Tải bản đầy đủ (.doc) (184 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ GIA ĐÌNH ở THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH với VIỆC GIỮ gìn bản sắc văn hóa dân tộc TRONG bối CẢNH TOÀN cầu hóa HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.37 KB, 184 trang )

MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...........................................................................................1
Chương 1. GIA ĐÌNH VỚI VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA .. .
. 10....
1. 1. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam và vai trò của nó đối với sự
phát triển của đất nước..............................................................................10
1. 1. 1. Quan niệm về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam...................10
1. 1. 2. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là nhân tố bảo đảm sự phát
triển bền vững của đất nước .........................................................................18
1. 2. Quan niệm về toàn cầu hóa và tác động của nó đối với bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay...............................................29
1. 2. 1. Quan niệm về toàn cầu hóa............................................................29
1. 2. 2. Những tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc dân tộc của văn
hóa Việt Nam hiện nay.................................................................................33
1. 3. Vai trò của gia đình đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn
hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.............................45
1. 3. 1. Quan niệm về giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.......45
1. 3. 2. Vai trò của gia đình đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn
hóa Việt Nam ...............................................................................................49
Chương 2. PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
HIỆN NAY ..................................................................................................61


2. 1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh và gia đình ở thành phố Hồ
Chí Minh trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.....................................61
2. 1. 1. Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh ...........................................61
2. 1. 2. Khái quát đặc điểm gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay..64


2. 2. Thực trạng giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam của gia
đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua ..........................83
2. 2. 1. Những thành tựu chủ yếu trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của
văn hóa Việt Nam của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm
qua.................................................................................................................83
2. 2. 2. Một số hạn chế trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra............................................................................................................104
2. 3. Phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.......................................... 121
2. 3. 1. Những phương hướng cơ bản trong phát huy vai trò của gia đình ở
thành phố Hồ Chí Minh đối với việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay........................................121
2. 3. 2. Một số giải pháp phát huy vai trò của gia đình ở thành phố Hồ Chí
Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay. 125
KẾT LUẬN ...............................................................................................136
PHỤ LỤC ..................................................................................................140
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................163


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bản sắc dân tộc của văn hóa là những giá trị đặc biệt được vun đắp qua
lịch sử tồn tại và phát triển của một cộng đồng dân tộc, tạo nên những nét
độc đáo phân biệt dân tộc đó với dân tộc khác. Bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam là nhân tố bảo đảm sự trường tồn và lớn mạnh của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và toàn

cầu hóa hiện nay, bên cạnh những tác động tích cực, có không ít những tác
động tiêu cực đối với bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam. Hiện tượng
đánh mất bản sắc dân tộc đã biểu hiện trong nhiều lĩnh vực của đời sống văn
hóa tinh thần, nhất là trong các lĩnh vực nghệ thuật, đạo đức và lối sống, đặc
biệt là ở các thành phố lớn, mà nếu không được ngăn chặn, chúng sẽ lây lan
sang tất cả các lĩnh vực đời sống, họat động và quan hệ xã hội, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến kinh tế, văn hóa, xã hội, hủy hoại bản sắc dân tộc, đe dọa
sự tồn vong của quốc gia dân tộc… Do đó, việc giữ gìn bản sắc dân tộc của
văn hóa Việt Nam là một nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết của toàn
Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, của mỗi cá nhân, gia đình và của
toàn xã hội. Trong đó gia đình - một cộng đồng nhỏ, nhưng là hạt nhân của
xã hội, có vai trò rất lớn. Gia đình chính là nơi tiếp nhận, kế thừa và chuyển
giao những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Văn hóa gia đình là bộ phận cơ bản hình thành nên bản sắc
văn hóa truyền thống dân tộc.
Cũng như nhiều địa phương trên đất nước ta, gia đình ở thành phố Hồ
Chí Minh đã và đang có những nỗ lực lớn lao trong việc giữ gìn bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam. Cố nhiên, do có những nét đặc thù về lịch sử,
kinh tế, xã hội và văn hóa, gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, bên cạnh


2

những thuận lợi và khó khăn chung của gia đình cả nước, có cả những thuận
lợi và khó khăn của riêng mình trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa
Việt Nam.
Cùng với gia đình cả nước, các gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh, một
thành phố chỉ mới có hơn 300 năm hình thành và phát triển, nhưng là trung
tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, văn hóa và du lịch của cả nước
và là “cửa ngõ” hội tụ, giao lưu của nhiều dòng chảy văn hoá khác nhau, các

gia đình ở thành phố đã góp phần không nhỏ trong việc bảo lưu, gìn giữ
những giá trị văn hóa cội nguồn. Hiện nay, trong quá trình phát triển, hội
nhập và toàn cầu hóa, thành phố và các gia đình ở thành phố đã tranh thủ
những thuận lợi để giao lưu, tiếp biến và góp phần rất lớn trong việc giữ gìn
và phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam. Những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được gia đình tiếp nhận, kế thừa và truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. Nó có sức mạnh vô hình, đã thúc giục, động viên
mọi thành viên trong gia đình thực hiện hoài bão lớn góp phần tạo nên bản
sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Sức mạnh dân tộc bắt nguồn từ sức
mạnh gia đình, tinh thần dân tộc cũng bắt nguồn từ tinh thần gia đình. Trong
quá khứ cũng như trong hiện tại, gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh đã có
những đóng góp to lớn trong việc kiến tạo, vun đắp, gìn giữ và phát huy bản
sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam – nhân tố nội sinh, bảo đảm sự trường
tồn, lớn mạnh và chiến thắng của nước Việt Nam thống nhất.
Song trước những thời cơ và thách thức to lớn do toàn cầu hóa mang
lại, là một thành phố lớn bậc nhất của cả nước, thực trạng giữ gìn bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay, bên cạnh những chuyển biến theo hướng thuận lợi, đang có không ít
những biến chuyển theo hướng bất lợi. Đó là tình trạng xung đột giá trị giữa
các thế hệ trong gia đình đe dọa sự bền vững của gia đình, xung đột giữa giá


3

trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và những giá trị hiện đại của thế giới,
nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp đã bị xâm hại… Không ít những gia đình ở
thành phố Hồ Chí Minh đã có những dấu hiệu của sự khủng hoảng, các mối
quan hệ gia đình tốt đẹp, truyền thống đang trở nên lỏng lẻo, bị lấn át bởi
những quan hệ hàng hóa, thị trường, lợi nhuận... cùng với nó là sự xâm lấn
ngày càng tăng của nhiều thứ văn hóa không lành mạnh, của lối sống ngoại

lai, đe dọa các giá trị đạo đức, truyền thống của gia đình và dân tộc, đe dọa
bản sắc dân tộc, cản trở việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam
nói chung, vai trò của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Đó là
những vấn đề đòi hỏi phải được nghiên cứu giải quyết để phát huy vai trò
của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc
của văn hóa, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển “nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Với mong muốn góp phần vào việc tìm hiểu, giải quyết những vấn đề
đó, tác giả chọn vấn đề “Gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh với việc giữ gìn
bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện
nay” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: triết học,
chủ nghĩa xã hội khoa học, dân tộc học, xã hội học v.v… Đã có nhiều công
trình nghiên cứu về gia đình gia đình Việt Nam ở nhiều góc độ khác nhau
được công bố. Trong đó có GS. Lê Thi: "Gia đình Việt Nam trong bối cảnh
đất nước đổi mới ", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; Vũ Ngọc Khánh:
"Văn hóa gia đình Việt Nam", Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998; Nguyễn
Từ Chi: "Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam", Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 1991; Nguyễn Thị Oanh: "Gia đình Việt Nam thời mở
cửa", Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1998; Trần Thị Kim Xuyến: "Gia đình,


4

những vấn đề của gia đình hiện đại”, Nxb. Thống kê, Tp. Hồ Chí Minh,
2002; Trần Đình Hượu: "Gia đình và giáo dục gia đình - những nghiên cứu
về gia đình Việt Nam", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996; Đặng Cảnh
Khanh: "Gia đình, trẻ em và kế thừa các giá trị truyền thống", Nxb. Lao động
– Xã hội, Hà Nội, 2003; TS. Dương Thị Minh: "Gia đình Việt Nam và vai

trò người phụ nữ hiện nay" , Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004;… Các đề
tài của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Gia đình và Phụ nữ như đề tài
khoa học cấp nhà nước KX 07 – 09 "Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình",
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994; "Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm,
các nguồn lực trong sự nghiệp đổi mới", Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1995, cũng tập trung nghiên cứu về vấn đề này... Hầu hết các tác phẩm, công
trình nghiên cứu trên đều tập trung nghiên cứu vấn đề gia đình dưới góc độ xã
hội học và văn hóa học.
Riêng luận văn thạc sĩ của Trần Thị Hạ: "Gia đình truyền thống Việt
Nam - những giá trị và thách thức trong giai đoạn hiện nay", Trường Đại
học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, 2005 thì tìm hiểu vấn đề giá trị gia đình truyền thống; “Cuộc sống và
biến động của hôn nhân, gia đình Việt Nam" của GS. Lê Thi, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2006, phân tích thực trạng và sự biến động của hôn nhân
và gia đình Việt Nam hiện nay trước những tác động của sự nghiệp đổi mới;
Đặng Cảnh Khanh – Lê Thị Quý với “Gia đình học”, Nxb. Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2007, nghiên cứu, làm rõ các lý luận khoa học về gia đình và gia
đình học, vị trí, chức năng của gia đình, qua đó phác họa những biến đổi của
gia đình Việt Nam trước tác động của kinh tế thị trường, hội nhập, mở cửa;
Luận án tiến sỹ của Cấn Hữu Hải: “Ảnh hưởng của truyền thống gia đình
đến định hướng giá trị của lứa tuổi đầu thanh niên”, Đại học Sư Phạm Hà
Nội, 2002, phân tích những ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến việc


5

định hướng giá trị của lứa tuổi đầu thanh niên; Nguyễn Thị Quyên với
“Những khó khăn trong giáo dục đạo đức cho trẻ em trong gia đình ở thành
phố hiện nay”, tạp chí Xã hội học, số 3/2009, lý giải những khó khăn của
các gia đình ở thành phố hiện nay trong việc giáo dục đạo đức cho trẻ em;...

Một số công trình của Nguyễn Minh Hòa như: “Vấn đề gia đình ở
thành phố Hồ Chí Minh”, tạp chí Khoa học xã hội, số 31/1997, và “Nhận
diện quy mô gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và dự báo xu
hướng phát triển vào thế kỷ XXI”, tạp chí Khoa học xã hội, số 35/1998; và
“Hôn nhân và gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh nhận diện và dự báo”,
Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1998,… tập trung mô tả bức tranh tổng thể
của gia đình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh với hai vấn đề cốt lõi là
cấu trúc và chức năng của gia đình trong giai đoạn hiện nay, từ đó đưa ra dự
báo tổng quát về sự vận động của gia đình thành phố đến năm 2010.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu về gia đình Nam Bộ
và thành phố Hồ Chí Minh như: “Truyền thống gia đình Nam Bộ” của Sơn
Nam, tạp chí Xưa và Nay, số 46B - 12/1997 bước đầu nghiên cứu về truyền
thống gia đình của các gia đình Nam Bộ; Kỷ yếu Hội thảo Khoa học và thực
tiễn xây dựng gia đình văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh: “Xây dựng gia
đình văn hóa tại thành phố Hồ Chí Minh” của Sở Văn hóa Thông tin Thành
phố Hồ Chí Minh và Viện Khoa học xã hội tại thành phố Hồ Chí Minh,
1994, tập trung lý giải về vai trò và sự biến đổi của các giá trị gia đình hiện
đại và bước đầu sơ kết phát động phong trào “xây dựng gia đình văn hóa tại
thành phố Hồ Chí Minh”; “Xây dựng gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp đổi mới”, Luận án tiến sỹ của Phạm Lê Quang, Trường Đại
học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, 2009, nghiên cứu thực trạng phát triển của gia đình ở thành phố Hồ
Chí Minh và những nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất những giải pháp để


6

xây dựng gia đình trong điều kiện hiện nay. Ngoài ra còn có các công trình
như: “Gia đình và hôn nhân người Việt ở ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Thành Rum, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh,

1996; Sở Khoa học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (2008): “Hiện
tượng sống chung trước hôn nhân của giới trẻ độc thân tại Thành phố Hồ
Chí Minh trong mối quan hệ với độ ổn định của gia đình trẻ”; v.v ...
Các công trình đã nghiên cứu gia đình ở nhiều góc độ và về nhiều mặt
khác nhau, và những kết quả đạt được là rất phong phú và quan trọng. Đó là
các tài liệu quý báu, giúp tác giả hoàn thành tốt hơn công trình nghiên cứu
của mình. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về vai trò
của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc
của văn hóa. Vì vậy trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu việc giữ gìn bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam và trò của gia đình trong việc giữ gìn bản sắc dân
tộc của văn hóa trong khóa luận tốt nghiệp đại học của mình, với sự hướng
dẫn, giảng dạy tận tình của quý thầy cô Khoa Triết học về các chuyên đề
văn hóa, cùng với tâm huyết và sự tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu thực tế của
bản thân, người viết mạnh dạn chọn vấn đề “Gia đình ở thành phố Hồ Chí
Minh với việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong quá trình
toàn cầu hóa hiện nay” làm đề tài viết luận văn, nhằm bước đầu tìm hiểu,
làm rõ vai trò của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản
sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay, góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp
“xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở phân tích, làm rõ vai trò của gia đình đối với việc giữ gìn
bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, thực trạng vai trò của gia đình ở
thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa trong


7

quá trình toàn cầu hóa hiện nay, luận văn đề xuất một số phương hướng và
giải pháp phát huy vai trò của gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc

giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay. Để đạt mục đích đó,
luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận chung về bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam và sự tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay, về vai trò của gia đình trong việc giữ
gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa.
Thứ hai, phân tích thực trạng vai trò của gia đình ở thành phố Hồ Chí
Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam, nguyên nhân
và những vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề xuất một số phương hướng và giải pháp phát huy vai trò của
gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của
văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu
việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam của gia đình ở thành phố
Hồ Chí Minh trong qúa trình toàn cầu hóa hiện nay, cụ thể là giai đoạn từ
đầu thập niên 90 của thế kỉ XX đến nay và luận văn cũng chỉ giới hạn phạm
vi điều tra xã hội học một số gia đình ở ba quận: Quận 1 – quận nội thành,
quận 9 – quận ven và huyện Hóc Môn – huyện ngoại thành.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn đồng thời sử dụng các
phương pháp lịch sử - lôgíc, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương
pháp đối chiếu, so sánh, phỏng vấn sâu,… và điều tra xã hội học bằng bảng
hỏi và xử lý kết quả bằng phần mềm SPSS 11.5 với phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên. Luận văn cũng dựa trên nền tảng các quan điểm của Chủ nghĩa


8

Mác – Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, nhà nước về gia đình,

về bản sắc dân tộc, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các công trình nghiên cứu
tiêu biểu và sử dụng kết quả điều tra xã hội học từ các công trình đã công
bố, luận văn bước đầu nghiên cứu, lý giải vai trò của các gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.
Trước khi tiến hành phát phiếu, người viết chọn ba quận, huyện đặc
trưng của thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu: Quận 1 – quận nội thành,
quận 9 – quận ven và huyện Hóc Môn – huyện ngoại thành có sự hiện diện
của các gia đình nông nghiệp nông thôn. Với nghiên cứu này, nếu chọn tính
xác suất, lấy danh sách từng hộ và xác định đối tượng nghiên cứu sẽ đảm bảo
tính đại diện. Nhưng nếu vậy sẽ rất phức tạp và sẽ không có đủ thời gian, kinh
phí, điều kiện để nghiên cứu hết được. Vì vậy, dựa trên các tài liệu quy ước
về phương pháp điều tra xã hội học, với sự tìm hiểu, nghiên cứu của bản thân,
dựa trên kinh nghiệm của những người nghiên cứu đi trước và sự tham khảo ý
kiến của một số giảng viên xã hội học, người viết sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên. Và để tránh tình trạng thất lạc, chúng tôi đã tiến hành điều
tra với tổng số phiếu là 210 phiếu. Số phiếu thu lại được là 153. Theo quy
định thì số phiếu này phù hợp yêu cầu, giới hạn của của luận văn thạc sỹ.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam và sự tác động của toàn cầu hóa đối với bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam hiện nay, về vai trò của gia đình trong việc giữ
gìn bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa. Trên
cơ sở những quan điểm của Đảng, Nhà nước về vấn đề giữ gìn bản sắc dân
tộc và kết quả điều tra xã hội học về thực trạng vai trò của gia đình ở thành
phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa, luận văn
đề xuất phương hướng và kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của


9


gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc của
văn hóa Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Với ý nghĩa như vậy, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên, học viên cao học và những ai quan tâm tới lĩnh vực này. Luận văn còn
có giá trị tham khảo cho các cơ quan, ban ngành chức năng của thành phố
Hồ Chí Minh trong quá trình hoạch định chủ trương, biện pháp giữ gìn bản
sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam cũng như xây dựng gia đình “no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, phát huy vai trò của gia đình ở thành phố trong
việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa, góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc
của văn hóa Việt Nam và xây dựng, phát triển đất nước.
6 . Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


10

Chương 1
GIA ĐÌNH VỚI VIỆC GIỮ GÌN BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA VĂN
HÓA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
1. 1. BẢN SẮC DÂN TỘC CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ
CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC

1. 1. 1. Quan niệm về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam
Bản sắc dân tộc và bản sắc dân tộc của văn hóa
Lịch sử phát triển nhân loại trải qua bao thế kỷ, mọi thứ đều có thể phôi
phai và chìm trong quên lãng, chỉ riêng văn hóa vẫn đi cùng con người và
luôn gắn liền với tiến bộ của cuộc sống và sự phát triển xã hội. Là con người,
ai cũng ra đời, trưởng thành và hướng đến tương lai từ văn hóa. Nền văn hóa
của mỗi quốc gia dân tộc trước hết thể hiện ở sắc thái, diện mạo riêng của dân

tộc đó mà người ta vẫn thường gọi là "bản sắc văn hóa dân tộc" hay "bản sắc
dân tộc của văn hóa ". Nói đến bất kì một dân tộc nào cũng là nói đến nền văn
hóa của dân tộc ấy, và khi nói về văn hóa của một dân tộc cũng chính là nói về
nền văn hóa mang đậm bản sắc của dân tộc ấy. Vậy bản sắc dân tộc là gì ?
Từ "bản sắc" có nguồn gốc Hán – Việt, trong đó "bản" là cái gốc, cái
căn bản, cốt lõi, cái hạt nhân của một sự vật; "sắc" là màu vẻ, dung mạo, là
sự biểu hiện cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân đó ra ngoài. "Bản sắc" là
màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính [137, 45]. "Bản sắc" được
nhận thức trên cả hai mặt: mặt bản chất bên trong và mặt biểu hiện bên ngoài,
và giữa hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong đó, mặt bên
trong phản ánh tính đồng nhất, bản chất của một lớp đối tượng sự vật nhất
định và mặt bên ngoài phản ánh những dấu hiệu, những sắc thái riêng của sự
vật để làm cơ sở phân biệt sự khác nhau giữa sự vật này với sự vật khác [71,
67]. Trong ngữ hệ Châu Âu, "bản sắc" (Identity/ Identité) dùng chỉ sự đồng


11

nhất, dấu ấn, đặc tính cơ bản bền vững [31, 30]. Thuật ngữ bản sắc thường
được sử dụng gắn với văn hóa và dân tộc. Nói đến dân tộc là nói đến văn hóa,
bản sắc văn hóa và nói đến văn hóa là nói đến dân tộc, bản sắc dân tộc.
Bản sắc dân tộc là vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều nhà hoạt động chính trị và văn hóa. Theo GS, VS. Hoàng
Trinh, bản sắc dân tộc là "tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét,
màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, giúp cho
dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính nhất quán của bản thân mình
trong quá trình phát triển" [152,19]. GS. Hồng Vinh thì cho rằng bản sắc dân
tộc là “một tổng thể những đặc điểm riêng của một cộng đồng dân cư, thể
hiện ở cách nghĩ, nếp sinh hoạt trong cuộc sống bao gồm ý tưởng, quan
niệm, phong tục, tập quán, nghi lễ và tín ngưỡng ở cộng đồng dân tộc ấy"

[171, 19]. Còn nhà văn hóa Huy Cận lại đưa ra quan niệm cho rằng: “bản sắc
dân tộc là hạt nhân sáng tạo của truyền thống dân tộc, truyền từ đời này sang
đời khác, nó đảm bảo cho sự trường tồn của dân tộc” [47, 846], v.v…
Từ một số quan niệm nêu trên, có thể hiểu bản sắc dân tộc là tổng thể
những tính chất, đặc tính cơ bản, tính cách nổi bật đặc sắc, biểu hiện ở mỗi
dân tộc trong lịch sử tồn tại và phát triển, truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác giúp cho dân tộc đó giữ được tính thống nhất, tính nhất quán của bản
thân mình và đặc tính riêng so với các dân tộc khác [107, 27]. Bản sắc dân tộc
chính là "căn cước", là “chứng minh thư” dân tộc, là cái làm cho mỗi dân tộc
là mình và khác với dân tộc khác, từ đó nó có thể biểu lộ một cách trọn vẹn
nhất sự hiện diện của mình trong quá trình giao lưu và hội nhập. Theo nghĩa
này, còn bản sắc dân tộc thì dân tộc còn, mất bản sắc dân tộc thì dân tộc mất.
Bản sắc dân tộc có tính ổn định tương đối theo thước đo thời gian lịch sử
nhưng không phải là cái “nhất thành bất biến”, cũng không phải là cái “sớm
nở tối tàn” mà gắn liền với từng bước phát triển của cộng đồng dân tộc, được


12

hình thành, vận động, phát triển sinh động trong những điều kiện lịch sử, xã
hội, tự nhiên nhất định gắn với thể chế chính trị của một xã hội cụ thể, thông
qua sự tạo tác từ nội bộ dân tộc và bằng sự tiếp biến các giá trị văn hóa bên
ngoài trong sự “giao thoa” giữa các nền văn hóa. Giao lưu càng mạnh, bản
sắc văn hóa càng tự cường [152, 111]. Bản sắc dân tộc nằm trong tâm thức,
trong cốt cách con người, được thể hiện chủ yếu trong cốt cách tâm hồn của
con người và các di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể), thể hiện trong mọi
mặt đời sống, hoạt động và môi quan hệ xã hội của dân tộc đó.
Trong sinh hoạt học thuật hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất về cách
dùng các thuật ngữ “bản sắc dân tộc của văn hóa” hay “bản sắc văn hóa dân
tộc” nhưng qua các tài liệu nghiên cứu có thể thấy bản sắc văn hóa dân tộc

và bản sắc dân tộc của văn hóa, hai khái niệm này không phải là một nhưng
nói bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến cái cốt lõi nhất của bản sắc dân tộc.
Vì "bản sắc dân tộc gắn liền với văn hóa, thường được biểu hiện thông qua
văn hóa, nên cũng có thể coi là bản sắc dân tộc của văn hóa" [119, 631]. Bản
sắc dân tộc của văn hóa là những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị
hạt nhân của một nền văn hóa dân tộc, đồng thời là những sắc thái biểu hiện
đặc sắc của mỗi dân tộc được thể hiện qua tính đa dạng và thống nhất,
truyền thống và hiện đại, tự tôn dân tộc và hòa hợp dân tộc [71, 73]. Cái bản
sắc đó được kết tinh từ tâm hồn, khí phách hàng ngàn đời của dân tộc, tạo
nên nhân lõi, cốt cách, bản lĩnh và sức sống của một dân tộc, nó là căn cước
để nhận dạng nó trong trăm ngàn nền văn hoá, là bộ “gen” để di truyền bản
sắc truyền thống của mình cho các thế hệ mai sau. Bản sắc dân tộc của văn
hoá là cái bảo đảm cho thế ổn định và trường tồn của một nền văn hoá. Vì
vậy, ở góc độ tiếp cận của đề tài này, tác giả luận văn thống nhất sử dụng
thuật ngữ “bản sắc dân tộc của văn hóa”.


13

Nói đến bản sắc dân tộc hay truyền thống dân tộc thì đều có thể bao
gồm cả mặt tích cực và tiêu cực. Nhưng nói bản sắc văn hóa hay truyền
thống văn hóa dân tộc thì chỉ bao gồm mặt tích cực như là hạt nhân của tinh
thần sáng tạo của dân tộc đó trong lịch sử. Bản sắc dân tộc của văn hóa là hệ
giá trị của dân tộc được sáng tạo, được vun đắp và truyền từ đời này sang
đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Chỉ khi nào giá trị văn hóa của một
dân tộc được hình thành tồn tại lâu dài và trải qua thử thách mà vẫn không
mất đi thì dân tộc đó mới có được bản sắc văn hóa. “Bản sắc văn hóa dân
tộc chính là những đặc trưng văn hóa đã trở thành bền vững” [161, 101].
Các nhà khoa học thuộc lĩnh vực xã hội đều thống nhất quan niệm bản sắc
dân tộc của văn hóa là nét riêng độc đáo của mỗi nền văn hóa, được hình

thành, lưu giữ suốt quá trình lao động và đấu tranh lâu dài của một dân tộc.
Trong chuyên khảo “Bản sắc dân tộc của văn hóa”, GS. Đỗ Huy cho rằng
“Nói đến bản sắc dân tộc của văn hóa chúng ta nghiêng về phía diện mạo có
hồn của văn hóa dân tộc. Nó thể hiện ở mọi nơi mọi chỗ theo kiểu cách
riêng của dân tộc. Nó được phát triển biến hóa bởi sự nghiệp lao động và
chiến đấu của nhiều thế hệ trong lịch sử. Bản sắc này chi phối cả phong tục
tập quán các vùng miền và tiểu vùng văn hóa” [69, 27]. Từ những phân tích
trên có thể nhận thấy bản sắc dân tộc của văn hóa có đặc điểm: thứ nhất, là
một hệ thống giá trị văn hóa đã được hình thành và phát triển trong suốt lịch
sử của mỗi dân tộc, mang đậm trí tuệ, diện mạo và phong cách văn hóa tạo
thành sắc thái, dấu ấn, bản lĩnh riêng, thành cái cốt lõi, tinh túy, là linh hồn
và truyền thống của một dân tộc, thể hiện trong hoạt động vật chất và tinh
thần của mỗi thành viên trong cộng đồng dân tộc; thứ hai, nó luôn phát huy
tính có ích trong đời sống xã hội đương đại, không chỉ là những giá trị quá
khứ mà còn là thực tại và hướng đến tương lai. Cũng cần chú ý là bản sắc
dân tộc của văn hóa là sự kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi và đặc sắc


14

của dân tộc, có tính bền vững và trường tồn trong lịch sử mà nhờ đó thế hệ
sau kế thừa và phát triển ngay trên giá trị quá khứ, tiếp thu giá trị hiện đại.
Nó là chất keo dính gắn bó cộng đồng người với nhau, là cội nguồn, gốc rễ
sinh tồn và phát triển của mỗi dân tộc bởi lao động, đấu tranh hay sáng tạo
của cả cộng đồng với sự tiếp nối qua bao thế hệ con người. Thông qua bản
sắc dân tộc của văn hóa có thể cảm nhận và hiểu rõ được dân tộc đó đã sản
sinh ra như thế nào và sẽ phát triển ra sao trong sự phát triển của nhân loại.
Với ý nghĩa đó, bản sắc dân tộc của văn hóa định hướng tồn tại và phát triển
của mỗi dân tộc. Bản sắc dân tộc của văn hóa không phải là một phàm trù
vĩnh viễn mà nó là phạm trù lịch sử, có quá trình hình thành và phát triển

trong xã hội, chứa đựng những giá trị thiêng liêng của một dân tộc.
Khi xem xét bản sắc dân tộc của bất cứ nền văn hóa nào thì phải xét các
giá trị bản sắc dân tộc của văn hóa dựa trên tính bền vững và biến đổi. Hai
hiện tượng này không đối lập nhau mà là hai mặt của một chỉnh thể. Mỗi dân
tộc đều có sắc thái diện mạo văn hóa được tạo thành không phải dựa vào
thuộc tính nào đó mà là sự tổng hợp của nhiều thuộc tính. Bởi mỗi sự vật hiện
tượng đều là một thể thống nhất bao gồm những thuộc tính, mối liên hệ chung
giống như những sự vật hiện tượng khác và hòa lẫn những mối liên hệ đặc thù
nó có. Tổng hợp những thuộc tính làm nên bản sắc dân tộc của văn hóa không
phải hoàn toàn nét riêng của dân tộc đó. Trong bản sắc dân tộc của văn hóa
chứa đựng tính nhân loại, tính khu vực, tính tộc người. Ở đó, tính nhân loại và
tính khu vực đã được đa dạng hóa, được thích ứng biến đổi phù hợp, được kết
hợp với cái riêng của dân tộc mà dân tộc đó đã sáng tạo trong lịch sử. Nghĩa
là không phải cái thiên hạ không có mà mình có mới gọi là bản sắc văn hóa
mà chính là cái chung nhưng gắn bó cùng dân tộc và được thể hiện một cách
đậm nét. Bản sắc dân tộc của văn hóa chỉ rõ anh là ai, thiếu nó anh không có
giá trị bản thân, không tồn tại như một giá trị.


15

Tóm lại, bản sắc dân tộc của văn hóa là những giá trị gốc, hạt nhân,
mang tính dân tộc sâu sắc nhất. Những giá trị đó nằm chủ yếu trong tâm
thức, cốt cách của mỗi con người, và được thể hiện ra trong hoạt động, quan
hệ, giao tiếp ứng xử, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong tư duy,
nghệ thuật kiến trúc, trong phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội
và cả trong sinh hoạt thường ngày… của từng dân tộc cụ thể.
Quan niệm về bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam
Mỗi dân tộc đều có điều kiện tự nhiên và lịch sử của riêng mình, vì vậy
có nền văn hóa mang bản sắc riêng của dân tộc. Dân tộc Việt Nam trong lịch

sử mấy ngàn năm dựng và giữ nước, đã phải thích ứng với thiên nhiên khắc
nghiệt, với lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm đầy gian nan, thử thách.
Nhưng cái giúp chúng ta luôn giữ được mình trong những hoàn cảnh lịch sử
khó khăn nhất để tồn tại và phát triển đến hôm nay chính là nhờ dân tộc ta
có một nền văn hóa lâu đời mang đậm bản sắc Việt Nam. Một trong những
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ
rõ là "có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"[42, 68]. Bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam đã được Đảng ta xác định tại Hội nghị lần thứ
Năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII bao gồm “những giá trị bền
vững, những tinh hoa của các cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp
nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước”, kết tinh
những gì đặc sắc nhất, đẹp đẽ nhất, độc đáo nhất của các cộng đồng dân tộc
Việt Nam, nó có giá trị bền vững, trường tồn cùng thời gian, nó như chất
keo kết nối cộng đồng người gắn bó với nhau, để cùng tồn tại và phát triển.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam “là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự
cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia
đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lí,
đức tính cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị


16

trong lối sống… Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong các hình thức
biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [43, 56].
Có thể thấy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là những giá trị gốc,
hạt nhân, mang tính dân tộc sâu sắc nhất mà xưa nay chúng ta không thể tìm
thấy trong bất kì văn bản chính thống nào, “mà thấy toát ra từ toàn bộ lịch
sử đất nước, qua phong hóa cổ truyền biểu hiện ở xóm làng… qua những sự
kiện có tư cách đại diện cho lương tâm của toàn dân, đại diện cho danh dự
của dân tộc” [54, 328]. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là biểu hiện

cốt cách của dân tộc Việt Nam, được thể hiện không chỉ ở nội dung mang
đặc tính dân tộc mà còn đậm nét cả hình thức biểu hiện trong mọi lĩnh vực
của văn hóa và đời sống xã hội, trong sinh hoạt, giao tiếp ứng xử hằng ngày,
trong tư duy, nếp sống, cách giao tiếp, ứng xử, nghệ thuật kiến trúc, lễ hội,
trong sáng tạo văn hóa, khoa học, nghệ thuật… đến cách dựng nước, giữ
nước của dân tộc. Bất kì một sản phẩm, một tác phẩm văn hóa của dân tộc
nào cũng chức đựng bản sắc của dân tộc ấy.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là tố chất được “hợp luyện”
cùng chiều với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Bản sắc đó không phải là một hằng số cố định, tĩnh tại mà luôn năng
động, không ngừng phát triển và có những giá trị mới được hình thành, bồi
tụ trong quá trình hội nhập, tiếp biến giữa các nền văn hóa. Chẳng hạn, yêu
nước là giá trị chung của nhiều dân tộc nhưng trở thành chủ nghĩa yêu nước,
sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa dân tộc “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, “quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh”… là nét độc đáo Việt Nam [161, 182]. Thế nhưng lòng yêu nước nồng
nàn lại được thể hiện với những hình thức khác nhau trong những giai đoạn
lịch sử khác nhau của dân tộc. Khi dân tộc ta chống giặc ngoại xâm, lòng
yêu nước thể hiện ở tinh thần xả thân vì nền độc lập của dân tộc. Thời hòa


17

bình, lòng yêu nước là dồn hết tâm sức, trí tuệ xây dựng đất nước “giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như thế biểu hiện lòng yêu nước
trong mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau nhưng giá trị lòng yêu nước không
thay đổi. Bởi lẽ, cũng như chính sự vận động và biến đổi của đời sống các
cộng đồng người, bản sắc văn hóa của các cộng đồng cũng vừa ổn định, vừa
luôn phát triển và biến đổi. Bản sắc là ổn định vì nó bao gồm những giá trị
bền vững được hình thành nên qua lịch sử của cộng đồng người. Nhưng con

người và cộng đồng chỉ bảo tồn những gì đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát
triển của họ. Nên khi các điều kiện lịch sử thay đổi thì những yếu tố đã lỗi
thời trong bản sắc văn hóa tất yếu là phải nhường chỗ cho những nhân tố
mới nảy sinh trong điều kiện mới. Do đó, bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam là một biểu hiện của tiềm năng sáng tạo vô hạn của một dân tộc không
bao giờ đứng nguyên tại chỗ, cũng không bao giờ lặp lại chính mình.
Vậy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bền vững nhưng không nhất
thành bất biến. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là những giá trị gốc,
hạt nhân, mang tính dân tộc sâu sắc nhất. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt
Nam không phải là mọi giá trị văn hóa mà là những giá trị tinh thần cốt lõi
của dân tộc Việt Nam, định hướng cho dân tộc ta phát triển là chính mình
mà không phải là dân tộc khác. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam nằm
chủ yếu trong tâm thức, cốt cách của con người Việt Nam, và được biểu
hiện ra trong mọi mặt đời sống, hoạt động và quan hệ con người của dân tộc
Việt Nam, thể hiện trong mọi lĩnh vực của văn hóa và đời sống xã hội, sinh
hoạt hằng ngày, trong tư duy, nếp sống, nghệ thuật kiến trúc, lễ hội, trong
sáng tạo văn hóa, khoa học, nghệ thuật,… đến cách dựng nước, giữ nước
của dân tộc Việt Nam.


18

1. 1. 2. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là nhân tố bảo đảm
sự phát triển bền vững của đất nước
Thứ nhất, bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là một trong những
điều kiện tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam và là hạt nhân tạo nên
diện mạo đặc trưng của dân tộc.
Nhân lõi của mỗi nền văn hóa tập trung và lắng đọng ở bản sắc dân tộc
của văn hóa. Các nhà triết học và văn hóa học đều nhận thấy, bản sắc dân
tộc của văn hóa là đặc trưng riêng về sắc thái thể hiện ở cả bên ngoài lẫn nội

dung bên trong, khẳng định nó là dân tộc này chứ không phải là dân tộc
khác. Bản sắc dân tộc của văn hóa vì thế là bộ gien di truyền văn hóa dân
tộc, là sức sống trường tồn của dân tộc. Nói một cách khái quát, bản sắc dân
tộc của văn hóa là sức mạnh chủ thể của nền văn hóa, được thể hiện ở mỗi
cá nhân, mỗi gia đình, cộng đồng, xã hội.
Trên bình diện xã hội, động lực văn hóa đối với sự phát triển xã hội thể
hiện ở vai trò của bản sắc văn hóa đối với sự cố kết cộng đồng, tạo nên sức
mạnh tổng hợp, nội sinh của mỗi cộng đồng dân tộc. Trong quá trình tồn tại
và phát triển, mỗi cộng đồng dân tộc đều tạo dựng nên cho mình những giá
trị tinh thần nhất định. Những giá trị đó là sự phản ánh về mặt tinh thần quá
trình tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng dân tộc. Đến lượt mình, những
giá trị đó lại trở thành định hướng giá trị, thành động lực của quá trình dựng
nước và giữ nước của các dân tộc, các quốc gia.
Giữa lịch sử phát triển của dân tộc với lịch sử hình thành bản sắc dân tộc
của văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, không thể tách rời. Bản sắc
dân tộc của văn hóa Việt Nam được cộng đồng các dân tộc Việt Nam vun đắp
nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc
dân tộc của văn hóa chính là hạt nhân tạo nên diện mạo đặc trưng riêng của
dân tộc Việt Nam, khẳng định dân tộc Việt Nam với những đặc thù riêng có,


19

làm cho dân tộc Việt Nam khác với các dân tộc khác. Bản sắc đó đã được dân
tộc ta ý thức từ rất sớm như là những giá trị cấu thành lẽ sống của dân tộc. Sự
tồn tại của dân tộc ta chính là bằng chứng hùng hồn về bản sắc dân tộc. “Nếu
không đủ bảnh lĩnh giữ gìn bản sắc của mình thì có lẽ nước ta đã bị diệt vong
từ lâu, như một số nước, dân tộc khác đã có lịch sử huy hoàng”. “Sự tồn tại và
phát triển không ngừng của nước Việt Nam chính là do bản lĩnh”, bản sắc văn
hóa của mình [134, 93]. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam chính là sức mạnh

của văn hóa dân tộc. “Văn hóa dân tộc chúng ta có một sức mạnh lớn, lớn phi
thường. Những kẻ địch của dân tộc Việt Nam cũng đã nhận thấy như thế, nhận
thấy mà không làm gì được, không đánh bại nổi, cũng không biết đối đầu bằng
cách nào” [134, 94]. Lịch sử đã chứng minh từ các cuộc xâm lược của các triều
đại Hán, Nguyên, Minh đến quân Pháp, quân Mỹ, với sức mạnh vật chất và
những thủ đoạn vô cùng nham hiểm là xóa bỏ nền văn hóa Việt, nhưng tất cả
đều đã thất bại. “Trăm ngàn trống đồng – biểu tượng của văn hóa Văn Lang –
có thể bị nấu chảy, mà văn hóa của con cháu vua Hùng cứ tồn tại, được bảo vệ,
đó là lí do chính cắt nghĩa tại sao sau hàng ngàn năm bị đô hộ bởi một nước
rộng lớn, đông dân hơn ta mấy chục lần, văn hóa cũng cao hơn mà dân ta
không bị đồng hóa, nước ta hồi sinh” [134, 94]. Bản sắc dân tộc của văn hóa là
điều kiện tồn tại, phát triển của dân tộc Việt Nam.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là một “chứng minh thư” dân
tộc, nhưng không phải như chứng minh bằng giấy, mực, mà chứng minh
bằng tâm hồn, cốt cách của con người Việt Nam, không thể giả mạo được,
nó đảm bảo rằng người Việt Nam là người Việt Nam chứ không phải ai
khác. Bản sắc dân tộc của văn hóa là cái “gen” của cộng đồng, của dân tộc.
Trong cái “gen” ấy phân tích ra, có khí phách quật cường, có tấm lòng nhân
nghĩa; nhân nghĩa làm gốc cho quật cường, quật cường để bảo vệ và phát
huy nhân nghĩa” [134, 96]. Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam không chỉ


20

được khẳng định ở phương diện tinh thần, tư tưởng, tính cách dân tộc mà
được nhấn mạnh ở cả phương diện tổ chức đời sống cộng đồng, trong tâm lý
dân tộc, phong tục tập quán, lối sống, sinh hoạt kinh tế, xã hội... Bản sắc dân
tộc của văn hóa Việt Nam đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân
tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã
- tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lí, đức tính cần cù

sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống"
[43, 56]. Chính vì những giá trị đó mà các thế hệ người Việt Nam đã sống,
lao động, chiến đấu và hy sinh để giữ gìn và phát huy. Bởi đó là điều kiện
tồn tại của dân tộc Việt Nam với tính cách là một dân tộc.
Thứ hai, bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là bộ lọc, hệ quy chiếu
để dân tộc ta lựa chọn, tiếp thu những giá trị văn hóa nhân loại, làm giàu
và giữ gìn nền văn hóa dân tộc.
Lịch sử từng chứng kiến rất nhiều nền văn hóa sáng rực lên rồi lại tắt
lịm đi trong quá trình hội nhập, giao lưu, và cũng không ít những dân tộc
biết bổ sung phát triển các giá trị văn hóa truyền thống, làm bản sắc dân tộc
thêm phong phú và đứng vững trước mọi sóng gió lịch sử. Đó là nhờ biết
nhận thức và vận dụng đúng hai nguyên lí của phép biện chứng: nguyên lí
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát triển. Kế thừa và giao lưu
văn hóa là qui luật nội tại của mọi nền văn hóa. Văn hóa Việt Nam ta trong
lịch sử đã chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa từ văn hóa Ấn Độ,
Trung Hoa đến văn hóa Pháp, Mỹ và văn hóa các nước xã hội chủ nghĩa.
Nhưng ta đã thành công trong tiếp biến những giá trị tinh hoa của các nền
văn hóa ấy để phù hợp dân tộc, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc mà vẫn giữ
được hương sắc Việt Nam. Đó là nhờ bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó, bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam ta được giữ gìn
đồng thời là quá trình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tiếp thu những giá


21

trị văn hóa, khoa học tiến bộ, hiện đại của thế giới. Đây là qui luật đã có từ
ngàn xưa. Xu hướng hướng ngoại để tìm hiểu, tiếp nhận những cái mới lạ,
bổ ích cần thiết là một xu hướng có tính khách quan lịch sử, phản ánh nhu
cầu tồn tại, phát triển. Đóng kín cửa, biệt lập sẽ làm xói mòn, suy vong nền
văn hóa dân tộc. Trong lịch sử không có nền văn hóa nào là hoàn toàn bản

địa, không có nền văn hóa nào lại tuyệt đối đơn lẻ, thuần khiết và không bị
ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Văn hóa Việt Nam là sản phẩm
của sức mạnh nội sinh của dân tộc đồng thời cũng là kết quả của quá trình
giao lưu, tiếp biến các giá trị tinh hoa văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc và
phương Tây. Tinh hoa văn hóa nhân loại là cái có giá trị cao nhất, đại diện
nhất của một thời đại về mặt tư duy, tư tưởng, kiến thức nghệ thuật,… trong
nền văn hóa của một dân tộc, một khu vực. Những tinh hoa ấy đã được thử
thách qua lịch sử và thời gian, có tính chất kỳ vĩ xuất sắc về tính sáng tạo
của trí tuệ và lao động của con người [151, 62-68]. Vì vậy phải tiếp thu là lẽ
đương nhiên. Cũng chính nhờ tiếp thu những giá trị văn hóa mới trong các
cuộc giao lưu, tiếp xúc văn hóa Đông – Tây trong lịch sử mà nền văn hóa
Việt Nam truyền thống ngày càng phong phú và giàu bản sắc.
Hiện nay, việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được phát huy trên
một bình diện mới của thời kì phát triển hiện đại đang diễn ra ở mọi nơi trên
thế giới. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là học hỏi, thưởng thức, vận
dụng những đỉnh cao của trí tuệ và sự sáng tạo của nhân dân các nước trên tất
cả các lĩnh vực kinh tế, khoa học, xã hội, văn hóa, nghệ thuật,… để bổ sung,
làm giàu cho văn hóa nội sinh, biến chúng thành điều kiện, động lực cần thiết
cho những sáng tạo mới cao hơn. Nhờ đó mà bản sắc dân tộc được giữ vững
và nâng cao. Nhất là trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện
nay, cần thiết phải giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa đồng thời tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại. Đó là quá trình có tính biện chứng. Vì bản sắc dân tộc


22

phản ánh một sự “bám rễ” “lồng trong một sự tự vượt qua mình để tiến về
những chân trời mới của cái đẹp” [151, 55], và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại để làm phong phú bản sắc dân tộc. Nhưng quan trọng là cần phải biết
biến những cái hay của người thành cái của ta thông qua sự sàng lọc, chọn lựa

và thực tiễn hóa. Có vậy, bản sắc dân tộc mới được giữ gìn bền vững.
Như vậy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam được giữ gìn đồng thời
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là qui luật phát triển của văn hóa
Việt Nam, là nhân tố quan trọng giữ gìn và làm giàu thêm nền văn hóa dân
tộc, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ ba, bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam là một trong những
nhân tố tạo sức mạnh tổng hợp gắn kết cộng đồng dân tộc trong xây dựng
và bảo vệ tổ quốc, chống mọi âm mưu đồng hóa của kẻ thù.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước của dân tộc Việt Nam ta cũng chính
là lịch sử giữ nước hào hùng bấy nhiêu năm. Trong đó, dân tộc ta phải
chống chọi không biết bao nhiêu kẻ thù lớn nhỏ, từ các đế chế phong kiến
đến các cường quốc thực dân kiểu cũ và kiểu mới cũng như các đế quốc
binh hùng tướng mạnh Đông Tây. Tất cả các kẻ thù dù mạnh hơn, đông hơn,
chiếm ưu thế và sức mạnh hơn gấp bội phần nhưng dân tộc nòi giống lạc
hồng vẫn chiến thắng oanh liệt, vẻ vang. Cái giúp chúng ta luôn giữ được
mình trong những hoàn cảnh lịch sử khó khăn nhất để tồn tại và phát triển
đến hôm nay chính là nhờ dân tộc ta có một nền văn hóa lâu đời mang đậm
bản sắc dân tộc Việt Nam.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam hình thành trên cơ sở tự lực tự
cường, thường xuyên thắng mọi sự nô dịch và áp đặt ngoại lai, là hạt nhân
làm nên sức mạnh Việt Nam trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc. Một đất nước nhỏ bé, dân ít hơn các nước láng giềng từ
15 đến 20 lần, với lịch sử hơn 1000 năm Bắc thuộc với mưu đồ “Hán hóa”,


23

và mưu đồ “Tây hóa”, “Mỹ hóa” trong hơn 100 năm thực dân đế quốc xâm
lược nhằm đồng hóa, nô dịch văn hóa Việt. Song điều gì đã làm mọi chính
sách đồng hóa của kẻ thù phải thất bại? Điều gì đã làm con cháu Vua Hùng

vẫn không bị đồng hóa, trái lại còn “Việt hóa” các yếu tố văn hóa ngoại lai,
để sau 4000 năm lịch sử thăng trầm “gió Á mưa Âu”, ta vẫn là ta và chiến
thắng mọi quân xâm lược, giữ vững bờ cõi? Những thắng lợi, chiến công ấy
không phải nhờ vào sức vóc con người và vũ khí Việt Nam tốt mà chủ yếu
nhờ hệ giá trị tinh thần của riêng mình, luôn được làm giàu thêm, được giữ
gìn và phát huy từ đời nay sang đời khác [107, 27]. Sức mạnh làm nên mọi
thắng lợi của dân tộc Việt Nam chính là sức mạnh văn hóa, mà cái cốt lõi
chính là bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam.
Trước những nguy cơ, thách thức to lớn của quá trình hội nhập và toàn
cầu hóa hiện nay, việc giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa là hết sức quan
trọng. Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã khẳng định: “ bảo vệ bản sắc dân
tộc là bảo vệ tổ quốc, là tích luỹ, nhân lên gấp ngàn lần sức mạnh của đất nước,
của chủ nghĩa xã hội, của con người Việt Nam, nòi giống Việt Nam ta” [9, 79].
Kẻ thù hiện nay không dùng sức mạnh quân sự, đạn dược vũ khí để
xâm lược ta mà lợi dụng toàn cầu hóa, đầu tư kinh tế để thực hiện mưu đồ
bành trướng văn hóa, xâm lăng văn hóa, đồng hóa văn hóa, làm cho văn hóa
Việt Nam mất bản sắc. Mà chúng ta đã biết, mất bản sắc dân tộc của văn hóa
cũng chính là mất dân tộc, mất nước. Không phải ngẫu nhiên mà những năm
qua nhiều quốc gia trên thế giới chú trọng đề ra những chiến lược phát triển
văn hóa, bảo vệ bản sắc dân tộc như Trung Quốc – một quốc gia có nền văn
hóa kỳ vĩ, đã tuyên bố chống ô nhiễm tinh thần. Nhật Bản – mặc dù đã có
một nền công nghiệp phát triển cao nhưng người Nhật rất chú ý đến bản sắc
văn hóa dân tộc trong việc xác định các chuẩn giá trị xã hội ở Nhật và liên
tục mở hội nghị bàn về văn hóa dân tộc. Singapo cũng áp dụng chiến lược


×