt Nam ký Công ước, trẻ em càng được hưởng các quyền chính đáng của
mình:
- Quyền được thông tin: Trẻ em có quyền được đọc sách báo, xem các
chương trình truyền hình và nghe các chương trình phát thanh phù hợp với
lứa tuổi của các em. Các bậc cha mẹ cần biết con mình đọc gì và xem gì, để
hướng dẫn các em tránh đọc, xem những điều làm cho các em sợ hãi, nhầm
lẫn hoặc làm hại đến các em.
- Quyền được tự do bày tỏ ý kiến: Trong tất cả mọi quyết định có ảnh
hưởng đến trẻ em được đưa ra trong gia đình, trường học, toà án, bệnh viện
hay tại bất kỳ một cơ quan nào khác, người lớn cần lắng nghe ý kiến của các
em và làm những điều tốt nhất cho các em [65, tr.81,83,84].
- Các quốc gia thành viên phải bảo đảm cho trẻ em có đủ khả năng hình
thành quan điểm riêng của mình, được quyền tự do bày tỏ những quan điểm đó
về tất cả mọi vấn đề tác động đến trẻ em, những quan điểm của trẻ em phải được
coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng thành của trẻ.
Với mục đích đó, trẻ em phải được đặc biệt tạo cơ hội nói lên ý kiến của mình
[1, tr.26-28].
Để đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến của trẻ em, “gia đình,
Nhà nước và xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện, giúp đỡ trẻ em được tiếp cận thông tin
phù hợp, được phát triển tư duy sáng tạo và bày tỏ nguyện vọng; có trách nhiệm lắng
nghe và giải quyết nguyện vọng chính đáng của trẻ em” [65, tr.18].
Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội, là diễn
đàn của nhân dân, vì vậy báo chí có trách nhiệm cung cấp thông tin và sẵn sàng tiếp
nhận thông tin của trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em thực hiện quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận và quyền được nhận thông tin phù hợp với lứa tuổi của mình. Báo chí phải
góp sức đem lại lợi ích tốt nhất cho trẻ em như điều 5, Luật BVCS&GDTE đã ghi
“Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em
thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu” [65, tr.6].

Như vậy, mối quan hệ giữa báo chí và trẻ em là mối quan hệ khăng khít. Việc
tiếp nhận thông tin đa dạng là nhu cầu đồng thời là một trong những quyền cơ bản của

trẻ em mà toàn xã hội phải quan tâm. PGS, TS. Mai Quỳnh Nam nhận định: “Nhà nước
Việt Nam thừa nhận chức năng quan trọng của các phương tiện truyền thông đại chúng
và đảm bảo rằng trẻ em được thu nhận thông tin. Nhà nước cũng khuyến khích các cơ
quan thông tin đại chúng phổ biến các thông tin và tư liệu có lợi về xã hội và văn hóa
cho trẻ em” [53, tr.97].
1.3. BÁO CHÍ CHO TRẺ EM
1.3.1. Báo chí cho trẻ em
1.3.1.1. Khái niệm
Báo chí cho trẻ em là những sản phẩm báo chí (báo in, báo hình, báo nói, báo
điện tử…) được sản xuất ra để phục vụ nhu cầu đọc, nghe, xem của trẻ em với mục đích
định hướng, giáo dục thẩm mỹ, hình thành nhân cách cho trẻ thông qua việc cung cấp
những thông tin bổ ích, hỗ trợ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm sống, tạo môi trường
vừa giải trí vừa học tập cho các em, giúp các em phát triển toàn diện về thể chất lẫn tinh
thần. Hay nói cụ thể hơn, báo chí cho trẻ em là những ấn phẩm, các chương trình TH,
chương trình PT dành cho trẻ em. Trong đó:
- Ấn phẩm báo chí cho trẻ em là các tờ báo, tạp chí, đặc san, cẩm nang… có nội
dung phản ánh và đối tượng phục vụ phần lớn là trẻ em.
- Chương trình TH và chương trình PT cho trẻ em được hiểu ở góc độ sau đây:
+ Chương trình PT ở đây chính “là sự liên kết, sắp xếp hợp lý tin, bài, băng tư
liệu, âm nhạc trong một thời lượng nhất định được mở đầu bằng nhạc hiệu và kết thúc
bằng lời chào tạm biệt nhằm đáp ứng nhu cầu tuyên truyền của cơ quan báo phát
thanh, đồng thời mang lại hiệu quả cao nhất đối với người nghe” [73, tr.216]. Chương
trình PT được coi như một tờ báo, có đối tượng tác động riêng, có nội dung phản ánh
riêng cũng như phương thức thể hiện riêng. Hiện nay có rất nhiều loại chương trình PT,
tuỳ theo tiêu chí phân loại. Nếu lấy lĩnh vực phản ánh là tiêu chí thì có chương trình
kinh tế, văn hoá, an ninh ; lấy lứa tuổi làm tiêu chí thì có chương trình thiếu nhi,
chương trình thanh niên, chương trình phụ nữ ; còn lấy nhu cầu thính giả thì có Câu lạc

bộ Bạn yêu nhạc, Câu lạc bộ Bạn yêu sân khấu
Như vậy, chương trình PT cho trẻ em là các chương trình PT thiếu nhi có nội
dung phản ánh và đối tượng tác động chính là các em thiếu nhi.

+ Chương trình TH cho trẻ em cũng là một tác phẩm báo chí cụ thể, riêng lẻ. Đó
là những chương trình chỉ dành để phản ánh hoặc truyền tải thông điệp hay thông tin
nào đó về một vấn đề cụ thể của trẻ em, liên quan đến trẻ em nhằm tác động vào nhận
thức và hành vi của trẻ em.
Trong xu hướng hiện nay, với mục đích đem lại những gì tốt đẹp nhất cho trẻ em, báo
chí cho trẻ em không chỉ tác động đến trẻ em mà còn tác động đến người lớn (chủ yếu là các
bậc cha mẹ, thầy cô) thông qua việc cung cấp những kiến thức về tâm lý trẻ em, cách chăm
sóc, giáo dục trẻ em… để định hướng, nâng cao nhận thức và hành vi cho cha mẹ, thầy cô
trong việc BVCS&GDTE.
1.3.1.2. Đặc trưng của báo chí cho trẻ em
Báo chí cho trẻ em có hai loại:
- Báo chí cho trẻ em do người lớn làm ra phục vụ cho trẻ em. Đây là những sản
phẩm báo chí cho trẻ em mang tính định hướng, giáo dục, giải trí căn cứ trên những
mục tiêu người lớn đã hoạch định.
- Báo chí cho trẻ em do người lớn làm ra và có sự tham gia sản xuất của trẻ em.
Đây là những sản phẩm báo chí mang tính định hướng, giáo dục, giải trí căn cứ trên
những mục tiêu người lớn đã hoạch định, trong đó có sự tham gia sản xuất của trẻ em.
Sự tham gia này thể hiện ở 3 góc độ:
+ Thứ nhất là, trẻ em tham gia (xuất hiện) trong các sản phẩm báo chí - tác phẩm
của người lớn với tư cách là đối tượng được phản ánh. Ở góc độ này, trẻ em bao gồm trẻ
sơ sinh, nhi đồng, thiếu niên. Thông thường, trẻ em được báo chí đề cập đến như là
nhân vật trung tâm với nhiều hình ảnh khác nhau trong các tin tức, phóng sự thời sự, các
chương trình chuyên đề…
+ Thứ hai là, trẻ em là đối tượng hưởng thụ các sản phẩm báo chí do người lớn
sản xuất như đọc báo, xem, nghe đài.
+ Thứ ba là, trẻ em tham gia sản xuất báo chí. Ví dụ, các em viết bài cho báo in,

tham gia sản xuất các chương trình PT, TH với vai trò là người dẫn chương trình, diễn
viên, viết kịch bản, đọc lời bình…
1.3.1.3. Các nhóm sản phẩm báo chí cho trẻ em

×