LUẬN VĂN:
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ
Vĩnh Phúc đối với Hội đồng nhân dân tỉnh
giai đoạn hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết
định những chủ trương biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa
phương, xây dựng địa phương về kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, không
ngừng cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân và thực hiện quyền giám sát
với Thường trực HĐND, UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng
cấp, giám sát việc thi hành pháp luật và các nghị quyết của HĐND đối với các
cơ quan nhà nước các tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị vũ trang và công dân địa
phương.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo hệ thống chính trị và là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo và
phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính
trị-xã hội hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tổ chức và hoạt
động của HĐND các cấp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là vấn đề có
tính nguyên tắc trong toàn bộ tổ chức và hoạt động của HĐND.
Tỉnh Vĩnh Phúc nằm ở Tây - Bắc Thủ đô Hà Nội trong vùng kinh tế trọng
điểm bắc bộ, nối liền Thủ đô với các tỉnh Tây Bắc của Tổ quốc có tổng diện tích
tự nhiên 1.231,76 km
2
, dân số trên một triệu người, bao gồm 9 đơn vị hành
chính cấp huyện và 137 đơn vị hành chính cấp cơ sở. Là tỉnh có vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo qui định của Hiến pháp, chính quyền địa phương được chia thành 3
cấp, do vậy HĐND cũng được hình thành ở 3 cấp: HĐND tỉnh, HĐND các
huyện, thị xã, thành phố và HĐND các xã, phường, thị trấn.
Trong những năm qua, cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực kinh
tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, các cấp uỷ đảng ở Vĩnh Phúc đã nhận thức đúng
đắn vị trí, vai trò của HĐND, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, giải
quyết tốt mối quan hệ lãnh đạo giữa Đảng và chính quyền vừa phát huy được vai
trò của Nhà nước vừa giữ được sự lãnh đạo của Đảng. Hoạt động của HĐND
các cấp ngày càng thực chất và hiệu quả hơn, góp phần phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, thúc đẩy kinh tế-xã hội
ngày càng phát triển. Vĩnh Phúc đã trở thành tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, vùng Thủ đô với tốc độ tăng trưởng cao và cơ cấu kinh tế chuyển
dịch ngày càng đúng hướng, chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được
giữ vững.
Tuy nhiên, ở một số nơi cấp uỷ đảng (nhất là ở cơ sở) chưa làm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của HĐND, chưa phát huy được vai trò của HĐND, UBND, chưa đề
cao ý thức chấp hành các nghị quyết của HĐND. Nhiều cấp uỷ đảng còn lúng
túng trong phương thức lãnh đạo đối với HĐND, chưa có định hướng kịp thời
trong việc kiện toàn, củng cố tổ chức, trong việc duy trì các hoạt động của
HĐND, chưa kiểm tra sát sao việc thực hiện các nghị quyết và giải quyết các
kiến nghị của đại biểu HĐND.
Mặt khác, điều kiện bối cảnh quốc tế hiện nay còn nhiều diễn biến phức
tạp, khó lường. Các thế lực thù địch, phản động quốc tế vẫn điên cuồng chống
phá cách mạng Việt Nam, chúng dùng mọi thủ đoạn nhằm hạ thấp uy tín và vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ giữa
Đảng với Nhà nước làm cho Đảng ta suy yếu tiến tới xoá bỏ sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hiện nay, nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do
Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Tuy đã đạt được một số kết quả nhưng nhìn
chung bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, sự phân công nhiệm
vụ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp nhiều khi chưa cụ thể, tính
thống nhất của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước chưa cao, hiệu lực, hiệu
quả quản lý của bộ máy nhà nước còn hạn chế. Để thiết thực thực hiện tinh gọn
bộ máy nhà nước, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII đã ra nghị quyết về việc
thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Theo tinh thần nghị quyết
này, tỉnh Vĩnh Phúc sẽ thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND ở 7 huyện và 13
phường. Đây là nét mới trong thể chế hành chính, thể chế chính trị ở nước ta.
Nhiều qui định trong Hiến pháp và pháp luật hiện hành sẽ phải điều chỉnh lại
một số chức năng, nhiệm vụ của HĐND huyện, phường sẽ phải giao cho
HĐND cấp trên, các tổ chức chính trị xã hội khác. Mối quan hệ công tác giữa
Mặt trận Tổ quốc, UBND, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân sẽ phải
điều chỉnh lại…
Nhằm tiếp tục nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HĐND tỉnh thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời đảm bảo sự lãnh
đạo thường xuyên, kịp thời và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, khắc phục
những hạn chế, yếu kém trong sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và tìm ra những giải pháp
trong thời gian tới, việc nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ: “Đổi mới phương thức
lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với Hội đồng nhân dân tỉnh giai đoạn hiện
nay” là có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhiều
người nghiên cứu trong các chương trình, đề tài khoa học, đã công bố ở một số
tạp chí, nhà xuất bản trong nước. Phương thức lãnh đạo của Đảng bao giờ cũng
gắn với vấn đề Nhà nước. Vấn đề này cũng đã được nhiều cơ quan và nhiều cán
bộ khoa học của Đảng và Nhà nước nghiên cứu.
Đề tài khoa học cấp nhà nước có: Chương trình KHXH.05-Đề tài KHXH.
05. 04: Phương thức lãnh đạo của Đảng – Thực trạng và một số giải pháp đổi
mới (Báo cáo khoa học.Lưu hành nội bộ), Hà Nội, 1998, GS.TS Nguyễn Phú
Trọng – PGS.TS Tô Huy Rứa – PGS.TS Trần Khắc Việt: Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới (Sách tham khảo), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, GS.TS Mạch Quang Thắng (Chủ biên): Vấn
đề đảng viên và phát triển đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Đề tài cấp nhà
nước KHXH 05 03 “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” do
đồng chí Trần Đình Nghiêm làm chủ biên, GS-TS Trần Ngọc Quang-TS Ngô
Kim Ngân (đồng chủ biên) “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân
và vì dân” (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, Đề tài cấp nhà
nước KX 05 06 (1994) “Đặc điểm nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng trong
hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn thể chính trị
xã hội”, do PGS Vũ Hữu Ngoạn làm chủ nhiệm, Viện Xây dựng Đảng thuộc Viện
Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ quan chủ trì.
Luận văn thạc sĩ đã bảo vệ ở cơ sở đào tạo Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh có: Trần Vĩnh Tuyến: “Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Thành uỷ đối với chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ (2005). Tô Văn Minh:“Sự lãnh đạo của huyện uỷ đối với chính quyền
huyện Đông Anh thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ
(2006). Trần Văn Tường: Sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính
quyền cơ sở ở huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ (2006). Nguyễn Vinh Hà: Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ,
(2007).
Các bài đăng trên tạp chí có: Nguyễn Trọng Phúc (2000), Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 9, tr 18-22. Lê Hữu Nghĩa (2001), Đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng và sự quản lý của chính quyền cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, số 19. Lê Đức
Bình (2003), “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước”, Tạp chí Cộng sản, số 19, tr. 26-30. Phạm Ngọc Quang-Nguyễn Khánh
(2004), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội”,
Tạp chí Cộng sản, số 9. GS.TS Mạch Quang Thắng: Về vấn đề tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2008.
Các đề tài khoa học, luận văn, bài báo khoa học trên đây chủ yếu đi vào
nghiên cứu những vấn đề lớn, những vấn đề chung về phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước thường là ở cấp Trung ương, chưa đề cập vấn đề đổi mới
phương thức lãnh đạo của cấp Tỉnh uỷ đối với HĐND cùng cấp. Riêng đối với
Vĩnh Phúc cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu vấn đề
đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với HĐND tỉnh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như phương
hướng và những giải pháp chủ yếu đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ
Vĩnh Phúc đối với HĐND cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phương thức lãnh
đạo của của Tỉnh uỷ đối với HĐND tỉnh trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng
như kinh nghiệm đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với Hội đồng
nhân dân tỉnh ở một số địa phương hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với
HĐND tỉnh những năm qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để Tỉnh uỷ Vĩnh
Phúc tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo HĐND tỉnh.
- Đề xuất, kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương
về các vấn đề liên quan đến đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
HĐND cấp tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu việc đổi mới phương thức lãnh đạo của
Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với HĐND tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với HĐND
tỉnh trên các khía cạnh về đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND tỉnh, đổi mới phương thức
lãnh đạo đối với công tác tổ chức và đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức lãnh
đạo hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của
công dân. Gắn với các nội dung này là các nhân tố ảnh hưởng đến việc đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HĐND tỉnh về nhận thức, về sự chỉ đạo,
phối hợp về điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện và điều kiện làm việc của Tỉnh
uỷ và HĐND tỉnh.
Thời gian nghiên cứu là từ đầu nhiệm kỳ, tức là từ năm 2004 đến nay và đề
xuất giải pháp từ nay đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
Việc nghiên cứu luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị,
lãnh đạo và phát huy vai trò của Nhà nước (trong đó có HĐND), lãnh đạo Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội khác.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn phương thức lãnh đạo của
một số tỉnh và Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với tổ chức và hoạt động của HĐND tỉnh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn kết hợp
sử dụng các phương pháp: phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích, phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp tổng kết
thực tiễn Trong đề tài này tác giả luận văn đã sử dụng những kinh nghiệm
trong thực tế công tác lãnh đạo của Tỉnh uỷ các tỉnh: Lạng Sơn, Sơn La, Thái
Nguyên và Phú Thọ cũng như thực tế công tác lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc
đối với HĐND tỉnh những năm gần đây phục vụ cho công tác nghiên cứu của
mình.
6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phương thức lãnh
đạo của của Tỉnh uỷ đối với HĐND tỉnh trên cơ sở khái quát các quan điểm của
Đảng, cũng như kinh nghiệm đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với
Hội đồng nhân dân tỉnh ở một số địa phương hiện nay.
- Đánh giá thực trạng phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đối với
HĐND tỉnh những năm qua, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
hạn chế.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để Tỉnh uỷ tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo HĐND tỉnh.
- Kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương về các
vấn đề liên quan đến đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ đối với HĐND
cấp tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm có 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA TỈNH UỶ VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỈNH UỶ VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH PHÚC
1.1.1. Một vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội, cách trung
tâm Thủ đô Hà Nội 50 km và nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Phía Bắc
giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ. Phía
Đông và phía Nam giáp Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính
cấp huyện bao gồm: Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên, các huyện: Bình
Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường và Yên Lạc với
diện tích tự nhiên 1.231,76 km
2
. Dân số 1.000.800 người (theo tổng điều tra dân số
1/4/2009) với mật độ dân số 813 người/km
2
.
Vĩnh Phúc nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai. Là
cầu nối giữa các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc với Thủ đô Hà Nội, liền cảng
hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 nối thông với cảng Hải
Phòng qua quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai tạo điều kiện giao
lưu với các trung tâm kinh tế công nghiệp Côn Minh, Lào Cai và các vùng giáp
Hà Giang của Trung Quốc.
1.1.1.1. Về điều kiện tự nhiên
Vĩnh Phúc nằm trong vùng chuyển tiếp giữa vùng gò đồi trung du với vùng
đồng bằng châu thổ sông Hồng. Do vậy địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông
Nam và chia làm 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và miền núi.
Vùng núi chiếm phần lớn diện tích của huyện Sông Lô, Lập Thạch, Tam
Đảo, 4 xã của huyện Bình Xuyên và 1 xã của thị xã Phúc Yên.
Vùng trung du chiếm phần lớn diện tích huyện Tam Dương, Bình Xuyên
và thành phố Vĩnh Yên.
Vùng đồng bằng chiếm phần lớn diện tích huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc và
thị xã Phúc Yên.
Sự phân biệt thành 3 vùng sinh thái rõ rệt cùng với khí hậu nhiệt đới gió
mùa và 2 con sông chính là sông Hồng, sông Lô và rừng quốc gia Tam Đảo với
nhiều danh lam thắng cảnh tạo cho Vĩnh Phúc sớm có điều kiện phát triển và có
nhiều giá trị văn hoá ưu việt.
1.1.1.2. Về lịch sử phát triển và các giá trị văn hoá cộng đồng
Có thể nói cùng với cả nước, lịch sử phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc gắn liền
với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Vĩnh Phúc
nổi tiếng với khu di chỉ Đồng Đậu được xem là cái nôi của người Việt cổ. Nhiều
di tích trên địa bàn Vĩnh Phúc gắn liền với thời đại Hùng Vương và nền văn hoá
Văn Lang (Đền Quốc mẫu Tây Thiên thờ bà Lăng Thị Tiêu vợ của Vua Hùng
thứ 7). Các danh tướng và anh hùng dân tộc: Hai Bà Trưng, Trần Nguyên Hãn,
Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Thái Học, Đội Cấn… Trong kháng chiến chống
Pháp trên đất Vĩnh Phúc đã diễn ra nhiều chiến công hiển hách như chiến thắng
Xuân Trạch, chiến dịch Trần Hưng Đạo. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ tỉnh là
nơi bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, có các anh hùng quân đội tiêu biểu như Trần Cừ,
Nguyễn Viết Xuân… có những con người sáng tạo, năng động như đồng chí
Kim Ngọc Cho đến nay Vĩnh Phúc vẫn mang đậm dấu ấn của nền văn hoá
Hùng Vương, Kinh Bắc, Thăng Long, của nền văn hoá dân gian đặc sắc, khoa
bảng với lối sống và các chuẩn mực đạo đức luôn được giữ gìn và phát huy cho
đến ngày nay.
Các giá trị văn hoá truyền thống được lưu lại thông qua các di tích lịch sử
văn hoá đa dạng. Toàn tỉnh có 967 di tích lịch sử văn hoá trong đó có 288 di tích
được xếp hạng cấp quốc gia nổi bật là cụm di tích Tây Thiên, tháp Bình Sơn, di
chỉ Đồng Đậu… cùng với các lễ hội, các trò chơi dân gian, văn hoá nghệ thuật,
thi ca, ẩm thực đặc sắc.
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập ngày 12/2/1950 trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh
Vĩnh Yên và Phúc Yên. Năm 1968 tỉnh Vĩnh Phúc sáp nhập với tỉnh Phú Thọ
hình thành tỉnh Vĩnh Phú. Sau 28 năm xây dựng và phát triển, năm 1997 tỉnh
Vĩnh Phú lại tách ra thành 2 tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Cũng trong quá trình ấy
các huyện thị và đơn vị hành chính cũng thường xuyên được điều chỉnh. Tháng 8
năm 2008, theo Nghị quyết Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành
phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan, theo đó huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh
Phúc chuyển về thành phố Hà Nội. Ngày 23 tháng 12 năm 2008 Thủ tướng Chính
phủ có Nghị định số 09/CP về việc thành lập huyện Sông Lô trên cơ sở tách một số
xã từ huyện Lập Thạch. Như vậy tính đến nay tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành
chính cấp huyện và 137 xã, phường, thị trấn.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2009 Vĩnh Phúc có 1.000,8 ngàn
người. Dự kiến năm 2010 là 1.012 ngàn người. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 11,3-
11,7% trong đó dân số đô thị chiếm gần 22,4%, nông thôn 77,6%. Trong những
năm tới cùng với việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá ngoài số lượng dân số tăng tự nhiên, dự kiến có một số lượng đáng
kể lao động ngoài tỉnh đến làm việc tại Vĩnh Phúc trong các khu công nghiệp và
các hoạt động kinh tế - xã hội khác. Chính vì vậy, dự báo dân số Vĩnh Phúc sẽ
gắn liền với việc phát triển kinh tế- xã hội và thu hút lao động đến Vĩnh Phúc
nên dân số của Vĩnh Phúc sẽ là tương đối trẻ, lực lượng lao động trong độ tuổi
chiếm tỉ lệ khá cao, khoảng 70% dân số.
Toàn tỉnh có 11 dân tộc anh em sinh sống trong đó dân tộc Kinh chiếm đa
số: 95,72% còn lại là các dân tộc thiểu số như: Sán dìu, Cao Lan, Nùng, Dao,
Tày, Mường, Ngái, Lào, Hoa, Thái… chiếm 4,28% dân số. Trong số đó dân tộc
Sán Dìu chiếm tỉ lệ cao nhất (3,93%) còn lại là các dân tộc thiểu số khác. Người
dân Vĩnh Phúc hiếu học, cầu thị, có ý thức tìm tòi đổi mới và sáng tạo đó chính
là động lực cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội trên địa bàn
tỉnh.
Tất cả những đặc điểm xã hội và nhân văn nêu trên là tiền đề cơ sở tạo nên
sức mạnh cho tỉnh trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá những năm
qua và những năm tiếp theo.
1.1.1.3. Về kinh tế
Sau hơn mười năm tái lập tỉnh, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, Đảng
bộ Vĩnh Phúc đã đoàn kết, nhất trí, tranh thủ thời cơ, phát huy lợi thế, vượt qua
khó khăn thử thách. Đã quán triệt và vận dụng sáng tạo các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, xác định rõ mục tiêu và có
hướng đi đúng, tích cực nên đã tìm ra các giải pháp đột phá tạo môi trường
thuận lợi nhằm giải phóng sức sản xuất của nền kinh tế. Thu hút mọi nguồn lực
bên trong và bên ngoài cho đầu tư phát triển và đạt được nhiều kết quả quan
trọng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Nền kinh tế duy trì được tốc độ tăng trưởng cao bình quân 10 năm (1997-
2007) tăng 17,5% trong đó công nghiệp xây dựng tăng 33,1%, dịch vụ tăng
15,3%, nông lâm thuỷ sản tăng 5,4%. Thu ngân sách tăng từ 114 tỉ đồng năm
1997 lên 5.642 tỉ đồng năm 2007 và 9.200 tỉ đồng năm 2008. Chi ngân sách năm
2007 là 4.356 tỉ đồng năm 2008 là 6.600 tỉ đồng. Từ năm 2004 tỉnh đã cân đối
được thu, chi ngân sách và có đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung ương.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp
dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Đầu năm 2007 tỉnh Vĩnh Phúc có cơ cấu kinh
tế là: Công nghiệp: 61,06%, dịch vụ: 24,69%, nông nghiệp: 14,25%.
Thu hút đầu tư tăng mạnh trong hơn 10 năm tỉnh đã thu hút được trên 600
dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký gần 4 tỷ USD. Trong đó có 170 dự án có
vốn đầu tư nước ngoài (FDI ) và 465 dự án có vốn đầu tư trong nước (DDI ).
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 25 lần so với năm 1997 (đạt 343,8 triệu
USD), nhập khẩu tăng 163 lần so với 1997 (chủ yếu là linh kiện phụ tùng cho
các nhà máy công nghiệp).
1.1.1.4. Về văn hoá xã hội
Các lĩnh vực văn hoá xã hội tiếp tục phát triển ổn định vững chắc, chất
lượng giáo dục đại trà, giáo dục mũi nhọn được nâng cao. Tỉ lệ trẻ từ 3-5 tuổi
được học mầm non đạt 90%. Có 98% học sinh tốt nghiệp THCS được học
THPT, bổ túc THPT, học nghề. Tỉ lệ học sinh trúng tuyển vào các trường đại
học, cao đẳng hàng năm trên 30% (năm 2008-2009 bình quân điểm thi vào đại
học đứng thứ 7 cả nước, có 5 trường THPT nằm trong top 100 trường có chất
lượng cao). Năm 2009 là năm thứ 10 liên tiếp tỉnh Vĩnh Phúc có học sinh đạt
giải trong các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực.
Công tác bảo vệ chăm sóc sức khoẻ nhân dân được quan tâm, hệ thống y tế
từ tỉnh đến cơ sở được củng cố và phát triển. Đến năm 2008 toàn tỉnh có
130/137 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế xã. Công tác đào tạo
nghề, giải quyết công ăn việc làm được chú trọng, tỉ lệ lao động qua đào tạo tính
đến năm 2008 đạt 42,9%. Tỉ lệ hộ nghèo giảm từ 18,07% còn 10,4%.
Tỉnh Vĩnh Phúc rất chú trọng việc thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Thực hiện tốt các chính sách đối với các gia đình thương binh, liệt sỹ, những
người có công, quan tâm đến người nghèo, hộ nghèo, những người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn. Vĩnh Phúc đã hoàn thành việc xoá nhà tạm, nhà tranh, tre,
nứa, lá cho các hộ nghèo. Ngoài việc chỉ đạo thực hiện tốt các chính sách của
Trung ương, tỉnh còn bổ sung, ban hành nhiều chính sách mới được nhân dân
đồng tình ủng hộ.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh uỷ
Vĩnh Phúc
1.1.2.1. Về cơ cấu tổ chức
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 13 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ (9 Đảng
bộ huyện, thị, thành và 4 Đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ là: Đảng bộ Khối cơ quan
Dân Chính Đảng tỉnh, Đảng bộ Công an tỉnh, Đảng bộ Quân sự tỉnh và Đảng bộ
Khối doanh nghiệp tỉnh). Toàn Đảng bộ tỉnh có 577 tổ chức cơ sở đảng trong đó
có 259 Đảng bộ, 326 chi bộ cơ sở, các cơ quan hành chính, 91 chi Đảng bộ cơ
sở các đơn vị sự nghiệp, 48 chi Đảng bộ lực lượng vũ trang còn lại là loại hình
doanh nghiệp và các loại hình khác với 2.514 chi bộ trực thuộc Đảng bộ cơ sở.
Toàn tỉnh có 46.180 đảng viên (tính đến hết năm 2008). Có 2.549 cấp uỷ
viên cơ sở trong đó 1785 cấp uỷ viên thuộc Đảng bộ xã, 236 cấp uỷ viên thuộc
Đảng bộ phường và 136 cấp uỷ viên thuộc lực lượng vũ trang. Có 285 cấp uỷ
viên cấp huyện.
Ban Chấp hành Đảng bộ tinh Vĩnh Phúc gồm 49 đồng chí. Trong đó: nam
45 đồng chí chiếm 91,84%, nữ: 4 đồng chí chiếm 8,16%.
- Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ: 01 đồng chí chiếm 2,12%, Thạc sỹ: 12
đồng chí chiếm 25,53%, Đại học: 36 đồng chí chiếm 73,47%.
- Trình độ lý luận chính trị: Đại học: 33 đồng chí chiếm 70,21, Cao cấp lý
luận: 16 đồng chí chiếm 32,65%
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ:
- Tổng số : 12 đồng chí (nữ : 0)
- Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ: 6 đồng chí chiếm 50%, Đại học: 6 đồng
chí chiếm 50%
- Trình độ Đại học lý luận chính trị: 10 đồng chí chiếm 83,33%, Cao cấp lý
luận chính trị: 2 đồng chí chiếm 16,67%
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ có các ban chuyên môn và các cơ quan giúp việc
bao gồm: Ban Tổ chức, Ban Tuyên giáo, Ban Dân vận, Uỷ ban Kiểm tra, Báo
Vĩnh Phúc, Trường chính trị và Văn phòng Tỉnh uỷ.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các Sở, ban, ngành đoàn thể tỉnh:
Tổng số: 235 đồng chí,Trong đó nữ 23 đồng chí chiếm 10,36%
Nhìn chung đội ngũ cán bộ tỉnh Vĩnh Phúc có lập trường, quan điểm, bản
lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với sự nghiệp đổi mới của Đảng, năng động
sáng tạo trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, nhiều đồng chí
được rèn luyện qua thực tiễn, trưởng thành về mọi mặt, có ý thức tổ chức kỷ
luật, trung thực, gương mẫu về đạo đức, lối sống, lời nói đi đôi với việc làm
được quần chúng tín nhiệm có tinh thần chủ động, sáng tạo, trình độ chuyên
môn và lý luận ngày càng được nâng lên.
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc
Theo quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc khoá 14
nhiệm kỳ 2005-2010, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh có chức năng, nhiệm vụ sau:
Quyết định chương trình công tác toàn khoá, hàng năm và quy chế làm
việc của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Chuẩn bị nội dung chương trình Đại hội
và nhân sự Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá mới, quyết định triệu tập đại hội
Đảng bộ tỉnh. Thảo luận và quyết định các chủ trương, biện pháp và chỉ đạo thực
hiện các nghị quyết của Trung ương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh.
Tổng kết những chuyên đề về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, xây
dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, căn cứ vào nội dung, tính chất của từng
lĩnh vực, Tỉnh uỷ ra nghị quyết hoặc kết luận. Thảo luận về việc điều chỉnh địa
giới hành chính cấp tỉnh, cấp huyện.
Quyết định những nội dung về công tác xây dựng Đảng, những vấn đề
quan trọng về công tác cán bộ, về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của
Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Bầu uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Bí
thư, Phó Bí thư, uỷ viên Uỷ ban Kiểm tra Tỉnh uỷ. Xem xét, giới thiệu và đề
nghị bổ sung uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Giới thiệu chức danh Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh để Hội đồng nhân dân tỉnh bầu. cho ý kiến về chủ trương, định hướng
lớn đối với những vấn đề đặc biệt quan trọng của Hội đồng nhân dân trước khi
thảo luận và thông qua.
Quyết định một số vấn đề lớn, quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại, các chương trình, dự án trọng điểm về đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, kinh tế đối ngoại liên quan đến đời sống của
nhân dân địa phương, chủ trương đầu tư các dự án đặc biệt của tỉnh.
Xem xét kỷ luật đối với Tỉnh uỷ viên theo quy định của Điều lệ Đảng.
Xem xét các vấn đề khác mà Thường vụ Tỉnh uỷ thấy cần phải trình Tỉnh uỷ
thảo luận và quyết định.
1.1.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ
Tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV, các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh uỷ. Xây dựng chương
trình công tác năm của Ban Thường vụ đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Tỉnh
uỷ. Lãnh đạo việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và kế
hoạch hàng năm về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, công
tác xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể.
Định hướng về phát triển những ngành kinh tế, những vấn đề xã hội quan
trọng của tỉnh, các chủ trương chính sách, giải pháp lớn có quan hệ với phát
triển kinh tế - xã hội, định hướng kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản hàng năm.
Xem xét quy định những chủ trương, chính sách liên quan rộng rãi tới cán bộ,
nhân dân trong tỉnh (trừ những vấn đề thuộc nhiệm vụ của Tỉnh uỷ). Xem xét
các quy hoạch liên quan đến vùng sản xuất nông lâm, phát triển đô thị, khu công
nghiệp, khu du lịch.
Thống nhất chủ trương về các phương án liên doanh với nước ngoài, các
dự án xử lý chất thải độc hại cần phải quản lý chặt chẽ, có quan hệ đối với số
đông dân cư.
Quyết nghị về lập mới, chia tách, giải thể, sát nhập các Ban của Đảng, các
sở và cơ quan ngang sở, cơ quan trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý. Cho ý
kiến phương án cải cách hành chính về mặt tổ chức sắp xếp tổng thể các tổ chức
sự nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh theo ngành nghề, kỹ thuật, cho ý kiến
về lập mới, sát nhập, giải thể phá sản các doanh nghiệp nhà nước về việc giải tán
Hội đồng nhân dân cấp huyện và xã, về phân vạch địa giới hành chính cấp xã
trước khi trình Chính phủ.
Thông qua quy chế hoạt động của Đảng đoàn Hội đồng nhân dân, Ban
Cán sự Đảng Uỷ ban nhân dân tỉnh. Chuẩn bị nhân sự thuộc diện Ban Thường
vụ Tỉnh uỷ và Thường trực Tỉnh uỷ quản lý để giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh. Lãnh đạo cơ cấu đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh và các chức danh Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện, thị. Cho ý kiến về công
tác bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, xây dựng, kiện toàn tổ chức Hội đồng nhân
dân tỉnh, xác định, chủ trương, phương hướng, tiêu chuẩn, cơ cấu nhân sự trong
việc chuẩn bị và tiến hành bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh.
Cho ý kiến về những định hướng, chủ trương quan trọng trong chương
trình hoạt động, chương trình các kỳ họp và những Quyết định quan trọng của
Hội đồng nhân dân tỉnh về kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh,
những vấn đề liên quan đến chế độ, chính sách và đời sống nhân dân ở địa
phương, những vấn đề về tổ chức hành chính trước khi trình Hội đồng nhân dân
quyết định. Cho ý kiến về các chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể hoá các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội, ngân sách,
quốc phòng, an ninh, hợp tác liên doanh, liên kết trước khi tổ chức thực hiện
hoặc trình Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định.
Cho ý kiến về những vấn đề đột xuất quan trọng mà Ban cán sự Đảng Uỷ
ban nhân dân xin ý kiến hoặc Ban Thường vụ Tỉnh uỷ thấy cần thiết phải có sự
lãnh đạo, chỉ đạo. Ban hành quy chế phối hợp công tác giữa Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội của tỉnh với các cơ quan đảng, chính quyền, các
cấp uỷ trực thuộc. Ban hành quy chế phối hợp công tác giữa Ban cán sự Đảng
Toà án nhân dân, Ban cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh với các cơ quan
đảng, chính quyền, các cấp uỷ trực thuộc.
Chỉ định bổ sung, thay thế hoặc cách chức thành viên Đảng đoàn Hội đồng
nhân dân tỉnh, Ban cán sự Đảng, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành viên Đảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tỉnh, thành viên Ban cán sự Đảng
Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân tỉnh trên cơ sở xem xét đề nghị của các
cơ quan có thẩm quyền. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều động, kỷ luật, cho
nghỉ hưu đối với cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý. Xem xét, thoả
thuận các chức danh trưởng, phó các ngành thuộc Trung ương quản lý để ngành
dọc Trung ương quyết định quy hoạch, bổ nhiệm.
Chỉ định cấp uỷ, Bí thư, Phó Bí thư các Đảng bộ trực thuộc Tỉnh uỷ theo
quy định của Điều lệ Đảng và phân cấp quản lý cán bộ, giới thiệu nhân sự ứng
cử các chức danh thuộc diện quản lý của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.
Xem xét xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên theo thẩm quyền. Xem
xét việc bãi nhiệm, miễn nhiệm đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
là cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh uỷ quản lý. Xét duyệt danh sách đề
nghị tặng thưởng danh hiệu anh hùng, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân,
nghệ sỹ nhân dân, huân chương độc lập.
Chuẩn bị nội dung hội nghị Tỉnh uỷ. Thay mặt Tỉnh uỷ báo cáo công tác
của Đảng bộ với Trung ương và đảm bảo chế độ thông tin cho Tỉnh uỷ và cấp uỷ
cấp dưới. Chỉ đạo chuẩn bị các dự thảo văn kiện và nhân sự đại hội Đảng bộ tỉnh
trình Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh.
Để giải quyết các vấn đề phát sinh thường ngày, đột xuất tại địa phương
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ uỷ quyền cho Thường trực Tỉnh uỷ giải quyết một số
công việc cụ thể.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng
nhân dân tỉnh
1.1.3.1. Cơ cấu tổ chức
Hội đồng nhân dân tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa
phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc nhiệm kỳ 2004- 2011 (Kéo dài 2 năm
theo NQ Quốc hội) khi mới bầu cử bao gồm 53 đại biểu trong đó công tác đảng:
11 bằng 21,15%, công tác chính quyền: 27 bằng 51,92%, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể khác: 6 bằng 11,53%, kinh tế 02 bằng 3,85% còn lại là các thành
phần khác. Hiện nay còn 51 đại biểu (01 chuyển về Trung ương, 01 bị chết năm
2009).
Trong đó: Đại biểu chuyên trách 04 bằng 7,69% nữ: 11 bằng 21,15%, tôn
giáo: 01 bằng 1,92% dân tộc ít người: bằng 3,85%, tái cử 14 bằng 26,92%.
Trong đó: Đại biểu chuyên trách 04 bằng 7,69% nữ: 11 bằng 21,15%, tôn
giáo: 01 bằng 1,92% dân tộc ít người: bằng 3,85%, tái cử 14 bằng 26,92%.
Về trình độ văn hoá: 100% đại biểu có trình độ PTTH
Trình độ chuyên môn: Trung cấp, cao đẳng: 03 bằng 5,7% đại học: 37 bằng
71,15%, trên đại học 10 bằng 19,23%.
Trình độ chính trị: Sơ cấp: 03 bằng 5,77% trung cấp: 05 bằng,62%, cao
cấp và cử nhân 39 bằng 75%.
Tại kỳ họp thứ nhất HĐND tỉnh bầu Thường trực HĐND tỉnh gồm: Chủ
tịch (do đồng chí uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Bí thư Tỉnh uỷ kiêm
nhiệm), 01 đồng chí Phó Chủ tịch HĐND tỉnh và 01 đồng chí là Uỷ viên
Thường trực hoạt động chuyên trách.
Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc được bầu 3 ban:
Ban kinh tế ngân sách: gồm 07 thành viên, trưởng Ban hoạt động chuyên
trách, Phó Ban và các thành viên khác hoạt động kiêm nhiệm.
Ban văn hoá xã hội: gổm 07 thành viên, Trưởng Ban hoạt động chuyên
trách Phó Ban và các thành viên hoạt động kiêm nhiệm. Đến kỳ bầu cử Quốc hội
khoá XII đồng chí Trưởng Ban chuyển sang làm Phó đoàn đại biểu Quốc hội
chuyên trách, đồng chí Uỷ viên Thường trực tiếp tục kiêm nhiệm Trưởng Ban
văn hoá xã hội.
Ban pháp chế: gồm 7 thành viên Trưởng Ban, Phó Ban và các thành viên
đều hoạt động kiêm nhiệm. Tháng 7 năm 2006 Trưởng Ban được chuyển về
Trung ương công tác nên hiện nay còn lại 6 thành viên.
Thường trực Hội đồng nhân dân, các ban của Hội đồng nhân dân tỉnh có
văn phòng giúp việc bao gồm chánh văn phòng, 2 phó văn phòng và 3 phòng
tham mưu là phòng công tác Hội đồng nhân dân, phòng thông tin dân nguyện và
phòng hành chính, tổ chức quản trị.
Kể từ tháng 5/2008 thực hiện Nghị quyết 545/NQ-QH12 của UBTVQH
văn phòng Hội đồng nhân dân và văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội sát nhập
trở thành Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh bao gồm 4 đ/c lãnh đạo văn
phòng và 4 phòng chức năng giúp việc là: Phòng Công tác đại biểu Quốc hội,
phòng công tác Hội đồng nhân dân, phòng thông tin, dân nguyện, phòng tổ
chức, hành chính, quản trị, với tổng số cán bộ là 34 người.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân tỉnh
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do dân địa phương
bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp
trên.
Hội đồng nhân dân có nhiệm vụ: Bầu cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch,
Phó Chủ tịch, Uỷ viên Thường trực Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch, và
các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Trưởng Ban và các thành viên khác của
các Ban của Hội đồng nhân dân, Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp,
bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân
dân xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu theo quy định của pháp luật. Bỏ phiếu tín nhiệm
đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu ra. Phê chuẩn cơ cấu cơ quan
chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, quyết định thành lập, sát
nhập, giải thể một số cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo
hướng dẫn của Chính phủ.
Quyết định tổng biên chế sự nghiệp ở địa phương phù hợp với yêu cầu phát
triển và khả năng ngân sách của địa phương, thông qua tổng biên chế hành chính
của địa phương trước khi trình cấp có thẩm quyền quyết định. Quyết định chính
sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức trên địa
bàn phù hợp với khả năng của ngân sách địa phương. quyết định số lượng và
mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở
hướng dẫn của Chính phủ.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch dài hạn và hàng năm về phát triển ngành
và quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị, nông thôn trong phạm vi quản lý, lĩnh
vực đầu tư và quy mô vốn đầu tư theo phân cấp của Chính phủ.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư, khuyến công ở địa phương và thông qua cơ chế khuyến khích
phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển các thành phần kinh
tế ở địa phương, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh
tế theo quy định của pháp luật.
Quyết định dự toán ngân sách nhà nước trên địa bàn, dự toán thu, chi ngân
sách địa phương và phân bổ dự toán ngân sách cấp mình, phê chuẩn quyết toán
ngân sách địa phương, quyết định các chủ trương, biện pháp triển khai thực hiện
ngân sách địa phương, điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường
hợp cần thiết, giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân
quyết định. Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp
ngân sách ở địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Quyết định
thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của nhân dân và mức huy động vốn theo
quy định của pháp luật.
Quyết định phương án quản lý, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở địa
phương. Quyết định biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham
nhũng, chống buôn lậu và gian lận thương mại.Quyết định biện pháp quản lý và
sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất,
nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật.
Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo,
quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm cơ sở vật chất và điều kiện cho
các hoạt động giáo dục, đào tạo ở địa phương. Quyết định chủ trương, biện pháp
phát triển sự nghiệp văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, biện pháp bảo vệ, phát
huy giá trị di sản văn hoá ở địa phương, biện pháp bảo đảm cơ sở vật chất và
điều kiện cho các hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao ở địa phương
theo quy định của pháp luật.
Quyết định chủ trương, biện pháp phát triển nguồn nhân lực, sử dụng lao
động, giải quyết việc làm và cải thiện điều kiện làm việc, sinh hoạt của người
lao động, bảo hộ lao động, thực hiện phân bổ dân cư và cải thiện đời sống nhân
dân ở địa phương. Quyết định biện pháp giáo dục, bảo vệ, chăm sóc thanh niên,
thiếu niên và nhi đồng, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá, giáo dục
truyền thống đạo đức tốt đẹp, giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc, biện pháp
ngăn chặn việc truyền bá văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ
tục và phòng, chống các tệ nạn xã hội, các biểu hiện không lành mạnh trong đời
sống xã hội ở địa phương.
Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển mạng lưới khám, chữa bệnh,
biện pháp bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ và chăm sóc người già, người tàn
tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, bảo vệ, chăm sóc bà mẹ, trẻ em, thực hiện
chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, phòng, chống dịch bệnh và phát
triển y tế địa phương. Quyết định biện pháp thực hiện chính sách, chế độ đãi ngộ
ưu đãi đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ, những người và gia đình
có công với nước, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và xoá đói, giảm nghèo.
Quyết định chủ trương, biện pháp khuyến khích việc nghiên cứu, phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển
sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân ở địa phương. Quyết định bảo vệ
môi trường, phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai, bão lụt, suy thoái môi
trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường ở địa phương theo quy định của
pháp luật. Quyết định biện pháp thực hiện các quy định của pháp luật về tiêu
chuẩn đo lường và chất lượng sản phẩm, ngăn chặn việc sản xuất và lưu hành
hàng giả, hàng kém chất lượng tại địa phương, bảo vệ lợi ích của người tiêu
dùng.
Quyết định biện pháp thực hiện nhiệm vụ kết hợp quốc phòng, an ninh với
kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực
lượng dự bị động viên ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo đảm an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, phòng ngừa, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật
khác ở địa phương. Quyết định các biện pháp thực hiện chính sách dân tộc, cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần, nâng cao dân trí của đồng bào các dân tộc
thiểu số, bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tăng cường đoàn
kết toàn dân và tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc ở địa phương.
Quyết định biện pháp thực hiện chính sách tôn giáo, quyền bình đẳng giữa
các tôn giáo trước pháp luật, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân địa phương theo quy định của
pháp luật.
Quyết định biện pháp bảo đảm thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của mình ở địa phương. Quyết định
biện pháp bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích
hợp pháp khác của công dân, bảo vệ tài sản, lợi ích của Nhà nước, bảo hộ tài
sản của cơ quan, tổ chức và cá nhân ở địa phương. Quyết định biện pháp bảo
đảm việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân theo quy định của pháp luật.
Thông qua đề án thành lập mới, nhập, chia và điều chỉnh địa giới hành
chính để đề nghị cấp trên xem xét, quyết định. Quyết định việc đặt tên, đổi tên
đường, phố, quảng trường, công trình công cộng ở địa phương theo quy định của
pháp luật. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định, chỉ thị trái pháp luật của Uỷ
ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết trái pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp
huyện.
Giải tán Hội đồng nhân dân cấp huyện trong trường hợp Hội đồng nhân
dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, trình Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội phê chuẩn trước khi thi hành. Phê chuẩn nghị quyết của
Hội đồng nhân dân cấp huyện về việc giải tán Hội đồng nhân dân cấp xã.
Với các chức năng quyền hạn như trên, hoạt động của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh có tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa quyết định những chủ trương,
biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và
phát triển về kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, không ngừng cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, thực hiện nghĩa
vụ của địa phương đối với cả nước trong toàn bộ các hoạt động của mình.
Hội đồng nhân dân ra quyết định các vấn đề quan trọng tại địa phương
đồng thời giám sát việc thực thi pháp luật việc thực hiện các nghị quyết của
mình. Tổ chức tiếp xúc cử tri, tiếp công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại tố
cáo của công dân.
1.2. PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO VÀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO
CỦA TỈNH UỶ ĐỐI VỚI HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH
1.2.1. Quan niệm về phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng
1.2.1.1. Một số vấn đề lý luận về phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân
Để tìm hiểu phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu một số
khái niệm cơ bản: lãnh đạo, phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh
đạo của Đảng.
Lãnh đạo: theo tiếng Anh là hướng dẫn, dẫn dắt, cầm đầu, đi trước. Theo
tiếng Pháp là Digigen cũng có nghĩa là cầm đầu còn theo nghĩa Hán việt có
nghĩa là dẫn đường.
Đối với Đảng cầm quyền, từ "Lãnh đạo" với ý nghĩa như trên thể hiện
đúng vai trò, chức năng của Đảng chính trị trong đời sống xã hội. Đó là vai trò
của người dẫn dắt, người đi đầu trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh giành, giữ và
thực hiện quyền lực chính trị.
Lãnh đạo là mối quan hệ xã hội mà cơ sở của nó là uy tín của người lãnh
đạo và sự tự nguyện của người bị lãnh đạo. Nếu không có uy tín thì không có
quan hệ lãnh đạo. Nó khác với mối quan hệ cai trị dựa trên cơ sở của uy quyền,
của quyền lực Nhà nước trong quan hệ cai trị và tầng lớp bị trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ ngày đầu mới thành lập đã tự xác định là
người dẫn đường chỉ lối, là người tổ chức, là đội tiền phong và bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam. Điều này đã được đồng chí Nguyễn
Ái Quốc nói rõ từ năm 1923 “Đối với tôi câu trả lời thật rõ ràng: Trở về nước, đi
vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra
đấu tranh giành tự do, độc lập”.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được lịch sử chứng minh và được xã hội thừa
nhận như một tất yếu lịch sử. Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [38, tr.1].
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng,
là vấn đề có tính nguyên tắc, tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Để thực
hiện có hiệu quả vai trò lãnh đạo của mình Đảng luôn nghiên cứu, tìm tòi
phương thức lãnh đạo hợp lý, đúng đắn phù hợp với những đòi hỏi khách quan
của từng giai đoạn lịch sử nhất định.