Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.5 KB, 90 trang )









LUẬN VĂN:

Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại
học về làm việc ở chính quyền cơ sở
















Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh rằng,


chính quyền trung ương yếu hay mạnh, đất nước thịnh hay suy, sự nghiệp thành hay bại
đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ chức xây dựng chính quyền cơ
sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là
gốc của chính quyền cách mạng. Chính quyền cơ sở có vững vàng thì nhà nước và chế
độ mới vững vàng. Quan điểm đó đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết công việc của
người dân, là nơi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước
và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã
hội ở địa phương. Chính quyền cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị
của nước ta.
Vì vậy, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở là đòi
hỏi khách quan của chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều kiện tất yếu đảm
bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở phường, xã, thị trấn", các cấp chính quyền cơ sở thường xuyên
được chăm lo củng cố, kiện toàn bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, đem lại sự đồng
thuận xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống
chính trị cấp cơ sở ngày càng được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận
chính trị, chuyên môn, được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong thực tiễn. Tuy
nhiên, đứng trước nhu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, hệ thống chính trị
cấp cơ sở bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó vấn đề cán bộ, công chức làm việc ở chính
quyền cơ sở là một hạn chế quan trọng làm chất lượng hoạt động của hệ thống chính
quyền cơ sở bất cập trước đòi hỏi thực tiễn. Điều này khiến cho chính quyền cơ sở trở
thành khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.

Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống chính quyền cơ sở có vai trò
hết sức quan trọng, họ là những người thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp quan hệ với
nhân dân; tổ chức vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính

sách, pháp luật của nhà nước và các hoạt động về đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân ở địa phương.
Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều
bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là chất lượng, trình độ đào tạo;
năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới.
Để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cơ sở đủ về số
lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo tính kế thừa, chuyển tiếp giữa
các thế hệ một cách liên tục và vững chắc cần phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp
cơ sở có sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt
ra và nhân dân đòi hỏi ". Bên cạnh chính sách bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ, công chức
đang làm việc thì vấn đề thu hút đội ngũ trí thức được đào tạo cơ bản về làm việc ở
chính quyền cơ sở là một giải pháp rất đáng quan tâm, đặc biệt là thu hút những sinh
viên đã tốt nghiệp ở các trường đại học, một bộ phận đông đảo của đội ngũ trí thức,
những người có trình độ, tuổi trẻ, nhiệt huyết và họ là những người đang có nhu cầu tìm
kiếm việc làm.
Thế nhưng, trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở trẻ tuổi, có
trình độ đại học không đơn giản. Hầu hết các sinh viên ra trường, kể cả sinh viên cử tuyển
cũng tìm cách ở lại thành phố lập thân, lập nghiệp; một phần vì họ muốn tiến thân với
những kiến thức đã được trang bị trong giảng đường đại học, một phần vì phần lớn sinh
viên vẫn có quan niệm về làm việc ở phường, xã là không tương xứng với trình độ mà họ
được đào tạo. Hơn nữa, sinh viên mới ra trường về công tác tại cơ sở thì dù có lý lịch tốt
như thế nào, năng lực giỏi tới đâu cũng chỉ là nhân viên bình thường, rồi từng bước phấn đấu
rất gian nan, ở nhiều địa phương sinh viên về làm việc ở chính quyền cơ sở không được phân
công nhiệm vụ đúng với khả năng của họ, những kiến nghị, sáng kiến của sinh viên mới tốt

nghiệp đại học không được coi trọng do định kiến "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt";
trong khi đó công việc luôn đòi hỏi trách nhiệm cao do thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với
dân nhưng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức công tác ở chính quyền cơ sở còn chưa

tương xứng. Qua quá trình phấn đấu, họ rất dễ nản lòng, vì trong môi trường ấy họ rất lạc
lõng, thiệt thòi nên sẵn sàng bỏ việc đi tìm việc khác nhiều tiện nghi hơn, dễ tiến thân hơn.
Cũng trong tình trạng chung đó của cả nước, hệ thống chính quyền cơ sở ở Nghệ
An cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở ở đây chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Trong thời
gian qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp chính quyền ở Nghệ An cũng đã đưa ra nhiều
giải pháp, chính sách để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ
sở nhưng vẫn chưa có một chính sách nào để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong
khi đó, tại Hội nghị Trung ương chín khoá X, Đảng ta đã đưa ra chủ trương: " Nghiên cứu
chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ
tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công tác" [33, tr.57].
Trước thực tiễn đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải hoạch định một chính sách cụ thể
thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở nhằm trả lời cho
câu hỏi: Làm thế nào để sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc, gắn bó lâu dài và phát
huy hết khả năng, năng lực của họ ở hệ thống chính quyền cơ sở?
Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài " Chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở " làm luận văn thạc sĩ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu chính sách nâng cao chất
lượng và thu hút nguồn nhân lực có trình độ về làm việc ở chính quyền cơ sở đã
được nhiều nhà khoa học nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau: Xây dựng Đảng,
Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế chính trị, Chính trị học Các công trình nghiên cứu của
các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các sách, báo, tạp chí
Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu như:

- Đề tài khoa học do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên (2002): "Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Đề tài khoa học Độc lập cấp Nhà nước do GS, TS Hoàng Chí Bảo chủ nhiệm:

"Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố tăng cường hệ thống chính trị cơ sở trong sự
nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay". Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Kỷ yếu khoa học tập I,II,III.
- Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Nguyễn Đăng Thành chủ nhiệm (2002):
"Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt
Nam" Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học.
- GS, TS Hoàng Chí Bảo (2002) "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và
những vấn đề đặt ra", Thông tin chính trị học, (2) tr. 13 - 18.
- Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Nxb Lao động Thương binh và xã
hội.
- Đề tài của TS Vũ Hoàng Công (2002) "Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm,
xu hướng và giải pháp" - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Liên quan đến đề tài còn có luận văn:
- "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay - vấn đề và giải pháp", Luận văn
thạc sĩ Cấn Thị Dung (2003).
- "Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ
An", Luận văn thạc sĩ Trần Ngọc Danh (2005)
- "Hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kom Tum
hiện nay", Luận văn thạc sĩ Võ Trọng Khoa (2007).
- "Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc
Trang (2008)

Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết
về vấn đề thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở đã được đăng tải trên các tạp
chí, các kỷ yếu khoa học, trên mạng Internet
Nhìn chung, trên các bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ
bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực
tiễn nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán

bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, trong đó, một giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công
chức làm việc ở chính quyền cơ sở là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao; chu trình
hoạch định chính sách và những quy định cụ thể về chính sách chế độ đối với cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn Đó là nguồn tư liệu quý giá và những gợi ý về phương pháp
luận giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài của mình.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại
học về làm việc ở chính quyền cơ sở dưới góc độ chính trị học, đặc biệt là đối với một
tỉnh có nhiều đặc thù như ở Nghệ An vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Vì vậy, tôi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần luận giải những vấn đề mà lý
luận và thực tiễn đã và đang đặt ra từ đó đề xuất một chính sách mới giải quyết phần
nào vấn đề đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quy trình hoạch định chính sách công, phân tích
nhu cầu lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính
quyền cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất việc xây dựng và ban hành, triển khai chính
sách này nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở giai đoạn hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ đề xuất các quá
trình cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công.
- Phân tích nhu cầu khách quan của việc lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt
nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế ở Nghệ An).

- Xác định nội dung, ban hành và đưa ra một số giải pháp có tính định hướng
cho việc triển khai thực hiện chính sách đó.
3.3. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề hoạch định
chính sách; nghiên cứu thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học và chính quyền cơ sở ở
Nghệ An từ sau Đại hội Đảng lần thứ X.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý thuyết về chính sách
công; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách thu hút nguồn nhân lực cho chính
quyền cơ sở, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu
của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phương pháp logic và lịch sử.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Kết hợp phương pháp xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực
tiễn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu hút sinh viên
tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
- Góp phần hệ thống hoá những bước cơ bản trong quy trình hoạch định chính
sách công
- Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở
và vai trò của chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc ở
chính quyền cơ sở.

- Đề xuất những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực thi chính sách thu hút
sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở đạt hiệu quả cao.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận văn có thể được dùng tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, công
tác nhân sự, công tác quản lý nhà nước; cung cấp những luận cứ khoa học cho các
nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng
dạy ở các Trung tâm Chính trị, Trường Chính trị tỉnh và trường đại học nước ta nói
chung, ở Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có 2 chương và
5 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định
chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học
về làm việc ở chính quyền cơ sở

1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công
1.1.1. Các cách tiếp cận chính sách công
1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công (Public Policy)
Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong khoa học hành chính nhưng
thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị.
Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các phương tiện
thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, chính sách là
chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một
vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo
đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Hay

“Chính sách cũng là những hoạt động nên hay không nên làm do nhà nước quyết định
lựa chọn”[50, tr.45].
William Jenkin: “Chính sách cũng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn
nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các
mục tiêu và các giải pháp để đạt được mục tiêu đó”. (William Jenkin, 1978) [50, tr.56].
Căn cứ từ hiện thực chính sách ở nước ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà
nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số quan niệm về chính sách:

- Từ cách phân biệt "chính sách" theo "nghĩa rộng" và "chính sách" theo "nghĩa
hẹp". Các tác giả Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:" chính sách với
nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh
đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội ) tác động lên đối tượng
quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn
"chính sách" theo nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối,
nhiệm vụ trong một thời gian nhất định"[35, tr.45].
- Trong bài "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", tác giả Vũ Hoàng Công đưa ra
định nghĩa: "chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể
hiện thái độ quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động
nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội "[63, tr.200].
- Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành, "chính sách là tập hợp những văn bản theo
một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trình
hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể -
đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giá trị "[63, tr.12].
Về nghĩa hẹp, các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc
khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của
Chính phủ, chính sách của một bộ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách
của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội
Các tổ chức, các hiệp hội, đoàn thể có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp
dụng trong phạm vi một tổ chức, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm
giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ

chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư",
tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng.
Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước
ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công.
Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói chung, nhưng chủ yếu tập trung vào
việc nghiên cứu các chính sách công nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản
lý của nhà nước.

Vậy chính sách công là gì?
ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ "chính sách công"
được sử dụng rất phổ biến. Cụ thể nêu ra một số quan điểm sau:
Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R.
Dye, 1985) [23, tr.103].
Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn có liên quan lẫn nhau, bao
gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các cơ quan chức
năng nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992) [36, tr.85].
Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình
nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995)
[50, tr.158].
Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/
chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của
công dân. (B. Guy Peters, 1999) [50, tr.92].
Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một
nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson,
2003) [50, tr 109].
Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính
quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu
chính sách đã được chấp thuận một cách hình thức, cũng như các quy định và thông lệ
của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004) [50,
tr.95]

B. Guy Peter: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”. (B. Guy
Peter, 1990) [50, tr.130].
Hoa Kỳ: Chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền thi hành đến
dân [18, tr.183].
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính

phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi
nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối
với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế.
Thứ ba, một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cho nền kinh tế,
khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn lực công một cách có
hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong
ngắn hạn lẫn trong dài hạn.
Nói cách khác, chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực
hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách
nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài
nguyên đất nước.
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn đang
là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới đây chúng tôi muốn
dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài
và trong nước để cùng tham khảo trước khi đi đến một định nghĩa thích hợp.
William Jenkin cho rằng: " Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên
quan đến nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc
lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó" [50, tr.75].
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:

- Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập hợp
các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài.
- Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói cách
khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà
nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn.
Thomas R.Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song định
nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái mà Chính

phủ lựa chọn làm hay không làm" [23, tr.45]. Ba mặt quan trọng của định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục tiêu"
hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình hành động riêng
biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tình với chính
sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách ra đời không
phải vì sự nhất trí về mục tiêu mà bởi vì nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với
chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm
khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh
những mục tiêu nhất định của Chính phủ).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựa chọn
làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng như việc quyết
định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp Chính phủ ra quyết định không
can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là những đề
xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện trên thực tế.
Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm hoặc không làm,
chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.
Wiliam N. Dunn cho rằng: "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn
liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước
hay các quan chức nhà nước đề ra" [50, tr.123]. Ông dùng thuật ngữ "sự lựa chọn" - đây là

điểm đáng lưu ý để tránh nhầm lẫn giữa chính sách với các khái niệm khác như các quyết
định hành chính.
Theo Peter Aucoin," Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính
phủ tiến hành" [36, tr.134]. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng
biệt của Chính phủ (quết định của chính quyền tỉnh về sự phát triển ở một vùng cụ thể)
vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng ( chính sách môi trường và quyết định
không hành động của nhiều chính phủ). Thông thường, thuật ngữ "chính sách" được sử
dụng theo nghĩa thứ hai - một chính sách được cấu thành từ một loại quyết định.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của

nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân" [36, tr.
65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là nhà
nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân
với tư cách là một cộng đồng.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm chính sách như sau: "Chính sách là
những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong
một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,
văn hoá…."[46, tr. 105].
Định nghĩa này không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách
chung chung là những chuẩn tắc (chuẩn tắc là gì?) để thực hiện đường lối, trong một
thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về
chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó.
Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế - xã hội", các tác giả đồng nhất chính sách
công với chính sách kinh tế - xã hội và đưa ra định nghĩa:"chính sách kinh tế - xã hội là
tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác
động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực
hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội ". Định
nghĩa này tuy có cố gắng nêu lên một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành chính sách kinh

tế - xã hội nước ta, song lại có những sự trùng lặp như: quan điểm - tư tưởng, giải pháp
- công cụ, đối tượng - khách thể quản lý.
Tuy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu trên,
song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất khác nhau. Thực ra,
tuỳ theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng
này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách
công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản
chất của chính sách công.
Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, chúng tôi thấy có những đặc trưng cơ
bản nhất như sau:

Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Nếu chủ thể ban hành
các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị - xã hội, cũng
như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức,
đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là
các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà
nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công , vừa là chủ thể ban hành "chính sách
tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là
những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan đó, không có
hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan.
Chính sách công do nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính
sách của nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy
nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp…
ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường bắt gặp cụm từ "chính sách của Đảng và
Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành chính sách công.
Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. ở Việt Nam, Đảng cộng sản
là lực lượng chính trị chủ yếu và duy nhất lãnh đạo nhà nước thông qua việc vạch ra
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là những căn cứ chỉ đạo
để nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công
là do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các

chính sách này là sự cụ thể hoá về đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động hoặc không hành
động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không
chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao
gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên.
Chính sách công trước hết thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách nhằm
làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự
định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. chính sách
công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những

kết quả thực tế.
Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của nhà
nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để
đạt được kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi.
Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá trình
hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý
khác như chiến lược, kế hoạch của nhà nước là những chương trình hành động tổng
quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách công là
chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan
lẫn nhau đang đặt ra trong xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại
hoặc có nguy cớ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách công
được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời
sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói,
vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai
đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách ). Việc giải quyết những vấn đề nói
trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được.
Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết,
chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành

chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước.
Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa
chọn hành động của nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết
định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói
và hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt
hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng
hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau
trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có
thể được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực
thi, song nó còn gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc mà có tính

định hướng, kích thích phát triển.
Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ vô số các
quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà
nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) và
được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của nhà nước và các cấp, các ngành về vấn
đề này. Nghị định 44/Chính phủ của Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị
định đó đã mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ phần hoá ở nước ta. Chúng ta
có thể thấy, chính sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu như sau: "Chính sách
công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải
quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong một thời gian nhất định của đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội theo mục tiêu xác định".
Như vậy, chính sách công là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải
pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược.
1.1.1.2. Hoạch định chính sách công
Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản của nhà nước sử dụng để phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu
quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy

trình chính sách, trong đó quy trình hoạch định chính sách - bước khởi đầu đặc biệt quan
trọng của quy trình chính sách.
Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên
quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định
(tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng cần có
chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào
đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính
sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy chính sách
công được hiểu là "những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh
trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc

đẩy xã hội phát triển theo định hướng" [42, tr.21]. Hay chính sách công cũng chính là
"một chuỗi các quyết định hành động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung
đang được đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" [44, tr.53].
ở nước ta, chính sách thể hiện như một công cụ quản lý của Nhà nư
ớc và
được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất
quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…". Như vậy, chính
sách công là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước sử dụng để thực hiện chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách,
tiếp theo là thực thi chính sách và sau đó thực hiện phân tích chính sách để điều chỉnh,
bổ sung chính sách. Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình
chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học
sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại
hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế,
thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những
tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau.


Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công
Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của nhà nước và được xây
dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để
tạo ra một chính sách công. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ban hành,
theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ dưới đây:

Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách
Hoạch định

chính sách

Thực thi
chính sách

duy
tri
chính
sách
Phân tích
chính sách
xác định vấn
đề chính sách
đánh gía
chính sách
phát
hiện
mâu
thuẫn

chính
phủ
các t

chức
chính
trị,
tổ
chức
chính
trị -



hội,
xã hội

kiến
ngh


quan

th
ẩm
quyề
n và
dự
thao

chín
h
sách

ban
vấn đề
kinh tế

vấn đề

hội



vấn đề
ngoại
giao
qu
ốc
hội
chính sách
và các biện
pháp
cụ thể
các u
ỷ ban
của Quốc
hội

Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như
sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa
chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án đã chọn, thẩm định phương án
chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các
chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ
nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị
quyết của Chính phủ tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi năm 2002.
Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều
chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp
phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 20 năm thực hiện công
cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng bộc
lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ
quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường
do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan đặc biệt của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa
trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của
từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng
góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng
bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý
tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực
hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên
nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc thực thi không mang
lại hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính
sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu do các
bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ,
bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình
quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và
căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố để đề xuất

dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao cũng chính là cơ quan dự thảo, do
đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện
cụ thể của thực trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện
nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng
chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà nước không có
chính sách để điều chỉnh.
Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành
theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết
của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay,
quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy trình soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công
rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu,
công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành…
Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các
đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì còn hình

thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành chưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác,
chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các
nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách
nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách, việc dự báo
chính sách rất quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở nước ta việc dự báo chính sách
còn yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên cơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong
hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì
việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó khăn. Trong quá trình hoạch định chính
sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của
những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh hưởng tới tính tự
giác thực hiện chính sách…). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ
quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm
quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức
một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các

phương án giải quyết phù hợp với thực tế. (Từ thực tiễn để hoạch định chính sách,
đó cũng chính là biểu hiện tính khách quan của chính sách). Một chính sách đúng
đắn phải từ thực tế khách quan.
Trong việc hoạch định chính sách công cần phải có sự tổng kết, phân tích, đánh
giá tình hình, tác động ảnh hưởng tới quá trình thực hiện chính sách, các biện pháp thực
hiện chính sách và từ đó làm căn cứ để lựa chọn phương án chính sách phù hợp với thực
tế.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải hoàn thiện quy trình
hoạch định chính sách công của nhà nước ta trong thời kỳ mới. Với việc lấy Chính sách
thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế tỉnh
Nghệ An ) làm trường hợp cụ thể, tác giả đề xuất một phương án mới cho quy trình
hoạch định chính sách đó là việc các nhà khoa học, những người hoạt động thực tiễn
trực tiếp chịu tác động của vấn đề chính sách đó đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách
lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các cơ quan đó có thể xem xét nếu đó là
một ý tưởng hay, một vấn đề cấp thiết thì bổ sung hoàn thiện và đưa chính sách đó vào

cuộc sống.
1.1.2. Lựa chọn, hoạch định chính sách công
1.1.2.1. Lý do hoạch định chính sách
Khi hoạch định một chính sách, trước tiên phải thuyết phục được ý chí chủ thể về
sự cần thiết phải giải quyết vấn đề bằng công cụ chính sách và qua chủ thể thuyết phục
các đối tượng thực thi chính sách về lợi ích kinh tế, xã hội,… của chính sách sẽ ban
hành. Đây được coi là phần mở đầu của một chính sách, để người tiếp cận có thể nắm
được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề chính sách. Toàn bộ nội dung thuyết
phục đó được gọi là lý do hoạch định chính sách.
Vấn đề chính sách được hiểu là những mâu thuẫn nảy sinh trong các lĩnh vực hoạt
động cần được giải quyết bằng chính sách để thoả mãn nhu cầu nhất định của xã hội.
Như vậy có thể thấy vấn đề chính sách là hạt nhân của chính sách, nó hướng các mục
tiêu, giải pháp cần có của chủ thể hoạch định chính sách vào giải quyết vấn đề, đồng

thời nó cũng thu hút sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào thực hiện
chính sách để giải quyết vấn đề cùng nhà nước.
Để bản chính sách có sức thuyết phục cao đối với cả người tổ chức và thực thi;
củng cố lòng tin của nhân dân vào chính sách của nhà nước chính sách đó cần đảm bảo
một số tiêu chí như:
- Tính bức xúc của vấn đề chính sách đối với đời sống xã hội.
-Tính phức tạp của vấn đề chính sách.
- Tính thời cơ của việc ban hành chính sách.
- Khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước.
- Khả năng tồn tại của chính sách với các công cụ quản lý nhà nước.
- Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của chính sách so với yêu cầu quản lý nhà
nước.
- Phải trình bày những căn cứ khoa học để hoạch định chính sách và những căn cứ
ban hành chính sách của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các căn cứ được nêu ngắn
gọn, xác thực với điều kiện hoàn cảnh của đất nước và nên hướng vào vấn đề chính
sách.

1.1.2.2. Ban hành chính sách
Sau khi nhà hoạch định dự thảo những nội dung chi tiết của chính sách, để chính
sách được chính thức ban hành phải trải qua một bước rất quan trọng, đó là quyết nghị
chính sách.
Quyết nghị chính sách là hình thức pháp lý hoá chính sách trước khi đưa vào thực
hiện để cho chính sách có được sức mạnh công quyền, thu hút được sự tham gia của cơ
quan nhà nước các cấp, của mọi tầng lớp nhân dân.
ở nước ta, với những chính sách do trung ương ban hành, theo quy định của Hiến
pháp việc quyết nghị chính sách do hai cơ quan thực hiện là Quốc hội và Chính phủ.
Quốc hội quyết định những chính sách lớn cơ bản còn Chính phủ quyết định những
chính sách cụ thể. Việc quyết nghị chính sách thường diễn ra trong các phiên họp Chính
phủ sau khi đã xin ý kiến của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản, do các thành
viên Chính phủ biểu quyết theo quy định của Luật tổ chức Chính phủ. Chính sách được

ban hành dưới thể thức là nghị quyết Chính phủ theo quy định của Điều 56, khoản 1 -
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
*
.
Với những chính sách do cấp Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành, theo Điều 40 - Luật
Ban hành văn quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân [57] đã quy
định rõ: chính sách thông qua sau khi cơ quan tư pháp đã thẩm định dự thảo chính sách
do đại diện cơ quan soạn thảo đưa ra và khi có quá nửa tổng số thành viên uỷ ban nhân
dân biểu quyết tán thành. Chính sách chính thức có hiệu lực khi Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân thay mặt Uỷ ban nhân dân tỉnh ký ban hành.
Chính sách đã được ban hành nhưng để cho các cơ quan quản lý nhà nước và mọi
tầng lớp nhân dân biết để thực hiện, cơ qua ban hành chính sách cần phải công bố chính
sách bằng nhiều hình thức (kênh thông tin) để chính sách đến được với người dân như :
Đăng công báo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, qua các phương tiện báo chí, phát thanh
truyền hình…
1.1.2.3. Triển khai chính sách

Triển khai chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực, nói cách
khác đây là bước tổ chức thực thi chính sách để thực hiện các mục tiêu chính sách và
mục tiêu chung.
Một khi chính sách được triển khai thực hiện rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính
đúng đắn của chính sách được khẳng định ở mức cao hơn, được cả xã hội thừa nhận,
nhất là đối tượng thụ hưởng chính sách.
Thứ nhất, để triển khai chính sách một cách có hiệu quả, nhiệm vụ tiên quyết là
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần thiết quan trọng vì

*
"Nghị quyết của Chính phủ được ban hành để quyết định chính sách cụ
thể về xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở,
hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của các
cơ quan Nhà nước cấp trên; bảo đảm thực hiện Hiến pháp và pháp luật
trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân
và công dân; thực hịên chính sách xã hội, dân tộc, tôn giáo, quyết
định chủ trương, chính sách cụ thể về ngân sách Nhà nước, tiền tệ,
phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi
trường; củng cố và tăng cường quốc phòng, an ninh; thống nhất quản
lý công tác đối ngoại của Nhà nước, các biện pháp chống quan liêu,
tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; phê duyệt các điều ước thuộc thẩm
quyền của Chính phủ."

tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra trong thời gian dài do đó
phải có kế hoạch.
Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, các cơ
quan triển khai từ trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch gồm các bước như:
Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ
chế thực thi; Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị…; Kế hoạch
thời gian triển khai thực hiện; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách; Dự kiến

về quy chế, nội quy tổ chức và điều hành thực thi chính sách.
Thứ hai, phổ biến tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau khi
chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp chính
quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận lợi và có
hiệu quả.
Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần phải đầu tư về trình độ chuyên
môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật vì đây là đòi hỏi của thực tế khách
quan.
Việc tuyên truyền này cần phải được thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi
chính sách đang được thực thi, với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải sử
dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp…
Thứ ba, phân công phối hợp thực hiện chính sách: một chính sách thường được
thực hiện trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự phối
hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động thực thi
mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp, chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau, kìm hãm, bởi
vậy việc phối hợp các cấp các ngành để triển khai một chính sách chủ động khoa học,
sáng tạo sẽ có hiệu quả cao và duy trì ổn định.
Thứ tư, duy trì chính sách. Đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và phát
huy tác dụng trong môi trường thực tế.
Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố,
như nhà nước là người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và môi trường để
chính sách được thực thi tốt.

Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào
thực thi chính sách. Nếu các việc này được tiến hành đồng bộ thì việc duy trì chính sách
là việc làm không khó.
Thứ năm, điều chỉnh chính sách, việc làm này rất cần thiết, diễn ra thường xuyên
trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền (Thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có quyền điều chỉnh
chính sách).

Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của chính
sách, chỉ điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này phải hết
sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu.
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách.Bất cứ triển khai
chính sách nào cũng phải kiểm tra, đôn đốc để đảm bảo các chính sách được thực hiện
đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Các cơ quan nhà nước thực hiện việc kiểm tra này và nếu tiến hành thường xuyên
thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có những kết
luận chính xác về chính sách.
Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những hạn chế
của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách.
Thứ bảy, đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm. Khâu này được tiến hành liên
tục trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng
phần hay toàn bộ chính sách. ở việc đánh giá này phải được tiến hành đối với cả
các cơ quan nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách.

×