Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

LUẬN VĂN: Thái độ của thanh niên đô thị hiện nay đối với một số giá trị truyền thống pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.62 MB, 113 trang )









LUẬN VĂN:

Thái độ của thanh niên đô thị hiện nay
đối với một số giá trị truyền thống
















MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài


Thanh niên là lực lượng xó hội to lớn, gúp phần quan trọng vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, thanh niờn cú trỡnh độ học vấn, trỡnh độ chuyên
môn kỹ thuật, khoa học công nghệ cao hơn trước, đời sống vật chất, tinh thần và sức
khoẻ được nâng cao, có khát vọng vươn lên, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu, mong
muốn xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dân chủ,
văn minh. í thức tự lập thõn, lập nghiệp, lũng nhõn ỏi, nhõn văn, tính tích cực xó hội, tinh
thần xung phong tỡnh nguyện của thanh niờn đang được phát huy và thể hiện trên nhiều
lĩnh vực.
Công cuộc đổi mới đất nước trong những năm qua đó đạt được những thành tựu to
lớn về kinh tế, xó hội. Nền kinh tế thị trường đã đem lại cho ta những điều "kỳ diệu", tuy
nhiên nó cũng là mảnh đất màu mỡ nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ lợi, những thói hư tật
xấu, những tệ nạn xã hội đã và đang từng ngày, từng giờ làm băng hoại những giá trị đạo
đức truyền thống của dân tộc, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống. Mặt trái
của cơ chế thị trường đã tạo ra một bộ phận không nhỏ lớp người trong xã hội nói chung,
một bộ phận thanh niên nói riêng đang phải đối mặt với nhiều thách thức mới, như sự
phân hoá giàu nghèo, những biểu hiện xuống cấp về đạo đức xó hội, lối sống thực
dụng…
Trên thực tế, đang có một bộ phận thanh niên sống theo hệ giá trị, chuẩn mực ít
nhiều khác lạ với hệ giá trị, chuẩn mực truyền thống, đơn thuần chạy theo lợi ích vật
chất, ít quan tâm đến cộng đồng. Thậm chí cũn có thanh niên quay lưng lại với quá khứ,
với những giá trị truyền thống. Những hiện tượng đó làm xuất hiện tư tưởng hoài nghi
vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước, một số người e ngại thanh niên đang đánh mất
những giá trị truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam và chạy theo những giá trị đó bị
Tây hoá.
Tuy nhiờn, tỡnh trạng này thế nào? quy mô, mức độ, biểu hiện của chúng ra sao?
Đang là vấn đề cần tiếp tục quan tâm, tỡm hiểu làm rừ.Chính vỡ lẽ đó tôi đó chọn vấn đề

nghiên cứu: “Thái độ của thanh niên đô thị hiện nay đối với một số giá trị truyền
thống”.
Câu hỏi nghiên cứu là: Thực trạng và hỡnh thức biểu hiện thái độ của thanh niên đối với

một số giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay thế nào? Những yếu tố nào tác động
đến thái độ và hỡnh thức biểu hiện việc tiếp thu giá trị truyền thống của thanh niên? Cần
những giải pháp nào để nâng cao nhận thức, tăng cuờng thái độ đúng của thanh niên đối
với những giá trị truyền thống?
2. Tổng quan tỡnh hỡnh nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Nghiên cứu về giá trị truyền thống của cộng đồng dân cư nói chung và nghiên cứu
về giá trị truyền thống và định hướng theo các giá trị truyền thống của thanh niên trong
thời đại ngày nay nói riêng, đó và đang là mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu quan
tâm giải quyết.
Mảng nghiên cứu Những vấn đề về giá trị và giá trị truyền thống của dân tộc Việt
Nam đó có không ít các học giả trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều sỏch, bỏo, cụng
trỡnh nghiờn cứu đó đề cập từ nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Trong thời gian có
hạn, trỡnh độ và kinh nghiệm của tác giả cũn chưa nhiều, tác giả của luận văn chỉ xin
điểm qua một số những công trỡnh nghiên cứu tiêu biểu bước đầu đặt cơ sở định hướng
cho việc nghiên cứu tiếp cận các vấn đề có liên quan tới giá trị, giá trị truyền thống của
thanh niên hiện nay.
Viết về truyền thống dân tộc, trước tiên cần kể đến công trỡnh nghiên cứu của tác
giả Trần Văn Giàu về “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nhà xuất
bản Khoa học xó hội, 1980). Trong cuốn sách này, Trần Văn Giàu đó phân tích sự vận
động của các giá trị truyền thống dân tộc qua các giai đoạn phát triển khác nhau của lịch
sử. Những giá trị truyền thống dân tộc mà tác giả nghiên cứu là những vấn đề về chủ
nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, tinh thần lạc quan, tỡnh thương người và tính cố
kết cộng đồng. Đây là những giá trị trung tâm mà dân tộc Việt Nam đó kết tinh được từ
hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đây cũng là nền tảng tri thức hữu ích cho việc
tiếp cận và phân tích về “Thái độ của thanh niên đối với một số giá trị truyền thống dân
tộc”.

Đề tài KX 07-02 “Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay” (thuộc
chương trỡnh cấp Nhà nước KX 07 “ Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam: Mục
tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xó hội” do Giáo sư Phan Huy Lê làm chủ nhiệm).

Đề tài đó quan tõm nghiờn cứu khỏ sõu sắc về cỏc giỏ trị truyền thống dõn tộc nhỡn trong
quá trỡnh hỡnh thành, phát triển, biến đổi của chúng. Đề tài cũng đó nờu ra và phân tích các
nội dung cấu thành giá trị truyền thống dân tộc trong mối quan hệ với bản sắc văn hoá dân
tộc, giữa cái chung và cái riêng, giữa mặt tích cực cần kế thừa, phát huy và những mặt hạn
chế lỗi thời cần khắc phục. Đề tài đó khảo sỏt mối quan hệ giữa cái “truyền thống” với cái
“hiện đại” ở con người Việt Nam hiện nay. Đề tài xác định những giá trị truyền thống nào
đang cần được kế thừa và phát huy, những yếu tố tiêu cực lạc hậu nào cần được xoá bỏ trong
quỏ trỡnh đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước.
Những giá trị tinh thần được các tác giả đi sâu phân tích khá thống nhất với những nguyên
tắc đạo đức mới được đưa ra trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hoá” (Ban tư tưởng
văn hoá Trung ương, Hà Nội, 2003). Đó là chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác và sáng tạo,
chủ nghĩa yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa nhân đạo. Những nguyên tắc
này là một trong những cơ sở để tác giả của luận văn lựa chọn các tiêu chí nghiên cứu về các
giá trị truyền thống dân tộc.
Tác giả Phan Huy Ngọc với công trỡnh nghiên cứu “Bản sắc văn hoá Việt Nam”
(Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2004) cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc
về cội nguồn văn hoá Việt Nam và sự hỡnh thành một số giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Trong đó không chỉ có tinh thần đoàn kết, đức tính cần cù lao động mà cả tinh
thần hiếu học của người Việt Nam. Sự phân tích sâu sắc của tác giả Phan Huy Ngọc cung
cấp cho chúng ta những tri thức quan trọng để tỡm hiểu những giỏ trị tốt đẹp đó và đang
được thanh niên ngày nay kế tục.
Cuốn “Về phát triển văn hoá và xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá” của tác giả Phạm Minh Hạc và Nguyễn Khoa Điềm (Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003) đó dành riêng một chương viết về thực trạng đạo đức, lối sống, tư
tưởng chính trị của thanh niên hiện nay. Trong đó các tác giả đó phân tích các số liệu tổng hợp
được từ cuộc khảo sát xó hội học về “Lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xó hội mới” (Đề tài

khoa học xó hội KX - 04.03, Hà Nội, 1998). Trong phần viết này các tác giả không chỉ đi sâu
phân tích vai trũ của lối sống, đạo đức và các chuẩn giá trị mà cả những biểu hiện, sự biến đổi
của những yếu tố đó trong thanh niên hiện nay thông qua thái độ của thanh niên đối với một số

giá trị cơ bản như tỡnh tương thân tương ái, giữ chữ tín, yêu lao động, tự hào về truyền thống
dân tộc. Đây là những dữ liệu hữu ích cho tác giả của luận văn tiến hành so sánh đối với nhận
thức và thái độ của thanh niên về một số giá trị truyền thống dân tộc hiện nay.
Cuốn “Phát triển văn hoá, giữ gỡn và phỏt huy bản sắc dõn tộc kết hợp với tinh thần
nhõn loại” của Phạm Minh Hạc (Nhà xuất bản Khoa học xó hội, Hà Nội năm 1996) không
chỉ đi sâu phân tích vai trũ của bản sắc dân tộc mà cũn nhấn mạnh đến việc giáo dục truyền
thống dân tộc trong điều kiện hiện nay. Khi đề cập đến vấn đề giáo dục truyền thống, tác giả
đề cao việc truyền thụ các vốn văn hoá dân tộc giữa các thế hệ để có thể bảo tồn, phát huy văn
hoá dân tộc, biến nó thành sức mạnh tinh thần của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Tuy nhiên, tác giả cũng đặt ra vấn đề trong giáo dục truyền thống không phải chỉ chú
ý đến quốc hồn, quốc tuý của dân tộc mà cũn phải chú ý đến tính khoa học, hiện đại và phải
kết hợp được các giá trị văn hoá dân tộc với tinh hoa văn hoá nhân loại.
Mảng nghiên cứu về giá trị, định hướng giá trị trong mối quan hệ với thanh thiếu niên
hiện nay, có thể điểm qua một số nghiên cứu tiêu biểu như: Luận án tiến sĩ của tác giả Đỗ
Ngọc Hà về “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên hiện nay” (2002) và bài viết
cũng của tác giả này về “Một số vấn đề quan điểm tiếp cận phát triển trong nghiên cứu
sự chuyển đổi định hướng giá trị của thanh niên hiện nay” (Thế hệ trẻ Việt Nam –
nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động xó hội, Hà Nội, 2001). Những nghiên cứu
trên cho thấy vai trũ và tỏc động của các giá trị bao gồm cả các giá trị truyền thống và hiện
đại dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Các nghiên
cứu này tập trung làm rừ những mặt chung nhất quy định sự tồn tại của nhân cách và hoạt
động sống của thanh niên. Đặc biệt, tác giả đó đưa ra mô hỡnh lý thuyết nghiờn cứu đặc
trưng định hướng giá trị của thanh niên. Mô hỡnh này khỏ hữu ớch cho cỏc nghiờn cứu về
giỏ trị núi chung và cỏc định hướng giá trị đối với thanh niên nói riêng. Tuy nhiên, cả hai
cụng trỡnh nghiờn cứu trờn chủ yếu quan tõm tới hệ thống giỏ trị đang được hỡnh thành

trong thanh niên chứ chưa quan tâm nhiều đến các tác động và biểu hiện của các giá trị
truyền thống trong thanh niên hiện nay.
Tác giả Đặng Cảnh Khanh với bài viết “Vai trũ của gia đỡnh trong việc giỏo dục
cỏc giỏ trị truyền thống cho thanh thiếu niờn” (đăng trong cuốn Thế hệ trẻ Việt Nam –

nghiờn cứu lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động xó hội, Hà Nội, 2001) cùng với cuốn sách
về “Gia đỡnh, trẻ em và sự kế thừa cỏc giỏ trị truyền thống” (Nhà xuất bản lao động xó
hội, Hà Nội, năm 2003) đó tập trung phân tích các giá trị truyền thống nhưng ở một khía
cạnh khác đó là nhấn mạnh tới vai trũ của gia đỡnh đối với việc giáo dục giá trị truyền
thống. Nghiên cứu này đi sâu nghiên cứu vị trí, vai trũ của gia đỡnh cùng với những mối
quan hệ của nó từ truyền thống tới hiện đại. Qua đó, tác giả làm rừ sự biến đổi của gia
đỡnh và những chuẩn mực của gia đỡnh dưới tác động của sự thay đổi các điều kiện kinh
tế - xó hội. Nghiên cứu không chỉ khẳng định vai trũ to lớn trong việc bảo lưu, giáo dục giá
trị này cho thanh thiếu niên mà cũn đưa ra một số giải pháp tăng cường vai trũ của gia
đỡnh đối với việc giáo dục giá trị truyền thống cho thanh thiếu niên trong điều kiện hiện
nay. Một số vấn đề trong gia đỡnh cựng những giải phỏp giỏo dục mà tỏc giả đề xuất rất
hữu ích cho việc tỡm kiếm cỏc giải phỏp giỏo dục giỏ trị truyền thống trong gia đỡnh và
xó hội. Tuy nhiờn, nghiờn cứu của tỏc giả Đặng Cảnh Khanh cũng chưa quan tâm nhiều
tới thái độ và biểu hiện của nó trong kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống trong thanh
niên hiện nay.
Cũng trong cuốn sách trên và cùng bàn về các giá trị gia đỡnh, tác giả Nguyễn Minh
Tâm với bài viết “Thanh niên Việt Nam với việc giữ gỡn và phỏt huy cỏc giỏ trị gia
đỡnh” đó đi sâu phân tích một số giá trị của gia đỡnh như giá trị đạo đức (tỡnh, hiếu,
nghĩa), giá trị kinh tế (coi giá trị vật chất chỉ là phương tiện đảm bảo cuộc sống gia đỡnh
chứ khụng thể trở thành mục tiêu của gia đỡnh). Cuốn sách này cũng đi sâu tỡm hiểu sự
biến đổi của giá trị đối với thanh niên hiện nay, song chỉ dừng lại ở việc phân tích những
giá trị của gia đỡnh và sự biến đổi của nó trong thanh niên chứ không phân tích thái độ của
thanh niên Việt Nam với các giá trị truyền thống của dân tộc.
Cuốn sách “Tổng quan tỡnh hỡnh thanh niờn, cụng tỏc Đoàn và phong trào
thiếu nhi” của Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với phần viết

“Định hướng giá trị và nhu cầu của thanh niên”. Mặc dù, không quan tâm nhiều
đến các giá trị truyền thống nhưng đó đề cập đến một số giá trị khác của thanh niên
như các giá trị sống, các giá trị đạo đức xó hội, giỏ trị đối với mối quan hệ giữa tập
thể và cá nhân Những nội dung này cho chúng tôi hiểu biết thêm về một số giá trị

đang định hướng hiện nay của thanh niên, từ đó có cơ sở để so sánh, đối chiếu với các
giá trị truyền thống.
Bài viết “Nhận thức của sinh viên sư phạm về các giá trị truyền thống trong học
tập” của tác giả Nguyễn Văn Bắc đăng trên tạp chí Tâm lý học (số 3/2006) cũng đó quan
tõm đến nhận thức của sinh viên hiện nay đối với giá trị truyền thống dân tộc, biểu hiện cụ
thể trong lĩnh vực học tập. Ở đây những giá trị truyền thống được tác giả quan tâm là những
giá trị tiêu biểu trong hệ giá trị truyền thống như lũng thõn ỏi, đoàn kết giúp đỡ nhau trong
học tập. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của tác giả mới chỉ thể hiện ở một đối tượng là sinh viên
ngành sư phạm (Đại học sư phạm Huế).
Ngoài ra cũn một số công trỡnh nghiên cứu khác cũng đề cập đến giá trị, định
hướng giá trị trong mối quan hệ với thanh niên như đề tài cấp Nhà nước KX04 – 09 của
Dương Tự Đam: “Niềm tin lý tưởng và định hướng giá trị của thanh niên hiện nay”;
Hoặc trong cuốn Kỷ yếu Hội thảo khoa học (1999), tác giả Nguyễn Thị Bích Điểm có bài
“Một số vấn đề về định hướng giá trị và lối sống của thanh niên”; Tổng luận cấp Bộ
của tác giả Lê Xuân Hoàn (1995) về “ Lối sống của thanh niên Việt nam trong điều
kiện đổi mới hiện nay”; tác giả Nguyễn Văn Buồm (1998) cũng có bài “Tỡnh hỡnh
thanh niên Việt Nam hiện nay”, đề tài của Viện nghiên cứu Thanh niên; Uỷ ban Quốc
gia về thanh niên Việt Nam (2001), “Tỡnh hỡnh Thanh niờn Việt Nam”; Tác giả Lê
Thi với cuốn “Vai trũ của gia đỡnh trong việc xõy dựng nhõn cỏch con người Việt
Nam”, Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội 1997 Những nghiên cứu này thường tập trung vào
phân tích các giá trị của thanh niên hiện nay dưới tác động của sự biến đổi các điều kiện
kinh tế, xó hội, chứ chưa quan tâm nhiều tới sự biến đổi của các giá trị truyền thống. Do
vậy, nghiên cứu về sự thay đổi trong thái độ và các hỡnh thức biểu hiện của thanh niên
đối với một số giá trị truyền thống hiện nay tuy không phải là vấn đề mới những vẫn cũn
là mảng đề tài cũn nhiều khoảng trống. Vỡ lẽ đó, đề tài nghiên cứu “Thái độ của thanh

niên đô thị hiện nay đối với một số giá trị truyền thống” (qua khảo sát tại thành phố
Ninh Bỡnh) được thực hiện với hy vọng góp thêm một nghiên cứu nữa để làm rừ hơn về
những thay đổi trong giá trị truyền thống của một bộ phận thanh niên ở thành thị dưới tác
động của kinh tế thị trường, mở cửa hiện nay.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rừ thỏi độ của thanh niên đô thị hiện nay đối với một số giá trị truyền thống,
từ đó xác định những nhân tố tác động cũng như giải pháp nhằm định hướng cho thanh
niên trong rèn luyện, học tập và công tác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rừ cơ sở lý luận và những khỏi niệm cơ bản có liên quan đến thái độ của
thanh niên đô thị đối với một số giá trị truyền thống.
- Điều tra và thu thập các thông tin bao gồm cả những thông tin có sẵn để phân
tích và làm rừ thực trạng thái độ của thanh niên hiện nay đối với những giá trị truyền
thống như: chủ nghĩa yêu nước, lũng nhân ái, tỡnh yêu thương con người, truyền thống
đoàn kết, đức tính cần cù lao động, truyền thống hiếu học.
- Phõn tớch và làm rừ cỏc nhõn tố tỏc động đến thái độ của thanh niên đối với học
tập, phát huy những giá trị truyền thống trong giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra những giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao thái độ của thanh niên
trong việc phát huy các giá trị truyền thống.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ của thanh niên đô thị hiện nay đối với một số giá trị truyền thống.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là thanh niên có độ tuổi từ 17 - 30, thuộc 4 nhóm đối
tượng đang sống và hoạt động tại thành phố Ninh Bỡnh gồm:
- Nhóm thanh niên sinh viên (Trường Đại học Hoa Lư, Trường Cao đẳng Y,
Trường Cao đẳng LILAMAI Ninh Bỡnh).

- Nhóm Thanh niên học sinh (Trường THPT Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng -
Thành phố Ninh Bỡnh).
- Nhóm thanh niên công nhân (Cụng ty May xuất khẩu Ninh Bỡnh, Cụng ty Bia
Ninh Bỡnh).
- Nhóm thanh niên viên chức (Cụng an Ninh Bỡnh, Đài truyền hỡnh Ninh Bỡnh, Khối cơ

quan thuộc UBND thành phố Ninh Bỡnh).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thành phố Ninh Bỡnh.
- Về thời gian: nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2009.
- Về nội dung: Đề tài nghiên cứu về thái độ của thanh niên đối với một số giá trị
truyền thống tiêu biểu đó hỡnh thành nờn bản sắc của con người Việt Nam. Những
giá trị truyền thống mà luận văn lựa chọn nghiên cứu đó là:
- Chủ nghĩa yêu nước
- Lũng nhân ái, tỡnh yêu thương con người
- Truyền thống đoàn kết
- Đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm
- Truyền thống hiếu học
5. Giả thuyết nghiờn cứu và khung lý thuyết
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Kinh tế thị trường và toàn cầu hoá đó tỏc động mạnh mẽ tới quan niệm và
cách biểu hiện của thanh niên đô thị đối với một số giá trị truyền thống.
Giả thuyết 2: Thái độ của thanh niên đối với một số giá trị truyền thống phụ thuộc vào
các đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trỡnh độ học vấn, nghề nghiệp, mức sống.
Giả thuyết 3: Một số thanh niên đô thị hiện nay đang có xu hướng chuyển theo những giá
trị hiện đại, ớt chỳ ý đến những giá trị truyền thống.
5.2. Khung lý thuyết



Hệ biến số:
Đề tài đó xỏc định hệ thống các biến số như sau:
* Biến số độc lập:
+ Các đặc điểm cá nhân:
- Giới tính
- Độ tuổi hiện nay

- Trỡnh độ học vấn
- Nghề nghiệp hiện nay
+ Môi trường xó hội hoỏ:
- Gia đỡnh
- Nhà trường
- Xó hội
Đặc điểm cá nhân
- Độ tuổi
- Giới tính
- Trỡnh độ học vấn
- Nghề nghiệp
Thái độ của thanh niên đô thị đối với giá trị truyền thống:

- Chủ nghĩa yêu nước
- Lũng nhân ái, tỡnh yêu thương con người
- Truyền thống đoàn kết
- Đức tính cần cù, chịu khó, tiết kiệm
- Truyền thống hiếu học
Điều kiện kinh tế – xó hội

Môi trường xó hội hoá
- Gia đỡnh
- Nhà trường
- Xó hội



* Biến số phụ thuộc:
- Thái độ của thanh niên đối với chủ nghĩa yêu nước
- Thái độ của thanh niên đối với lũng nhân ái, tỡnh yêu thương con người.

- Thái độ của thanh niên đối với truyền thống đoàn kết.
- Thái độ của thanh niên đối với đức tính cần cù, chịu khó tiết kiệm
- Thái độ của thanh niên đối với truyền thống hiếu học
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận
- Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh và
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về giữ gỡn và phỏt huy những giá trị
truyền thống trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa.
- Dựa vào lý thuyết và tư tưởng của một số nhà xó hội học trong nghiên cứu về giá trị
truyền thống và phát huy những giá trị truyền thống như: lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý
thuyết về biến đổi xó hội.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu định tính:
+ Phương pháp phân tích tài liệu: Thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn gồm: bỏo cỏo,
thống kờ, cụng trỡnh nghiờn cứu đó cú về giỏ trị, giỏ trị truyền thống cú liờn quan đến
thái độ và hành động của thanh niên đô thị trong giai đoạn hiện nay.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: Đề tài thực hiện 12 cuộc phỏng vấn sâu được chia đều
cho 4 nhóm đối tượng thanh niên.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng:
- Đề tài sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng câu hỏi đó dược chuẩn bị
sẵn, tổng số phiếu phát ra là 350 và số phiếu thu về là 332 phiếu.
- Cơ cấu mẫu
+ Cơ cấu mẫu theo giới tính: - Nam (160 = 48,2%).
- Nữ (172 = 31,8%).
+ Cơ cấu mẫu theo nghề nghiệp: - Thanh niên công chức (79 = 23,8%)
- Thanh niên công nhân (89 = 26,8%)

- Thanh niên sinh viên (78 = 23,5%)
- Thanh niên học sinh (86 = 25,9%).
+ Cơ cấu mẫu theo độ tuổi: - Từ 17 – 23 tuổi (159= 47,9%)

- Từ 24 – 30 tuổi (173 = 52,1%)
+ Cơ cấu mẫu theo trỡnh độ học vấn: - THCS, THPT (189= 56,9%)
- Cao đẳng, đại học (143 = 43,1%)
+
Mẫu được chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống có tính tới một số đặc
trưng xó hội khỏc như giới tính, trỡnh độ, nghề nghiệp
7. í nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Bổ sung thêm thông tin hữu ích cho một số khoảng trống trong nghiên cứu về
thanh niên đô thị với giá trị truyền thống, đặc biệt về thái độ của thanh niên với các giá trị
truyền thống.
- Góp phần cung cấp những thông tin chính xác, đặt cơ sở khoa học cho việc
hoạch định chính sách liên quan đến giáo dục truyền thống cho thanh niên, nhất là thanh
niên đô thị hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia
thành 3 chương, 9 tiết.

Chương 1
CƠ Sở Lý LUậN CủA VấN Đề NGHIÊN CứU


1.1. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM - SỰ HèNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN
1.1.1. Khái quát về một số giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam
Những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, kết tinh và phát triển
qua hàng nghìn năm lao động sáng tạo, chiến đấu kiên cường của cả dân tộc; là kết quả
của sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố chủ quan và yếu tố khách quan.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam á, có bờ biển dài, địa hỡnh
phức tạp gồm cả miền núi, đồng bằng và ven biển. Khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm,
giàu tài nguyên thiên nhiên. Đây là những yếu tố vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển song cũng gây ra không ít khó khăn cho nghề trồng lúa nước và phỏt triển kinh tế
xó hội.
Về mặt lịch sử, Việt Nam là một quốc gia không lớn song đó trải qua rất nhiều cuộc
chiến tranh chống nhiều kẻ thù xâm lược hùng mạnh. Vì lẽ đó, dân tộc Việt Nam luôn tập
hợp lại thành một khối đại đoàn kết rộng lớn để đấu tranh chống giặc ngoại xâm và mở
mang bờ cõi. Đoàn kết trở thành truyền thống quý bỏu của dõn tộc Việt nam.
Cũng trải qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đó cú quan hệ kinh tế và giao lưu
văn hóa với nhiều quốc gia trong khu vực và thế giới. Vỡ vậy, văn hóa Việt nam đó cú
điều kiện hũa nhập giao lưu với văn hóa bên ngoài. Trong đó, văn hóa phương Đông đã
ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa và cả tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt các tư tưởng Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam và từng
bước hũa đồng vào đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam.
Phật giáo truyền bá tư tưởng từ bi hỷ xả, cứu khổ cứu nạn, yêu thương chúng sinh. Phật
giáo cho rằng, có một thế giới vĩnh hằng, tồn tại tích cực siêu việt, đó là cõi "niết bàn".
Nhưng muốn đến được nơi cực lạc đó thì con người phải sống từ bi, ăn hiền, ở lành, xa
lánh mọi ham muốn vật chất, mọi thú vui hưởng lạc, sống không tranh giành và yêu

thương nhau. Đương nhiên, tư tưởng này vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, nó ít
nhiều đó ảnh hưởng đến những truyền thống vốn có của con người Việt, làm sâu đậm
thêm truyền thống nhân ái yêu thương con người của dân tộc Việt Nam.
Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con người, là một học
thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người khởi xướng). Đạo Nho đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam. Những nội dung tư tưởng của
Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam cương; ngũ thường cũng dần thấm sâu vào
đời sống, trở thành một bộ phận của lối sống, cách ứng xử của người Việt Nam và được
Việt hóa.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà còn có sự giao lưu
với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào lưu văn hóa,
tôn giáo ngoại lai du nhập vào Việt Nam, chúng đã được nhân dân Việt Nam tiếp thu có
chọn lọc để hình thành nên những nét riêng đặc biệt cho mỡnh. Vấn đề là: Những giá trị

truyền thống của người Việt Nam là gỡ? Biểu hiện của chỳng ra sao? Đây là tất cả những
điều cần phải làm rừ.
Cho đến nay, ai nghiên cứu về văn hóa Việt Nam cũng phải thừa nhận rằng tuy có những
thay đổi trên nhiều phương diện, nhưng dân tộc Việt đó giữ được bản sắc văn hóa của
mình. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
"Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc", đã
khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự cường dân tộc; tinh
thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo trong lao động;
là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân;
là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [14, tr.10-11].
Xung quanh việc xác định các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, đã có rất nhiều
quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này.

Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam
bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; trong đó
yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [34, tr.74-86].
Giáo sư Trần Văn Giàu nói về giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với bảy nội dung như
sau: "Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa" [27,
tr.108].
Nghị quyết 09-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn trong công tác tư
tưởng hiện nay chỉ rõ: "Những giá trị văn hóa truyền thống vững bền của dân tộc Việt
Nam là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý "thương người như thể
thương thân", đức tính cần cù, vượt khó sáng tạo trong lao động " [19, tr.19].
Trong chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX - 07) đã khẳng định: Cốt lõi của các giá
trị truyền thống là đạo đức, phẩm chất nhân cách con người Việt Nam bao gồm: tinh thần

yêu nước, vì nghĩa, lòng thương người
Tuy còn có sự khác biệt nào đó trong việc sắp xếp hệ thống các giá trị truyền thống Việt
Nam, song nhìn chung, các quan điểm, các ý kiến đều thống nhất cao độ ở một điểm coi
chủ nghĩa yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị truyền thống của dân tộc
Việt Nam. Nó là "sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại"
[25, tr.100], là "tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị" [27, tr.94], là "động
lực tình cảm lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ
thống giá trị đạo đức của dân tộc ta" [58, tr.74].
1.1.2. Chủ nghĩa yêu nước - giá trị truyền thống quan trọng hàng đầu của dân tộc
Việt Nam
Như mọi người đều biết, mọi dân tộc trên thế giới đều có tình yêu quê hương đất nước
mình. Nhưng đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình cảm
hết sức thiêng liêng. Tỡnh cảm này được nảy sinh, phát triển qua hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Cộng đồng dân tộc Việt Nam đó vượt qua bao thử thách
khó khăn trước những tai họa thiên nhiên để tồn tại và phát triển. Dân tộc Việt cũng lại
trải qua cả một quá khứ đầy thử thách, khó khăn, đầy hy sinh, mất mát để giữ gỡn non

sụng, đất nước mỡnh. Cú thể núi, mỗi người Việt Nam đều sẵn sàng xả thân cho độc lập,
tự do của Tổ quốc. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam đã trở thành triết lý sống, triết
lý nhân sinh của mỗi con người và của cả cộng đồng. GS. Trần Văn Giàu khái quát:
Chủ nghĩa yêu nước là sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu
từ tình cảm tự nhiên của mỗi người đối với quê hương mình tiến lên thành lý
tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng
và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây dựng và bảo vệ nước nhà [26, tr.7].
Đánh giá về chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đó khẳng
định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành
một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành, được thử thách và được

khẳng định qua bao thăng trầm của lịch sử, nó đã được bổ sung và phát triển qua từng
thời kỳ, nó là một trong những giá trị truyền thống cao quý và bền vững nhất của dân tộc
ta. Ngày nay, truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam thể hiện trong xây dựng đất
nước, trước hết là chăm lo xây dựng đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa
Thể hiện ở sự nhất trí, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, vào khả năng vào sức
mạnh tự lực tự cường của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Có thể nói rằng, dưới thời đại Hồ Chí Minh, truyền
thống yêu nước được phát triển lên tầm cao mới, thành lý tưởng: sống, chiến đấu, lao
động, học tập vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân
1.1.3. Lũng nhõn ỏi, tỡnh yờu thương con người - đặc trưng truyền thống của
cộng đồng dân tộc Việt Nam
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Nhân ái - yêu thương con người là một trong những giá trị
truyền thống của dân tộc Việt Nam, truyền thống ấy có nguồn gốc sâu xa từ trong sinh
hoạt cộng đồng làng, xó ở nông thôn. Nó được củng cố và phát triển qua quá trình khai
hoang, mở đất, xây dựng quê hương đất nước. Lũng nhân ái, tỡnh yờu thương đó chính là
cội nguồn của cách xử thế của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam.

Hết lòng vì nghĩa, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn, không tính toán thiệt hơn là
đức tính của người dân đất Việt được hun đúc từ quá trỡnh dựng nước và giữ nước đầy
khó khăn, gian khổ.
Lòng nhân ái của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao thượng, không cố chấp
đối với những người lầm đường lạc lối. Phong cách ứng xử này được khái quát thành tư
tưởng, thành phương châm hành động của các nhà lónh đạo và của cả cộng đồng mà
trong Cáo Bỡnh Ngụ, Nguyễn Trói đó tổng kết "lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy
chí nhân để thay cường bạo". Người Việt Nam lấy tình yêu thương làm cách ứng xử
trong không ít trường hợp, ngay cả đối với kẻ thù khi thua trận, thậm chí còn mở đường
hiếu sinh. Vua Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh đó cấp lương thảo và phương
tiện cho đám tàn quân về nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của lòng nhân ái, của chủ nghĩa nhân đạo. Xuất phát
từ lòng thương yêu con người, yêu quê hương đất nước, Bác đó hy sinh phấn đấu suốt

đời cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Lòng nhân ái của Người đã trở thành
sức mạnh, nó đã được cụ thể hóa trong các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và hệ thống luật pháp của Nhà nước. Nó đó tập hợp hàng chục triệu người phấn đấu vỡ
sự nghiệp chung, đồng thời nó cũng có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường
lạc lối. Bác xem những người lầm lạc như những đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang.
Bác nói: Giống như bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi
bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều
là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng
năm, Đảng và Nhà nước thường có những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt,
điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước ta.
Lòng nhân ái của người Việt Nam cũn là tinh trần trọng nghĩa, trọng tỡnh với cỏc dõn
tộc, quốc gia khỏc trờn thế giới. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân dân ta bao
giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng cao nhất để tránh xảy ra xung đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống nước nhớ nguồn",
"đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, quan tâm đến các gia đình
thương binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa. Phát động

phong trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng
cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược Tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ V, Đảng ta đã khẳng định: "Thương nước - thương nhà, thương người -
thương mình" là truyền thống quý bỏu của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước và
chủ nghĩa nhân đạo cao cả mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã
trường tồn và phát triển.
Nhân ái, yêu thương con người là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Nó là cội nguồn của đạo đức dân tộc, truyền thống này chính là nguồn gốc sâu xa của sự
gắn kết cộng đồng bền chặt từ xưa đến nay và cũng là nền tảng để phát triển chủ nghĩa
nhân đạo cộng sản mà chủ trương, định hướng xây dựng CNXH của Đảng ta đang hướng
tới.
1.1.4. Cần cù, chịu khó và tiết kiệm - một đức tính quý báu của con người
Việt Nam

Cần cù, chịu khó và tiết kiệm là một giá trị truyền thống có từ bao đời của dân tộc Việt
Nam. Đây là truyền thống được hình thành và phát triển trong điều kiện, hoàn cảnh tự
nhiên xã hội không ít những khó khăn, khắc nghiệt ngay từ những buổi đầu dựng nước và
giữ nước.
Về tự nhiên, Việt Nam là nơi thường xuyên xảy ra bão lụt hạn hán; Về xã hội, dân tộc
Việt Nam liên tục phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm. Trong
suốt tiến trình lịch sử của dân tộc, nhân dân Việt Nam phải kiên trì bám ruộng, bám làng,
bám đất vừa sản xuất vừa đánh giặc để tồn tại và phát triển. Sống trong những hoàn cảnh
khó khăn gian khổ như vậy, chỉ có cần cù, chịu khó, tiết kiệm, người dân Việt mới có thể
vượt qua mọi khó khăn thử thách khắc nghiệt để từng bước tự khẳng định mình và phát
triển.
Cần cù luôn phải gắn liền với tiết kiệm, cần mà không kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà
khó như gió vào nhà trống". Ông cha ta đó thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa
chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con người
phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính, so sánh với bốn mùa của trời, bốn phương
của đất, nếu thiếu một đức thì không thành người:

Trời có bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc;
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất;
Thiếu một đức thì không thành người [57, tr.631].
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc giàu về vật
chất, mạnh về tinh thần. Một dân tộc văn minh tiến bộ, cần, kiệm, liêm, chính là nền
tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
1.1.5. Truyền thống đoàn kết, ý thức cộng đồng
Đoàn kết cũng là một truyền thống quý bỏu của dân tộc Việt Nam. Nhờ có đoàn kết mà
Việt Nam đó huy động được sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng trong xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có giặc

ngoại xâm. Nhờ có đoàn kết mà dân tộc Việt Nam đó đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược
lớn mạnh hơn mỡnh gấp nhiều lần. Đoàn kết, vỡ vậy trở thành lẽ sống, điều kiện tiên
quyết cho sự tồn vong của dân tộc. Ở Việt Nam, đoàn kết yếu tố xuất phát từ cội nguồn
anh, em miền núi, miền biển; đoàn kết tất cả các dân tộc, các tôn giáo, không phân biệt
già, trẻ, gái, trai; không phân biệt giàu, nghèo, nghề nghiệp, vùng miền đang sinh sống.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đó khỏi quỏt: “Đoàn kết là một truyền thống quý bỏu của dõn tộc
Việt Nam…”. Người khẳng định “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành
công, đại thành công”.
ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã trở thành điểm tựa tinh thần vững chắc, một
động lực mạnh mẽ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.1.6. Truyền thống hiếu học - tính đặc thù trong truyền thống của dân tộc
Việt
Hiếu học, ham học, ham hiểu biết và kớnh trọng thầy là một truyền thống quý bỏu của
dõn tộc Việt Nam. Có thể khẳng định, ngay từ xa xưa con người đã sớm nhận thức được
học hành không chỉ là quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Chính vì vậy,

người xưa thường nói: "Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo" (Viên ngọc
không mài dũa thì không thành đồ dùng được, con người không học thì không biết đạo)
và: "Hiếu nhân, bất hiếu học kỳ tế dã ngu" (Kể cả những người mong muốn làm điều
nhân đức chí thiện nhưng không học thì cũng bị sự ngu dốt che lấp đi).
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục, với truyền thống hiếu học, tôn trọng
hiền tài, nên ngay từ xưa, ông cha ta đã biết chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở Việt Nam
được thành lập, để đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu Đại Bảo thứ
ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà Nội) còn ghi: Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước,
nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy,
cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài,
bồi đắp nguyên khí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới - luôn

luôn quan tâm và coi trọng giáo dục. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người cũng chỉ phấn
đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành". Bác đã đặt hy vọng vào lớp trẻ mai sau, Bác nói: "Non sông ta có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm
châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em" (Thư gửi
học sinh cả nước, tháng 9/1945).
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên
độc lập tự do. Mọi công dân đều có điều kiện bình đẳng để thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ học tập. Mọi tầng lớp người Việt Nam đã hăng hái tham gia chiến đấu và
học tập theo lời kêu gọi của Đảng của Bác Hồ. Tháng 10-1945, Chính phủ thành lập
"Hội đồng cố vấn học chính" để nghiên cứu chương trình cải cách giáo dục. Từ đó,
ngành giáo dục nói chung, giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng nói riêng, của đất nước
ta ngày càng phát triển.
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII đã nhấn
mạnh:

Khâu then chốt để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cũng như cán
bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ. Ưu tiên xây dựng các trường sư phạm. Phát huy truyền thống "Tôn
sư trọng đạo", sử dụng giáo viên đúng năng lực, đãi ngộ theo tài năng và cống
hiến với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học [12, tr.13].
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách đầy đủ chủ trương "giáo dục
là quốc sách hàng đầu", là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Việc
phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa, tôn
trọng trí thức, tôn trọng nhân tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức trong
sáng.
Tuy các yếu tố như điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử đó khiến cho người Việt
Nam gặp không ít khó khăn trong cuộc sống và phải trải qua bao biến cố, thăng trầm của

lịch sử, nhưng chính những yếu tố đó đó hỡnh thành nờn những giỏ trị cao đẹp trong
truyền thống dân tộc. Việc giữ gỡn và bảo lưu những giá trị đó có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với sự phát triển hiện nay của dân tộc Việt Nam. Người ta không thể xây dựng
nên những tũa thành mà khụng dựa trên những nền móng vững chắc. Sự phát triển dân
tộc và văn hóa dân tộc cũng vậy. Để không ngừng phát triển, con người chẳng những cần
hướng về phía trước mà cũn phải dựa chắc vào cả những gỡ là nền tảng của quá khứ. Trước
bối cảnh văn hóa ngày càng có vai trũ to lớn đối với sự phát triển, trở thành động lực và mục
tiêu của sự phát triển thỡ việc khai thỏc và phỏt huy những giỏ trị văn hóa tốt đẹp từ trong
truyền thống sẽ có ý nghĩa to lớn.
1.2. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM TRƯỚC XU THẾ TOÀN CẦU
HÓA
Toàn cầu hoá là cơ hội lớn để văn hoỏ Việt Nam học hỏi và phỏt huy cỏc giỏ trị
của mỡnh. Song người Việt Nam cũng lo toan khôn xiết trước những thách thức to lớn
của toàn cầu hoá đối với các giá trị truyền thống Việt Nam. Việt Nam nhất thiết phải mở
cửa, phải hội nhập để đón nhận những giá trị mới của nhân loại, đó là lẽ sống cũn của

dõn tộc. Nhưng mở cửa là để hội nhập, để phát triển chứ không phải trở thành cái bóng
mờ của nền văn hoá khác. Cho nên vấn đề đặt ra cho nước ta trong xu thế toàn cấu hoá là
phải giữ được độc lập dân tộc, giữ được cơ cấu sinh thành nội tại của các giá trị truyền
thống mà ta đó cú.
Hiện nay, quỏ trỡnh hội nhập kinh tế thế giới thụng qua làn súng xuất khẩu cú khả
năng làm năng động hoá các giá trị Việt Nam xưa nay vẫn xem nặng về nghĩa, nhẹ về lợi,
tạo nên sự cạnh tranh mới trong hệ thống giá trị dĩ hoà vi quý. Nền văn hoá của người
Việt không trọng thị sự buôn bán, cho nên chưa xác lập được các tri thức về thị trường
hiện đại. Vỡ thế, khi tham gia hội nhập trong nền kinh tế toàn cầu nó có thể được các
quyền lực toàn cầu dạy cho các bài học mới và cũng có thể bị các quyền lực thị trường ấy
lấn lướt các giá trị mà cả ngàn năm nhân dân ta mới tạo dựng được.
Toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế sẽ mang lại sự hưởng thụ các sản phẩm vật chất
và tinh thần của nhân loại với một giá rẻ hơn, một tiện nghi phong phú hơn. Song sự tràn
ngập của hàng hoá rất có khả năng làm tha hoá nhân cách, làm phá sản các quan hệ lao

động, làm rối loạn nhiều giá trị xó hội. Trờn thực tế, làn sóng xuất khẩu dồn dập đó tạo ra
cỏc tệ nạn làm hàng giả, làm rối, làm ẩu mà hệ thống giá trị truyền thống nghiêm cấm.
Có thể nói rằng trước làn sóng xuất khẩu dồn dập, hệ thống giá trị của nền văn hoá truyền
thống chưa chuẩn bị kịp cho những thay đổi quá nhanh, quá xa lạ sẽ xảy ra tỡnh trạng gia
tăng giá trị thỡ ớt, cỏc giá trị truyền thống bị phá vỡ, bị vượt bỏ thỡ nhiều, nguy cơ cổ vật
bị đánh cắp, nhân phẩm bị tha hoá, các phản giá trị gia tăng là không thể tránh khỏi.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gỡn, phỏt huy và giỏo dục các giá trị
truyền thống dân tộc:
Sự phát triển chung của dân tộc và thời đại luôn phải gắn liền với phát triển văn
hóa bởi lẽ văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển. Do giá trị truyền
thống chính là một hợp phần quan trọng của văn hóa dân tộc nên việc coi trọng và phát
triển giá trị truyền thống dân tộc là lẽ đương nhiên trong quá trỡnh phỏt triển chung của
đất nước. Chính vỡ thế, giữ gỡn và phỏt huy cỏc giỏ trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc
đó và đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới toàn
diện đất nước. Trước những biến đổi và thách thức của giá trị truyền thống trong điều

kiện kinh tế thị trường và quá trỡnh toàn cầu húa, Đảng và Nhà nước đó ban hành nhiều
chủ trương, chính sách nhằm giữ gỡn, phỏt huy những giỏ trị văn hóa của dân tộc (bao
gồm giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể). Trong quá trỡnh xõy dựng, phỏt triển nền văn
hóa nói chung, việc giữ gỡn, phỏt huy giỏ trị truyền thống được coi trọng đáng kể. Nghị
quyết IX của Bộ Chính trị (18/02/1995) đó khẳng định vai trũ của giá trị văn hóa dân tộc
là “nền tảng và sức mạnh tinh thần to lớn để nhân dân ta xây dựng một xó hội phỏt triển,
tiến bộ, cụng bằng, nhõn ỏi…”. Do vậy, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc đang là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc đổi mới
đất nước. Nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở đây là nền văn hóa “gắn lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xó hội theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”, đồng thời phải chứa đựng những “giá trị bền vững, những tinh hoa
của cộng đồng các dân tộc Việt nam được vun đắp lên qua lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước. Đó là lũng yờu nước nồng nàn, ý chớ tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng, lũng nhõn ỏi yờu thương con người, đức tính cần cù sáng tạo

trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống” - đó chính là nội dung
xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thể hiện trong tinh thần của Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII của Đảng. Để xây
dựng được nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đó, báo cáo chính trị của Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội Đảng lần thứ VIII khẳng định rừ trong
quỏ trỡnh đất nước bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế,
công gnhiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần phải “tiếp thu những tinh hoa của nhân loại,
song phải luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, quyết không được tự
đánh mất mỡnh, trở thành búng mờ hoặc bản sao chép của người khác” [11, tr.109). Cũng
trong Văn kiện này, tại phần Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắn dân tộc, một
lần nữa Đảng ta chỉ rừ:
Trong nền kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc biệt quan
tâm giữ gỡn và nõng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lũng tự hào dõn tộc. Tiếp thu tinh hoa của
cỏc dõn tộc trờn thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hóa Việt Nam; đấu tranh

chống sự xâm nhập của các văn hóa độc hại, những khuynh hướng sùng ngoại,
lai căng, mất gốc. Khắc phục tâm lý sựng bỏi đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi
thường các giá trị nhân văn [11, tr.123].
Cùng với những chủ trương, quan điểm trong các kỳ Đại hội Đảng, sự quan tâm, chú
trọng tới giá trị truyền thống văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước cũn thể hiện qua việc
phỏt động các phong trào, cuộc thi tỡm hiểu về truyền thống dõn tộc, lịch sử đất nước nhằm
khơi dậy, phát huy những truyền thống tốt đẹp đó. Điều này thể hiện rất rừ sự coi trọng vai
trũ của cỏc giá trị truyền thống của Đảng và Nhà nước trong quá trỡnh quản lý, xõy dựng đất
nước hiện nay.
1.3. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
1.3.1. Khái niệm giá trị
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Ngay từ đầu, Triết học
đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trước thế kỷ XIX, những kiến thức về giá
trị học đã gắn liền với những tri thức triết học. Sau này, khi khoa học có sự phân ngành, thì

giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được dùng để chỉ một
khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử dụng trong các lĩnh
vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học Trong lĩnh vực kinh
tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật khác khi trao đổi với nhau, để
bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống con người và đáp
ứng được nhu cầu của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị là yếu tố hàng đầu.
C.Mác viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động được
nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị cao hơn so
với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [50, tr.104-105].
Giá trị trở thành khái niệm của khoa học xó hội học từ lâu. Những năm đầu thế kỷ XX,
khi hai nhà xó hội học F. W. Znaniecky (1882 - 1958) và W.I.Thomas (1863 – 1947)
dựng để phân tích về những nhân tố tích cực đóng vai trũ quyết định hành vi của chủ thể
trong tác phẩm nổi tiếng “Những người nông dân Ba Lan ở Châu Âu và Mỹ ” (1918).
Phạm trù “Giá trị” được làm rừ thờm theo quan điểm của các nhà xó hội học, giỏ trị là

một khỏi niệm tương đối rộng, được quy chiếu từ những mối quan tâm, sự thích thú,
những sở thích, bổn phận và trách nhiệm, những mong muốn, đũi hỏi, những mối thiện
cảm và ỏc cảm và nhiều hỡnh thỏi khỏc nữa của định hướng lựa chọn hành vi của con
người (ngoại trừ những hành vi có tính phản xạ).
Cỏc nhà tõm lý và xó hội học Nga trước đây khi nghiên cứu về giá trị đó cho rằng: Hệ
thống giá trị vừa phản ánh những nhu cầu cần thiết của con người trong cuộc sống hàng
ngày lại vừa phản ánh hệ tư tưởng, văn hóa của xó hội, cơ sở bên trong của những quan
hệ của con người đối với những giá trị khác nhau có tính chất vật chất, chính trị, tinh thần
và đạo đức.
Nhà nghiên cứu V.P.Tugarinov định nghĩa về giá trị như sau: “là những khách thể, hiện
tượng, thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người (lợi ích, hứng thú…)
của một xó hội hay một giai cấp nào đó, cũng như một cá nhân riêng lẻ, với tư cách là
phương tiện thỏa món những nhu cầu và những lợi ớch của họ, đồng thời cũng là những
tư tưởng và những ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng [43, tr.15].

J.H.Fichter, một nhà xó hội học hiện đại Mỹ có một định nghĩa đơn giản song khá lý thỳ về
giỏ trị là: “Tất cả cỏi gỡ cú ớch lợi, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với các cá
nhân hoặc xó hội đều có một giá trị” [43, tr.16].
Cũn với một nhà xó hội học khỏc, J.Macionis khi bàn giỏ trị trong cuốn sỏch giỏo khoa
của ụng về xó hội học, ụng viết: “Giỏ trị là những quy chuẩn mà qua đó một thành viên
của một nền văn hóa xác định điều gỡ là đáng mong muốn, điều gỡ là khụng đáng mong
muốn, điều gỡ là tốt hay dở, điều gỡ là đẹp hay xấu” [43, tr.16]. Có thể thấy định nghĩa
của Macoinis là khá đơn giản nhưng cũng khá bao quát và đầy đủ khi thừa nhận giá trị
gắn liền với những điều mong muốn của mỗi cá nhân, nhóm và cộng đồng hướng tới các
hành vi mà họ lựa chọn, nhưng quan trọng hơn sự đa dạng về giá trị của con người vẫn
dựa trên tiêu chí chung dưới những tác động chi phối trực tiếp của nền văn hóa xó hội.
Ở Việt Nam, Giáo sư Đặng Cảnh Khanh khi đề cập đến khái niệm giá trị ông đó cú
những phõn tớch thỳ vị, vừa mang tớnh ẩn dụ, vừa mang tớnh khoa học và hợp lý, đặc
biệt khi mô tả mối quan hệ giữa ý nghĩa của giá trị đối với các cá nhân, ông viết:

×