Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

LUẬN VĂN: Nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp hiện nay potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 93 trang )








LUẬN VĂN:

Nhu cầu giải trí của công nhân lao động
khu công nghiệp hiện nay














Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hằng năm, doanh nghiệp trong các KCN, KCX đóng góp cho ngân sách Nhà nước
hàng chục nghìn tỷ đồng. Nhưng, phần lớn số công nhân tại các KCN, KCX đang phải
sống trong những căn phòng trọ quá tạm bợ, nhếch nhác, ăn uống kham khổ qua ngày;
đời sống văn hoá tinh thần thiếu thốn, khả năng đáp ứng của xã hội đối với nhu cầu giải


trí rất thấp, mặc dù ở ngay các trung tâm đô thị lớn.
Vấn đề bức bách đặt ra hiện nay, là hoạt động giải trí của công nhân lao động ở
các KCN đã và đang bị dạt ra bên ngoài đời sống văn hoá tinh thần tại địa phương nơi
mình làm việc. Và ngay cả trong KCN chưa thực sự quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và công trình phúc lợi tập thể, nên hầu hết ở đây điều kiện phục vụ đời sống tinh
thần của công nhân như nhà văn hoá, thể thao, thư viện, công viên, nơi vui chơi giải trí,
hội họp sau giờ làm việc của công nhân còn thiếu thốn. Trong khi đó, thu nhập, thời
gian, cường độ lao động cao, đa số công nhân mới chỉ đáp ứng được nhu cầu đời sống
vật chất và tinh thần tối thiểu, nên công nhân không có điều kiện tham gia các hoạt động
giải trí nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần. Hoạt động giải trí là một bộ phận quan trọng
trong cơ cấu hoạt động sống của cá nhân, góp phần tạo nên diện mạo văn hoá cá nhân
và là một trong những thước đo lối sống của con người. Nếu nhu cầu giải trí không
được đáp ứng thoả đáng, nhân cách có nguy cơ bị biến dạng, do đó nhu cầu giải trí của
công nhân lao động khu công nghiệp trở thành một vấn đề cấp thiết cần được nghiên
cứu cả về lý luận và thực tiễn.
Hiện nay, nhu cầu giải trí của công nhân lao động là rất đơn điệu và tẻ nhạt, chưa
có một công trình nào nghiên cứu một cách khoa học. Trong khi đó, công nhân lao động
là một nhóm xã hội có nhu cầu giải trí cao, muốn tham gia vào các hoạt động vui chơi,
giải trí bên cạnh đó thiết chế văn hoá và khả năng đáp ứng nhu cầu giải trí cho công
nhân lao động thấp. Nên, họ đã và đang tự phát giải quyết các nhu cầu giải trí của mình,
việc giải quyết nhu cầu giải trí đó còn gặp nhiều khó khăn nên dễ tạo nên các khe hở để
xuất hiện những kiểu giải trí lệch chuẩn, thiếu lành mạnh, làm tổn hại đến sự ổn định xã

hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức, nhất là ảnh hưởng xấu đến hình ảnh người
công nhân Việt Nam trên trường quốc tế.
Do vậy, việc tìm hiểu nhu cầu giải trí của công nhân lao động trong KCN, qua đó
có giải pháp định hướng và đáp ứng nhu cầu của họ sẽ góp phần vào việc nâng cao chất
lượng làm việc, chất lượng sống của công nhân lao động hiện nay. Trên cơ sở đó, tác
giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công
nghiệp hiện nay” (Nghiên cứu trường hợp Khu công nghiệp Quang Minh và Khu công

nghiệp Bắc Thăng Long, Nội Bài - Hà Nội).
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về nhu cầu của con người đã trở thành đối tượng của nhiều ngành
khoa học khác nhau, còn riêng đối với ngành xã hội học nhu cầu của con người được
nghiên cứu theo nhiều khía cạnh. Tuy nhiên, việc nghiên cứu nhu cầu giải trí của công
nhân lao động KCN thì chưa được đề cập đến. Đây cũng là vấn đề khó và mới, mà tác
giả đã và đang kế thừa, vận dụng các công trình gần sát để tìm ra cái mới của các công
trình dưới đây, để phục vụ cho luận văn của mình:
- Cuốn sách “Nhu cầu động lực và định hướng xã hội” (Nxb Khoa học Xã hội,
2005) của tác giả TS. Lê Thị Kim Chi đã đề cập đến động lực của nhu cầu, tiền đề tạo
nhu cầu. Qua đó, làm rõ các căn cứ lý luận và thực tiễn cho luận văn, bởi vì trước nay,
có rất ít các công trình nghiên cứu được triển khai theo phương pháp này sẽ giúp
người đọc nhận diện sâu sắc hơn những khía cạnh nhu cầu động lực và phát triển xã hội.
Đề tài có thể vận dụng nó để nghiên cứu tiền đề tạo nhu cầu của nhóm công nhân lao
động KCN.
- Cuốn sách “Nhu cầu giải trí của Thanh niên”, (Nxb Chính trị Quốc gia, 2003)
của TS. Đinh Thị Vân Chi đã làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nhu cầu giải
trí của thanh niên từ góc độ xã hội học, khuân mẫu giải trí của thanh niên hiện nay, đưa
ra được xu hưởng biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên. Luận văn có thể kế thừa và so
sánh kết quả nghiên cứu về nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp với
nhu cầu giải trí của thanh niên hiện nay.

- Công trình “Mấy nhận xét về biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên Hà nội hiện
nay” (2001) Đinh Thị Vân Chi. Những kết quả chủ yếu của nghiên cứu này là, đã điểm
lại sự thay đổi nhu cầu giả trí của người Việt Nam nói chung và của thanh niên nói riêng
trong thời gian dài (1945-1965). Đó là, giải trí dưới hình thức tham gia các trò chơi
truyền thống từ cá nhân sang các hình thức giải trí mang tính tập thể. Sau đó do những
hoàn cảnh của lịch sử hình thức giải trí ít được thực hiện. Khi đất nước đổi mới, do
những thay đổi điều kiện kinh tế, xã hội, như xoá bỏ cơ chế bao cấp, chuyển sang cơ
chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, từ năm 1990 trở lại đây, các hình thức giải

trí của người dân, cụ thể là thanh niên có những thay đổi, như từ hình thức giải trí tập
thể là chủ yếu, chuyển sang hình thức giải trí mang hình thức cá nhân; từ giải trí ở bên
ngoài là chính sang hình thức giải trí tại nhà (nghe đài, xem ti vi). Ngoài ra trong bài đã
đánh giá được sự thay đổi trong việc tham gia các hình thức giải trí của thanh niên. Các
hình thức giải trí được đưa ra xem xét là. (Giải trí cá nhân: đọc báo, nghe đài, cát xét,
xem ti vi, giao tiếp; giải trí tập thể: Hoạt động thể thao ). Những nhận xét chủ yếu
được rút ra là sự thay đổi nhu cầu giải trí của thanh niên bị ảnh hưởng bởi thời gian làm
việc, đặc điểm cơ quan thanh niên làm việc hoặc học tập. Công nhân lao động tại các
KCN đa số là những người trẻ họ là những người có nhu cầu giải trí và các hình thức
giải trí hiện nay có thể giống như mọi thanh niên khác. Vì thế chúng tôi có thể sử dụng
các hình thức giải trí đã được đề cập ở đây để nghiên cứu nhu cầu giải trí của người
công nhân lao động.
- Đại học Công đoàn (2003)“ Tìm hiểu nhu cầu sử dụng Internet của sinh viên” do
Thạc sỹ Hoàng Thị Nga chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã phân tích được thực trạng nhu cầu
sử dụng Internet của sinh viên; đánh giá được những yếu tố tác động đến nhu cầu sử
dụng internet như học tập, tư tưởng đạo đức, lối sống Nhưng nhóm tác giả chỉ dừng
lại ở dịch vụ giải trí Internet, tức là mới chỉ đánh giá được một khía cạnh của nhu cầu
giải trí của đối tượng. Luận văn, có thể phát triển và bổ sung các hoạt động giải trí khác.
Từ đó, luận văn có được ý tưởng mới trong đề tài đó là đánh giá ảnh hưởng của nhu cầu
tới tư tưởng đạo đức, lối sống của công nhân lao động khu công nghiệp.

- Đại học Xây dựng (2007): “Khảo sát nhu cầu không gian vui chơi giải trí của
nhân viên văn phòng ở Hà Nội”, chủ trì đề tài: PGS.TS. Phạm Đức Nguyên, nhóm tác
giả đã đề cập tới nhu cầu giả trí của một đối tượng người lao động. Cụ thể, nhân viên
văn phòng, với môi trường làm việc cụ thể, trong văn phòng tại Hà nội, đông đúc dân
cư, nhiều hạn chế về đảm bảo giao thông để nghiên cứu về không gian giải trí của họ
nhằm nêu những giải pháp phù hợp tạo không gian giải trí phù hợp với điều kiện làm
việc của họ. Đề tài đã khẳng định, hầu hết các nhân viên văn phòng làm việc tại Hà Nội
đều có nhu cầu giải trí trong ngày. Nhu cầu giải trí của họ được đáp ứng tuỳ thuộc vào
môi trường làm việc của cơ quan, tình trạng làm việc ở cơ quan của họ. Với đề tài này

đã gợi ra những tương đồng trong nghiên cứu của luận văn: đó là khách thể nghiên cứu
là những người làm việc mang tính chất công nghiệp. Tuy nhiên điều khác là, không
gian giải trí là tại nơi làm việc. Vấn đề kế thừa, phát triển là tìm hiểu động cơ giải trí
của họ và những hiệu quả mang lại khi nhu cầu giải trí được đáp ứng; tìm hiểu nhu cầu
giải trí tại nơi công cộng của công nhân lao động.
- Ban Tuyên giáo, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2007) nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của công nhân lao động tại các khu công nghiệp,
khu chế xuất” do Ths, Trương Thanh Cần làm chủ nhiệm đã đề cập đến thực trạng đời
sống văn hoá tinh thần của công nhân lao động trên một số khía cạnh tác động như: đến
nhận thức, ý thức tham gia các hoạt động văn hoá ở khu công nghiệp, khu chế xuất và
khu nhà trọ; các thiết chế phục vụ hoạt động văn hoá, văn nghệ của công nhân các
KCN, KCX. Đây là hướng tiếp cận rất gần với đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, nhóm tác
giả đề tài chưa đề cập đến tác động của việc thoả mãn nhu cầu giải trí tới nâng cao đời
sống văn hoá tinh thần của công nhân lao động tại các KCN, KCX. Nên luận văn có thể
nghiên cứu bù lấp kết quả đó bằng việc làm rõ nhu cầu giải trí của công nhân lao động.
- Viện Công nhân và Công đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2006)
nghiên cứu đề tài: “Thực trạng đời sống, việc làm lao động nữ doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và các giải pháp của Công đoàn” do TS. Dương Văn Sao chủ nhiệm đề tài,
nhóm tác giả đã đưa ra bức tranh tổng thể và khái quát tình hình phát triển các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh, đặc điểm lao động nữ, việc làm và điều kiện làm việc của lao

động nữ; thực trạng đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nữ công nhân lao động.
Luận văn, dựa vào thực trạng đời sống, việc làm khó khăn như hiện nay có mối quan hệ
với nhu cầu giải trí không? Liệu công nhân lao động thiếu cả hai thì đó có là một trong
những nguyên nhân gây đến đình công ở các KCN hiện nay không?
- Viện Sử học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2008) nghiên cứu đề tài: “ Xây
dựng và phát triển văn hoá của giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế” thuộc chương trình: Xây dựng con người và phát triển văn hoá Việt
Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Mã số: KX.03/06-10. PGS.TS.
Nguyễn Văn Nhật, Chủ nhiệm đề tài và cùng nhóm tác giả đã làm rõ khái niệm, nội

hàm của văn hoá và đời sống văn hoá của GCCN Việt Nam, đánh giá thực trạng đời
sống văn hoá của công nhân trong các loại hình doanh nghiệp, chỉ rõ nguyên nhân, rút
ra bài học thành công và yếu kém, đồng thời dự báo triển vọng đời sống văn hoá của
giai cấp công nhân Việt Nam trong thời gian tới. Do đó, luận văn có thể so sánh một số
tiêu chí về hoạt động giải trí của công nhân lao động trong đề tài với hoạt động giải trí
của công nhân lao động khu công nghiệp.
- Viện Công nhân và Công đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2009)
nghiên cứu đề tài: “Giải pháp đảm bảo việc làm, cải thiện điều kiện lao động của công
nhân các khu công nghiệp ở Việt Nam” do TS. Lê Thanh Hà phó Viện trưởng Viện
Công nhân và Công đoàn làm chủ nhiệm. Đề tài chỉ đưa ra được về đời sống, thu nhập
của công nhân khu công nghiệp, chưa đề cập đến các hoạt động giải trí của công nhân,
nhưng đề tài có đề cập đến vấn đề, dự báo xu hướng phát triển khu công nghiệp và công
nhân các khu công nghiệp đến năm 2020, nên luận văn có sự kết nối dự báo về nhu cầu
giải trí của công nhân lao động trong thời gian tới.
Có thể thấy rằng tuy chưa nhiều đề tài nghiên cứu, những việc nghiên cứu nhu cầu
giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp đã đặt ra và đã được nhìn nhận một
cách nghiêm túc, mà chưa có một công trình nào từ trước tới nay nghiên cứu sâu. Nó
cho thấy đây là một phần cực kỳ quan trọng đối với đời sống tinh thần của công nhân
lao động khu công nghiệp.

Như vậy, liên quan đến đề tài này, trước đó có khá nhiều các công trình tiếp cận
gần sát vấn đề, nhưng chưa có công trình nào trùng lặp với đề tài này trước đó và cũng
chưa có đề tài nào đi sâu tìm hiểu xem nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công
nghiệp mức độ như thế nào? Kế thừa những kết quả nghiên cứu đó, tác giả xác định
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng các hoạt động giải trí và nhu cầu giả trí của công nhân lao
động KCN;
- Những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của công nhân lao động

KCN;
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu giải
trí cho công nhân lao động KCN hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thao tác hoá các khái niệm liên quan;
- Hệ thống hoá các nhu cầu giải trí của công nhân KCN; phác thảo các hoạt động
giải trí và nhu cầu giải trí phù hợp với công nhân KCN;
- Khảo sát thực trạng nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu giải trí cho công nhân tại
KCN Quang Minh và Bắc Thăng Long;
- Nêu ra vấn đề có tính chất lý luận, khoa học về quản lý, định hướng giải trí cho
công nhân KCN làm cơ sở khoa học tham khảo cho việc xây dựng các chính sách liên
quan đến hoạt động giải trí của công nhân KCN;
- Đề xuất một số hình thức giải trí cho công nhân KCN phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội chung và điều kiện hoạt động của các KCN hiện nay.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhu cầu giải trí của công nhân lao động KCN Quang Minh và Bắc Thăng Long,
Nội Bài, Hà Nội.

4.2. Khách thể nghiên cứu:
Công nhân lao động làm việc tại khu công nghiệp Quang Minh, khu công nghiệp
Bắc Thăng Long, Nội Bài.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
- Địa bàn: Khu công nghiệp Quang Minh và khu công nghiệp Bắc Thăng Long, TP
Hà Nội.
- Thời gian nghiên cứu: tháng 7/2009 - 10/2009
5. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
+ Giả thuyết thứ nhất: Nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp
cao và đa dạng;

+ Giả thuyết thứ hai: Nhu cầu này đối với những đặc điểm cá nhân khác nhau sẽ
dẫn đến sự khác nhau về nhu cầu giải trí;
+ Giả thuyết thứ ba: Nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp sẽ
bị ảnh hưởng bới các yếu tố cá nhân và các dịch vụ giải trí tại địa bàn cư trú.
5.2. Các biến số
- Biến độc lập theo 3 cấp độ
 Cấp độ cá nhân: Giới tính, tuổi, trình độ chuyên môn, tay nghề, thâm niên công
tác, thời gian rỗi
 Cấp độ nhóm: Tình trạng hôn nhân, việc làm, thu nhập, quan hệ xã hội, bạn bè,
người thân
 Cấp độ hoạt động giải trí: Xem ti vi, nghe đài, đọc sách báo; hoạt động thể dục
thể thao; giao lưu bạn bè
- Biến trung gian: Điều kiện kinh tế - xã hội.
- Biến phụ thuộc: Nhu cầu giải trí của công nhân lao động khu công nghiệp.
- Biến can thiệp: Kinh tế địa phương, sự phát triển của các KCN.

5.3. Khung lý thuyết
















điều kiện kinh tế - xã hội
đ
ặc
đi
ểm

cá nhân

- Giới tính;
- Tuổi;
- Tình tr
ạng
hôn nhân;
- Trình đ

học vấn;
- Trình đ

chuyên môn;
-
Thâm niên
làm việc;

đi
ều kiện cá nhân

- Thời gian;
- Sức khoẻ;

- Kinh tế;
- Phong tục, tập quán;
Th
ực trạng

giải trí

-
Xem ti vi,
nghe đài, đ
ọc
sách, báo;
- Hoạt đ
ộng
th
ể dục thể
thao;
-
Giao lưu
bạn bè;
- Du l
ịch dã
ngoại.

nhu c
ầu giải trí:


-
Xem ti vi,

nghe đài, đ
ọc
sách, báo;
- Hoạt đ
ộng
th
ể dục thể
thao;
- Giao l
ưu
bạn bè;
- Du l
ịch dã
ngoại.



6. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
6.1. Phương pháp luận
Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở
phương pháp luận. Thừa nhận tính khách quan, tính phổ biến của các quy luật. Thừa
nhận quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể, luôn xem xét các sự vật hiện
tượng của đời sống xã hội trong những mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau và đồng thời
xem xét chúng trong những khoảng không - thời gian xác định.
Đề tài sử dụng các quan điểm của lý thuyết nhu cầu, lý thuyết chức năng định
hướng cho luận văn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành việc thu thập, xử lý và phân tích thông tin phục vụ cho đề tài, tác giả
sử dụng một số phương pháp Xã hội học cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Những đề tài có liên quan đều được kế thừa và

vận dụng những thông tin về vấn đề nghiên cứu. Qua phân tích tài liệu, tác giả sẽ có nội
dung phong phú và đầy đủ hơn. Bên cạnh đó sử dụng phương pháp này giúp đề tài có
thể so sánh các nguồn thông tin từ các quan điểm, các cách nhìn khác nhau để lựa chọn
những thông tin chân thực, khách quan làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đề tài sử dụng 323 công nhân lao động để
tiến hành điều tra trên cơ sở chọn mẫu ngẫu nhiên. Phương pháp này nhằm tìm kiếm
những thông tin trực tiếp, khách quan và là căn cứ cần thiết cho những kết luận khoa
học.
- Phương pháp thống kê Xã hội học, sử dụng phần mềm SPSS 12.0 để xử lý và
phân tích thông tin theo yêu cầu của đề tài.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đây là phương pháp mà tác giả sử dụng phỏng vấn
sâu nhằm bổ sung một số thông tin về mặt định tính khi điều tra.
- Phương pháp quan sát: Phương pháp này góp phần hỗ trợ và làm sáng tỏ thêm
những thông tin đã thu được đồng thời là cơ sở ban đầu để đưa ra các giả thuyết và
hướng nghiên cứu.

6.3. Mẫu nghiên cứu
- Cách chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên theo danh sách thang bảng lương của
doanh nghiệp, danh sách sổ ở khu lưu trú.
- Dung lượng mẫu:
+ Nghiên cứu định tính: phỏng vấn sâu 16 công nhân lao động.
+ Nghiên cứu định lượng: 323 phiếu an két
7. Những đóng góp về khoa học và ý nghĩa của luận văn
Khu công nghiệp là đối tác tác động một chiều, dẫn đến việc không chú trọng đúng
mức đến nhu cầu giải trí của công nhân lao động. Nếu việc làm ổn định, thu nhập cao,
thì kéo theo nhu cầu giải trí của công nhân lao động tăng đáng kể về nhiều mặt, nên
không coi đó là những đặc điểm vốn có, mà coi đó là đối tượng luôn luôn vận động và
biến đổi rất nhanh.
Luận văn góp phần làm rõ thêm sự thiếu thốn của hoạt động giải trí trong KCN và
nơi cư trú, đồng thời làm rõ thêm nguyên nhân tác động và yếu tố ảnh hưởng đến khả

năng đáp ứng của xã hội không làm thoả mãn nhu cầu giải trí của công nhân lao động
KCN. Bên cạnh đó, đề tài làm sáng tỏ mối tương quan giữa nhu cầu giải trí với năng
suất lao động, với những hệ luỵ nơi cư trú.
Qua những đóng góp về mặt khoa học của luận văn về nhu cầu giải trí của công nhân
lao động khu công nghiệp hiện nay, rút ra ý nghĩa của đề tài như sau:
- Về mặt lý luận: áp dụng các lý thuyết của tâm lý về nhu cầu, lý thuyết xã hội học
cấu trúc chức năng về giải trí và các phương pháp xã hội học để phân tích và đánh giá
mức độ, nhận thức, sở thích và động cơ giải trí của công nhân lao động khu công
nghiệp.
- Về mặt thực tiễn: Qua việc tìm hiểu nhu cầu giải trí của công nhân lao động KCN
Quang Minh và KCN Bắc Thăng Long, Nội Bài cho thấy, nhu cầu giải trí của công
nhân lao động là rất cao nhưng khả năng đáp ứng của xã hội chưa thoả đáng.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề
tài gồm 3 chương, 7 tiết.

Chương 1
cơ sở thực tiễn về Nhu cầu giải trí
của công nhân lao động KCn hiện nay

1.1. Thao tác hoá khái niệm
1.1.1. Khái niệm nhu cầu
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội loài người vận động và phát triển theo quy
luật thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội, sự thay thế này chịu sự quy định của sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất này sẽ góp phần thoả mãn
những nhu cầu cơ bản, sống còn và thoả mãn những nhu cầu ngày một cao của con
người. Điều đó có nghĩa là nhu cầu kích thích lực lượng sản xuất. Mác viết: “không có
nhu cầu thì không có sản xuất”[27, tr.865].
Chứng tỏ, nhu cầu của con người không phải là bất biến mà nó biến đổi và phát
triển thường xuyên. Nhu cầu này được thoả mãn, kích thích, bị dập tắt, đồng thời xuất

hiện nhu cầu mới với những kích thích mới. Trong mỗi con người đều tồn tại một hệ
thống nhu cầu, nhu cầu nào lớn hơn thì sẽ chi phối các nhu cầu khác và đòi con người
phải đáp ứng nhu cầu đó. C. Mác khẳng định: “Bản thân các nhu cầu đầu tiên đã được
thoả mãn. Hoạt động và công cụ để thoả mãn đã có được đưa tới những nhu cầu mới, và
sự nảy sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên” [26, tr.40].
Nhưng bên cạnh đó, nhu cầu là một mâu thuẫn, vừa xuất hiện, lại vừa mất đi khi
nó hoàn toàn được thoả mãn, rồi lại nẩy sinh nhu cầu mới. Chính vì vậy, những nhu cầu
nhất định của con người là có tính lịch sử, cụ thể nhưng tổng các nhu cầu thì tồn tại vĩnh
viễn với đời sống hoạt động của con người. Do đó, hoạt động giải trí của công nhân lao
động hiện nay nhằm thoả mãn nhu cầu, cũng như tạo ra nhu cầu mới nhằm nâng cao đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của con người còn mang bản chất xã hội và nhân
văn của hoạt động chính bản thân họ. C. Mác đã khẳng định:
Cảm giác bị nhu cầu thực tiễn thô lậu cầm tù chỉ có một ý nghĩa hạn
hẹp. Đối với con người sắp chết đói thì không có hình thức người của thức
ăn, mà chỉ có sự tồn tại trừu tượng của nó với tính cách là thức ăn: Thức ăn

có thể có một hình thức thô lỗ nhất, và không không thể nói việc nuốt thức
ăn ở chỗ nào. Con người cùng khổ bị những nỗi lo lắng dầy vò hững hờ
ngay cả đối với một cảnh tượng tuyệt đẹp [28, tr.176].
Bất cứ một hoạt động nào của con người cũng là nhằm thoả mãn một nhu cầu nào
đó của bản thân. Nhưng nhu cầu với tư cách là một điều kiện bên trong, là trạng thái
thiếu thốn của cơ thể - trạng thái này tự nó không gây ra bất kỳ hoạt động nào có định
hướng nhất định. Chức năng của nó chỉ giới hạn trong việc phát động những chức năng
sinh lý tương ứng và kích thích chung đối với lĩnh vực vận dụng biểu hiện thành những
cử động tìm tòi không có phương hướng. Chỉ khi nào gặp được đối tượng đáp ứng thì
khi đó nhu cầu mới trở thành có năng lực hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động. Sự việc
nhu cầu gặp được đối tượng là sự việc đặc biệt lúc đó như cầu được đối tượng hoá làm
cho nhu cầu chứa đầy nội dung rút ra từ thế giới xung quanh.
Như vậy, các nhà khoa học cố gắng tập trung làm rõ khái niệm, đặc trưng chủ yếu
của nhu cầu của con người và xã hội. Chúng ta có thể thấy:

Dưới góc độ tâm lý cá nhân, vấn đề nhu cầu được tiếp cận với tư cách một cấu trúc
tâm lý quy định xu hướng nhân cách, khẳng định một cách hệ thống rằng “nhu cầu -
nguồn gốc bên trong tạo nên tính tích cực của con người”. Xuất phát từ quan điểm cho
rằng, nhu cầu là những đòi hỏi khách quan của mỗi người trong những điều kiện nhất
định đảm bảo cho sự sống và phát triển của con người. A.G. Côvaliov viết: “ Một nhu
cầu đã được con người phản ánh sẽ trở thành một trạng thái chủ quan, mọi thái độ của
cá nhân; nó có xu hướng điều chỉnh hành vi và hoạt động, xác định hướng suy nghĩ, tình
cảm và ý chí của người đó” và do đó có thể nói “trong nhu cầu có sự thống nhất giữa
khách quan và chủ quan” [12, tr.192].
Rõ ràng đối tượng thoả mãn nhu cầu luôn tồn tại một cách khách quan và không phải
tự nó bộc lộ ra khi chủ thể có cảm giác thiếu hụt hay đòi hỏi, mà chỉ khi nào con người thực
sự hoạt động thì nó mới được phát lộ ra. Chỉ nhờ kết quả của sự phát lộ ấy mà nhu cầu
được thúc đẩy, tức là trở thành động cơ. Mà A.N. Leonchiev cho rằng không phải nhu cầu,
không phải sự trải nhiệm về nhu cầu ấy mà động cơ là “một cái khách quan mà trong đó
nhu cầu tìm thấy bản thân mình trong những điều kiện nhất định. Cái khách quan ấy trở

thành hoạt động có đối tượng và nó hướng hoạt động vào một kết quả nhất định” [23,
tr.221].
Theo từ điển tóm tắt Xã hội học (tiếng Nga), “Nhu cầu là đòi hỏi điều gì đó cần
thiết để đảm bảo hoạt động sống của cơ thể, của nhân cách con người, của nhóm xã hội
hoặc toàn xã hội nói chung; là nguồn thôi thúc nội tại của hoạt động” [11, tr.243].
TS. Lê Thị Kim Chi, Viện Triết học đưa ra khái niệm: “Nhu cầu là những trạng
thái thiếu hụt và những đòi hỏi cần được đáp ứng của chủ thể (con người và xã hội) để
tồn tại và phát triển” [4, tr.29].
Theo quan điểm của Tâm lý học thì khái niệm “Nhu cầu” dùng để chỉ “sự đòi hỏi
tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển”
[40, tr.186].
“Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng cụ thể và nội dung của nó do những điều kiện
và phương thức thoả mãn quy định. Khi nào đối tượng của nhu cầu có khả năng đáp
ứng thì lúc đó nhu cầu trở thành động lực thúc đẩy sự hoạt động của các cá nhân hay

nhóm xã hội" [40, tr.187].
Nhu cầu của con người rất đa dạng, thường được chia thành 2 dạng chính đó là
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất: có liên quan mật thiết đến hoạt động của cơ thể và đôi khi được
mô tả như là các xung năng (drives) sơ cấp hoặc sinh lý. Chẳng hạn như xung năng tình
dục, xung năng đói. Đó là các nhu cầu bẩm sinh. Các nhu cầu vật chất thông thường ở
người là nhu cầu về thực phẩm, phương tiện sinh sống như nước, ô xy và nhu cầu bài
tiết, quần áo và nơi che chở để bảo vệ và giữ cơ thể ấm áp. Nhu cầu được hoạt động,
hoặc được kích thích cảm giác và vận động kể cả khoái cảm, tình dục, luyện tập thân
thể và nghỉ ngơi.
Nhu cầu tinh thần được nảy sinh trên cơ sở của nhu cầu vật chất và được nhu cầu
vật chất nuôi dưỡng. Nhu cầu tinh thần làm cho nhu cầu vật chất biến dạng cao thường
phức tạp thêm lên. Nhu cầu tinh thần cũng vô cùng đa dạng: Nhu cầu học tập, nhu cầu
làm khoa học nghệ thuật, chính trị, nhu cầu công bằng xã hội, nhu cầu vui chơi, giải trí.

Kế thừa và bổ sung tác giả đưa ra khái niệm nhu cầu: Nhu cầu là quá trình thoả
mãn một cái gì đó của con người để tìm tòi lấy được cân bằng, thì sẽ kích thích nhu
cầu mới và nhu cầu mới sẽ nổi lên, hoạt động mới sẽ xuất hiện nhằm thúc đẩy động
lực phát triển cá nhân và xã hội.
Tóm lại, khi nghiên cứu hệ thống nhu cầu của công nhân lao động khu công
nghiệp cần phải nghiên cứu điều kiện xã hội, điều kiện kinh tế, phong tục tập quán, đặc
điểm tâm lý của họ. Chính những điểm đó quy định hệ thống nhu cầu của con người.
Thường thì con người thực hiện một hành vi nào đó là để thoả mãn một hệ thống nhu
cầu. Trong hệ thống nhu cầu đó có những nhu cầu cấp thiết hơn nó thúc đẩy mạnh mẽ
con người tới hành vi và ta gọi những nhu cầu đó là nhu cầu nổi trội.
1.2.2. Khái niệm giải trí
Giải trí là dạng hoạt động mang tính chất tự do hơn các dạng hoạt động khác, nó
không hề mang tính cưỡng bức; con người có quyền lựa chọn theo sở thích, trong khuôn
khổ hệ chuẩn mực của xã hội. Nó là bước chuyển từ những hoạt động nghĩa vụ, bổn
phận sang những hoạt động tự nguyện. Nó đồng thời là những hoạt động không mang

tính vụ lợi nhằm mục đích giải toả sự căng thẳng tinh thần để đạt tới sự thư giãn, thanh
thản trong tâm hồn và cao hơn, đó là sự rung cảm về thẩm mỹ.
Từ điển Xã hội học: “Giải trí là một dạng hoạt động của con người, đáp ứng
những nhu cầu phát triển của con người về các mặt thể chất, trí tuệ và mỹ học” và
“Giải trí không chỉ là nhu cầu của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng
đồng” [41, tr.116].
Theo TS. Đinh Thị Vân Chi: “Giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi,
nhằm giải toả căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện phát
triển con người và lao động điều kiện phát triển con người một cách toàn diện về trí
tuệ, thể lực và thẩm mỹ” [6, tr.39-40].
Giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi để con người có thể thực hiện
nhiều hoạt động khác nhau: Có người tranh thủ làm thêm tăng thu nhập hoặc học thêm
để nâng cao trình độ; Cũng có người dùng thời gian rỗi để thực hiện những hoạt động
không hề có tác dụng gì đối với sự phát triển toàn diện cá nhân, thậm chí là vô bổ hoặc

có hại như ăn nhậu, rong chơi hoặc dính vào các tệ nạn xã hội những hoạt động lệch
chuẩn như vậy không thuộc nội hàm khái niệm giải trí.
Giải trí không phải là nghỉ ngơi thụ động mà là những hoạt động mang tính chủ
động. Tức là giải trí hoàn toàn tự do, do cá nhân lựa chọn và tham gia một cách chủ
động, không hề bị thúc bách bởi một nghĩa vụ, bổn phận nào. Tất nhiên cùng một hoạt
động, có thể là giải trí, có thể không là giải trí, tuỳ thuộc vào thời gian và mục địch hoạt
động. Có thể thấy cùng là chơi thể dục, thể thao thì đối với cầu thủ là hoạt động nghề
nghiệp, đối với công nhân lao động là hoạt động giải trí.
Theo Đoàn Văn Chúc, “giải trí là hoạt động sản xuất và tiêu dùng các các tác
phẩm văn hoá” [7, tr.28], tác phẩm văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng, là toàn bộ những
sản phẩm của các lĩnh vực thuộc nhu cầu tinh thần theo nghĩa rộng nhất. Để tạo ra sản
phẩm văn hoá trong khi giải trí là sáng tạo những sản phẩm tinh thần với nghĩa rộng
nhất, không chỉ là viết truyện làm, thơ, vẽ tranh theo sở thích, không chỉ là hoạt động
nghệ thuật không chuyên hoặc tham gia các câu lạc bộ năng khiếu, mà còn gồm cả giao
tiếp, tâm sự, tổ chức những cuộc vui chơi [6, tr.39].

Giải trí là sản phẩm của lao động. Lao động phải đạt tới trình độ phát triển nhất
định mới tạo được thời gian rỗi cho giải trí. Ngược lại, giải trí giúp con người phát triển
toàn diện, và nhờ vậy sẽ lao động tốt hơn. Nghĩa là có lao động thì mới có giải trí, giải
trí tốt sẽ lao động tốt, lao động tốt sẽ lại giải trí tốt hơn Lao động và giải trí nằm trong
mối tương tác chặt chẽ, chuyển hoá và hỗ trợ cho nhau, nên không có lao động thì
không có giải trí đích thực, không có giải trí thì con người như Robot và lúc đó không
cảm nhận được cuộc sống mà thôi, cũng không biết hưởng thụ những thành quả lao
động của chính mình.
Tác giả đưa ra khái niệm giải trí: “Giải trí là hoạt động của con người tạo hứng
thú, giúp con người sảng khoái, lấy lại tinh thần bù đắp sự mệt mỏi và căng thẳng của
trí não. Đồng thời, giải trí là nguồn động lực thúc đẩy tái tạo sức lao động, để con
người phát triển toàn diện về lực - trí - mỹ” .

Giải trí của công nhân lao động KCN sau một ngày làm việc căng thẳng và mệt
mỏi là các hoạt động như, xem ti vi, đọc sách báo, chơi thể dục thể thao, giao lưu bạn
bè, tâm tình tâm sự là chủ yếu để tái tạo sức lao động.
1.1.3. Khái niệm nhu cầu giải trí
Nhu cầu giải trí là nhu cầu hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi, vì không bị bức
bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi các nghĩa vụ cá nhân hoặc sự đòi
hỏi của nhu cầu vật chất, con người hoàn toàn tự do, thoát khỏi những băn khoăn, lo
lắng thường nhật. Khi đó, với sự thanh thản về trí óc, sự bay bổng về tâm hồn, con
người tìm đến hoạt động giải trí. Ví dụ, hoạt động giải trí của công nhân lao động khu
công nghiệp chủ yếu là xem ti vi, nghe đài, đọc sách báo… Theo tác giả Đoàn Văn
Chúc, trong bất kỳ xã hội nào cũng có 4 dạng hoạt động mà con người phải thực hiện
[7, tr.224-225]. Cụ thể là:
Thứ nhất, hoạt động lao động sản xuất để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cá
nhân và xã hội. Đó là nghĩa vụ xã hội của mỗi người.
Thứ hai, hoạt động thuộc các quan hệ cá nhân trong xã hội như nuôi dậy con cái,
chăm sóc gia đình, thăm viếng họ hàng, bạn bè… Đó là nghĩa vụ cá nhân của mỗi con
người.

Thứ ba, hoạt động thuộc đời sống vật chất của con người như nấu nướng, ăn uống,
nghỉ ngơi, vệ sinh cá nhân… Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu vật chất của mỗi người.
Thứ tư, hoạt động thuộc đời sống tinh thần của cá nhân như thưởng thức nghệ
thuật, chơi các trò chơi, sinh hoạt tôn giáo… Đó là hoạt động thoả mãn nhu cầu tinh
thần của mỗi người.
Qua bốn hoạt động giải trí trên thì hoạt động thứ nhất diễn ra trong khoảng thời
gian nghiêm ngặt, chặt chẽ. Còn ba hoạt động còn lại được thực hiện linh hoạt, theo cụ
thể của mỗi cá nhân và nó là hoàn toàn tự do mà cá nhân toàn quyền lựa chọn theo sở
thích, trong khuân khổ chuẩn mực của xã hội. Hoạt động giải trí trong thời gian rỗi là
hoạt động để con người bộc lộ rõ những khả năng tiềm ẩn của mình. Điều đó là có thể,
bởi giải trí là những hoạt động sở thích, giúp cá nhân bộc lộ và nâng cao khả năng mà
trong thời gian lao động không có điều kiện thể hiện [6, tr.47].

Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi xuất hiện nhu cầu giải trí,
con người bị thôi thúc hành động để thoả mãn nhu cầu đó. Nhu cầu giải trí thuộc các
bậc cao của thang nhu cầu con người do không gắn liền với sự tồn tại sinh học mà là sự
vươn cao, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần, tự hoàn thiện và tự khẳng định mình. Nhu
cầu giải trí cũng là một bộ phận quan trọng cấu thành các nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu giải trí là nhu cầu phát triển toàn diện trí não con người sau thời gian lao
động căng thẳng như những trò chơi trí tuệ nhằm rèn luyện khả năng phân tích, suy luận
và phán đoán, là điều kiện phát triển trí tuệ cho người chơi; những trò chơi vận động
nhất là các hoạt động thể dục, thể thao giúp người tham gia phát triển thể lực; những
hoạt động thưởng thức nghệ thuật như xem phim, đọc báo, nghe nhạc và những hoạt
động câu lạc bộ năng khiếu nghệ thuật như hát, ngâm thơ, múa là những hoạt động thiết
thực nhằm nâng cao năng lực thẩm mỹ của thể lực.
Qua phân tích trên, thì nhu cầu giải trí của công nhân lao động KCN thể hiện
thông qua những hoạt động giải trí mà họ thường tham gia sau giờ tan ca vào các ngày
thường và ngày nghỉ cuối tuần, ngày lễ, ngày tết. Qua thời gian, những hoạt động đó lặp
đi lặp lại, trở nên ổn định, thành thói quen. Khi đã trở thành thói quen, chúng được mô
hình hoá, khiến CNLĐ thực hiện nó một cách “tự động hoá” mỗi khi điều kiện cho

phép, Khi đó, có thể nói, các hoạt động giải trí của công nhân lao động đã trở thành thói
quen.
1.1.4. Khái niệm thời gian rỗi
Theo C. Mác, quỹ thời gian của cá nhân và xã hội được phân chia thành thời gian
lao động và thời gian tự do. Thời gian lao động là khoảng thời gian tất yếu mà mỗi cá
nhân buộc phải thực hiện công việc lao động để đảm bảo sự sinh tồn. Thời gian tự do là
khoảng thời gian còn lại ngoài thời gian lao động, dành cho những hoạt động mà cá
nhân có quyền tự quyết định, tức là thời gian không lao động.
Chính C. Mác cũng tiên đoán rằng ở xã hội tương lai lao động không còn cực nhọc
mà là lao động sáng tạo, mang lại niềm vui cho con người. Khi đó, thời gian rỗi tăng
chứng tỏ năng suất lao động đã đủ cao, tạo điều kiện cho con người thoát khỏi sự nặng
nhọc, vất vả của lao động để phát triển nhân cách đầy đủ và toàn diện [6, tr.28].

Thời gian tự do càng nhiều thì cơ cấu của nó càng phức tạp dần với những bộ phận
nhỏ dành cho hoạt động khác nhau. Về cấu trúc, thời gian nhàn rỗi hiện đại là một hiện
tượng phức tạp bao gồm nhiều dạng hoạt động khác nhau có hai chức năng cơ bản: chức
năng khôi phục lại sức lực cho cá nhân đã tiêu phí trong sản xuất và những nhiệm vụ
không thể không làm, và chức năng phát triển cá nhân về tinh thần và thể lực. Phân tích
nội dung của thời gian nhàn rỗi, có thể xem xét theo đối tượng của hoạt động (làm gì?)
hoặc theo tính chất của hoạt động (làm như thế nào?); trong đó, có thể xem xét chuẩn
đánh giá các dạng hoạt động theo tính chất: có ích, có hiệu quả tốt lành hay ngược lại ít
hiệu quả, có hại
Theo Đoàn Văn Chúc, thời gian rỗi theo cấp độ khác nhau [7, tr.239]: Thời gian
rỗi cấp ngày gồm hai dạng; dạng thứ nhất là khoảng nghỉ giữa buổi lao động để phục
hồi sức lao động; dạng thứ hai là khoảng nghỉ sau một ngày lao động và sau khi đã
hoàn thành nhiệm vụ cá nhân, đáp ứng mọi nhu cầu vật chất. Đây là thời gian dành cho
các hoạt động tinh thần. Thời gian rỗi cấp tuần, là gồm những ngày nghỉ cuối tuần.
Thời gian rỗi cấp năm, là kỳ nghỉ phép hay nghỉ hè hàng năm. Thời gian rỗi cấp đời
người, là thời gian nghỉ hưu. Nên thời gian rỗi với các cấp độ khác nhau cho phép con
người thực hiện những hoạt động giải trí khác nhau.

Theo Từ điển tóm tắt Xã hội học (tiếng Nga), thời gian rỗi được coi là khái niệm
đồng nghĩa với thời gian tự do, nghĩa là “phần thời gian ngoài giờ lao động của cá
nhân (nhóm xã hội) còn lại sau khi đã trừ đi chi phí thời gian cho những hoạt động cần
thiết không thể thiếu” [11, tr.299].
Theo TS. Đinh Thị Kim Chi: Thời gian rỗi là khoảng thời gian mà trong đó con
người không bị thúc bách bởi các nhu cầu sinh tồn, không bị chi phối bởi bất cứ nghĩa vụ
khách quan nào. Nó được dành cho các hoạt động tự nguyện, theo sở thích của chủ thể
nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người.
Qua phân tích trên có thể đưa ra khái niệm: “Thời gian rỗi là những khoảng thời
gian mà cá nhân không bị chi phối bởi các nội quy, quy chế làm việc. Thời gian đó dành
cho các hoạt động tự do, với sự thanh thản về trí óc, sự bay bổng về tâm hồn, họ tìm
đến những hoạt động giải trí nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần của họ”.

Thời gian rỗi của công nhân lao động KCN là những khoảng thời gian sau giờ tan
ca không bị chi phối bởi các nội quy, quy chế của doanh nghiệp. Thời gian đó dành cho
các hoạt động giải trí tự do tại nơi cư trú, giải trí theo nhóm cùng sở thích để đỡ buồn và
cô đơn.
1.1.5. Khái niệm khu công nghiệp
Ngày nay, KCN xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Mặc dù thuật ngữ
KCN được sử dụng khá phổ biến nhưng bản thân nó lại bao hàm nhiều loại hình, nhiều
mô hình tổ chức và tính chất hoạt động khác nhau. Một số nước KCN được hiểu là các
công viên công nghiệp (Industrial Parks). Có những KCN được gọi là cụm công nghiệp
(Industrial Clusters). Những KCN hoạt động chuyên về sản xuất hàng xuất khẩu với quy
chế miễn thuế nhập khẩu được gọi là khu chế xuất (KCX) (Export Processing Zones).
Khu công nghiệp cũng có thể là khu công nghệ cao (Hight tech centres) hoặc khu công
nghệ cao là một bộ phận của KCN.
Nghị định 36- CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ nêu rõ:
KCX là KCN tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất
hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu, có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ

tướng chính phủ quyết định thành lập .
Khu công nghệ cao là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ
thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm
nghiên cứu- triển khai khoa học- công nghệ, đào tạo và các dịch vụ liên
quan, có ranh giới địa lý xác định; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ
quyết định thành lập. Trong khu công nghệ cao có thể có doanh nghiệp chế
xuất [8, tr.12].
Ngoài ra, KCN còn có những hình thái biến tướng như khu công nghệ sinh học (Bio
Technology Park), khu công nghệ sinh thái (Eco Industrial Park)
Như vậy, KCN là một thuật ngữ để chỉ một vùng lãnh thổ quốc gia được xác định
ranh giới địa lý rõ ràng. Trong đó các doanh nghiệp công nghiệp tập trung đầu tư, hoạt
động, phát triển do có kết cấu hạ tầng tốt, có môi trường kinh doanh tốt (ưu đãi của nhà

nước về đất đai, tài chính) và có thị trường tốt (thị trường đầu vào, đầu ra và dịch vụ).
Đây là kết quả của quá trình tích tụ, tập trung, chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp
theo lãnh thổ, là hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của quá
trình CNH, HĐH nền kinh tế.
Quy chế KCN (Ban hành kèm theo nghị định số 192-CP ngày 28/12/1994 của
Chính phủ) đã đưa ra quan niệm: "KCN quy định trong quy chế này là KCN tập trung
do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định, chuyên sản xuất công
nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sống" [8,
tr.1].
Theo luật đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có hiệu lực thi hành từ
01/7/2006 thì: "Khu công nghiệp là khu sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định
của Chính phủ".
Nhìn chung, các tiêu chí để hình thành một khu công nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp nghiệp có đủ cơ sở pháp lý,
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống,

xây dựng theo quy hoạch tổng thể đã được Chính phủ phê duyệt.
Thứ ba, KCN phải do Chính phủ hoặc do Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập.
Khi muốn hình thành KCN đã có trong quy hoạch tổng thể thì UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương chỉ đạo việc lập báo cáo nghiên cứu khả thi thành lập KCN và trình Thủ
tướng chính phủ xem xét quyết định thành lập.
Thứ tư, trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất. Đó là các doanh nghiệp
chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ chuyên cho sản xuất hàng xuất
khẩu và hoạt động xuất khẩu.
Trên cơ sở 4 tiêu chí trên, chúng tôi thống nhất với khái niệm về KCN đã được nêu
ra trong nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ về Quy chế KCN, KCX và khu
công nghệ cao:

Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính
phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có
doanh nghiệp chế xuất [8, tr.7].
Với khái niệm như vậy, KCN của Việt Nam được hiểu là khu công nghiệp tập
trung, không có dân cư sinh sống nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề hạ tầng và ô nhiễm
môi trường, có phân biệt với các vùng công nghiệp (bao gồm nhiều KCN), với các đặc
khu kinh tế (có bộ máy quản lý hành chính độc lập). Do vậy, KCN Thăng Long, Nội Bài
và KCN Quang Minh là hai KCN lớn của Thành phố Hà Nội, cũng là mô hình KCN
hiện đại và sớm đi vào hoạt động. KCN Thăng Long còn nổi tiếng là KCN xanh, sạch,
đẹp, với 100% các nhà đầu tư đều áp dụng công nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi
trường. KCN Quang Minh gần 1000 ha, chuyên sản xuất hàng công nghiệp nổi tiếng,
công nghệ tiên tiến.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhu cầu giải trí
Nhu cầu giải trí là tất cả nội dung và cách thức, hình thức hoạt động giải trí nhằm
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và phát triển của con người trong điều kiện kinh tế - xã hội

nhất định. Đó cũng là quá trình hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hoá vì sự phát triển
của con người và cộng đồng. Đời sống văn hoá ở ngay trong cuộc sống hằng ngày,
trong mỗi con người, mỗi gia đình và cộng đồng nhất định.
Nhu cầu giải trí là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều vấn đề thiết thực, ở đây chỉ
đề cập đến ba vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng đời sống cho nhân dân phải
được tiến hành xây dựng nếp sống văn hoá. Ngay từ những năm 1946, trong công cuộc
kháng chiến kiến quốc, Người đã viết tác phẩm "Đời sống mới" rất sinh động, sâu sắc,
nhằm động viên, kêu gọi các tầng lớp nhân dân thực hành đời sống mới với tinh thần rất
rõ là: “Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được
vui mạnh hơn. Đó là mục đích đời sống mới” [29, tr.953].

Đời sống mới không phải cao xa gì, cũng không khó khăn gì. Nó không
bảo ai phải huy sinh chút ít. Nó chỉ sửa đổi những việc rất tầm thường rất phổ
thông trong đời sống của mọi người, tức là sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở,
cách đi lại, cách làm việc. Sửa đổi được những điều đó thì mọi người được
hưởng hạnh phúc [29, tr.345].
Quan điểm xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức rõ ràng, cụ
thể, thiết thực, có kế thừa, bảo tồn, phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp mang
tính truyền thống, loại trừ những hủ tục lạc hậu, không phù hợp: “Đời sống mới không
phải cái gì cũng bỏ hết, không phải cái gì mới cũng làm. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng
phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý. Thí dụ: Đám cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải
giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm. Thí dụ: ta phải tương thân, tương
ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân", "Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: ăn
ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp" [29, tr.95]. Theo Người, nếu mọi người
đều làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường, mang lại hiệu quả to
lớn, có tác động tích cực trở lại cho phong trào xây dựng gia đình văn hoá, góp phần
thúc đẩy kinh tế phát triển, làm thay đổi diện mạo đời sống ở cơ sở, nhất là những vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Thực hiện xây dựng nếp sống văn hoá và tham gia toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá là thực hiện đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh: “Chúng ta đồng tâm mà

làm, quyết tâm mà làm thì đời sống mới nhất định thực hiện được. Mong toàn thể đồng
bào gắng sức theo đời sống mới, xây dựng một nước Việt Nam phú cường” [29, tr.110].
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế kéo theo nhu cầu giải trí của công
nhân lao động ngày càng gia tăng. Điều đó đòi hỏi lãnh đạo các cấp không chỉ chăm lo
cuộc sống vật chất phát triển mà còn phải chăm lo đời sống tinh thần bền vững, lành
mạnh. Điều này muốn thực hiện được phải thông qua hoạt động của hệ thống thiết chế
văn hoá trực tiếp phục vụ cuộc sống của nhân dân. Đó là thiết chế văn hoá thông tin cơ
sở, cầu nối gần gũi giữa Đảng, Nhà nước với người lao động là nơi giải trí sinh động;
nơi cất giữ các trang thiết bị, công cụ phục vụ nhu cầu giải trí, sinh hoạt văn nghệ, thông
tin ở cơ sở. Thiết chế văn hoá thông tin cơ sở phục vụ đắc lực cho việc hoàn thành các

nhiệm vụ chính trị của trung ương và địa phương. Nó là công cụ tư tưởng văn hoá sắc
bén hiệu quả của Đảng và chính quyền các cấp.
Theo tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh, xây dựng đời sống mới phải gắn liền với
việc xây dựng môi trường văn hoá. Môi trường văn hoá bao gồm cả giá trị di sản văn
hoá truyền thống và cách mạng, những giá trị sáng tạo mới và tinh hoa văn hoá nhân
loại. Môi trường văn hoá là sự kết hợp hài hoà giữa môi trường xã hội và môi trường tự
nhiên, có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Môi trường văn
hoá ở cơ sở bao gồm các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp, công - nông - lâm trường, trường
học, bệnh viện, các khu dân cư như làng, ấp, bản, xã, phường, khu phố Bảo đảm môi
trường văn hoá lành mạnh, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập, tiếp nhận thông
tin, thưởng thức nghệ thuật, vui chơi giải trí của mọi thành viên là cái cần có để phòng,
chống tốt nhất tệ nạn xã hội.
Hồ Chí Minh coi việc đầu tư cho giải trí là đầu tư cho con người, phát triển văn
hoá chính là phát huy nguồn lực con người - nguồn lực to lớn và quyết định nhất đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tạo cho con người có trình độ văn hoá cao, nhân
cách đẹp và vị tha, giàu lòng yêu nước, có ý thức trách nhiệm đối với xã hội là việc làm
thường xuyên và lâu dài. Bởi vậy, Người đã hết lòng chăm lo cho việc đào tạo, bồi dưỡng
nhân tố con người.
"Vì lợi ích mười năm trồng cây

Vì lợi ích trăm năm trồng người"
Trong điều kiện xã hội diễn biến càng phức tạp, chúng ta càng tin tưởng rằng
phong trào xây dựng đời sống văn hoá cơ sở với nếp sống văn minh, lành mạnh, thiết
chế văn hoá thông tin cơ sở hoàn chỉnh và môi trường văn hoá trong lành sẽ là nhân tố
đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" đi tới thành công.
Xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở và các nội dung mục tiêu đạt được sẽ trở thành pháo
đài vững chắc trước các thế lực thù địch, chống lại có hiệu quả đánh bại các biểu hiện
phản văn hoá và các tệ nạn xã hội mà không một loại hình, phương thức hoạt động nào
có thể thay thế hữu hiệu hơn.

1.2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về nhu cầu giải trí
Mặc dù không đề cập trực tiếp tới giải trí và không sử dụng khái niệm giải trí,
nhưng Đảng và Nhà nước ta coi các hoạt động vui chơi lành mạnh, văn hoá - văn nghệ -
thể thao là một bộ phận không thể thiếu của đời sống văn hoá - tinh thần của nhân dân.
Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc
tế, công nhân lao động ngày càng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Xây dựng và phát
huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ hiện nay là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của Đảng và Nhà nước ta, trong đó xây dựng đời sống tinh thần cho công
nhân lao động là một nhiệm vụ hết sức quan trọng và là vấn đề cấp thiết, bởi vì nó đã
trở thành một nhu cầu sinh hoạt không thể thiếu được đối với con người.
Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) đã khẳng định: “phải đưa văn hoá thâm
nhập vào cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đặc biệt chú trọng xây dựng đời sống
văn hoá ở cơ sở, bảo đảm mỗi nhà máy, công trường, mỗi cơ quan, trường học, bệnh
viện đều có đời sống văn hoá”, “Chú trọng xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở, đưa
văn hoá văn nghệ đến các vùng kinh tế mới, vùng căn cứ cách mạng cũ, vùng dân tộc
thiểu số và các vùng xa xôi, hẻo lánh, quan tâm các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi
khác nhau. Xây dựng và củng cố các nhà văn hoá, câu lạc bộ, thư viện, bảo tàng, công
viên văn hoá”, đã chỉ rõ nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hoá lành mạnh, đáp ứng những
nhu cầu văn hoá đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp cư dân.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta cũng xác định

chiến lược phát triển văn hoá theo định hướng:
Tạo điều kiện để nhân dân ngày càng nâng cao trình độ thẩm mỹ và
thưởng thức nghệ thuật, trở thành những chủ thể sáng tạo văn hoá, đồng
thời hưởng thụ ngày càng nhiều các thành quả văn hoá. Nâng cao chất
lượng hệ thống bảo tàng lịch sử, bảo tàng cách mạng; đẩy mạnh xây dựng
thư viện, nhà văn hoá, nhà thông tin, câu lạc bộ sức khoẻ, sân bãi thể dục
thể thao, khu vui chơi giải trí… [15, tr.114-115].
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng chỉ rõ:

×