Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Các biện pháp phòng chống bạo lực trẻ em ở thành phố đồng hới tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (616.97 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH

THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:

Ảnh 4x6

Họ và tên: Nguyễn Thị Trang Nhung
Sinh ngày: 20/11/1996
Nơi sinh: Nam Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình
Ngành học: Luật học

Lớp: Luật A

Khóa: 56

Khoa: Lý luận chính trị
Địa chỉ liên hệ: TK 12 phường Bắc Lý, Đồng Hới, Quảng Bình
Điện thoại : 01646185345

Email:

II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm đang

học):
* Năm thứ 1:
Ngành học:

Luật


Khoa: Lý luận chính trị

Kết quả xếp loại học tập: Khá
ĐTB hệ 10 : 8.17
ĐTB hệ 4 : 3.19

Ngày 27 tháng 04 năm 2016
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)

Xác nhận của khoa

1


MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Bạo lực trẻ em đang là một vấn đề nóng thu hút sự quan tâm chung của toàn xã
hội, bởi vì, một xã hội được xem là văn minh khi quyền con người được đề cao, được
tôn trọng và bảo vệ nhất là lứa tuổi trẻ em. Cho đến nay, hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều xem bạo lực trẻ em là hành động đê hèn cần được pháp luật trừng trị nghiêm
minh. Chẳng hạn, ở Mỹ nếu cha mẹ và giáo viên thường xuyên dùng đòn roi để đe
dọa, bắt nạt, trừng phạt trẻ nhỏ bị xem là hành vi bạo lực trẻ em. Hiện nay chỉ có 19
bang ở Mỹ được quyền đánh học sinh với mục đích giáo dục các em nhưng chỉ có hiệu
trưởng hoặc hiệu phó và phải xin phép phụ huynh, được phụ huynh học sinh đồng ý.
Người Mỹ rất coi trọng việc giáo dục trẻ em nhận biết quyền sở hữu thân thể của
mình.
Ở Hàn Quốc, pháp luật quy định các điều khoản cụ thể như nhà nước và các cơ
quan quản lý địa phương phải có biện pháp ngăn chặn bạo lực gia đình và bảo vệ nạn

nhân, cho phép người phạm tội có thể tự thú hoặc có thể bị tố cáo bởi những người có
quan hệ huyết thống, ruột thịt. Khi có vụ việc bạo lực gia đình, cảnh sát đến hiện
trường có quyền cách li hoặc cấm tiếp cận các đương sự. Pháp luật cung cấp các
phương tiện để nạn nhân có thể tự bảo vệ sự an toàn bản thân đồng thời quy định rõ
những trường hợp vi phạm quy định bảo vệ nạn nhân có thể bị phạt tù từ 03 năm hoặc
nộp phạt 30.000 đô la Mỹ.
Pháp luật Indonesia xếp tội lạm dụng tình dục trẻ em là tội đặc biệt nghiêm
trọng và sử dụng hình phạt “thiến” đối với những kẻ lạm dụng tình dục trẻ em. Qua đó
cho thấy bạo lực trẻ em là hành động vô nhân đạo dù ở đâu cũng bị pháp luật trừng trị
thích đáng.
Ở Việt Nam hiện nay có Luật phòng chống bạo lực gia đình được Quốc Hội
khóa XII nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/11/2007 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2008. Luật này quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi
cố ý của các thành viên trong gia đình gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với
các thành viên khác trong gia đình” [12, tr.2]. Quy định của Luật phòng chống bạo lực
gia đình khắc phục được tình trạng chưa có và chưa hiểu rõ quy định về hành vi bạo
lực gia đình, tránh được quan niệm của một số người cho rằng phải có đánh đập mới
2


coi là hành vi bạo lực, còn các hành vi khác như chửi mắng, lăng mạ, cô lập, xua đuổi
hoặc cưỡng ép tình dục không phải là hành vi bạo lực gia đình. Hay cách hiểu khác,
việc đánh đập là chuyện bình thường mà các bậc cha mẹ lựa chọn để dạy con cái, nó
được kế thừa từ quan niệm “Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” từ thời
xưa để lại. Chính những suy nghĩ lệch lạc này đã làm cho tình trạng bạo lực trẻ em
ngày càng tăng cao với mức độ và hành vi vô cùng nghiêm trọng.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định rằng, mọi hành vi
vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị
nghiêm trị theo quy định của pháp luật (theo Điều 14 và khoản 2 Điều 6 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định). Liên quan đến bạo lực trẻ em, cho đến nay có

rất nhiều công trình khoa học, các bài đăng tạp chí, hội thảo nghiên cứu dưới các góc
độ khác nhau.
Năm 2004, tác giả Thái Thị Ngọc Dư đã biên soạn cuốn “Giới và phát triển”
nhằm phân tích vị trí, vai trò của phụ nữ đối với sự phát triển xã hội đồng thời kêu gọi
các quốc gia trên thế giới thực hiện tốt hơn Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ.
Năm 2008, tác giả Nguyễn Ngọc Lâm, giảng viên Trường Đại học Mở Bán
công thành phố Hồ Chí Minh viết cuốn Tâm lý trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Cuốn
sách đề cập đến những nguyên nhân, nhu cầu của trẻ em gặp hoàn cảnh khó khăn trong
xã hội và các phương pháp trợ giúp đối tượng trong lĩnh vực an sinh xã hội. Đồng thời
tác giả cũng chỉ ra những tác động của mặt trái cơ chế thị trường tác động đến tâm lý
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trong xã hội hiện nay.
Năm 2008, Bộ Công an có đề tài nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến trẻ em vi
phạm pháp luật. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng: “Nguyên nhân dẫn đến trẻ em phạm
tội là do trẻ em luôn sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ
(49,81%). Số trẻ em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh). Bị dì ghẻ, bố dượng
đánh chiếm 20,3%”. Năm 2014 tác giả Th.s Trần Tuyết Ánh (Vụ trưởng vụ gia đình,
Bộ VHTT & Du lịch làm chủ nhiệm đề tài cấp Bộ về Nghiên cứu các giải pháp phòng
chống bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay. Đề tài lựa chọn tỉnh Bắc Ninh và Hòa
Bình để điều tra xã hội học từ kết quả điều tra thực tế, tác giả đã đưa ra bốn nhóm giải
pháp phòng chống bạo lực gia đình hiện nay. Năm 2015, Bộ Văn hóa Thể thao và Du
lịch phối hợp với Liên Hợp Quốc tại Việt Nam tổ chức Hội thảo: Chấm dứt tình trạng
3


bạo lực tình dục với phụ nữ và trẻ em, với thông điệp “Hãy đưa bạo lực tình dục ra
ánh sáng, đó có thể là con gái bạn. Bạn không đơn độc, hãy lên tiếng khi bạn bị bạo
lực tình dục”. Tại Hội thảo quốc gia về phòng chống bạo lực, xâm hại trẻ em được Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 24 tháng 9 năm 2015,
ông Nguyễn Đình Mạnh - Phó vụ trưởng Vụ Công tác học sinh - sinh viên Bộ Giáo

dục và Đào tạo cho biết từ đầu năm học 2009 - 2010 đến nay cả nước đã xảy ra 1.598
vụ học sinh đánh nhau trong đó 7 vụ dẫn đến chết người. Ngày 16 tháng 10 năm 2015
tại Philippines diễn ra Hội thảo tham vấn khu vực về xóa bỏ bạo lực đối với trẻ em và
cải thiện đầu tư công cho trẻ em. Trong khuôn khổ hội thảo này đã diễn ra một cuộc
hội thảo riêng dành cho trẻ em Philippines về phòng chống bạo lực và chi tiêu dành
cho trẻ em.
Ở Quảng Bình, năm 2015 có công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp
cơ sở của nhóm tác giả do T.S Trần Thị Sáu làm chủ nhiệm đề tài “Thực trạng bạo lực
gia đình ở Quảng Bình và vấn đề giáo dục kỹ năng phòng chống bạo lực gia đình cho
sinh viên”. Đề tài đã tiến hành điều tra 240 trường hợp phụ nữ bị bạo lực gia đình ở
Quảng Bình, kết quả cho thấy trong đó có 89 trường hợp chiếm 37,1% phụ nữ tham
gia trả lời là họ luôn bị bạo lực thể chất và có 125 ý kiến chiếm 52,1% phụ nữ được
hỏi trả lời là họ luôn bị bạo lực tinh thần. Những hành vi lệch chuẩn của chồng đối với
vợ không những vi phạm pháp luật nghiêm trọng mà còn làm tổn hại đến hạnh phúc
gia đình, tâm lý của các thành viên trong gia đình. Tất cả các nghiên cứu trên đã phản
ánh tính đa chiều trong vấn nạn bạo lực trẻ em ở trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
Quá trình nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về bạo lực trẻ em ở thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Tuy vậy,
các đề tài khoa học, các bài báo, hội thảo như trích dẫn ở trên đã góp phần gợi mở cho
nhóm tác giả nhiểu vấn đề liên quan đến nội dung đề tài.
2. Lý do chọn đề tài
Mỗi con người sinh ra là một nhân tố đóng góp vào sự phát triển của xã hội đồng
thời được xã hội bảo vệ, tạo điều kiện để phát triển về mọi mặt. Ở Việt Nam cũng như
trên toàn thế giới đã có những quy định cụ thể để bảo vệ cuộc sống cho tất cả các tầng
lớp, giai cấp, các thành phần trong xã hội. Chúng tôi thực sự ấn tượng với Công ước
quốc tế về quyền trẻ em có hiệu lực năm 1990. Công ước này quy định trách nhiệm
của các quốc gia trong việc tôn trọng các quyền của trẻ em, đảm bảo các quyền của trẻ
4



em được thực hiện. Hay ở Việt Nam có Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có
hiệu lực từ tháng 01 năm 2005. Luật này quy định các quyền cơ bản, bổn phận của trẻ
em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em. Những văn bản pháp luật này vừa thể hiện trách nhiệm của xã hội đối
với thế hệ tương lai của đất nước vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Có thể nói, đây là
hai văn bản pháp luật góp phần điều chỉnh hành vi xã hội của con người cũng như là
khung pháp lý đảm bảo cho các quyền trẻ em được tôn trọng và bảo vệ.
Mặc dù hiện nay đã có rất nhiều văn bản pháp lý quy định rõ ràng về các quyền
của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội đối với việc bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em song việc thực hiện chưa mang lại kết quả như mong đợi. Hằng
ngày chúng ta vẫn phải chứng kiến trẻ em bị phân biệt đối xử khắp mọi miền tổ quốc.
Đau lòng hơn là trẻ bị bạo lực do chính người thân trong gia đình của mình, trong bạn
bè và chính thầy cô đang giảng dạy các em. Các em phải chịu sự hành hạ cả về thể xác
lẫn tinh thần khi trực tiếp là nạn nhân hay chỉ là sự chứng kiến cảnh bị bạo lực. Dù là
trực tiếp hay gián tiếp bị bạo lực cũng ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển sau này của
các em. Đáng chú ý là tình trạng bạo lực trẻ em ngày càng có xu hướng gia tăng về số
lượng và mức độ nghiêm trọng hơn. Theo thống kê của tổ chức UNICEF tháng 4 năm
2015, ở Việt Nam có gần 75% số trẻ em từ 2- 14 tuổi ở Việt Nam từng bị cha mẹ,
người chăm sóc và các thành viên khác trong gia đình bạo lực. Mỗi năm ở có khoảng
1000 vụ bạo lực, xâm hại trẻ em được báo cáo tại Việt Nam, trong đó hàng chục trẻ đã
thiệt mạng. Ở tỉnh Quảng Bình cũng không ngoại lệ, điển hình là vụ bạo lực trẻ 15
tháng tuổi bằng cách trói tay và nhét giẻ vào miệng trẻ ở Trường Mầm non Sơn Ca
thành phố Đồng Hới. Cho đến nay số vụ bạo lực trẻ em thống kê được chỉ là “phần nổi
của tảng băng chìm” mà thôi. Thực tiễn cho thấy rằng, bạo lực trẻ em đang là vấn nạn
xã hội cần có yếu tố xã hội hóa để chung tay giải quyết. Trên cơ sở đó, nghiên cứu bạo
lực trẻ em trở thành vấn đề cấp thiết trên cả bình diện lý luận và thực tiễn.
Với tất cả lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Các biện pháp phòng
chống bạo lực trẻ em ở thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình” làm đề tài nghiên cứu
khoa học. Thông qua đề tài, chúng tôi muốn chia sẻ nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần
mà các em phải chịu đựng. Đồng thời hy vọng việc nghiên cứu đề tài này góp phần thể

hiện trách nhiệm của sinh viên Luật đối với trẻ em bị bạo lực cũng như nâng cao hiệu

5


quả truyền thông về trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc hỗ trợ,
phòng ngừa bạo lực trẻ em trên địa bàn thành phố Đồng Hới hiện nay.
3. Mục tiêu đề tài
Mục tiêu của đề tài là :
- Nắm được thực trạng, tìm ra nguyên nhân của những hành vi bạo lực trẻ em ở
trên địa bàn thành phố Đồng Hới.
- Bước đầu đánh giá khách quan những tác động tiêu cực của bạo lực đối với sự
phát triển của trẻ em nói chung và trẻ em trên địa bàn nói riêng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng công tác phòng chống bạo lực trẻ em ở thành
phố Đồng Hới.
- Vạch ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phòng chống bạo lực
trẻ em trên địa bàn nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng hệ thống các phương
pháp sau:
4.1. Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
Sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
giúp cho nhóm nghiên cứu đề tài có được quan điểm toàn diện, biện chứng, lịch sử cụ
thể khi tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng bạo lực trẻ em nói chung và ở thành
phố Đồng Hới nói riêng. Nghiên cứu vấn đề bạo lực trẻ em trong mối quan hệ biện
chứng và sự tác động qua lại giữa trẻ em với gia đình, giữa trẻ em với trường học và
môi trường xã hội khác. Từ đó, đề xuất các biện pháp toàn diện, cụ thể hơn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nhóm đề tài sử dụng phương pháp này nhằm thu thập thông tin liên quan đến đề
tài qua việc phân tích tài liệu có sẵn để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài nghiên cứu.

Qua đó đã xác định được các khái niệm, các văn bản pháp luật về dấu hiệu bạo lực trẻ
em và các điều luật xử phạt hành vi bạo lực trẻ em. Đồng thời tìm hiểu các chương
trình hỗ trợ đối với trẻ em bị bạo lực trên địa bàn. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu đã
sử dụng phương pháp này nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng bạo lực trẻ em trên thế
giới, Việt Nam và ở Quảng Bình hiện nay.
4.3. Phương pháp quan sát

6


Mục đích sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu đề tài này là nhằm tìm
hiểu thực tế trẻ em trực tiếp bị bạo lực và những người chứng kiến bạo lực trẻ em trên
địa bàn thành phố Đồng Hới.
4.4. Phương pháp điều tra bằng bảng Ankét
Nhóm đề tài sử dụng bảng hỏi đã chuẩn bị từ trước phát cho các đối tượng nghiên
cứu nhằm thu thập thông tin liên quan đến đề tài. Bảng hỏi được dùng chung cho
những đối tượng nghiên cứu nằm trong danh sách điều tra. Phương pháp này được
thực hiện lồng ghép trong các buổi khảo sát, điều tra đối với một số trẻ em bị bạo lực,
một số phụ huynh, hiệu trưởng, hiệu phó các trường tiểu học, trung học cơ sở, làng trẻ
em SOS trên địa bàn thành phố.
4.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
Sử dụng phương pháp này là để phỏng vấn một số nhà quản lý của Sở lao động
Thương binh và Xã hội, và một số trẻ em ở thành phố Đồng Hới, các hiệu trưởng, hiệu
phó của một số trường Tiểu học, THCS đóng trên địa bàn thành phố Đồng Hới. Đồng
thời nhóm đề tài tiến hành các cuộc phỏng vấn sâu đối với trẻ em bị bạo lực và người
mẹ có con bị bạo lực trên địa bàn nghiên cứu. Sau đó tổng hợp các câu trả lời nhằm
đánh giá chính xác hơn về thực trạng bạo lực trẻ em tại thành phố Đồng Hới hiện nay.
4.6. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này nhằm mục đích hỗ trợ cho việc xử lý số liệu điều tra.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng và biện pháp phòng chống bạo
lực trẻ em ở thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình (trẻ em trực tiếp bị bạo lực và
những người chứng kiến trẻ em bị bạo lực, tập trung vào nghiên cứu hai khía cạnh bạo
lực thể chất, bạo lực tinh thần). Đề tài tập trung phân tích ảnh hưởng của hành vi bạo
lực đối với trẻ em trực tiếp bị bạo lực và các biện pháp phòng chống bạo lực trẻ em
trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là bạo lực trẻ em ở thành phố Đồng Hới, tỉnh
Quảng Bình và các hoạt động trợ giúp xã hội đối với trẻ em bị bạo lực trên địa bàn.

7


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẠO LỰC TRẺ EM DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁP LÝ
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm trẻ em và quyền trẻ em
Mỗi con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành là cả một quá trình lâu dài. Giai
đoạn trước là nền tảng phát triển cho giai đoạn sau để hoàn thiện nhân cách một con
người. Trong đó trẻ em là giai đoạn đầu của sự phát triển thể chất và trí tuệ, được quy
định bởi một độ tuổi cụ thể. Về mặt sinh học, trẻ em là con người ở giữa giai đoạn từ
khi sinh và tuổi dậy thì. Định nghĩa pháp lý về một “trẻ em” nói chung chỉ tới một đứa
trẻ, còn được biết đến là một người chưa tới tuổi trưởng thành. Theo Điều 1 của Công
ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em năm 1989 quy định: “Trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em đó quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Đây là quy định chung của Liên hiệp quốc về độ tuổi của trẻ em được
áp dụng cho tất cả các quốc gia, độ tuổi trẻ em ở các nước có quy định khác nhau
nhưng không được vượt mức quy định chuẩn nghĩa là trẻ em phải là người dưới 18
tuổi. Ở mỗi quốc gia đều có hệ thống pháp luật riêng, những quy định riêng, có những

điều kiện khác nhau về kinh tế, xã hội, văn hóa…Xuất phát từ quyền được quy định
khác của Công ước, mỗi nước đều có quy định về độ tuổi của trẻ em khác nhau tùy
theo sự phát triển về thể chất, tâm lý của trẻ em ở quốc gia đó. Ở Việt Nam, theo Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục”. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tại Điều 21: “Người chưa thành niên
là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi”. Bộ luật dân sự năm 2005, tại điều 18:
“Người đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên”.
Ngoài ra, còn có những Bộ luật quy định cụ thể về trẻ em như: Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật giáo dục,… Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2004 có quy định tại Điều 1: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Như vậy, trong pháp luật Việt Nam “Trẻ em và người chưa thành niên” là hai khái
niệm khác nhau, “Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi”, trong đó người chưa
thành niên thì bao gồm cả trẻ em được xác định theo căn cứ dựa vào độ tuổi và định
nghĩa về trẻ em. Như vậy, tùy theo pháp luật quốc tế và quốc gia có quy định khác
nhau. Nhưng đối với pháp luật Việt Nam thì trẻ em được quy định trong Luật Bảo vệ,
8


chăm sóc và giáo dục trẻ em: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Đây là độ tuổi trẻ em
cần được sự chăm sóc đặc biệt về mọi mặt vật chất và tinh thần từ phía gia đình, nhà
trường và xã hội.
Quyền trẻ em là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách
lành mạnh và an toàn. Quyền trẻ em được pháp luật thừa nhận, phù hợp với chuẩn
mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật là cơ sở để điều chỉnh hành vi của mọi người
trong xã hội. Trong Luật nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được thể hiện trong Công
ước về quyền trẻ em năm 1989, trong đó nêu bật 4 nguyên tắc cơ bản là không phân
biệt đối xử trong việc đảm bảo thực hiện tất cả các quyền trẻ em; trẻ em có quyền xác
lập, thể hiện ý kiến riêng của mình và quyền đó phải được tôn trọng; dành những lợi
ích tốt đẹp nhất cho trẻ em; những điều khoản trong luật quốc gia hoặc quốc tế có lợi

hơn đối với trẻ em so với điều khoản trong Công ước sẽ được áp dụng. Trên cơ sở
những nguyên tắc trên, quyền của trẻ em bao gồm có 4 nhóm quyền như:
- Quyền được sống còn: bao gồm quyền của trẻ em được sống cuộc sống bình
thường và được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhất để tồn tại và phát triển thể chất.
Đó là mức sống đủ, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khoẻ, được khai
sinh ngay sau khi chào đời.
- Quyền được phát triển: Trẻ em được tạo mọi điều kiện có thể để phát triển đầy
đủ nhất về thể chất lẫn tinh thần và đạo đức, bao gồm việc học tập, vui chơi, tham gia
các hoạt động văn hoá, tiếp nhận thông tin, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn
giáo.Trẻ em cần có sự yêu thương và cảm thông của cha mẹ để có thể phát triển hài
hoà.
- Quyền được bảo vệ: Trẻ em được pháp luật bảo vệ không bị các hình thức bóc
lột lao động, bóc lột và xâm hại tình dục, lạm dụng ma tuý, sao nhãng và bị bỏ rơi, bị
bắt cóc và buôn bán.
- Quyền được tham gia: Tạo mọi điều kiện cho trẻ em được tự do bày tỏ quan
điểm và ý kiến về những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của mình. Trẻ em có
quyền kết bạn, giao lưu và hội họp hoà bình, được tạo điều kiện tiếp cận các nguồn
thông tin và chọn lựa thông tin phù hợp.
Ở Việt Nam, quyền trẻ em được quy định trong Hiến pháp từ năm 1946, 1959,
1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Quyền trẻ em được thể chế hóa trong nhiều bộ
luật nhưng tập trung nhất là Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004. Luật
9


Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định, trẻ em có các quyền cơ bản đó là quyền
được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc nuôi dưỡng; quyền sống chung
với cha mẹ; quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng nhân phẩm, danh dự; quyền được
chăm sóc sức khỏe; quyền được học tập; quyền vui chơi, giải trí; quyền được phát
triển năng khiếu; quyền có tài sản. Thực hiện tốt các quyền của trẻ em sẽ giúp cho trẻ
em có một cuộc sống lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần.

1.1.2. Khái niệm bạo lực gia đình
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): “Bạo lực gia đình là việc đe dọa hay dùng
sức mạnh thể chất hay quyền lực đối với bản thân, người khác hoặc đối với một nhóm
người hay một cộng đồng người mà gây ra hay làm gia tăng khả năng gây ra tổn
thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển hay gây ra sự mất
mát”. Ở Việt Nam, khái niệm bạo lực gia đình được đề cập chi tiết trong Điều 1 Luật
Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội thông qua vào năm 2007. Theo đó,
“Bạo lực gia đình được hiểu là những hành vi cố ý của các thành viên trong gia đình
gây tổn hại về vật chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên trong gia đình” [17,
tr.2]. Một thành viên gia đình được coi là bị bạo lực gia đình khi bị một trong các hành
vi dưới đây do một thành viên khác trong gia đình gây ra:
a. Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe,
tính mạng.
b. Lăng mạ hoặc hành vi cố ý xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
c. Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng.
d. Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông bà
và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
đ. Cưỡng ép quan hệ tình dục.
e. Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự
nguyện, tiến bộ.
g. Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có các hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài
sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia
đình.

10


h. Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng của họ; kiểm soát thu nhập của các thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng

phụ thuộc về tài chính.
i. Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. Các hành vi
bạo lực như đã nêu ở trên cũng có thể áp dụng cho những thành viên của gia đình
trong những trường hợp ly hôn hoặc sống chung với nhau như vợ chồng mà không có
đăng ký kết hôn.
Thực tế cho thấy bạo lực gia đình thường là hành vi tấn công của một người
(thường là đàn ông) đối với người có quan hệ tình cảm với họ bằng cách sử dụng vũ
lực hay đe dọa dùng vũ lực để kiểm soát người khác. Người có hành vi bạo lực thường
kiểm soát cả tài chính và các mối quan hệ xã hội của người là đối tượng của hành vi
bạo lực.
1.1.3. Khái niệm bạo lực trẻ em
Theo Từ điển Tiếng Việt, bạo lực được hiểu là sức mạnh dùng để cưỡng bức,
trấn áp hoặc lật đổ. Khái niệm này thường được hiểu như là một hoạt động chính trị
nhưng trên thực tế bạo lực được coi như là phương thức hành xử trong các quan hệ xã
hội. Các mối quan hệ xã hội rất đa dạng và phong phú nên hành vi bạo lực cũng rất đa
dạng. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “Hành vi ngược đãi, hành
hạ trẻ em là một trong những hành vi bị nghiêm cấm”. Hành vi này đã được hướng dẫn
tại điều 8 Nghị định 71/2011/NĐ-CP quy định chi tiết những hành vi bạo lực trẻ em
như xâm phạm thân thể, đánh đập, đối xử tồi tệ đối với trẻ em, bắt trẻ em nhịn ăn
uống, hạn chế vệ sinh cá nhân, giam hãm trẻ em, bắt trẻ em sống trong môi trường độc
hại, nguy hiểm; gây tổn thương về tinh thần, xúc phạm nhân phẩm, danh dự, lăng
nhục, chửi mắng, đe dọa, làm nhục, cách ly, xao nhãng ảnh hưởng đến sự phát triển
của trẻ em; dùng các biện pháp trừng phạt để dạy trẻ em, làm trẻ em tổn thương, đau
đớn để thể xác và tinh thần; thường xuyên đe dọa trẻ em bằng các hình ảnh, âm thanh,
con vật, đồ vật làm trẻ em sợ hãi, tổn thương về tinh thần.
Như vậy, khái niệm bạo lực trẻ em không chỉ là dùng bạo lực, sức mạnh cơ bắp
để làm tổn thương thân thể, gây thương tích, tàn tật hoặc tử vong mà còn là sự lăng
nhục về tinh thần, xúc phạm danh dự nhân phẩm trẻ em đến mức độ có thể gây chấn
động tâm lý không tốt đối với trẻ em. Những hành vi bạo lực thường biểu hiện trạng
thái tâm lý tức giận đối với trẻ em. Họ muốn trừng phạt để trẻ khiếp sợ mà khuất phục

11


mệnh lệnh của họ. Quan niệm giáo dục gia đình của Việt Nam hiện nay vẫn còn ảnh
hưởng tư tưởng giáo dục con cái trong thời kỳ phong kiến ngày xưa, đó là “thương cho
roi cho vọt”. Quan niệm này được hiểu là dạy trẻ phải nghiêm khắc, không nuông
chiều thái quá. Ở một góc độ khác, câu tục ngữ trên còn hàm chứa sự bạo lực, đe dọa
không phù hợp với chuẩn đạo đức thông thường, có ảnh hưởng xấu tới sự hình thành
nhân cách và ảnh hưởng không tốt tới những người xung quanh. Nếu quan điểm này
đặt sai chỗ, sai mục đích sẽ gây ra những hậu quả khôn lường. Như vậy nạn bạo lực trẻ
em ngày nay hoàn toàn khác về bản chất và không phải là sự kế thừa quan niệm
“thương cho roi cho vọt” của người xưa, mà thực chất là “di sản của ý thức hệ phong
kiến, gia trưởng được phát triển trong một môi trường xã hội thiếu sự nghiêm minh
của pháp luật và thiếu dân chủ”. Bạo lực trẻ em không chỉ diễn ra trong gia đình mà
còn rất phổ biến ở trường học và ở ngoài xã hội.
1.2. Các lí thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.3.1. Lí thuyết về nhu cầu con người
Nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow được xem là người khởi nguồn của
lý thuyết nhu cầu. Theo ông, hành vi của con người xuất phát từ nhu cầu của họ, khi
con người có nhu cầu sẽ thúc đẩy người ta thực hiện các hành vi để thỏa mãn nhu cầu
của mình. Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người hết sức đa dạng. Tùy theo
trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những
nhu cầu khác nhau. Ông chia nhu cầu của con người thành các thang bậc khác nhau
theo thứ tự từ thấp đến cao về tầm quan trọng. Nhu cầu bậc thấp gồm hai nhu cầu đó là
nhu cầu về vật chất và nhu cầu an toàn. Nhu cầu vật chất là nhu cầu tối thiểu nhưng
cần thiết nhất vì nó đảm bảo cho con người sinh tồn như ăn, uống, mặc, ở, ngủ nghỉ, đi
lại... Kế đến là nhu cầu về an toàn không bị đe dọa về sức khỏe, tính mạng, công việc,
gia đình. Nhu cầu này thể hiện trong cả vật chất và tinh thần. Nhu cầu cấp cao gồm có
ba nhu cầu về xã hội, tôn trọng và phát triển. Nhu cầu về xã hội là các nhu cầu về tình
yêu thương được chấp nhận, được tham gia vào tổ chức, đoàn thể nào đó trong xã hội.

Khi thỏa mãn nhu cầu được chấp nhận là thành viên trong xã hội thì con người có xu
hướng được tôn trọng và ghi nhận nhận giá trị của cá nhân như quyền lực, địa vị, uy
tín… Cao nhất trong thang nhu cầu của con người là nhu cầu được phát triển toàn
diện. Thực tiễn luôn vận động do đó nhu cầu của con người cũng luôn thay đổi theo
chiều hướng phát triển đi lên. Sở dĩ nói, nhu cầu của con người cũng chính là động lực
12


để phát triển xã hội vì con người khi đã có nhu cầu thì họ thường cố gắng mọi cách để
thỏa mãn nhu cầu của mình. Theo đó, khi con người thỏa mãn nhu cầu của mình thì
cũng tác động đến sự vận động của xã hội phát triển của xã hội.
Vận dụng thuyết nhu cầu vào nghiên cứu đề tài để để tìm hiểu nhu cầu của trẻ em
sống trong môi trường có bạo lực gia đình theo các bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem
xét nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, nên đáp ứng nhu
cầu nào trước, nhu cầu nào sau. Mặt khác, trên cơ sở lý thuyết nhu cầu, đề tài còn tìm
hiểu xem liệu các nhu cầu của trẻ em bị bạo lực đã được chính quyền các cấp, ban
ngành có liên quan, gia đình và xã hội đã đáp ứng được phần nào, nhu cầu nào chưa
được thực hiện và nguyên nhân tại sao?
1.3.2. Lý thuyết về quyền trẻ em
Đề tài sử dụng lý thuyết về quyền trẻ em được thể hiện trong Công ước quốc tế
về quyền trẻ em để làm nền tảng trong quá trình nghiên cứu. Đó là hệ thống quyền
như:
Quyền an sinh/ được bảo vệ: Công ước nhấn mạnh đến việc nhà nước và xã hội
phải có sự quan tâm đến lợi ích tốt nhất của trẻ em, phải đảm bảo rằng trẻ em được bảo
vệ và chăm sóc đầy đủ.
Quyền được phát triển tốt nhất: Trẻ em có quyền được nhà nước, xã hội tạo mọi
điều kiện tốt nhất để phát triển thể chất và tinh thần. Công ước nhận ra rằng trẻ em
được chăm sóc tốt nhất trong gia đình của chúng, nhưng đòi hỏi nhà nước phải cung
cấp “sự hỗ trợ thích hợp” cho người chăm sóc và phát triển các dịch vụ chăm sóc trẻ
em.

Quyền tham gia: Công ước nhấn mạnh, các quốc gia thành viên phải đảm bảo
cho trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, được quyền bày tỏ
những quan điểm đó về tất cả mọi vấn đề có tác động đến trẻ em. Những quan điểm
của trẻ em phải được coi trọng một cách thích đáng phù hợp với độ tuổi và độ trưởng
thành của trẻ em.
Quyền không phân biệt đối xử: Tất cả mọi trẻ em đều phải được tôn trọng và đối
xử như nhau không phân biệt. [7, tr.23-26]
Khi làm việc với trẻ em bị bạo lực chúng ta cần dựa trên những quy định của
quốc gia cũng như quốc tế về quyền trẻ em để có cách tiếp cận phù hợp, đảm bảo cho
các quyền của trẻ em được tôn trọng và được bảo vệ. Một sinh viên Luật khi xem xét
13


trẻ em bị bạo lực thì cần phải biết rằng, các em đã bị tước mất quyền nào. Các quyền
đó được thể hiện trong các văn bản pháp luật nào và những hình thức xử lý khi những
quyền của trẻ em bị xâm phạm, từ đó có được những can thiệp phù hợp mang lại hiệu
quả trong quá trình trợ giúp trẻ em.
1.3.3 Thuyết nhận thức - hành vi
Lý thuyết này đã chỉ ra rằng, hành vi luôn xuất phát từ một quá trình ý thức của
con người. Môi trường cũng là một nguyên nhân gây tác động đến những hành vi của
con người nên các nhà chuyên môn chỉ có thể nghiên cứu được hành vi khi nó được
bộc lộ ra bên ngoài. Theo lý thuyết hành vi, tương ứng với một tác nhân kích thích sẽ
có các phản ứng phù hợp. Dựa vào đó, con người có thể đổ lỗi cho ngoại cảnh để bao
biện cho hành vi của họ. Trong tình huống này, những luật sư cần sử dụng thuyết nhận
thức - hành vi để giúp thân chủ nhận ra những suy nghĩ, hành động sai lầm của mình.
Thuyết nhận thức - hành vi nêu thêm yếu tố nhận thức trong quá trình tạo ra hành vi.
Thuyết này cho rằng, nguyên nhân của những hành vi chưa tốt hay không tích cực bắt
nguồn từ nhận thức và suy nghĩ sai lệch. Để chỉnh sửa hành vi, đối tượng cần phải học
cách nhận thức thực tế, suy nghĩ tích cực và chuyển những suy nghĩ tích cực đó sang
hành vi. Từ đó, đem lại cho thân chủ cảm giác đúng đắn về bản thân và giúp thân chủ

tương tác một cách hài hòa với môi trường xung quanh [12, tr.171].
Sử dụng lý thuyết nhận thức- hành vi để nghiên cứu nhằm tìm ra căn nguyên
sâu xa dẫn đến hành vi bạo lực trẻ em là do sự thiếu hiểu biết, thiếu các kỹ năng sống
của những người trong cuộc. Từ đó, có định hướng đúng trong việc phổ biến, tuyên
truyền về quyền của trẻ em, trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội trong việc
thực hiện Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở Việt Nam hiện nay.
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý và nhu cầu của trẻ em bị bạo lực
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em
Về mặt sinh học, trẻ em là ngưởi phát triển chưa đầy đủ về thể chất, trí tuệ, nhân
cách. Biểu hiện của sự phát triển chưa đầy đủ là tầm vóc cơ thể còn nhỏ bé, trình độ
nhận thức chưa phát triển. Trẻ em thích hoạt động nhưng thể lực còn hạn chế, có khả
năng nắm bắt nhanh nhưng tập trung không cao, kiến thức về tự nhiên xã hội chưa
nhiều, chưa đánh giá được tác động về mặt xã hội của các hoạt động mà mình tham
gia. Các em chưa thể tự lập được trong cuộc sống cũng như chưa có khả năng đánh giá
hành vi và tự bảo vệ mình trước những tác động xấu từ môi trường xung quanh.
14


Về mặt xã hội, trẻ em là đối tượng dân cư đặc biệt, họ sẽ là thế hệ kế cận, là trụ
cột tương lai của đất nước. Do chưa trưởng thành, chưa thể tự kiếm sống được phải
dựa vào cha mẹ và những người thân trong gia đình nên sự quan tâm chăm sóc giáo
dục của gia đình, nhà trường, xã hội đối với trẻ em là trách nhiệm không của riêng ai.
Công việc này có một ý nghĩa đặc biệt không phải để làm giàu cho hiện tại mà để tạo
nguồn của cải vô tận cho mai sau. Thực tế chứng minh rằng, khi trẻ em được định
hướng đúng đắn, được đảm bảo các điều kiện vật chất tinh thần, sống trong môi trường
lành mạnh trẻ sẽ phát triển năng lực toàn diện. Do đó chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ
em là sự nghiệp lớn của Đảng, Nhà nước là trách nhiệm của gia đình và cả cộng đồng.
1.3.2. Nhu cầu của trẻ em bị bạo lực
Đối với trẻ, điều quan trọng nhất là được sống trong một môi trường lành mạnh,
được yêu thương, được tôn trọng. Khi ứng dụng lý thuyết nhu cầu vào việc với trẻ em

bị bạo lực chúng ta cũng nhận thấy rằng các em phải đối mặt với rất nhiều vấn đề cần
được giúp đỡ. Đối với trẻ em bị bạo lực thì nhu cầu đầu tiên là nhu cầu được an toàn
cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi vì việc các em bị bạo lực về thể xác gây thương tích
các bộ phận trên thân thể thì các em còn phải đối diện với tình trạng tinh thần luôn lo
sợ, tâm lý luôn cảm thấy bất an, căng thẳng. Nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, hành
vi bạo lực gia đình do người bố gây ra với mẹ hay các thành viên khác trong gia đình
sẽ trở thành nỗi ám ảnh trong cả tuổi thơ của các em.
Nhu cầu về thể chất: Trẻ em được bảo vệ an toàn, được quan tâm đến sức khỏe,
đặc biệt đối với trẻ bị bạo lực về thể xác thì đây là nhu cầu cần thiết nhằm giảm thiểu
hậu quả nặng nề có thể xảy ra khi bị bạo lực.
Nhu cầu về tinh thần: Trẻ cần sự quan tâm chia sẻ, cảm thông của tất cả mọi
người, được động viên, an ủi, phần nào xoa dịu nỗi đau mà trẻ gánh chịu để vơi bớt
nỗi ám ảnh về kí ức không mấy tốt đẹp. Ngăn chặn những suy nghĩ, hành động tiêu
cực và giúp trẻ nhanh phục hồi tâm lý.
Việc trẻ em bị bạo lực xảy ra rồi không có nghĩa là không xảy ra nữa. Bởi vậy,
cần sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan ban ngành, các tổ chức xã hội có liên quan
đến trẻ em. Thực hiện các biện pháp phù hợp kịp thời ngăn chặn các hành vi bạo lực
có thể xảy ra tiếp theo.

15


1.4. Trách nhiệm của Nhà nước, gia đình, nhà trường và xã hội trong việc thực
hiện quyền trẻ em
1.4.1. Trách nhiệm của Nhà nước
Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh phải coi trọng và phát huy yếu tố con
người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và lấy việc phục vụ con người làm
mục đích cao cả nhất của mọi hoạt động. Bởi vậy, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ
trẻ là nhiệm vụ rất quan trọng của Đảng, Nhà nước, toàn xã hội và mỗi gia đình.
Trách nhiệm của nhà nước trong việc chăm lo cho thế hệ trẻ thể hiện ở Điều 19

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em: “Nhà nước dành một tỷ lệ ngân sách thích
đáng trong kế hoạch hàng năm cho việc bảo vệ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.
Vai trò của Nhà nước còn được thể hiện ở việc quy định cụ thể chi tiết trách nhiệm của
các ngành, các cấp, các đoàn thể về việc tổ chức, thực hiện chương trình bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ theo chức năng, quyền hạn của đơn vị mình. Chẳng hạn theo Điều
27 Nghị định số 71/2011/NĐ- CP ngày 22 tháng 8 năm 2011 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì:
Ủy ban than dân các cấp chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện
quản lý nhà nước đối với các cơ sở trợ giúp trẻ trên địa bàn theo quy định sau:
- Xây dựng, chỉ đạo quy hoạch chung để đảm bảo các loại cơ sở trợ giúp trẻ em
phù hợp với các đối tượng trẻ em trên địa bàn, tạo điều kiện cho mọi trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt có cơ hội được phục hồi sức khỏe, tinh thần được giáo dục đạo đức, trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt không còn nơi nương tựa được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia
đình chăm sóc thay thế hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em. Các điều tiếp theo quy định
trách nhiệm cụ thể theo chức năng, nhiệm vụ của các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ giao
thông vận tải, Bộ xây dựng, Uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt Nam, Tổng cục
Thể dục thể thao, Tổng cục Du lịch, Uỷ ban Vật giá Nhà nước…. để góp phần thực
hiện nghiệp chung là bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của toàn Đảng, toàn dân ta.
Nhà nước đã cho phép thành lập Quỹ Bảo trợ trẻ em các cấp, giao cho uỷ ban
bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng cấp quản lý, sử dụng vào việc bảo vệ chăm sóc và
giáo dục trẻ em. Khoản 2 Điều 22 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định:
“Quỹ Bảo trợ trẻ em được thành lập bằng sự đóng góp của các cơ quan Nhà nước,
đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế, văn hoá, tổ chức từ thiện, tổ chức nhân đạo và các

16


tổ chức xã hội khác của các cá nhân ở trong nước, ngoài nước, viện trợ quốc tế cho sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.
Để thực hiện trách nhiệm to lớn của mình trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và

giáo dục thế hệ trẻ, Nhà nước còn tích cực thực hiện công tác truyền thông, giáo dục
nhận thức cho người lớn và trẻ em về pháp luật Việt Nam liên quan đến trẻ em trên các
phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, Nhà nước còn vận động sự đóng góp trí tuệ, tiền của, công sức của mọi
cá nhân, tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em. Điều này được khẳng định ở khoản 1 Điều 22 Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em: “Nhà nước bảo trợ các công trình khoa học và công nghệ, các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, mọi sáng kiến, việc làm có lợi cho sự nghiệp bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, khuyến khích các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần
dành một phần quỹ phúc lợi hoặc lợi nhuận vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em”.
1.4.2. Trách nhiệm của gia đình
Gia đình là trường học đầu tiên của mỗi con người. Môi trường giáo dục gia đình
có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người.
Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm của gia đình đối với trẻ em là phải chăm sóc nuôi
dạy trẻ ngay từ khi mới sinh ra cho đến lúc trưởng thành, cha mẹ hoặc người đỡ đầu là
những người trước tiên chịu trách nhiệm về việc này. Khoản 1, Điều 16 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “Cha mẹ hoặc người đỡ đầu là người trước tiên
chịu trách nhiệm về việc bảo vệ, chăm sóc nuôi dạy trẻ em, dành điều kiện tốt nhất cho
sự phát triển của trẻ em”. Khoản 2 Điều 16 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
quy định: “Cha mẹ, các thành viên lớn tuổi khác trong gia đình, người đỡ đầu phải làm
gương tốt về mọi mặt cho trẻ em noi theo”
Mỗi gia đình cần chú tâm tới việc giáo dục và tạo những ảnh hưởng tốt cho các
em bởi vì những phẩm chất tốt được hình thành trong các em từ tuổi ấu thơ là cơ sở
tạo tiền đề cho sự phát triển lành mạnh khi trưởng thành. Chính sự gương mẫu về mọi
mặt của cha mẹ, của những người lớn tuổi trong gia đình có tác dụng giáo dục sâu sắc
góp phần hình thành và phát triển nhân cách toàn diện của mỗi con người trong xã hội.
Khoản 3 Điều 16 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định “Trong trường
hợp ly thân hoặc trong các trường hợp khác, người cha hoặc người mẹ không trực tiếp
17



nuôi con chưa thành niên có nghĩa vụ thăm mon, chăm sóc con theo quy định của pháp
luật”. Như vậy, cả trong những trường hợp đã nêu ở trên thì cha mẹ vẫn là những
người trước tiên chịu trách nhiệm về việc bảo vệ, chăm sóc và nuôi dạy trẻ em.
1.4.3. Trách nhiệm của Nhà trường
Nếu gia đình là cội nguồn tình cảm, là nơi bắt đầu hình thành và phát triển ý thức
của trẻ em thì nhà trường góp phần rất quan trọng vào việc giáo dục và rèn luyện con
người. Bởi vì, ngoài việc truyền dạy kiến thức, nhà trường còn có nhiệm vụ giáo dục
những phẩm chất nhân cách của học sinh và hoàn thiện những nhân cách ấy. Cố vấn
Phạm Văn Đồng đã nói, nhiệm vụ của nhà trường là phải: “đào tạo thế hệ trẻ cảu dân
tộc ta thành những người chiến sĩ dũng cảm, thông minh, sáng tạo, phản ánh những cái
gì đẹp đẽ nhất… trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa Cộng sản”.
Một trong những hoạt động của nhà trường để thực hiện việc phòng chống bạo
lực trẻ em là nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên về quyền của trẻ em về các
phương pháp giáo dục trẻ khoa học dựa trên nguyên tắc kỷ cương, tình thương, trách
nhiệm. Chúng ta biết rằng, thầy cô giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân
cách, đến sắc thái tâm lý và đạo đức của học sinh. Chính lối sống lành mạnh của thầy
cô là tấm gương sáng để các em học sinh noi theo. Thực tế đã chứng minh rằng, khi
thầy cô có cách sống cao đẹp, hết lòng vì học sinh, hiểu học sinh, kịp thời giúp các em
chọn cách xử sự đúng thì học sinh của họ là những trò ngoan và học giỏi.
Bên cạnh đó, Nhà trường cần tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền về tác hại của
bạo lực trẻ em đối với chất lượng giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Nâng cao kỹ năng
sống cho học sinh bằng việc lồng ghép trong giảng dạy, tổ chức các hoạt động thiết
thực thu hút các em vào những hoạt động đó.
Muốn thực hiện tốt công tác phòng chống bạo lực trẻ em nhà trường cần phải tạo
dựng được mối quan hệ chặt chẻ giữa gia đình, nhà trường và xã hội, tạo mọi điều kiện
cho các em phát triển toàn diện.
1.4. 4. Trách nhiệm của cộng đồng, xã hội đối với việc phòng chống bạo lực trẻ em
Trách nhiệm thực hịên phòng chống bạo lực trẻ em của xã hội và cộng đồng thể

hiện trước hết ở việc tuyên truyền, giáo dục nhân dân chấp hành tốt pháp luật về trẻ
em, tổ chức những nơi vui chơi, giải trí và xây dựng các công trình văn hoá cho thanh
thiếu niên và nhi đồng, nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội đối với trẻ em
bị bạo lực và có nguy cơ bị bạo lực. Các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc Việt
18


Nam và các tổ chức thành viên thực hiện tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động
viên hội viên và nhân dân chấp hành pháp luật liên quan đến phòng, chống bạo lực gia
đình, kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có liên quan để thực
hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, tham gia phòng chống bạo lực gia
đình nói chung và bạo lực trẻ em nói riêng, chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân bị bạo
cũng như tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,
bạo lực trẻ em.
1.5. Khái quát tình trạng bạo lực trẻ em ở Việt Nam hiện nay và một số quy định
xử phạt hành vi bạo lực trẻ em
1.5.1.Tình hình bạo lực trẻ em ở Việt Nam hiện nay
Bạo lực trẻ em đang trở thành một vấn nạn xã hội cần có sự vào cuộc của các
cơ quan chức năng và toàn xã hội. Điều đáng báo động là số vụ bạo lực không giảm
mà ngày càng gia tăng cùng với những hình thức bạo lực man rợ, nó diễn ra trên phạm
vi rộng từ gia đình đến trường học và ngoài xã hội. Một số vụ bạo lực trẻ em gây rúng
động dư luận xã hội trong thời gian gần đây đơn cử như ngày 20/10/2015 ở Thừa
Thiên Huế đã xảy ra vụ bạo lực học sinh do chính cô giáo chủ nhiệm gây ra. Nguyên
nhân là do trong giờ tập viết, một số em học sinh viết không kịp theo lời đọc của cô
Thảo nên đã bị cô giáo này gọi lên và dùng thước bản lớn đánh liên tiếp vào mông.
Không những thế, nữ giáo viên chủ nhiệm này còn nhờ hai em học sinh lớp 5 vào giữ
đầu, chân các cháu, bắt các cháu nằm lên bàn còn mình dùng thước liên tiếp đánh vào
người học sinh. Gần đây ngày 02/04/2016 đã xảy ra vụ bạo lực trẻ em gái 8 tuổi ở
phường Cam Giá, thành phố Thái Nguyên gây chấn động dư luận xã hội. Nguyên nhân
dẫn đến hành vi bạo lực con gái nuôi là do bà Nguyễn Thị H đi xem bói, thầy phán

cháu N không hợp tuổi nên việc làm ăn của bà sẽ không thuận lợi. Từ đó, bà bắt đầu
lạnh nhạt đánh đập cháu N không thương tiếc. Mặc dù bị đánh rất đau, gãy ngón chân
nhưng cháu vẫn phải làm việc, vợ chồng bà H không bôi thuốc hay đưa cháu đến trung
tâm y tế điều trị. Sau đó người hàng xóm đã đưa bé đi cấp cứu ở bệnh viện Gang Thép
Thái Nguyên. Bên cạnh đó, tình trạng bạo lực giữa học sinh với nhau vẫn tiếp tục xảy
ra, không chỉ nam sinh mà còn có cả nữ sinh. Nhà trường và phụ huynh học sinh vẫn
chưa có biện pháp tốt để giải quyết tình hình một cách dứt điểm. Do đó học sinh
“giang hồ” còn gây ra nhiều vụ ẩu đả khác. Theo thống kê của Bộ CAND, tội phạm

19


trong lứa tuổi học sinh – sinh viên đang chiếm tỷ lệ từ 65 – 70% số vụ phạm pháp hình
sự trên cả nước.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trẻ em. Trước hết phải kể đến
nhận thức của các gia đình, cộng đồng về vấn đề bảo vệ trẻ em chưa đầy đủ và phần
nào đó còn bị xem nhẹ. Nhiều thói quen, phong tục, tập quán có hại cho trẻ em chưa
được các cấp, các ngành quan tâm đấu tranh loại bỏ. Sự phát triển kinh tế thị trường,
sự phân hóa giàu nghèo làm nảy sinh các vấn đề xã hội phức tạp dẫn đến sự biến đổi
các giá trị xã hội, hành vi lệch chuẩn, nhiều trẻ em bị bạo lực thời gian dài nhưng
không được tố giác, tố cáo kịp thời. Việc ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột đối với
trẻ em chưa được cộng đồng chủ động phát hiện sớm và báo cho các cơ quan chức
năng xử lý, can thiệp kịp thời vì họ không muốn có sự “rắc rối” liên quan đến họ;
Nhận thức về hậu quả lâu dài, nghiêm trọng của các hành vi bạo lực đối với trẻ em
chưa được cảnh báo đúng mức. Nhiều gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn; cha mẹ
ly hôn, ly thân; cha mẹ mắc các tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến việc trẻ em bỏ học, lang thang kiếm sống và bị bạo lực.
Nghiên cứu tâm lý học chỉ ra rằng, phần lớn những trẻ em bị ngược đãi, xâm
hại và bị bóc lột có tâm lý mặc cảm, tự ti hoặc tâm lý thù hận đối với xã hội, sau này
khi trưởng thành nhiều em trong số đó cũng ứng xử tương tự đối với người khác.

1.5.2. Một số quy định xử phạt hành vi bạo lực trẻ em hiện nay
Tùy theo động cơ, mục đích và mức độ nghiêm trọng do hậu quả để lại, người
có hành vi bạo lực trẻ em có thể bị phạt vi phạm hành chính (bồi thường tiền) hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự (ngồi tù, chung thân, tử hình). Cụ thể:
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “Trẻ em được gia đình, nhà
nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự”, “Mọi
hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ
em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật” (theo Điều 14 và khoản 2 Điều 6
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định), “Hành vi ngược đãi, hành hạ trẻ
em là một trong những hành vi bị nghiêm cấm” (theo khoản 6 Điều 7 Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định).
Theo quy định tại Điều 27 Nghị định 144/2013/NĐ-CP quy định xử phạt hành
chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ, chăm sóc trẻ em, những hành vi được liệt
kê cụ thể như trên có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng.
20


Pháp luật đã quy định hành vi bạo hành trẻ em sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự với một trong các tội sau:
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với trẻ em với
mức phạt tù cao nhất là 3 năm (theo điểm d khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự (BLHS)
quy định);
+ Tội vô ý làm chết người với mức phạt tù cao nhất là 5 năm (theo khoản 1
Điều 98 BLHS quy định);
+ Tội giết trẻ em với mức phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình (theo
điểm c khoản 1 Điều 93 BLHS quy định).
Ngoài ra, người thực hiện hành vi hành hạ, ngược đãi đối với trẻ em còn phải
bồi thường cho cha mẹ hoặc người giám hộ của các bé số tiền để bù đắp những tổn
thất vật chất thực tế và tổn thất tinh thần.
1.6. Tác động của bạo lực đối với sự hình thành nhân cách ở trẻ em

Trước hết, cần khẳng định, bạo lực trẻ em dù dưới bất kỳ hình thức nào, dù với
lý do gì đều không thể chấp nhận được. Bạo lực trước hết ảnh hưởng trực tiếp đến sức
khỏe thể chất của trẻ hoặc nguy hại hơn, khiến trẻ có thể bị nguy hiểm đến tính mạng.
Bạo lực cũng làm cho trẻ không thể phát triển về thể chất một cách bình thường. Trẻ
có thể trở nên còi cọc, chậm lớn, nước da tái, môi nhợt nhạt, ánh mắt đờ đẫn bạc
nhược hoặc hung dữ… Bạo lực cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe tâm thần
của trẻ, làm cho trẻ luôn sống trong nỗi sợ hãi, lo lắng, bất an. Tình trạng này kéo dài
có thể gây ảo giác, điên loạn.
Khi bị bạo lực, có hai phản ứng ở trẻ thường xảy ra. Nếu biểu hiện ra bên ngoài,
trẻ có thể thay đổi tính nết. Đang hiền lành, trẻ bỗng trở nên hung bạo, hay cáu gắt,
khóc lóc, thậm chí đánh đập người khác hoặc độc ác với thú vật. Loại thứ hai là cách
phản ứng thu mình lại. Trẻ trở nên lo lắng, buồn phiền, xa lánh mọi người, không thích
tiếp xúc và luôn mang cảm giác sợ sệt. Tuy nhiên, điều đặc biệt lưu ý là việc bạo lực
trẻ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Tất cả
những hành động như đánh đập, vùi dập, khủng bố, làm nhục đều khiến đứa trẻ thiếu
tự tin, rụt rè, luôn trong trạng thái thảng thốt. Bị bạo lực, trẻ dần dần hình thành một
nhân cách nhút nhát, tự ti, thiếu sự khẳng định chính mình. Các nghiên cứu khoa học
chỉ ra rằng, trẻ em bị bạo lực gặp nhiều thử thách trong cuộc sống. Nếu suốt ngày bị
đánh đập, chửi bới, nhiếc móc, chắc chắn trẻ sẽ bị ảnh hưởng rất lớn tinh thần. Một
21


đứa trẻ không được yêu thương, làm sao biết yêu thương. Trẻ em chịu sự giáo dục
bằng roi vọt dễ có hành vi độc ác khi trưởng thành. Biểu hiện lúc nhỏ của trẻ có thể
đơn giản là hung bạo, hay cáu gắt, khó tính, nhưng khi lớn lên, trẻ có thể trở thành một
con người cộc cằn, lỗ mãng và độc ác. Sống trong môi trường không lành mạnh, bị
bạo lực hoặc chứng kiến sự bạo lực, trẻ sẽ có quan niệm sống lệch lạc, không biết tôn
trọng người khác và cũng không biết tôn trọng chính bản thân mình.
Ngoài ra, cách giáo dục phản giáo dục, giáo dục sai phương pháp là một tác
nhân quan trọng khiến trẻ không thích đến trường, không thích đi học. Khi không thích

học, trẻ không thể tiếp thu kiến thức. Học kém, bị điểm thấp, bị trách phạt từ gia đình
đến nhà trường, trẻ trở nên kém tự tin, dần dẫn đến u lì, mụ mị đầu óc, dễ bị những
cám dỗ bên ngoài ảnh hưởng đến như kết bè phái với những đứa trẻ giống mình, bỏ
nhà đi lang thang, hút thuốc lá, thậm chí nghiện ma túy. Càng bị trách phạt, trẻ càng có
nguy cơ rối loạn hành vi nhiều hơn. Sự đánh đập của cô giáo đôi khi cũng là một vết
thương khó phai mờ trong tâm trí của trẻ, khiến trẻ trở nên tự ti. Cá biệt có trường hợp
còn làm thay đổi cả tính cách của một con người. Một tác hại cũng không thể không
nhắc tới, đó là việc bạo lực có thể khiến trẻ trở nên mất lòng tự trọng. Khi liên tục bị
đánh đập, hành hạ hoặc bị làm nhục dưới mọi hình thức, trẻ trở nên lì lợm, ngang
bướng và không còn coi chuyện vi phạm lỗi là quan trọng. Trẻ không tôn trọng người
khác nơi công cộng, có những hành vi mà người có lòng tự trọng không bao giờ làm.
Trẻ cũng trở nên vô cảm, không biết lên án những hành vi phi đạo đức của người khác.

22


Tiểu kết chương 1
Bạo lực trẻ em không phải là một vấn đề mới, nó đã và đang diễn ra ở tất cả các
quốc gia trên thế giới với nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Ta biết, chủ thể hành
vi bạo lực không ai khác chính là những người gần gũi, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em đó là người cha, mẹ, thầy cô giáo và bạn
bè của trẻ. Bạo lực trẻ em để lại hậu quả nghiêm trọng, là cơn ác mộng kéo dài đối với
trẻ, khiến cho trẻ sống khép kín, tự ti về bản thân, có thể sẽ dẫn đến trẻ nổi loạn và có
hành vi lệch chuẩn khó kiểm soát.
Trong chương 1, đề tài khái quát vấn đề bạo lực trẻ em dưới góc độ pháp lý dựa
trên hai phương diện cơ sở lý luận và sơ sở thực tiễn. Đồng thời, đề tài đã có những
tìm hiểu, phân tích, đánh giá hệ thống các chính sách pháp luật quốc tế, quốc gia liên
quan đến bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng như công tác phòng chống bạo lực
trẻ em.


23


CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1. Khái quát địa bàn nghiên cứu
Thành phố Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình nằm trên quốc lộ 1A, Đường sắt
Thống nhất Bắc Nam và đường Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý 17°21’ vĩ độ bắc và
10°10’ kinh độ đông. Phía Bắc giáp huyện Bố Trạch, phía Nam giáp huyện Quảng
Ninh, phía tây giáp huyện Bố Trạch, huyện Quảng Ninh, phía Đông giáp biển Đông.
Đồng Hới nằm ngay dọc bờ biển, có sông Nhật Lệ chảy giữa lòng thành phố, bờ biển
với chiều dài 12 km về phía Đông và hệ thống sông, suối, hồ, rừng nguyên sinh ở phía
tây thành phố thích hợp cho phát triển du lịch, nghỉ ngơi, giải trí. Tuy nhiên, Đồng Hới
nằm trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với thời tiết khắc nghiệt. Vào mùa
hè thời tiết nóng, oi bức gió lào khô nóng thổi liên tục, với nền nhiệt luôn trên 35 độ C,
có lúc trên 40 độ C. Mùa Đông lạnh, ẩm với nền nhiệt dưới 18 độ C, có nhiều ngày
nhiệt độ xuống dưới 10 độ C, nhiệt độ thấp nhất là 4 độ C. Bão thường xuất hiện trong
năm với tần xuất 1 - 4 cơn/năm, tập trung vào các tháng 9, 10, 11, bão xuất hiện với
cường độ mạnh, sức tàn phá dữ dội. Chính điều kiện tự nhiên đó đã ảnh hưởng đến
cuộc sống con người nơi đây nhất là đối với những hộ gia đình lấy nông nghiệp, nuôi
trồng thủy hải sản, làm nguồn chi tiêu chính của gia đình.
Về kinh tế, dịch vụ thương mại, du lịch là điểm mạnh của thành phố. Toàn thành
phố có 10.248 cơ sở kinh doanh, thương mại, năm 2015 tăng 1.638 cơ sở so với năm
2010. Về công nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng (gạch men, xi măng, nhôm), đánh
bắt và nuôi trồng thủy - hải sản. Trong giai đoạn 2010 - 2014, tăng trưởng GDP bình
quân của Đồng Hới là 12,32%, sản xuất tiểu thủ công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ
trọng dịch vụ và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Đồng Hới có 1556 doanh nghiệp
tiểu thủ công nghiệp. GDP đầu người năm 2014 của Đồng Hới là 2871,3 USD tương
đương 61 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo còn 1,37%. Thu ngân sách năm 2014 đạt 540,461
tỷ đồng. Các cụm công nghiệp được đầu tư và đưa vào khai thác như khu công nghiệp
tây bắc Đồng Hới, Bắc Đồng Hới và Phú Hải đóng góp quan trọng vào tăng trưởng

kinh tế thành phố.
Về đặc điểm dân cư, thành phố Đồng Hới được chia thành 10 phường (Phường
Bắc Lý, phường Bắc Nghĩa, phường Đồng Mỹ, phường Đồng Phú, phường Đồng Sơn,
phường Đức Ninh Đông, phường Hải Đình, phường Hải Thành, phường Nam Lý,
phường Phú Hải) và 6 xã (xã Bảo Ninh, xã Đức Ninh, xã Lộc Ninh, xã Nghĩa Ninh, xã
24


Quang Phú, xã Thuận Đức). Đồng Hới có dân số là 163.988 người, toàn bộ đều là dân
tộc Kinh. Trong đó trẻ em có khoảng 31.210 trẻ, chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số dân
trên địa bàn thành phố Đồng Hới – tỉnh Quảng Bình. Nhìn chung đời sống của người
dân thành phố Đồng Hới vẫn còn nhiều khó khăn, có sự chênh lệc rõ nét về đời sống
của các hộ dân sống trong thành phố và vùng phụ cận.
Thành phố Đồng Hới có thế mạnh là phát triển du lịch biển. Tuy nhiên vào
khoảng giữa tháng 4/2016, việc vùng biển Nhật Lệ bị ô nhiễm nặng nề làm cá chết
hàng loạt đã ảnh hưởng tiêu cực đến du lịch biển trên địa bàn, các ngư dân rơi vào tình
trạng không có việc làm. Người thất nghiệp và người chưa có công việc ổn định vẫn
chiếm tỷ lệ cao nay sẽ còn tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống mưu sinh của
các hộ gia đình ven biển. Khi cuộc sống gia đình khó khăn nó dẫn hệ lụy kéo theo như
gia đình dễ xảy ra xung đột, mâu thuẫn, trẻ em dễ bị hành vi bạo lực của cha, mẹ.
Các nguồn lực trên địa bàn để thực hiện phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực
trẻ em còn hạn chế nhất định. Ngân sách của thành phố còn hạn chế; cán bộ làm công
tác trẻ em cấp huyện, thị xã, thành phố, xã, phường, thị trấn kiêm nhiệm nhiều công
việc nên việc nắm bắt và theo dõi tình hình trẻ em trên địa bàn chưa kịp thời và đầy
đủ; đội ngũ cộng tác viên tổ dân phố hiện nay còn thiếu, nhiều phường không có phụ
cấp động viên nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc triển khai các hoạt động liên quan
đến trẻ em cũng như thu thập thông tin liên quan đến trẻ em. Những khó khăn trên đã
hạn chế đến khả năng huy động nguồn lực của toàn xã hội cho công tác bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em cũng như khó khăn thách thức trong việc thực hiện các biện pháp
phòng chống bạo lực trẻ em.

2.2. Thực trạng bạo lực trẻ em ở thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình
Để xác định được trên địa bàn thành phố Đồng Hới có trường hợp trẻ em nào bị
bạo lực hay không, chúng tôi dựa trên hai kết quả nghiên cứu của trẻ em thành phố
Đồng Hới đó là:
- Báo cáo công tác phòng chống bạo lực gia đình và bạo lực trẻ em của các cơ
quan, tổ chức liên quan trên địa bàn nghiên cứu.
- Kết quả điều tra, khảo sát thực tế do nhóm tiến hành nghiên cứu trên địa bàn.
2.2.1. Thực trạng bạo lực trẻ em thông qua số liệu thống kê từ báo cáo hoạt động của
các cơ quan, đoàn thể, chính quyền địa phương về bạo lực trẻ em. Kết quả thu được
như sau:
25


×