Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Làng - đô thị hiện nay và một số đặc điểm về lối sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.76 KB, 13 trang )

LÀNG - ĐÔ THỊ HIỆN NAY
VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ LỐI SỐNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM(*)

TÓM TẮT
Trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng hiện nay, rất nhiều v ng vốn là ven đô, là
làng trước kia đã bị nuốt vào đô thị, hoặc cận kề đô thị hình thành nên một dạng thức
làng - đô thị. Những cư dân ở các làng như vậy phần nhiều không c n là nông dân nữa
nhưng họ c ng chưa thể là thị dân và có nhiều sự thay đổi trong lối sống của họ. Từ thực
tế nghiên cứu ở một số làng cụ thể như Đồng Kỵ, Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), Xuân
Đỉnh (Từ Liêm, Hà Nội), Định Công ( uận Hoàng ai, Hà Nội), Nhân Chính ( uận
Thanh Xuân, Hà Nội),… bài viết đã khái quát một số đặc điểm trong lối sống ở các làng
này hiện nay như: lối sống pha trộn nông dân - thị dân, lối sống đề cao sự kết nối cộng
đồng , lối sống thu hẹp phạm vi giao tiếp cộng đồng, lối sống cạnh tranh mang tính chất
thể diện, lối sống công nghiệp dịch vụ,… và bàn luận về sự thay đổi lối sống đó đã mang
đến những vấn đề gì cho các làng quê này.
Từ khoá: làng – đô thị, đặc điểm lối sống, nông dân – thị dân, kết nối cộng đồng,
công nghiệp dịch vụ.
ABSTRACT
In the process of rapid urbanization nowadays, many parts which used to be suburbs and
villages have been " transformed " into the urban or surrounding urban areas to form a kind of
urban-villages. Most of residents in such residence are no longer farmers, but they have not
completely become the city-dwellers and there have been many changes in their lifestyles. From
the practical research in some particular villages such as Dong Ky, Dinh Bang (Tu Son, Bac
Ninh), Xuan Dinh (Tu Liem, Hanoi), Dinh Cong (Hoang Mai District, Hanoi), Nhan Chinh
(Thanh Xuan District, Hanoi)…etc the article outlines some of the characteristics of the lifestyles
in such villages nowadays- a mixture of the lifestyle of the farmers and that of the city-dwellers;
the lifestyle which promotes the community connection; the lifestyle which narrows the scope of
public communication; the competitive lifestyle of honoring faces; the lifestyle of service
industry, ... and discusses what problems these lifestyle changes have brought to these villages.
Keywords: urban- village, lifestyle characteristics, farmers – city-dwellers, community


connection, the service industry.
Nhìn lại chặng đường phát triển của
đô thị Việt Nam hơn hai chục năm qua,
chúng ta sẽ nhận thấy rõ tốc độ phát triển
nhanh chóng và có thể nói là rất "nóng"
của đô thị Việt Nam, nhất là ở các đô thị
lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng,... Từ năm 1990, các đô thị Việt
Nam bắt đầu phát triển, lúc đó, cả nước
(*)

mới có khoảng 500 đô thị. Đến năm 2000,
con số này lên 649 và năm 2003 là 656, năm
2007 là 700, đô thị và đến nay tăng lên là
754 đô thị. Về dân cư đô thị, tỉ lệ dân số đô
thị ở nước ta dưới 40%. Theo quy hoạch
phát triển đến năm 2010 con số này sẽ là 5660%, đến năm 2020 là 80% [1]. Xét về tốc
độ phát triển và mở rộng đô thị Việt Nam

PGS.TS, Viện Nghiên cứu văn hoá, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

20


sau 10 năm thì mỗi tháng tăng trung bình
một đô thị[2]. Với mức độ mở rộng nhanh
chóng như vậy, rất nhiều vùng vốn là ven
đô, là làng trước kia đã bị “nuốt vào” đô
thị. Có làng bỗng chốc trở thành phố, thành
phường (dù trong tâm thức và tên gọi của

người dân thì đó vẫn là làng), có làng chưa
thành phường, phố trên danh nghĩa hành
chính nhưng cũng đã thực sự nằm trong
hoặc cận kề đô thị. Những làng quê đang ở
các khu vực giáp ranh, trung chuyển, giao
thời giữa làng và phố như vậy được chúng
tôi gọi là làng - đô thị với sự nhấn mạnh
đến tính giao thoa giữa làng và đô thị ở các
khu vực này. Những cư dân ở các làng như
vậy phần nhiều không còn là nông dân nữa
nhưng họ cũng chưa thể là thị dân và vì
vậy trong lối sống, một mặt vẫn mang đậm
lối sống nông dân nhưng mặt khác lối sống
đô thị kiểu “hàng phố” cũng đã dần phổ
biến và làm biến đổi không ít cuộc sống
của họ.
Lối sống là khái niệm rất rộng với
những sắc thái biểu hiện khác nhau nhưng
nhìn chung có thể xem lối sống là “tổng thể
những hình thái hoạt động của con người,
phản ánh các đặc điểm sinh hoạt vật chất,
tinh thần của cộng đồng người đã tạo ra lối
sống đó”[3, tr.46], hay chính là “những
cách suy nghĩ, kĩ năng ứng xử (cách nghĩ,
nếp sinh hoạt, thói quen, phong cách học
tập, làm việc, giao tiếp, xử sự…) tạo nên
cái riêng của mỗi cá nhân hay một nhóm
người nào đó”[4, tr.10]. Chúng tôi hiểu
rằng không có định nghĩa nào có thể bao
quát được hết những biểu hiện vốn phức

tạp và đa chiều của khái niệm lối sống song
trong bài viết này, chúng tôi đồng tình với
việc xác định nội hàm khái niệm như vậy
và sẽ cố gắng làm rõ chúng hơn bằng
những biểu hiện của lối sống ở một số làng
mà chúng tôi đã có dịp nghiên cứu.
Không tham vọng chỉ ra được hết
những đặc điểm của lối sống ở các làng đô thị mà chỉ từ thực tế nghiên cứu ở một
số làng cụ thể như Đồng Kị, Đình Bảng

(Từ Sơn, Bắc Ninh), Xuân Đỉnh (Từ Liêm,
Hà Nội), Định Công (Quận Hoàng Mai, Hà
Nội), Nhân Chính (Quận Thanh Xuân, Hà
Nội),… chúng tôi khái quát một số đặc
điểm trong lối sống ở các làng này hiện
nay.
1. L I S NG PHA TR N N NG DÂN TH DÂN
Những làng quê mà chúng tôi kể đến ở
trên chỉ trong khoảng 15 năm trở về trước
vẫn còn là những làng quê khá yên bình,
nơi mà những người dân cư trú theo kiểu
“trong họ ngoài làng”, “hàng xóm tắt lửa
tối đèn có nhau”,… nhưng hiện nay, các
làng này đều đã trở thành đô thị hoặc cận
kề đô thị, người dân làng bỗng chốc bị
“đẩy” ra phố, nhịp điệu mùa trong lối sống
nông nghiệp quen thuộc của họ được thay
thế bằng nhịp điệu công nghiệp của lối
sống đô thị. Họ buộc phải thích nghi với
nhịp sống mới, lối sống mới trong khi chưa

thể bỏ được nhịp sống cũ, lối sống cũ vốn
ăn sâu vào đời sống và tâm thức của họ từ
lâu. Chính vì vậy, lối sống pha trộn nông
dân - thị dân nổi bật ở những khu vực làng
- đô thị này.
Chúng tôi đã có đợt khảo sát ở phường
Đồng K (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) một kiểu làng - đô thị khá đặc trưng để tìm
hiểu rõ hơn về sự pha trộn lối sống nông
dân - thị dân ở đây. Đồng K vốn là một
làng quê cổ của xứ Bắc, là làng quê nông
nghiệp nhưng rất năng động với nhiều nghề
phụ như buôn trâu, dệt lụa, đánh cá, làm
mộc. Từ những năm 90 của thế kỉ XX,
Đồng K chuyển hẳn sang làm nghề đồ gỗ
mĩ nghệ, năm 2008 trở thành phường của
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù mới
trở thành đô thị cách đây chưa lâu nhưng vì
là làng nghề nên nhịp sống công nghiệp đã
trở nên quen thuộc với dân làng. Từ cuối
những năm 90 đã có 96% các hộ trong làng
có tham gia sản xuất và buôn bán đồ gỗ mĩ
nghệ, năm 2003 đã hình thành khu công
nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh đồ
gỗ mĩ nghệ ngay trong làng. Vì đã gần như
21


thoát li hoàn toàn sản xuất nông nghiệp nên
nhịp sống hiện nay ở Đồng K đã rất khác
với nhịp sống nông nghiệp theo mùa vụ

trước kia nhưng toàn bộ các tiết lệ trong
năm thì hầu như vẫn giữ nguyên theo nhịp
điệu của đời sống nông nghiệp. Dân cư ở
đây có sự thong dong hơn trong việc hưởng
thụ cuộc sống. Họ biết cách phân bổ thời
gian hợp lí cho công việc và các hoạt động
vui chơi, giải trí, hưởng thụ cuộc sống. Và
chính điều này đã và đang hình thành nên
một lối sống, lối sinh hoạt mới ở làng quê
này. Lối sống nghĩa tình đậm chất làng
quê, lối sống đô thị theo kiểu hàng phố độc
lập, lối sống công nghiệp coi trọng tốc độ
và hiệu quả, lối sống thị trường coi trọng
sự hưởng thụ và sòng phẳng,… tất cả đều
đang hiện hữu và trở thành những mảng
màu trong bức tranh làng - đô thị thời hiện
đại ở Đồng K . Các nhà ở đây hiện nay
đều là nhà sát nhà, tường sát tường, hầu
như ít có nhà nào còn kiểu bờ rào, bờ dậu,
mà là vườn nhà này nối vườn nhà kia; nhà
nào cũng kín cổng cao tường, cửa đóng
then cài riêng tư và độc lập, nhất là ở
những dãy phố làng mới được qui hoạch,
diện tích như nhau, cửa các nhà nhìn về
một hướng như nhau, nói vui như một vài
người dân làng Đồng Kị là “độc lập từ đất
lên đến trời” (ý nói là đất riêng, xây nhà
lên đến không gian trên gác cũng phải ngăn
cách rõ ràng dù là nhà sát tường nhau).
Điều này chi phối và phần nào thể hiện lối

sống đô thị độc lập, đề cao sự sở hữu cá
nhân và sự riêng tư của không gian sinh
sống ở mỗi gia đình. Người dân Đồng Kị.
Từ lâu đã có lối sống kiểu đô thị do họ sớm
tiếp xúc với đô thị thông qua việc buôn bán
ngay tại làng và nhiều người dân trong làng
hiện đang sống và buôn bán ở nơi đô thị cả
trong nước và nước ngoài. Đã vậy, Đồng
K lại có khu công nghiệp ở ngay trong
làng. Một bộ phận không ít hộ gia đình sản
xuất và buôn bán trong khu công nghiệp đó
khiến cho lối sống công nghiệp đã phần
nào ảnh hưởng đến dân cư ở đây. Việc tuân

thủ giờ làm việc chặt chẽ hơn, tác phong
nhanh nhẹn hơn, con người cũng năng
động hơn, hiệu quả lao động cũng được
chú trọng hơn,… tất cả những điều này góp
phần đẩy nhanh hơn nhịp sống của dân
làng theo nhịp sống công nghiệp, nhịp sống
đô thị. Tuy nhiên, lối sống “trong họ ngoài
làng” vẫn được duy trì phần nào, dân làng
vẫn cư xử, giúp đỡ nhau theo kiểu “lọt
sàng xuống nia”, “họ hàng làng xóm cả”,
“tình làng nghĩa xóm”, rất hiếm trường hợp
doanh nghiệp ở Đồng K bị phá sản mà lại
không vực dậy được. Họ hàng anh em,
những người cùng làm nghề sẽ giúp đỡ
bằng rất nhiều cách (góp vốn, thu xếp thị
trường, cho vay nguyên liệu,…) để doanh

nghiệp đó có thể trở lại kinh doanh được.
Điều này chắc chắn khó có được ở khu vực
đô thị trung tâm. Người dân Đồng K rất
tự hào về lối ứng xử của họ vẫn theo kiểu
“tình làng nghĩa xóm”, tôn trọng tôn ti trật
tự trong làng mà trật tự ấy được xác lập
trên cơ sở tuổi tác (trọng lão) và sự đóng
góp cho làng. Mặc dù hiện nay các gia đình
trong làng thường sống trong các không
gian khép kín hơn trước nhưng tình làng
nghĩa xóm thì không theo đó mà giảm đi,
thậm chí rất nhiều người dân ở các làng
trong khi nói chuyện với chúng tôi đều
khẳng định rằng: ý thức về làng xóm, lối
sống tình nghĩa làng quê vốn là truyền
thống tốt đẹp bao đời của họ nhưng chính
trong điều kiện kinh tế đầy đủ, xã hội phát
triển và công việc làm ăn không đến nỗi
quá vất vả như hiện nay thì họ lại có điều
kiện hơn trước kia rất nhiều để thể hiện lối
sống tình nghĩa này. Họ quan tâm thăm hỏi
nhau nhiều hơn, đặc biệt là khi các gia đình
có các việc hiếu hỉ, đau ốm, họ hỏi thăm
nhau rất kịp thời và thường xuyên làm đậm
thêm lối sống nghĩa tình vốn có ở các làng
này. Vì vậy chính việc làm đám cưới, đám
tang, đám giỗ,… to ăn nhiều mâm cũng là
một hình thức thể hiện việc dân làng rất
quan tâm và tham dự đông vào các việc
hiếu hỉ của từng gia đình trong làng. Có thể

22


khái quát về lối sống ở Đồng K hiện nay
là sự đan xen giữa đô thị và nông thôn,
công nghiệp và nông nghiệp, thị trường và
tiểu nông trên nền tảng tương đối vững
chắc của lối sống tình nghĩa của làng quê
truyền thống. Điều này làm nên nét riêng
cho lối sống làng Đồng K .
Để minh chứng rõ hơn cho lối sống
đan xen nông dân - thị dân ở các làng - đô
thị, chúng tôi cũng đã khảo sát ở làng Xuân
Đỉnh (cũng là xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà
Nội). Dù Xuân Đỉnh chưa trở thành
phường song làng đã ở vào trung tâm của
quá trình đô thị hoá của thành phố Hà Nội.
Làng nằm ngay ở vị trí cửa ngõ phía Tây
Bắc của thủ đô Hà Nội, xung quanh đều là
các đường giao thông lớn. Trong làng hiện
có tới hơn 30 trụ sở của các cơ quan Trung
ương và thành phố Hà Nội cùng khá nhiều
các văn phòng, công ty kinh doanh khác.
Dân làng cũng rất đa dạng khi rất đông
người dân từ trung tâm thành phố Hà Nội
và nhiều nơi khác đến mua đất làm nhà ở
đây. Màu sắc đô thị rất rõ nét ở làng quê
này. Trong làng có các trục đường chính,
các nhà dân đều làm nhà hướng ra trục
đường chính này để kinh doanh tạo nên

phố trong làng. Các hình thức dịch vụ
khám chữa bệnh, thẩm mĩ viện, phòng tập,
sân tennis, quán cà phê, quán Internet, bar,
nhà hàng, khu mua sắm,… đều đã có mặt ở
làng. Gần như 100% các nhà dân ở đây đều
đã được xây kiên cố theo kiểu nhà ống ở đô
thị với cách đánh số nhà, ngõ ngách như
kiểu đô thị, người dân cũng đã quen cách
sống đô thị “kín cổng cao tường”, nhịp
sống công nghiệp nhanh chóng hơn và gắn
với kinh doanh dịch vụ nhiều hơn. Có thể
nói, người dân làng Xuân Đỉnh từ hơn chục
năm nay đã hội nhập vào đô thị ngày càng
sâu sắc song bên cạnh lối sống thị dân thì
vẫn tồn tại lối sống mang đậm tính làng,
như: dân làng rất chu đáo trong việc thăm
hỏi nhau; các phong tục giỗ Tết vẫn theo
đúng nếp sống truyền thống ở làng; đám
tang hay lễ hội ở làng vẫn thu hút người

dân cả làng tham gia; dân làng, nhất là
những người cao tuổi cũng thường tụ tập,
gặp gỡ, nói chuyện với nhau ở quanh khu
vực đình làng hay những khu vực vui chơi
giải trí trong làng, người dân trong làng
vẫn sống rất “trọng cộng đồng, nặng về
tình làng nghĩa xóm”. Ở các làng khác như
Đình Bảng, Định Công, Nhân Chính,…
chúng tôi cũng thấy được tình hình tương
tự. Lối sống của người dân các làng - đô thị

này luôn có sự pha trộn giữa thị dân và
nông dân do nền tảng vững chắc văn hoá
nông nghiệp và sự “đổ bộ” nhanh chóng
của đô thị hoá, công nghiệp hoá. Theo
đánh giá của chúng tôi, sự pha trộn đó nếu
ở đô thị trung tâm sẽ theo chiều hướng thị
dân - nông dân, còn ở các làng - đô thị này
thì theo hướng nông dân - thị dân, nghĩa là
lối sống nông nghiệp, nông dân vẫn thể
hiện rõ nét hơn.
Chính vì ở các làng - đô thị vẫn đang
diễn ra quá trình chuyển đổi từ nông thôn
sang đô thị nên có sự phân hoá trong lối
sống. Sự phân hoá ấy phụ thuộc vào từng
khu vực, từng đặc tính của cư dân và thời
gian tiếp xúc với đô thị. Không thể bao
quát hết được các xu hướng phân hoá trong
lối sống của cư dân làng - đô thị nên trong
nghiên cứu này, chúng tôi muốn bàn tới hai
xu hướng tưởng như trái ngược nhau, mâu
thuẫn nhau nhưng thực sự lại là hai xu
hướng phổ biến và song tồn trong lối sống
của cư dân các làng - đô thị mà chúng tôi
được tiếp xúc. Đó là lối sống đề cao sự kết
nối cộng đồng và lối sống thu hẹp phạm vi
giao tiếp cộng đồng.
2. L I S NG ĐỀ CAO SỰ KẾT N I
C NG ĐỒNG
Nếu như sự kết nối mạng lưới ở bất cứ
làng quê nào cũng quan trọng thì với

những cộng đồng làng - đô thị vùng ven
điều này càng trở nên quan trọng. Những
cộng đồng này đã không còn là làng quê
khép kín và tự trị như trước nữa. Lối sống
“hàng phố”, lối sống công nghiệp dịch vụ
nhanh chóng, sòng phẳng theo cơ chế thị
23


trường đã đủ thời gian làm thay đổi lối
sống của cư dân ở đây. Tuy nhiên, chính
trong quá trình chuyển đổi đó, các làng đô thị lại chứng kiến sự nổi trội của lối
sống đề cao sự kết nối cộng đồng. Điều này
rất khác với kiểu “cháy nhà hàng xóm,
bình chân như vại” được xem như đặc
trưng của lối sống đô thị.
Ví như ở Đồng K , chưa bao giờ các
loại hình tổ chức, nhóm hội ở Đồng Kị lại
nhiều về số lượng, đa dạng về lĩnh vực
hoạt động, sôi nổi về mức độ hoạt động và
tương đối quy củ về hình thức tổ chức và
quản lí như hiện nay. Trong cả phường
Đồng K nay và làng Đồng K trước kia
có các nhóm hội liên quan đến di tích, việc
tế lễ, hội hè, tín ngưỡng trong làng (Ban
quản lí di tích, Ban Khánh tiết, Ban Tư
văn, Ban chạ, Ban tế, Đoàn dâng hương,
Hội Chân qui); các hội nhóm liên quan đến
lứa tuổi (Hội đồng niên, Hội Người cao
tuổi, Hội Hưu trí); các hội nhóm liên quan

đến nghề nghiệp (Hội Đồng ng , Hội Cựu
chiến binh, Hội đồng học, Hội Nghề
nghiệp,…); các hội nhóm liên quan đến y
tế, giáo dục (Hội khuyến học, Câu lạc bộ
không sinh con thứ ba, Câu lạc bộ các gia
đình nuôi con khỏe, dạy con ngoan, Câu
lạc bộ các gia đình văn hoá,…); các hội
nhóm liên quan đến năng khiếu nghệ thuật
(Câu lạc bộ tuồng cổ, Câu lạc bộ chèo,
Câu lạc bộ quan họ, Câu lạc bộ thơ ca,…);
các hội nhóm liên quan đến thể thao (Câu
lạc bộ dưỡng sinh, Câu lạc bộ cầu lông, xe
đạp thể thao, bóng đá, bóng bàn, phường
vật, phường cờ, nhóm đi bộ buổi sáng,
nhóm chơi tennis,…); các hội nhóm liên
quan đến các thú chơi (Hội Sinh vật cảnh,
Phường chọi gà, Câu lạc bộ chơi chim
cảnh,...). Ngoài ra, trong phường còn phát
triển các nhóm chơi họ, chơi theo từng
nhóm nhỏ: nhóm bạn bè, nhóm họ hàng,
nhóm hàng xóm, nhóm cùng học, nhóm
cùng nghề,… không kể lứa tuổi, nam nữ.
Các thành viên trong nhóm đóng góp một
số tiền hoặc vàng nhất định theo quy ước

của nhóm, ai bốc thăm được thì là người
cầm cái và lần lượt những người còn lại
trong nhóm sử dụng số tiền đó quay vòng
giống như hình thức vay vốn. Trong đa
dạng các hội nhóm đó, có những tổ chức,

nhóm hội đã được thành lập từ khá lâu, ví
như Hội Đồng niên đã có từ những năm 60,
Hội Tư văn đã có từ rất xa xưa, Hội Sinh
vật cảnh đã có từ những năm 80,… nhưng
do nhiều lí do mà ít có những hoạt động
hoặc chỉ tồn tại trên hình thức cho đến sau
Đổi Mới mới đi vào hoạt động thường
xuyên và ngày càng phát triển như hiện
nay. Có những nhóm hội mới được thành
lập từ sau Đổi Mới cho đến gần đây như
Hội Nghề nghiệp mới có từ những năm 90,
Câu lạc bộ dưỡng sinh,…Có những nhóm
hội không xác định được thời gian ra đời vì
nó vốn hoạt động rải rác và không liên tục
từ lâu trong làng nhưng trong khoảng chục
năm trở lại đây được tập hợp lại, cơ cấu lại,
và chính thức hoá ở các cấp thôn xóm hoặc
phường. Riêng các tổ chức liên quan đến
việc tế lễ, di tích, lễ hội của làng là ổn định
từ xưa nhưng đến nay hoạt động của các
ban này được tổ chức chặt chẽ với sự tham
gia của các cấp chính quyền và đông đảo
dân làng và ngày càng có vai trò quan
trọng trong việc quản lí, tu bổ di tích và tổ
chức lễ hội trong làng. Tất cả các hội nhóm
này được thành lập và hoạt động từ nhu
cầu của chính người dân và có những tác
dụng tích cực, trực tiếp và tại chỗ đối với
cuộc sống của người dân, mạng lưới quan
hệ trong làng xóm được thắt chặt hơn trong

sự giúp đỡ và quan tâm của cộng đồng.
Hình thức của các nhóm hội và cách thức
tập hợp, hoạt động như vậy cũng được thấy
ở các làng Đình Bảng, Xuân Đỉnh. Đặc biệt
trong thời gian gần đây, các nhóm hội hoạt
động tích cực hơn, có tổ chức chặt chẽ hơn,
thu hút sự tham gia nhiều hơn của cả
những người dân di cư mới đến các làng và
theo đó tính cố kết trong cộng đồng làng đô thị được gia tăng.
24


Một biểu hiện nữa của việc đề cao sự
kết nối mạng lưới là sức mạnh của dòng họ
được phát huy triệt để trong đời sống hiện
tại. Về cơ bản, Đồng K vẫn theo mô hình
tập hợp dân cư theo dòng họ, theo giáp, có
giáp có nhiều dòng họ, có giáp chỉ tập
trung một dòng họ nhưng lối sống tình
nghĩa “trong họ ngoài làng” vẫn rất được
tôn trọng và chi phối rất nhiều cuộc sống
của dân làng, một người có thể rất thành
công với các vị trí xã hội ở bên ngoài
nhưng trong dòng họ người đó vẫn phải
duy trì đúng tôn ti trật tự, vẫn phải thực
hiện đầy đủ các nghĩa vụ và các công việc
của dòng họ. Ngoài việc tham gia đóng góp
quỹ họ, giỗ họ, sửa chữa các di tích của
dòng họ, mỗi người dân làng còn tuân theo
những phong tục riêng của dòng họ, từ việc

tế lễ, chăm sóc mộ tổ, nhà thờ họ, đóng
góp giúp đỡ con em trong họ học hành,
giúp đỡ những người trong họ làm ăn cho
đến việc thực hiện những nề nếp, quy định
riêng của từng dòng họ. Chẳng hạn, riêng
họ Chử quy định mức phúng viếng, mừng
đỡ trong các đám tối thiểu tương đương giá
trị 1kg thịt, còn lại tuỳ tâm ai có hơn thì
mừng hơn. Ở Đình Bảng, Xuân Đỉnh, Định
Công, các dòng họ cũng đang có những
hoạt động rất sôi nổi tạo ra sự gắn kết,
ngoài việc chăm lo các công việc của dòng
họ như giỗ họ, chăm sóc từ đường, mộ tổ,
lập quỹ khuyến học,… các dòng họ còn lo
việc tìm hiểu nguồn gốc dòng họ, thành lập
ra ban liên lạc dòng họ, ban đại diện dòng
họ, viết lịch sử dòng họ, tìm ra các chi phái
trong họ đã thất lạc,… tất cả nhằm mục
đích kết nối chặt chẽ hơn và tạo dựng ảnh
hưởng mạnh mẽ hơn của dòng họ đến với
đời sống của người dân, ví như họ Trịnh ở
Định Công, họ Nguyễn Thạc ở Đình Bảng,
họ Đỗ, Nguyễn, Dương, Phùng ở Xuân
Đỉnh,… đã làm rất tốt những việc này.
Nhiều người dân Đồng K , Đỉnh
Bảng, Xuân Đỉnh đã chia sẻ với chúng tôi
rằng chưa có thời kì nào mà các tổ chức
hành chính cùng các tổ chức xã hội lại

được củng cố và hoạt động mạnh mẽ như

thời kì này. Mỗi người dân cùng một lúc
thuộc về nhiều vị trí khác nhau và có mối
liên quan khó tách rời nhau về rất nhiều
mặt: sự liên kết địa vực như cùng xóm,
ngõ, là hàng xóm, sự liên kết họ hàng thể
hiện ở việc dòng họ được củng cố và ngày
càng có sức mạnh chi phối đời sống cá
nhân của mỗi thành viên, nếu không họ
hàng thì giữa những người dân làng còn
hàng loạt các mối quan hệ “rây mơ rễ má”
khác nữa. Ngoài ra còn có một sự liên kết
rất quan trọng nữa là sự liên kết lợi ích
được thể hiện ở nhiều mặt như mở ra
những định hướng làm ăn, tạo việc làm, trợ
giúp nhau trong kinh doanh, buôn bán, hỗ
trợ nhau về vốn,… Theo một số doanh
nghiệp, gia đình ở các làng này cho biết họ
rất ngại và cũng ít vay vốn ngân hàng để
đầu tư cho kinh doanh mà chủ yếu là thu
xếp trong anh em, bạn bè, họ hàng. Hình
thức trợ giúp này giảm thiểu những khó
khăn cho các doanh nghiệp ở giai đoạn đầu
khi làm ăn chưa lãi hoặc lãi ít không phải
trả lãi ngân hàng cao và cũng giảm thiểu
nhiều nguy cơ nếu có rủi ro,…Ví như, hình
thức thu xếp vốn trong mạng lưới rất phổ
biến ở Đồng K là hình thức chơi họ.
Nhóm họ có thể là một nhóm đồng niên,
nhóm cán bộ, nhóm giáo viên, nhóm cùng
ngõ, nhóm cùng trường học,… vì họ chơi

theo các nhóm nhỏ và đã thân quen với
nhau nên nhìn chung là khá an toàn. Theo
kết quả điều tra của chúng tôi năm 2008 thì
ở Đồng Kị có đến 61% số người được hỏi
tham gia từ hai hoặc ba hội nhóm. Điều
này khiến cho mạng lưới của từng cá nhân
cũng như mạng lưới của làng đều được
củng cố và chúng đan xen dày đặc làm nên
tính cố kết bền chặt trong làng. Đây là nền
tảng vững chắc đảm bảo cho việc làng quê
dù đã trở thành đô thị, đã phát triển thành
một khu công nghiệp nhưng tính chất làng
vẫn chi phối rất nhiều. Mạng lưới xã hội
đan xen dày đặc trong các làng - đô thị này
vẫn được duy trì và ngày càng tạo ra sức
25


mạnh, dù có làng đã chính thức trở thành
đô thị.
Việc tích cực tham gia các nhóm hội,
việc phục hưng sức mạnh của dòng họ
trong bối cảnh đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ
ở các đô thị mới, đô thị vùng ven một mặt
thể hiện sức mạnh chi phối của nền tảng
văn hoá truyền thống ở những làng quê xưa
đối với cuộc sống của các cư dân đô thị
mới hôm nay. Mặt khác cũng thể hiện bản
năng “tự vệ” của những nông dân trong
thời kì đầu trở thành thị dân, họ chưa thể

thích ứng ngay với lối sống thị dân và chưa
thực sự là thị dân nhưng họ cũng không
còn là nông dân làm nông nghiệp như
trước nữa nên họ rất cần một điểm tựa giúp
cho cuộc sống vật chất và tinh thần của họ
ít bị xáo trộn nhất. Sự kết nối mạng lưới
cộng đồng chặt chẽ và lợi ích mà họ nhận
được từ sự tham gia và duy trì mạng lưới
đó đã giúp quá trình chuyển đổi từ nông
thôn sang đô thị, từ nông dân thành thị dân
của họ có được sự cân bằng hơn.
3. L I S NG THU HẸP PHẠM VI
GIAO TIẾP C NG ĐỒNG
Bên cạnh xu hướng đề cao sự kết nối
cộng đồng thì ở các làng - đô thị cũng phổ
biến xu hướng thu hẹp phạm vi giao tiếp
cộng đồng, nhất là ở những vùng mà cơn
lốc đô thị hoá tràn qua quá nhanh, người
dân dường như ngơ ngác giữa phố thị và
vội vã hoà nhập, vội vã trở thành đô thị khi
có được những hành trang cần thiết để
thành thị dân.
Đất đai tăng giá chóng mặt, tiền đền
bù đất đủ cho người dân xây những ngôi
nhà khang trang và những ngôi nhà kín
cổng cao tường đó đã khép lại rất nhiều
mối quan hệ cộng đồng, tình làng nghĩa
xóm vốn là các giá trị truyền thống ở làng
quê. Cửa đóng then cài, không còn mấy ai
qua lại nhà nhau nói chuyện hay cùng nhau

làm những công việc thường ngày nữa,
cảnh "đèn nhà ai nhà nấy rạng" vốn xa lạ ở
làng quê xưa thì nay trở nên phổ biến.

Sự phân hoá giàu nghèo nhanh chóng
len lỏi vào các làng - đô thị khiến cho
những con người vốn là hàng xóm của
nhau trước kia giờ thành ra những đẳng cấp
khác, khiến cho họ khó còn có thể giao tiếp
với nhau được nữa, thậm chí còn nảy sinh
mâu thuẫn ghét nhau do lối sống khoe của,
hưởng thụ thái quá của một số người giàu
mới nổi.
Tình cảm láng giềng, trong họ ngoài
làng và các sinh hoạt cộng đồng ở các làng
- đô thị cũng có phần giảm sút do ngày
càng có nhiều dân cư từ nhiều nơi khác
đến, nhất là từ các đô thị trung tâm đến
mua đất làm nhà tạo nên sự cách biệt giữa
dân chính cư và ngụ cư cùng hàng loạt
những sự cách biệt về lối sống, nghề
nghiệp, mức độ quan tâm tới cộng đồng,...
Không ít tệ nạn xã hội theo bước chân
những "trọc phú sành điệu" hay đám thanh
niên rủng rỉnh tiêu tiền đền bù đất vào
những đô thị vùng ven khiến cho tình hình
an ninh trở nên phức tạp, không còn những
"dậu mồng tơi xanh rờn" nữa, mà là những
bức tường kiên cố ngăn cách giữa các gia
đình với những con chó dữ canh gác nhà đã

ít nhiều làm nên khoảng cách giữa những
con người nơi đây; không còn cảnh làng
quê đầm ấm ra khỏi nhà không cần khoá
cửa, đến đầu làng hỏi tên ai nhà ai thì cả
làng ai cũng biết, hiện nay nhà nào nhà ấy
của đóng suốt ngày, phải đề cao cảnh giác
vì nạn mất cắp mất trộm phổ biến. Người
dân cũng không dám mở rộng giao tiếp với
người lạ vì "biết tin ai bây giờ" như lời một
người dân ở làng Xuân Đỉnh chia sẻ sau
khi bị mất trộm vì mở cửa cho một nhân
viên tiếp thị.
Một vấn đề bức xúc nhất góp phần
quan trọng hơn cả tạo nên lối sống thu hẹp
phạm vi giao tiếp cộng đồng chính là vấn
đề đất đai. Đồng Kị hay Đỉnh Bảng ở Bắc
Ninh, Xuân Đỉnh ở Hà Nội đều là những
làng quê có tỉ lệ chuyển đổi đất nông
nghiệp và đất ở sang đất dự án, đất khu
công nghiệp, khu đô thị rất cao, ví như
26


Xuân Đỉnh được xem là làng có tỉ lệ thu
hồi, chuyển đổi mục đích sử dụng đất cao
nhất trong huyện Từ Liêm. Khi đất trở nên
đắt giá, dân chúng lao vào cơn lốc tận dụng
thậm chí chiếm dụng tối đa đất công, tranh
chấp nhau từng mét đất và điều này trở
thành nguyên nhân của những sự mất đoàn

kết từ trong gia đình cho tới hàng xóm láng
giềng và cả cộng đồng. Xoay quanh vấn đề
đất đai mà biết bao chuyện đã xảy ra, anh
em xích mích nhau, con cái khó chịu với
cha mẹ, hàng xóm cãi nhau, nhiều khi chỉ
vì vài hàng gạch ngăn cách, mấy mét ngõ
chung hay cái bờ ruộng vốn trước đây là
của chung thì nay có thể trở thành nguyên
nhân của những vụ xích mích, kiện tụng,
thậm chí đánh chém nhau,... Nhiều vụ án
đã xảy ra, những bi kịch gia đình, làng xóm
rất đau thương liên quan đến tranh chấp
đất. Khi trong cộng đồng đã có những
tranh chấp như vậy, người dân sẵn tư tưởng
không khoan nhượng với từng mét đất thì
rất khó có thể đối thoại được với nhau,
chưa nói đến những sinh hoạt cộng đồng
đầm ấm hay duy trì lối sống nghĩa tình,
tương trợ lẫn nhau, "tối lửa tắt đèn" có
nhau.
Lối sống ít sự giao tiếp còn thể hiện
ngay trong từng gia đình khi con cái trưởng
thành không còn muốn ở chung với cha mẹ
nữa, tỉ lệ gia đình hạt nhân đã chiếm phần
lớn thay thế cho những gia đình mở rộng
trước kia. Nếu có gia đình nào con cái còn
ở với bố mẹ cũng mỗi người mỗi phòng,
rất ít còn sự giao tiếp. Không còn cảnh gia
đình ấm cúng quây quần như trước kia nữa
khi con cái bận rộn cũng ít về thăm bố mẹ,

anh chị em ruột cũng mải lo làm ăn mà ít
qua lại thăm hỏi nhau, đó là chưa nói tới
việc nhiều gia đình anh em bố mẹ, con cái
mâu thuẫn nhau, thậm chí không nhìn mặt
nhau. Trong bối cảnh xáo trộn như vậy,
người dân ít có nhu cầu thăm hỏi nhau, nói
chuyện với nhau mà họ thường chọn cách
khép mình lại với tâm lí “chuyện nhà mình
chưa xong, lo chuyện nhà khác cho mệt,

thời buổi này mình có muốn lo cũng không
được” như một người dân ở Xuân Đỉnh cho
biết.
Không còn chia sẻ được lợi ích với nhau,
không còn có chung nghề nghiệp, chung sự
gắn bó với mảnh đất đã thân thiết từ lâu
đời, không còn sự tin tưởng lẫn nhau trong
làng xóm, thậm chí trong gia đình khiến
cho người dân ở các làng - đô thị sống thu
mình, khép kín, ngại giao tiếp cộng đồng,
ngại va chạm và họ dường như trở nên lạc
lõng chính giữa ngôi nhà mình, giữa nơi
quê hương mà họ đã nhiều đời gắn bó.
4. L I S NG C NG NGHI P D CH VỤ
Nếu như lối sống công nghiệp dịch vụ
đã rất phổ biến ở các đô thị trung tâm từ
lâu thì với các làng - đô thị lối sống này
mới bắt đầu xuất hiện và vẫn chưa đủ thời
gian để thay thế hoàn toàn lối sống nông
nghiệp tự cung tự cấp vốn phổ biến ở các

làng quê này trước kia. Người dân ở các
làng - đô thị này khi tham gia vào quá trình
đô thị hoá và trở thành đô thị buộc phải
thay đổi lối sống, không chỉ làm quen và
thích nghi dần với nhịp sống công nghiệp
mà còn phải thích nghi với một nền kinh tế
dịch vụ kéo theo rất nhiều sự thay đổi. Đất
nông nghiệp không còn để họ có thể tự sản
xuất lương thực, thực phẩm; ao hồ, đồng
ruộng, vườn tược cũng không còn cho họ
nguồn thức ăn phong phú như trước;… Vì
vậy, trong cuộc sống hàng ngày họ buộc
phải sử dụng đa dạng các loại dịch vụ.
Chính việc sử dụng dịch vụ như vậy đã đưa
dân cư ở các khu vực này tiếp xúc nhanh
hơn với kinh tế thị trường.
Trong trường hợp làng Đồng K , Đình
Bảng, Xuân Đỉnh, với sự đa dạng các thành
phần kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp,
kinh doanh, dịch vụ,… trong đó mảng dịch
vụ ngày càng phát triển, kể cả việc làm
nông nghiệp (còn rất ít) cũng đã có sự chi
phối và can thiệp rất nhiều của yếu tố dịch
vụ (thuê người cấy, cày, gieo mạ, gặt).
Kinh tế thị trường đã mang đến cho các
làng này sự phát đạt trong các loại hình
27


dịch vụ và người dân cũng ngày càng trở

nên quen thuộc hơn với lối sống dịch vụ và
sòng phẳng, cần cái gì đi mua cái đó,
không còn kiểu nhà nọ chạy sang nhà kia
xin cái này, vay cái kia như trước nữa.
Điều đó đã hình thành nên một lối sống
mới, một cách tư duy mới gắn với sự
nhanh nhạy và bình đẳng của thị trường.
Nhìn vào hệ thống chợ và sự xuất hiện của
rất nhiều các hình thức dịch vụ ở Đồng K
sẽ thấy được người dân nơi đây đang thích
nghi với lối sống công nghiệp, dịch vụ
nhanh như thế nào. Chợ chính của Đồng Kị
trước kia họp theo phiên ở sân đình. Từ
năm 1996, cùng với việc tu bổ khu di tích
chợ làng chuyển ra và được xây dựng mới
ở xóm Bằng như hiện nay, hình thức chợ
phiên không còn nữa, chợ họp cả ngày với
sự đa dạng của các loại hàng hoá. Ngoài ra,
trên địa bàn phường còn có nhiều chợ nhỏ
hơn ở đầu các ngõ xóm và ở khu công
nghiệp. Làng Xuân Đỉnh cũng như vậy, cả
làng hiện có 4 chợ chính họp suốt ngày, rất
nhiều các chợ tạm hay các điểm mua bán
tự phát dọc các đường làng, ngõ xóm. Ở
các làng, các mặt hàng từ thực phẩm đến
hàng tiêu dùng rất đa dạng ở chợ, thức ăn
chín (chế biến sẵn) ngày càng nhiều, thực
phẩm tươi sống người bán hàng cũng làm
sạch sẽ hoặc sơ chế theo yêu cầu của người
mua, hàng hoa quả bày bán đầy chợ, hầu

như loại trái cây nào ở thành phố có thì ở
chợ này cũng có, hoa tươi cũng đã bắt đầu
bày bán không chỉ trong các ngày lễ mà cả
ngày thường. Các quán ăn từ bình dân đến
cao cấp, hàng quà xuất hiện ở chợ và khắp
trong các làng ngày càng nhiều chứng tỏ
nhu cầu của dân làng ngày càng lớn đối với
loại hình dịch vụ này. Bên cạnh đó, các
hàng rong xuất hiện ngày càng nhiều, dân
làng có thể ngồi tại nhà có thể mua được
đủ thứ quà bánh, thực phẩm, hàng tiêu
dùng. Văn hoá chợ gắn với thói quen tiêu
dùng mới và đặc biệt là thói quen sử dụng
nhiều loại hình dịch vụ xuất hiện ở các
làng - đô thị này. Các ngày lễ tết, các đám

cưới, đám giỗ,… hiện nay dân làng phần
nhiều đặt sẵn, thậm chí cả những ngày tết
như mồng 3 tháng Ba, rằm tháng Bảy vốn
trước kia nhà nào trong làng cũng làm bánh
nhưng nay còn ít nhà tự làm, họ đi mua vừa
nhanh lại vừa hợp với nhu cầu sử dụng. Rất
nhiều loại hình dịch vụ trước kia được coi
là chỉ có ở nơi đô thị lớn, đô thị trung tâm
nhưng hiện nay đều đã xuất hiện ngay
trong làng như: quán café Internet, dịch vụ
Internet, khách sạn, nhà nghỉ, spa,…tất cả
hình thành nên một mạng lưới dịch vụ
ngày càng dày đặc và trở thành một bộ
phận hữu cơ không thể thiếu đối với đời

sống của người dân ở các làng – đô thị hiện
nay. Hình ảnh phổ biến khi đến các làng đô thị này là những quầy hàng san sát mọc
thành phố trong làng, đường làng thành
phố chợ như ở, những con đường rộng rãi
vươn dài tới tận thôn, làng, kéo theo nhà
hàng, khách sạn, các dịch vụ vui chơi giải
trí xuất hiện ở khắp nơi trong các làng.
Như vậy, kinh tế dịch vụ - thương mại
không chỉ góp phần chuyển đổi cơ cấu
nghề nghiệp, đóng góp vào thu nhập của
người dân mà còn làm thay đổi lối sống
theo kiểu thị dân, kiểu công nghiệp ở các
làng - đô thị.
5. L I S NG CẠNH TRANH
MANG TÍNH CHẤT TH DI N
Như chúng tôi đã phân tích, sự kết nối
mạng lưới thông qua việc củng cố, gia tăng
vai trò của dòng họ. Sự sôi nổi của các
nhóm hội đã là một sự lựa chọn thông
minh của cư dân làng - đô thị khi đối mặt
với sự chuyển đổi nông thôn - đô thị, nông
dân - thị dân. Tuy vậy, quá trình tham gia
vào những mạng lưới cộng đồng đó cùng
với tâm lí đề cao thể diện “một miếng giữa
làng hơn một sàng xó bếp” vốn ăn sâu vào
tiềm thức của người nông dân ở các làng
quê đã dẫn đến không ít sự cạnh tranh vì
nhu cầu thể diện, nhu cầu thể hiện bản
thân, gia đình, dòng họ ở những làng - đô
thị này. Đã vậy, khi làng trở thành đô thị,

28


khi dân làng có điều kiện kinh tế hơn trước
thì nhu cầu thể diện này càng lớn.
Nhìn trên bình diện chung thì quan hệ
làng xóm trong các làng vẫn giữ được tính
chất của làng quê xưa: đoàn kết, nghĩa tình.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế phát triển
hiện nay sự đoàn kết, nghĩa tình này còn
được củng cố hơn trước cả về tình cảm và
vật chất, mạng lưới xã hội trong làng cũng
có xu hướng bền chặt hơn do thường xuyên
được củng cố và làm mạnh bằng nhiều
hình thức. Tuy vậy, cũng không quá khó để
nhận ra một số mâu thuẫn đã nảy sinh
trong quan hệ làng xóm và đã xuất hiện
những sự cạnh tranh mang tính chất thể
diện trong cộng đồng. Những điều này tuy
không lớn và chưa làm thay đổi quá nhiều
những quan hệ xã hội của cộng đồng song
nó giống như sóng ngầm và không thể nói
là không ảnh hưởng đến cuộc sống của cư
dân trong các làng.
Với Đồng K , Đình Bảng, Xuân Đỉnh,
Định Công,… do quá trình phát triển rất
nhanh, chỉ trong một thời gian ngắn
khoảng hơn một thập kỉ mà diện mạo làng
quê cũ đã thay đổi rõ rệt: việc buôn bán
trong làng nhộn nhịp, việc xây dựng, mở

rộng làng, những dự án, quy hoạch, đền bù
đất, buôn bán đất,… trở thành những câu
chuyện thu hút nhiều sự chú ý và đầu tư
của dân làng. Chính từ những câu chuyện
này mà nhiều mâu thuẫn, nhiều sự cạnh
tranh nảy sinh, đặc biệt là những vấn đề
liên quan đến đất đai, việc xây dựng và
những gì liên quan đến quyền lợi của cá
nhân hoặc nhóm. Nhà nào cũng muốn có
được chỗ đất đẹp để xây nhà, mở xưởng,
mở cơ sở kinh doanh, xây nhà cũng nhìn
xem các nhà khác xây thế nào để mình
cũng phải làm không kém. Nhiều khi dân
làng tranh giành các suất thuê đất ở khu
công nghiệp, ở mặt đường làng khá là
quyết liệt, nhiều khi dân làng xây nhà to
đẹp cũng chỉ để thoả mãn nhu cầu thể diện
mà không hẳn xuất phát từ nhu cầu sử
dụng thực tế.

Dòng họ như chúng tôi đã phân tích ở
trên đã có sự phục hồi và phát huy được
những giá trị truyền thống trong sự cố kết
cộng đồng. Sự cố kết này được đẩy mạnh
thêm khi các dòng họ hiện nay ngày càng
tham gia tích cực vào các hoạt động văn
hoá xã hội như củng cố các nhà thờ họ, viết
gia phả, mở rộng phạm vi liên kết họ hàng
(không chỉ trong làng, xã, huyện mà còn cả
vùng miền, quốc gia và quốc tế), khuyến

học, giúp đỡ hỗ trợ đầu tư kinh doanh,…
Tuy nhiên, sự cố kết dòng họ nhiều khi
cũng tạo ra những sự cục bộ, bè phái, cạnh
tranh, đầu tư thái quá vào các hoạt động
gây thanh thế cho dòng họ, đẩy quá cao vai
trò của dòng họ,… Trong thực tế, các làng
- đô thị hiện nay có những dòng họ lớn,
dòng họ nhỏ, dòng họ đã định cư lâu đời ở
làng, dòng họ định cư muộn hơn, dòng họ
có nhiều người đỗ đạt và làm cao, dòng họ
có ít người đỗ đạt hơn và ít làm cao hơn,…
Điều này là thực tế thường thấy ở nhiều
làng nhưng có một số chuyện đã xảy ra
xung quanh thực tế này: dòng họ này nhìn
dòng họ kia trong sự đố kị và cạnh tranh,
một vài dòng họ chi phối không ít tình hình
chính trị trong làng,…
Việc công đức vào các di tích hiện nay
đã trở thành công việc thường xuyên của
người dân ở các làng - đô thị nhưng đôi khi
việc công đức đó cũng tạo ra những sự
cạnh tranh, giành nhau quyền được thể
hiện trước cộng đồng. Trong nội bộ dân,
nhiều cá nhân, dòng họ hoặc nhóm đều
muốn để lại dấu ấn của mình ở các di tích,
ví dụ những người tham gia vào các Ban tổ
chức lễ hội, ban Quản lí di tích, Ban Khánh
tiết,… trong các làng mỗi năm đều cố gắng
tu sửa và công đức một thứ gì đó vào di
tích, lễ hội để lưu lại dấu ấn của mình trong

một năm phụng sự việc làng, ban của năm
sau nhìn các ban năm trước, và rồi hầu như
ban nào và năm nào cũng có dấu ấn để lại
cho cộng đồng. Các cá nhân, các dòng họ
trong làng cũng vậy, người này nhìn người
kia, dòng họ này nhìn dòng họ kia trong
29


việc công đức. Điều này có những mặt tích
cực không thể phủ nhận song nhiều khi
cũng tạo ra những sự ganh đua và va chạm
trong nội bộ dân làng.
Ở các đô thị vùng ven, tính chất làng vẫn
rất đậm đặc, những sự bàn tán, nhòm ngó
nhau, lan truyền thông tin rất nhanh chóng
theo cơ chế phi chính thức, rồi những sự
nặng nề của việc thể hiện bản thân, gia
đình, dòng họ trong các dịp lễ tết, đám
thứ,… đã tạo ra gánh nặng về thể diện
không chỉ cho những người đang sống
trong cộng đồng mà còn cho những người
đi xa khỏi cộng đồng mỗi dịp về lại.
Sự nhìn ngó nhau, cạnh tranh nhau về
thể diện ở các đô thị vùng ven không chỉ
trong nội bộ các phường, các tổ dân phố
vốn là các làng, thôn trước kia mà còn xảy
ra giữa các phường, các làng với nhau. Ví
như làng này xây đình lớn, cổng làng to
hay mua sắm những đồ tế khí hoành tráng

phục vụ cho lễ hội, tổ chức lễ hội có nhiều
đoàn dâng hương, có trang phục đẹp,… thì
các làng khác cũng cố gắng làm theo như
vậy không cần biết có hợp lí về tài chính
và nhu cầu sử dụng hay không. Như vậy
quan hệ trong làng, trong phường cùng
một số sự cạnh tranh không tốt đã xuất
hiện và có nguy cơ ngày càng rõ rệt trong
cộng đồng thuộc đô thị vùng ven thời hiện
đại. Lối sống quá coi trọng thể diện trước
cộng đồng bên cạnh mặt tích cực là động
lực thúc đẩy người dân cố gắng sống và
lao động tốt thì cũng trở thành nỗi lo lắng
cho người dân và nhiều khi tạo ra sự “vinh
quang giả tạo” rất đáng lo ngại trong cộng
đồng.
6. L I S NG HƯỞNG THỤ TỨC THỜI,
HẤP THU QUÁ NHANH M T TRÁI
CỦA Đ TH HOÁ
Mặc dù nền tảng văn hoá truyền thống
ở các làng quê đã giúp cư dân ở các đô thị
vùng ven có được những chỗ dựa tinh thần
tốt để bước vào quá trình tái cấu trúc lại
văn hoá trong bối cảnh đô thị nhưng cũng
có một bộ phận không nhỏ dân cư của khu

vực này thay đổi lối sống quá nhanh,
chuyển đột ngột từ lối sống chậm của làng
quê thành lối sống nhanh đô thị, từ lối sống
ky cóp, tiết kiệm sang lối sống hưởng thụ,

và đặc biệt là bộ phân dân cư này tiếp thu
quá nhanh những mặt trái của đô thị và tạo
ra những cách sống tương đối lệch lạc. Trở
thành thị dân một cách quá nhanh, những
người nông dân chưa hết ngơ ngác giữa
phố thị, chưa hết bàng hoàng vì bỗng nhiên
nhận được số tiền đền bù đất lớn mà cả đời
lao động nông nghiệp của họ chưa bao giờ
mơ tới, rồi cũng bỗng nhiên những mảnh
đất vườn tược, ruộng nước, ao tù,... của họ
bỗng trở nên có giá "tấc đất tấc vàng"
khiến cho giấc mơ đổi đời của họ trở thành
hiện thực một cách nhanh chóng và bất
ngờ. Lối sống hưởng thụ ngay lập tức đến
với họ khi họ chưa có nhiều sự chuẩn bị
hay hiểu biết về nó.
Theo kết quả điều tra của Đại học
Kinh tế quốc dân trên địa bàn Hà Nội cho
thấy 57% nông dân dùng tiền đền bù đất
đai để xây nhà, chỉ có 1% đầu tư cho nghề
mới và 3% cho học nghề [5]. Trong khi đi
khảo sát ở Từ Sơn (Bắc Ninh), Tây Hồ (Hà
Nội), quận 2 (Tp. Hồ Chí Minh), chúng tôi
cũng nhận thấy tình hình tương tự. Rất
nhiều người dân sau khi nhận tiền đền bù
đất hoặc bán đất chỉ còn biết xây nhà, mua
xe, mua sắm tiện nghi, chi tiêu sinh hoạt
cao theo hướng sử dụng dịch vụ, gửi tiết
kiệm,... Sau thời gian khoảng một vài năm
số tiền đó hết, không có công việc ổn định,

ruộng để trồng cấy không còn,... người dân
rơi vào khủng hoảng không biết tương lai
sẽ ra sao và rất nhiều những bi kịch đã xảy
ra mà trên các phương tiện thông tin đại
chúng đã nói tới rất nhiều.
Người dân các đô thị ven đô vốn là nông
dân nên ngay cả khi họ đã trở thành thị dân
thì nhiều người trong họ vẫn duy trì cách
hiểu tương đối sai về đô thị. Họ nghĩ đến đô
thị là nghĩ đến sự ăn chơi, hưởng thụ các giá
trị vật chất, sống nhanh sống gấp, hình thức
hào nhoáng,... Chính vì vậy, ngay khi có tiền
30


họ lao vào cách sống như vậy để chứng tỏ
mình là thị dân, là tay chơi, là sành điệu. Họ
không ý thức được họ trở thành những "phú
ông" lạc lõng với cả cuộc sống đô thị và
nông thôn. Không khó để quan sát được thú
ăn chơi và tiêu tiền của các "phú ông" ven đô
khi họ đã không tiếc tiền và công sức cho
những cuộc chơi để trưng diện xe đẹp, trang
phục và đồ dùng đắt tiền,... Họ cũng không
bỏ qua bia rượu, gái mại dâm, cờ bạc,... và
rồi đón nhận một kết thúc không có hậu và
một tương lai mờ mịt cho bản thân và gia
đình.
Đáng quan ngại hơn cả là thanh niên ở
các đô thị vùng ven được coi như tầng lớp

ảnh hưởng sâu đậm hơn cả lối sống hưởng
thụ. Nhận tiền đền bù đất hoặc bán đất,
không ít thanh niên làng thực sự mất thăng
bằng đến mức choáng ngợp và lao vào các
thú vui để trở thành những tay chơi "sành
điệu". Hình ảnh không mấy xa lạ ở các
"phố làng" hay ven các đường cao tốc mới
mở là những thanh niên đầu tóc lởm chởm
đủ các thứ màu nhuộm ngồi trên những
chiếc xe máy phân khối lớn rồ ga phóng
vun vút ngay trên đường làng hay tụ tập
trong các quán cóc, nằm dài trong những
hàng gội đầu thư giãn, túm tụm trong các
chiếu bạc đang mọc lên nhan nhản trong
làng. Nạn ăn nhậu, chơi bời thâu đêm,
karaoke, vũ trường, cá độ, cờ bạc, đua xe,...
đã trở thành thú chơi của một bộ phận
không nhỏ thanh niên khu vực đô thị vùng
ven. Và hậu quả thì hầu như ai cũng nhìn
ra là tiền bạc sẽ nhanh chóng hết nhưng lối
sống hưởng thụ, chơi bời đã khiến đám
thanh niên này khó dừng lại được và rồi
những vụ trộm cắp, cướp giật, lừa gạt xảy
ra thường xuyên với cả những trẻ vị thành
niên, trong đó không hiếm những vụ án gia
đình đau lòng như con giết cha mẹ, ông bà,
vợ giết chồng,... Sự hấp thụ quá nhanh lối
sống buông thả, những mặt trái của lối
sống công nghiệp, đô thị của thanh niên đô
thị vùng ven đã làm đảo lộn không ít cuộc

sống của những khu vực đô thị mới này.

Lối sống đề cao sự hưởng thụ tức thời
còn thể hiện bằng việc các đô thị vùng ven
dập khuôn mô hình phát triển của các đô
thị lớn mà không quan tâm đến sự phù hợp
với không gian và văn hoá làng quê. Một
số khu vực đô thị vùng ven vốn là những
làng quê truyền thống Bắc Bộ với hình ảnh
quen thuộc của cây đa, bến nước, luỹ tre
hay làng quê Nam Bộ với những dòng
sông, cánh đồng, vườn cây trái bát ngát nay
đã không còn mà được thay thế bằng
những ngôi nhà hiện đại, nhà ống khép kín
với kiến trúc ta chẳng ra ta, Tây chẳng ra
Tây, màu sắc loè loẹt, không hợp với khí
hậu. Những ngôi nhà gỗ, nhà đất hay nhà
vườn thoáng mát xưa kia được thay thế
bằng nhà bê tông với sự lạnh lùng của các
bức tường và cánh cổng sắt nặng nề lúc
nào cũng cửa đóng then cài. Từng làng xã
hay bây giờ là phường không còn nét đặc
trưng khác nhau nữa, không còn những dấu
ấn văn hoá, lịch sử lâu đời nữa mà tất cả
trở nên đồng dạng, nhấp nhô những mái
chóp tôn xanh đỏ, lấp loáng bình inox và
loè loẹt những màu sơn. Trong những
không gian lạnh lùng và lộn xộn đó, lối
sống của con người không thể không thay
đổi và đó là điều đáng suy nghĩ trong quá

trình đô thị hoá hiện nay.
Không có khả năng đề cập đến toàn bộ
những sự thay đổi biểu hiện trong lối sống
đô thị Việt Nam đầu thế kỉ 21 nhưng chỉ
với một vài biểu hiện trong lối sống của cư
dân đô thị vùng ven, chúng tôi đã phần nào
chỉ ra quá trình thay đổi theo nhiều chiều
hướng khác nhau, nhiều mức độ thay đổi
khác nhau, có sự thay đổi mang lại động
lực tốt cho quá trình phát triển đô thị và đất
nước, có sự thay đổi làm cản trở quá trình
phát triển đó, cũng có những sự thay đổi
tiềm ẩn nhiều những hệ lu đáng báo động
trong xã hội. Tất cả tạo nên thách thức lớn
cho đô thị Việt Nam trong việc tìm ra
những mô hình và giải pháp hiệu quả cho
phát triển và mở rộng đô thị hiện tại và
tương lai.
31


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các số liệu trong mục này lấy từ các bài viết:
- Đô thị hoá ở Việt Nam – từ góc nhìn nông nghiệp, nông thôn, nông dân
/>36
- Đô thị Việt Nam: Mười năm phát triển và những giải pháp cho thời kì mới
/>2#p0
- Đô thị hoá, qua các con số
/>2. Trung bình 1 tháng tăng thêm 1 đô thị
/>3. Hoàng Vinh (1996), Một số vấn đề lí luận văn hoá thời kì đổi mới, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.
4. Trần Kiều, Vũ Trọng Rỹ, Hà Nhật Thăng, Lưu Thu Thủy (2001), Thực trạng và giải
pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng cính trị, lối sống cho thanh niên học sinh, sinh viên
trong chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam thời kì công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
5. Làng ven đô: Nhịp mừng, nhịp lo...
/>* Nhận bài ngày: 13/1/2014. Biên tập xong: 18/2/2014. Duyệt đăng: 24/2/2014.

32



×