Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

LUẬN VĂN: Phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (803.16 KB, 105 trang )





LUẬN VĂN:

Phát triển thị trường sức lao động ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát triển thị
trường sức lao động là một tất yếu khách quan vì thị trường sức lao động là một trong
những nhân tố quan trọng tạo động lực thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng nhanh và bền
vững. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nhấn mạnh:
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi lĩnh vực kinh tế, tạo sự gắn
kết cung- cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút
nhiều lao động nhất là khu vực nông thôn…Đa dạng hóa các hình thức giao
dịch việc làm, phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động trong
nước và thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong
lĩnh vực khoa học công nghệ và quản lý những ngành nghề ưu tiên phát triển.
Xây dựng hệ thống pháp luật về lao động và thị trường sức lao động nhằm đảm


bảo quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động, thực hiện
rộng rãi chế độ hợp đồng lao động, bảo đảm quyền lợi của người lao động,
người sử dụng lao động [19, tr.81].
Cùng với xu thế chung của cả nước, Đà Nẵng từ khi trở thành đơn vị hành chính
thuộc trung ương(1997), được công nhận là đô thị loại I cấp quốc gia, nằm trong khu vực
kinh tế trọng điểm của cả nước - cũng sớm nhận thức được điều đó. Thực hiện nghị quyết
33- NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đà Nẵng biết khai thác những tiềm năng và lợi thế, xác định cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp- dịch vụ- nông lâm thuỷ sản, có nhiều chính sách kêu
gọi đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị
vv…tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, đời sống của người dân ngày càng
được nâng cao.

Thực tế trong những năm qua, thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng
đang từng bước được hình thành và phát triển. Sự phát triển thị trường sức lao động ở
thành phố Đà Nẵng góp phần phân bổ nguồn lực lao động giữa các ngành, các vùng hợp
lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao
động và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, với sự phát triển nhanh
chóng của các ngành nghề và lĩnh vực mới, đã thu hút một lượng lao động rất lớn từ
các nơi khác đổ về đặc biệt là dòng di dân từ các tỉnh phía Bắc. Đây cũng chính là cơ
hội tốt về nguồn cung sức lao động. Tuy nhiên, thị trường sức lao động ở Đà Nẵng
vẫn còn nhiều bất cập giữa các yếu tố thị trường như sự mất cân đối giữa cung- cầu
sức lao động dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động; chuyển dịch cơ cấu lao
động còn bất hợp lý; vấn đề tiền công, tiền lương còn bức xúc giữa người lao động và
người sử dụng lao động. Từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn đó, vấn đề “Phát triển thị
trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” được chọn làm đề tài nghiên cứu
luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thị trường hàng hóa sức lao động là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn
quan trọng của các ngành khoa học kinh tế. Đến nay đã có nhiều đề tài, công trình nghiên

cứu về vấn đề này, cụ thể:
- Bùi Thị Xuyến (2002): Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác
vào thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Luận án tiến sĩ
kinh tế. Tác giả phân tích cơ sở lý luận về hàng hoá sức lao động của C.Mác, từ đó vận
dụng vào thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đưa ra
các giải pháp cụ thể.
- Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân, Một số vấn đề phát triển thị
trường lao động ở Việt Nam, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 2003. Các tác giả đã làm rõ
thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động của thị trường lao động Việt Nam, những
thuận lợi, khó khăn, những mặt được và chưa được trong quá trình hình thành và phát triển
thị trường lao động; các giải pháp cần thiết để phát triển loại thị trường đặc biệt này trong
thời gian tới.

- Nguyễn Đình Hương (2006): Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội. Tác
giả nghiên cứu góc độ lý luận và thực tiễn.
- Nguyễn Văn Phúc (2008): Thị trường sức lao động trình độ cao ở Việt Nam
hiện nay - Luận án tiến sĩ kinh tế. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thị trường sức lao động
ở trình độ cao, phương hướng và các giải pháp phát triển về thị trường sức lao động ở
trình độ cao
- Nguyễn Ngọc Bình (2008): Thị trường sức lao động ở Thành phố Hồ Chí Minh
dưới tác động trực tiếp của đầu tư nước ngoài - Luận văn thạc sĩ kinh tế. Tác giả đã làm
rõ khái niệm về thị trường sức lao động và các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động.
Đưa ra các nhóm giải pháp cần thiết về thị trường sức lao động dưới tác động trực tiếp
của đầu tư nước ngoài ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Chính, Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác giả phân tích cơ sở lý luận của thị trường lao
động, về nguồn lao động, những yếu tố cấu thành và điều tiết thị trường lao động, mối quan
hệ cung- cầu sức lao động và tiền lương; sự vận dụng linh hoạt lý luận về thị trường lao động
vào điều kiện Việt Nam.

- Nguyễn Thi Thơm, Thị trường lao động ở Việt Nam thực trạng và giải pháp,
sách tham khảo, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006, đã tập hợp nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế, nhiều nhà quản lý về thị trường sức lao động, từ đó đưa ra giải pháp
phát triển.
- Đỗ Xuân Phương, Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm, Luận
án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000. Luận giải thực
tiễn trong phạm vi thành phố Hà Nội.
- Bùi Sĩ Lợi, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Tỉnh Thanh Hóa đến năm 2010. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn và các giải pháp của Tỉnh
Thanh Hóa.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên
chỉ đề cặp đến từng mặt, từng vấn đề của thị trường lao động như cung, cầu sức lao động,

số lượng, chất lượng sức lao động, chính sách sử dụng lao động, sự hình thành và phát
triển thị trường sức lao động ở Việt Nam. Do giới hạn về mặt lịch sử, địa bàn nghiên cứu
nhiều giải pháp đặt ra không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Vì vậy, đề
tài “ Phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” nghiên cứu không
trùng lắp với những đề tài đã nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng.
Từ đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ thị trường sức lao động
ở Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tập trung làm rõ
những vấn đề sau:
- Làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về thị trường sức lao động. Trên cơ sở đó nghiên
cứu kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động ở một số thành phố lớn để từ đó rút ra
bài học kinh nghiệm cho thành phố Đà Nẵng.
- Phân tích thực trạng thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng trong giai

đoạn 1997- 2007. Từ đó đánh giá thành tựu đạt được, những vấn đề đặt ra và nguyên
nhân.
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Đà Nẵng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 1997- 2007.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thành phố Đà Nẵng
- Về thời gian: Các số liệu chủ yếu từ năm 1997- 2007
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận
- Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Dựa vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước nói
chung, của Thành phố Đà Nẵng nói riêng về phát triển thị trường sức lao động.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử; phân tích tổng hợp, sơ đồ hóa, hệ thống bảng biểu.
Đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã
được công bố.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thị trường sức lao động ở
Thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất những định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm
phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường sức lao động,
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố theo hướng bền
vững.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy nghiên
cứu về thị trường sức lao động.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG

1.1. SỨC LAO ĐỘNG VÀ THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1.1.1. Sức lao động
1.1.1.1. Khái niệm

Bất cứ một quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố
cơ bản đó là: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tuy nhiên, cả ba yếu tố
này có một vai trò nhất định, trong đó lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
nhưng không phải là yếu tố duy nhất tạo ra của cải vật chất.
Quá trình tiêu dùng sức lao động đó là lao động. Theo C.Mác “Sức lao động hay
năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một
giá trị sử dụng nào đó” [31, tr.251].
Như vậy, sức lao động chỉ mới nói lên khả năng lao động tiềm ẩn bên trong của
một con người. Sức lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một
cơ thể con người đang sống. Năng lực thể chất chính là phần xương thịt của con người
thể hiện ở chiều cao, cân nặng và khả năng hoạt động của con nguời; Năng lực tinh thần
thể hiện ở mặt trí lực như sở thích, năng lực chuyên môn và sự thoả mái của con người.
Khác với sức lao động, Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự
nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian,
điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân của con người đối diện
với thực thể của tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên, để chiếm hữu được
thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống bản thân mình, con người
vận dụng những sức tự nhiên thuộc về thân thể của họ: tay và chân. Trong khi tác động
vào tự nhên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó đã làm thay đổi tự nhiên, con người

cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó.
Tóm lại, lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra
các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội. Lao động là quá trình tiêu
dùng sức lao động trong hiện thực, là phẩm chất đặc biệt của con người, khác với hoạt
động bản năng của con vật. C.Mác viết:
… bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm cho
một số nhà kiến trúc phải thổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến
trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong
bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chung trong đầu óc mình rồi [31, tr.266].

Hàng hoá sức lao động
Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của quá trình sản xuất, nó xuất hiện từ
rất lâu, cùng với sự xuất hiện của con người, từ khi con người biết tiến hành sản xuất tạo
ra tư liệu sinh hoạt cho bản thân mình. Trải qua một quá trình lâu dài sức lao động ngày
càng được hoàn thiện hơn. Ngay trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ sức lao động chưa phải là
hàng hoá, người nô lệ bị áp đặt lao động cưỡng bức, bị đối xử như một công cụ biết nói
và chịu sự chi phối hoàn toàn về mọi mặt của chủ nô. Đến chế độ phong kiến, người nông
dân tá điền tuy không bị lệ thuộc hoàn toàn vào địa chủ, nhưng họ không được quyền tự do
di chuyển, lựa chọn chủ đất làm thuê, sức lao động trong thời kỳ phong kiến đã manh nha trở
thành hàng hoá nhưng lại bị chặn bởi bóc lột siêu kinh tế, dưới bạo lực của địa chủ phong
kiến trấn áp. Người nô lệ có sức lao động chỉ làm thuê cho địa chủ mà họ không có quyền
mặc cả về tiền công. Do đó, sức lao động trong chế độ phong kiến chưa phải là hàng hoá.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi thời
đã cản trở cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó đòi hỏi một phương thức sản
xuất mới tiến bộ hơn ra đời, đó là phương thức sản xuất Tư bản chủ nghĩa, từ đây sức lao
động trở thành hàng hoá. Vì vậy, C.Mác viết:
Thiên nhiên không sinh ra một bên là chủ tiền - chủ hàng hoá, còn bên
kia là những người chỉ làm chủ độc có sức lao động của mình. Quan hệ ấy
không phải là một quan hệ lịch sử tự nhiên mà cũng không phải là một quan hệ
xã hội chung cho tất cả thời kỳ lịch sử. Rõ ràng bản thân nó là kết quả của sự

phát triển trước đó, là sản vật của nhiều cuộc cách mạng kinh tế, là sản vật của
sự diệt vong của hàng loạt những hình thái sản xuất xã hội cũ [31, tr.254].
Như vậy, lịch sử ngay từ đầu sức lao động chưa phải là hàng hóa. Sức lao động
chỉ trở thành hàng hoá khi có những điều kiện nhất định. Muốn cho người chủ tiền tìm
thấy trên thị trường một sức lao động với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện
khác nhau phải được thực hiện. Tự bản thân nó, trao đổi hàng hoá không bao gồm những
quan hệ lệ thuộc nào khác ngoài quan hệ lệ thuộc toát ra từ bản chất của chính nó. Với
tiền đề ấy sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá khi nó được

đưa ra trên thị truờng và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra trên thị trường, hay ngay
chính người chủ của nó, tức là bản thân người có sức lao động đem bán
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là yếu tố cơ bản của quá trình sản
xuất. Sức lao động trở thành hàng hoá khi có các điều kiện sau đây
Một là, người lao động tự do thân thể nghĩa là tự do sở hữu năng lực lao động
của anh ta và thân thể của anh ta, anh ta có quyền chi phối sức lao động của mình có
nghĩa là anh ta có bán hoặc không bán sức lao động cho người khác và được pháp luật
bảo vệ. Vì vậy C.Mác đã chỉ rõ: “Muốn cho người chủ sức lao động có thể bán được với
tư cách là hàng hoá thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình” [31,
tr.251]. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư
cách là những người hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ là một người thì
mua, còn người kia thì bán, và vì thế cả hai đều là những người đều bình đẳng với nhau
về mặt pháp lý. Muốn duy trì mối quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao giờ cũng
bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định mà thôi, bởi vì, nếu anh ta thì bán đứt
hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì anh ta sẽ tự bán cả bản thân anh ta, và từ
chỗ là người tự do, anh ta sẽ trở thành người nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá anh ta
trở thành một hàng hoá. Với tư cách là một con người, anh ta phải thường xuyên duy trì
mối quan hệ đối với lao động của mình như là vật sở hữu của mình, và vì vậy, như là một
hàng hoá của bản thân mình, và điều đó chỉ có thể thực hiện được trong chừng mực anh
ta bao giờ cũng chỉ để cho người mua sử dụng hoặc tiêu dùng sức lao động của mình một

cách nhất thời, trong một thời gian nhất định thôi, do đó chỉ trong chừng mực là khi bán
sức lao động, anh ta không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy.
Hai là, C.Mác viết: “Người chủ sức lao động phải không có khả năng bán những
hàng hoá trong đó lao động của anh ta đã được vật hoá, mà trái lại anh ta phải buộc đem
bán đi, với tư cách là hàng hóa, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ngay cơ thể sống
của anh ta thôi” [31, tr.252-253].
Khác với một người bán những hàng hóa do mình sản xuất ra, C.Mác cũng chỉ
rõ:

Để cho một người nào đó có khả năng bán những hàng hóa khác với sức
lao động của mình, thì tất nhiên là anh ta phải có những tư liệu sản xuất như
nguyên liệu, công cụ lao động vv… anh ta không thể làm giày ống mà không
có da thuộc. Ngoài ra anh ta còn cần có tư liệu sinh hoạt, không một ai ngay
cả một nhạc sĩ của tương lai, cũng không thể sống bằng những sản phẩm của
tương lai, không thể sống bằng những giá trị sử dụng còn chưa sản xuất xong
[31, tr.253].
Như vậy, để sức lao động trở thành hàng hóa cần phải có hai điều kiện nêu trên,
nghĩa là người chủ tiền phải tìm được người lao động tự do trên thị trường hàng hóa, tự
do theo hai nghĩa: thứ nhất là một con người tự do, chi phối được sức lao động của mình
với tư cách là một hàng hóa, và mặt khác, anh ta không có một hàng hóa nào khác để bán,
nói một cách khác là trần như nhộng, hoàn toàn không có một vật cần thiết để thực hiện
sức lao động của mình. Thiếu một trong hai điều kiện nêu trên thì sức lao động không trở
thành hàng hóa. Việc sức lao động trở thành hàng hóa đã đánh dấu một bước ngoặt cách
mạng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phương thức kết hợp người lao động
với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong kiến. Sự cưỡng
bức lao động bằng biện pháp phi kinh tế đã được thay bằng việc ký kết hợp đồng mua và
bán giữa hai người bình đẳng về hình thức: giữa người sở hữu sức lao động và người sở
hữu tư liệu sản xuất. Sự bình đẳng về hình thức ấy che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản, chế độ bóc lột được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa kẻ bóc lột và
người bị bóc lột. Chính sự kết hợp giữa biện pháp cưỡng bức lao động bằng biện pháp

kinh tế với quyền tự do của mỗi cá nhân là mâu thuẩn nội tại của nền dân chủ tư sản.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạnh khoa học – công nghệ, nền kinh
tế thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế mới, hay còn gọi là nền kinh tế tri thức.
Chủ nghĩa tư bản có sự biến đổi về hình thức sở hữu đa dạng, phong phú phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, điều kiện thứ hai để sức lao động trở thành
hàng hóa không còn đúng như C.Mác đã đưa ra cách 142 năm, nghĩa là người công nhân
không những bán sức lao động mà họ còn có cổ phần trong công ty. Chính vì vậy, một số
người cho rằng ngày nay người công nhân không chỉ có cổ phần mà họ còn là chủ sở

hữu, được hưởng lợi tức cổ phần. Chẳng hạn, ở Thụy Điển có tới 21% dân cư có cổ phần
trong các doanh nghiệp, ở Pháp có 6 triệu người là cổ đông, ở Anh có 8 triệu người, ở Mỹ
có khoảng 35- 40 triệu người. Ngoài ra còn xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự
quản. Tuy nhiên, những điều kiện trên là hoàn toàn có thật nhưng chúng ta cần nhận thấy
rằng, sở hữu của nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn cổ phần của người công nhân
chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản sử dụng như một công
cụ quản lý để thu hút sự quan tâm của người lao động vào quá trình tái sản xuất để nâng
cao hiệu quả sản xuất của nhà tư bản chứ không có nghĩa là người công nhân đã trở thành
người chủ tư liệu sản xuất. Theo số liệu thống kê quốc tế, toàn bộ số cổ phần mà người
lao động ở Mỹ chỉ chiếm 1% trong toàn bộ số cổ phiếu. Nhưng với sở hữu đó người công
nhân chưa trở thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất thực sự, mà chỉ mang tính hình thức
nên họ vẫn là người bán sức lao động, chứ chưa phải là vừa lao động, vừa quản lý
theo hình thức tiểu chủ. Về mặt lý luận, chúng ta cần phải phân biệt khi là chủ sở hữu
thật sự thì phải có quyền chi phối cái mà mình sở hữu (với những mức độ nhất định).
Ngoài ra nguồn gốc của giá trị cổ phiếu mà họ có là do tiết kiệm được chứ không phải
từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động của người khác, những phần tiết kiệm đó lại chỉ bù
đắp (thậm chí không đủ bù đắp) được phần mà họ mắc nợ do phải mua chịu tư bản cố
định cho gia đình do nhà nước đứng ra điều tiết. Trên thực tế, cái gọi là tư liệu sản
xuất mà họ sở hữu thì về giá trị của nó nằm trong hệ thống quản lý của ngân hàng và
bị khống chế của nhà tư bản tài chính chứ không được quyền tự do sử dụng theo ý
riêng của mình.

1.1.1.2 Các yếu tố của hàng hóa sức lao động
* Giá trị của sức lao động
Giá trị hàng hóa sức lao động được quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết
để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Sức lao động chỉ tồn tại như một năng lực con
người đang sống, muốn tái sản xuất năng lực lao động đó thì người có sức lao động phải
tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Do đó, thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra sức lao động sẽ quy thành thời gian lao động cần thiết sản xuất để sản xuất ra tư liệu
sinh hoạt ấy.

C.Mác viết:
Giá trị của sức lao động cũng như mọi hàng hóa khác, được quyết định
bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó để sản xuẩt ra thứ sản
phẩm đặc biệt ấy. Sức lao động chỉ tồn tại như một năng lực của con người
đang sống… Nhưng sức lao động chỉ được thực hiện bằng cách biểu hiện ra
ngoài, nó chỉ được thực hiện trong lao động. Trong quá trình thực hiện nó,
trong lao động phải hao phí một lượng nhất định về cơ, thần kinh và não, v.v.
của con người, sự hao phí đó phải được bù lại. Hao phí càng nhiều thì bù đắp
càng lớn [31, tr.255- 256].
Như vậy, là hàng hóa đặc biệt giá trị của hàng hóa sức lao động khác với hàng
hóa thông thường ở chỗ nó bao gồm yếu tố lịch sử và yếu tố tinh thần. Nhu cầu của người
có sức lao động không chỉ có nhu cầu về vật chất mà còn có nhu cầu về tinh thần. Những
nhu cầu này nó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ và phụ
thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, và lịch sử hình thành giai cấp công nhân cả
điều kiện lịch sử, khí hậu. C.Mác viết:
Bản thân những nhu cầu tự nhiên như thức ăn, áo quần, chất đốt, nhà ở
vv… cũng khác nhau tuỳ theo khí hậu và những đạc điểm thiên nhiên khác của
từng nước. Mặt khác quy mô của cái gọi là những nhu cầu thiết yếu, cũng như
những phương thức thoã mãn những nhu cầu đó, bản thân chúng cũng là một
sản phẩm của lịch sử và vì thế nó phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của
mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào những điều kiện, và do đó vào

những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt trong đó giai cấp của những người
lao động tự do được hình thành [31, tr.256-257].
Giá trị hàng hóa sức lao động kết hợp bởi 3 bộ phận
Thứ nhất, giá trị của những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống bản thân người
lao động. Sức lao động chỉ thực hiện trong lao động. Trong quá trình lao động phải hao
phí một lượng nhất định về cơ, thần kinh và não v.v…Sự hao phí đó phải được bù đắp lại.
Do đó, phải đủ tư liệu sinh hoạt để duy trì thể lực và sức khoẻ của người lao động như
trước, trong một trạng thái sinh hoạt bình thường. Bản thân những nhu cầu tự nhiên khác

như thức ăn, áo quần, chất đốt, nhà ở v.v…cũng khác nhau tuỳ theo khí hậu và những đặc
điểm thiên nhiên khác của từng nước. Mặt khác, quy mô của cái gọi là những nhu cầu
thiết yếu, cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó lại phụ thuộc phần lớn vào
trình độ văn minh của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc vào những điều kiện và những
thói quen trong đó giai cấp của những người lao động tự do được hình thành nghĩa là giá
trị sức lao động bao gồm một yếu tố lịch sử và tinh thần. Nhưng đối với một nước nhất
định và với một thời kỳ nhất định thì tính trung bình quy mô của những tư liệu sinh hoạt
cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định
Thứ hai, giá trị tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế. Người sở hữu sức lao
động sẽ phải về hưu hay chết. Những sức lao động biến khỏi thị trường lao động ấy cần
phải được thường xuyên thay thế bằng những sức lao động mới, ít ra cũng với một con số
ngang như thế. Vì vậy, tổng số những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho việc sản xuất ra sức
lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó, tức là cho con
cái của những người lao động
Thứ ba, chi phí đào tạo. Muốn cho sức lao động trở thành một sức lao động phát
triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó, nên phải có
những chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động. Do đó, những chi phí ấy
đều gia nhập vào tổng số giá trị được chi phí để sản xuất ra sức lao động và tiền công cho
lao động phức tạp phải cao hơn lao động giản đơn, vì lao động phức tạp là bội số của lao
động giản đơn.
Giá trị của mọi hàng hóa khác có xu hướng càng giảm càng tốt; nhưng giá trị của

hàng hoá sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó; đó chính là “Giá trị của cái khối
lượng hàng hóa mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, tức con người, sẽ
không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là tạo thành giá trị của những tư liệu
sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý” [31, tr.259]. Nếu vượt quá giới hạn này,
người lao động sẽ có cuộc sống thấp và việc sử dụng sức lao động của người này sẽ bị
ảnh hưởng và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động khó phát huy tốt đuợc.
Cũng như mọi hàng hóa khác, người mua hàng hóa tuy phải thực hiện giá trị,
nhưng mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hoá đó. Nhà tư bản cũng vậy, họ bỏ

tiền ra mua sức lao động chỉ vì hàng hoá này có giá trị sử dụng rất đặc biệt. Chính tính
chất đặc biệt của nó tạo ra sự hấp dẫn kỳ lạ cho người mua cũng như cho nhà tư bản
* Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là đáp ứng nhu cầu của người mua.
Trong quá trình sản xuất nhà tư bản cần có sức lao động của công nhân kết hợp với tư
liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra các hàng hóa có giá trị cao hơn giá
trị ứng truớc. Cái có ý nghĩa quyết định ở giá trị sử dụng của sức lao động là cái đặc tính
của nó, đặc tính có ích của sức lao động không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng
mà là cái nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của
chính bản thân nó. Ở đây có sự thống nhất giữa quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm
tăng giá trị. Về thực chất, quá trình làm tăng giá trị cũng chính là quá trình tạo ra giá trị
được kéo dài quá một điểm nào đó mà thôi, điểm đó ngang bằng với giá trị sức lao động
Tính có ích của sức lao động chỉ thực sự được thực hiện, tức chỉ thực sự tạo ra
một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động phải hoạt động trong những điều
kiện bình thường đó là các điều kiện sau đây:
Một là, bản thân sức lao động phải là một sức lao động bình thường. Nghĩa là, trong
ngành chuyên môn sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung bình về mặt
tài nghệ, về mặt thành thục và tốc độ. Tức muốn nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động
phải trải qua một thời kỳ đào tạo, huấn luyện, rèn luyện chuyên môn nhất định cả kinh
nghiệm tích luỹ được nữa.
Hai là, phải đảm bảo tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của sản

xuất như tư liệu lao động, nguyên liệu, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường và các
yếu tố này phải được sử dụng một cách hợp lý, phù hợp với từng loại sản phẩm và yêu
cầu của thị trường. Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như trình độ phát triển của mỗi quốc gia, năng xuất lao động, giáo dục đào
tạo và nhiều yếu tố khác
* Giá cả của hàng hóa sức lao động

Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có giá trị và giá trị sử
dụng. Giá trị của hàng hóa sức lao động biểu hiện ra bên ngoài là giá cả của nó hay tiền
công. Như vậy, về thực chất tiền công là giá cả của hàng hoá sức lao động
Tiền công là một phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa nhà tư bản và công nhân
lao động làm thuê. Vì vậy, tiền công là một trong những căn cứ quan trọng để nhà tư bản
và công nhân làm thuê thoả thuận với nhau trên thị trường hàng hóa sức lao động
1.1.2. Thị trường sức lao động và những nhân tố của thị trường sức lao
động
1.1.2.1. Khái niệm về thị truờng sức lao động
Trong nghiên cứu kinh tế tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường sức
lao động.
* Theo quan niệm của các học giả nước ngoài và các tổ chức quốc tế:
Lịch sử phát triển của các tư tưởng kinh tế đến nay tồn tại rất nhiều định nghĩa
khác nhau về thị trường sức lao động. Chẳng hạn như Ađam smith, nhà kinh tế chính trị
tư sản cổ điển Anh cho rằng: Thị trường lao động là không gian trao đổi dịch vụ lao động
giữa một bên là người mua sức lao động và người bán sức lao động. Với quan niệm trên
cho thấy, Ađam smith nhấn mạnh đến đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao
động.
- Theo tổ chức lao động quốc tế ILO thì : “ Thị trường lao động là thị trường
trong đó có các dịch vụ lao động được mua bán và thông qua quá trình để xác định mức
độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ của tiền công”. Khái niệm này nhấn mạnh
đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm và tiền công.
Quan điểm của các nhà khoa học kinh tế Nga thì cho rằng: “ Thị trường lao động

được hiểu như là một hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong
đó có cả pháp luật) đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động”. Với
quan niệm trên coi thị trường lao động trên cơ sở đánh giá sự vận động của thị trường sức
lao động dưới tác động của hệ thống những quan hệ xã hội, thể chế và pháp luật của một
xã hội nhất định.

Các nhà khoa học Mỹ thì cho rằng : Thị trường lao động là một cơ chế mà với sự
trợ giúp của nó hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ làm vịêc được điều tiết hay thị
trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và kết hợp giải quyết những lĩnh vực
việc làm được gọi là thị trường lao động.
Ngân hàng thế giới cho rằng: Thị trường sức lao động xét về lý thuyết kinh tế
được coi là một vị trí mà tại đó cung và cầu về lao động tác động qua lại với nhau. Đồng
thời, khi nhấn mạnh bản chất của thị trường sức lao động, ngân hàng thế giới còn đưa ra
khái niệm chi tiết mô tả nội dung và các yếu tố cơ bản cấu thành thị trường sức lao động
gồm:
- Các chủ thể của thị trường sức lao động là hộ gia đình, cá nhân người lao động
(thuộc về phía cung người lao động); hãng, công ty, chủ doanh nghiệp (thuộc về phía cầu
người lao động).
- Quy mô gồm: số lượng người lao động làm công, số giờ làm việc(thời gian làm
việc)
- Giá cả: mức tiền công; tỷ lệ tiền công
- Thể chế: chính phủ, cơ chế điều tiết
Theo tiến sĩ Leo Maglen, chuyên gia tư vấn của dự án giáo dục kỹ thuật dạy
nghề của tổng cục dạy nghề Do ngân hàng phát triển châu Á thì quan niệm thị trường lao
động được tiếp cận dưới góc độ việc làm và được xác định như sau: Thị trường lao động
là một hệ thống trao đổi giữa người có việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao
động) với những người đang sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng
(cầu lao động). Theo quan niệm này, sự trao đổi và thoả thuận giữa những người sử dụng
lao động và người lao động trên thị trường lao động liên quan đến các nội dung quan hệ lao
động như tuyển dụng lao động, sử dụng lao động, tiền công, tiền lương, bảo hiểm xã hội,

điều kiện lao động…trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
* Các quan niệm về thị trường sức lao động của các học giả Việt Nam:
Ở Việt nam từ khi chấp nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thì sức lao động được coi là hàng hóa và thị trường hàng hóa sức lao động từng bước
được hình thành và phát triển. Từ đó, việc nhận thức và quan niệm về thị trường hàng

hóa sức lao động cũng ngày càng hoàn thiện và rõ hơn, có thể đưa ra các quan niệm sau
đây:
Theo quan niệm từ Viện quản lý kinh tế Trung ương: Thị trường sức lao động là
nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động và người mua sức lao động
thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả, tiền công, tiền lương và các điều kiện làm
việc khác, trên cơ sở một bản hợp đồng bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các
thoả thuận khác. Quan niệm trên đã bám sát quá trình hình thành và phát triển thị trường
sức lao động ở Việt Nam hiện nay.
Trong giáo trình kinh tế lao động của trường đại học kinh tế quốc dân Hà Nội,
khi luận giải về thị trường sức lao động nhấn mạnh ở ba khía cạnh. Một là, thời gian,
không gian, địa điểm diễn ra các hoạt động mua bán sức lao động. Hai là, mối quan hệ
giữa người lao động và người sử dụng lao động. Ba là, những mối quan hệ kinh tế khác
được hình thành trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
Theo tiến sĩ khoa học Phạm Đức Chính thì thị trường sức lao động đó là một cơ
chế hoạt động tương hỗ số người sử dụng lao động và người lao động trong một không
gian kinh tế xác định, thể hiện những quan hệ kinh tế pháp lý giữa họ với nhau. Mặc dù
còn có những điểm khác biệt, song có thể thấy các định nghĩa về thị trường lao động nêu
lên đều thống nhất với nhau về nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao động, đó
là không gian, người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động
ngoài và những ràng buộc giữa các bên
Tổng hợp các quan niệm khác nhau ngay cả trong nước cũng như ở nước ngoài
nêu trên. Có thể hiểu thị trường sức lao động như sau:
Thị trường sức lao động theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn trong một khu vực không
gian nhất định nơi diễn ra các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động và người mua

sức lao động bằng hình thức hợp đồng thoả thuận về giá cả, tiền công, và các điều kiện
làm việc khác.
Thị trường sức lao động theo nghĩa rộng là nơi cung và cầu lao động tác động
qua lại với nhau, hay là nơi trao đổi hàng hóa sức lao động trong đó người bán sức lao
động và người mua sức lao động bình đẳng với nhau để xác định giá cả (tiền công, tiền

lương) và các điều kiện lao động khác thông qua một hình thức hợp đồng lao động nhất
định.
- Về thuật ngữ “ thị trường sức lao động” và “ thị trường lao động”
Trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường, khi nghiên cứu các vấn đề
lý luận về thị trường lao động thường xuất hiện hai thuật ngữ là “ thị trường lao động” và
“ thị trường sức lao động”. Hầu hết được thể hiện trong các công trình nghiên cứu, sách
báo và các bài viết đều không có sự thống nhất. Ở đây, điểm xuất phát của hai thuật ngữ
nêu trên chủ yếu là sức lao động là hàng hóa hay lao động là hàng hóa. Hiện nay, tồn tại
hai loại ý kiến khác nhau: Đối với các nhà kinh tế theo lý thuyết của kinh tế thị trường
hiện đại như tiến sĩ Leo Maglen của tổ chức lao động quốc tế ILO và trong “Đại từ điển
kinh tế thị trường”(xuất bản năm 1988) cho rằng, trên thị trường sức lao động chỉ mua bán
dịch vụ lao động, do đó thiên về cách gọi là thị trường lao động. Ở Việt Nam, những năm
đầu của thời kỳ đổi mới, thuật ngữ “ thị trường lao động” được sử dụng rộng rãi trong hệ
thống pháp luật, đặc biệt là trong bộ luật lao động; Mặt khác, các nhà nghiên cứu lý luận theo
lý thuyết kinh tế thị trường của chủ nghĩa Mác thì cho rằng trên thị trường này sức lao động
là hàng hóa và thống nhất quan điểm thị trường hàng hóa sức lao động. Cơ sở luận giải cho
vấn đề này dựa vào lý luận của C.Mác về Mua bán sức lao động. C.Mác và Ăng ghen đã chỉ
ra rằng: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó vận
dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [31, tr.251]. Như vậy, sức lao động bao
gồm năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và khả năng vận
dụng thể lực và trí lực để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Còn lao động là hoạt động
có mục đích, có ý thức của con người tác động vào tự nhiên để cải biến những vật thể tự
nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.

Như vậy, sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong con người, còn
lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động. Khi bàn về tiền công C.Mác đã chỉ ra sự
nhầm lẫn tiền công là giá cả của lao động, lao động không phải là hàng hóa và không có
giá trị. Bởi vì, nếu lao động là hàng hóa thì phải có trước, phải được vật thể trong một
hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để lao động có thể vật hóa được là phải có tư liệu sản

xuất. Và nếu người lao động có tư liệu sản xuất thì họ không còn là người vô sản nữa, họ
bán những sản phẩm do họ sản xuất ra, chứ không bán sức lao động. Đồng thời thừa nhận
lao động là hàng hóa thì dẫn đến mâu thuẩn về mặt lý luận là: nếu lao động là hàng hóa
thì nó được trao đổi ngang giá thì lúc đó nhà tư bản sẽ không thu được lợi nhuận, điều đó
phủ nhận quy luật giá trị thặng dư, và phương thức sản xuất không còn là cơ sở tồn tại
nữa. Và nếu hàng hóa lao động được trao đổi không ngang giá thì nhà tư bản sẽ thu được
giá trị thặng dư, điều đó phủ nhận quy luật giá trị. Ngoài ra, hàng hóa sức lao động còn
có một đặc điểm nữa là nó không bao giờ tách khỏi người bán; hơn nữa nó chỉ nhận được
giá cả sau khi cung cấp giá trị sử dụng cho người mua. Giá trị sử dụng mà người công
nhân cung cấp cho nhà tư bản lại không phải là sức lao động mà là việc sử dụng cái sức
ấy tức là lao động. Do đó, nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản chỉ trả giá trị cho cái công
dụng mà công nhân đã cung cấp cho nhà tư bản tức là trả giá trị cho lao động. Đối với
công nhân thì lao động là phương tiện sinh sống của anh ta, toàn bộ lao động trong cả
ngày lao động là phương tiện để có tiền công sinh sống. Do đó, công nhân tưởng rằng
mình bán là bán lao động. Còn nhà tư bản bỏ tiền ra mua là để có lao động, cho nên họ
cũng lầm tưởng là họ mua lao động. Số lượng tiền công nhiều hay ít tuỳ theo ngày lao
động dài hay ngắn, hoặc tuỳ theo kết quả lao động nhiều hay ít. Vì vậy, dẫn đến hiểu lầm
là tiền công là trả cho kết quả lao động.
Tóm lại, từ cách luận giải trên sức lao động là hàng hóa và hàng hóa sức lao
động được mua bán trên thị trường. Đó là thị trường hàng hóa sức lao động. Đại hội đảng
lần thứ X đã khẳng định và thống nhất thuật ngữ: “Phát triển thị trường sức lao động
trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung- cầu lao động” [19, tr.81].
1.1.2.2. Những yếu tố cấu thành thị trường sức lao động
Thị trường sức lao động được cấu thành từ các yếu tố: cung, cầu, giá cả sức lao động,

cơ chế điều tiết quan hệ cung cầu và cạnh tranh trên thị trường sức lao động. Giữa các nhân tố
này có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau. Nói đến sự vận động của thị trường sức lao động là
nói đến sự vận động của các yếu tố cung, cầu lao động, giá cả sức lao động theo các quy luật
khách quan và chịu sự tác động của các chính sách, thể chế do nhà nước ban hành.
* Cung sức lao động

Cung sức lao động được hiểu là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự
nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội, tức là tổng số nhân khẩu trong
độ tuổi lao động có khả năng lao động kể cả số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao
động nhưng thực tế vẫn tham gia vào quá tái sản xuất xã hội.
Cung sức lao động cũng có thể được hiểu là khả năng cung cấp cả thể lực và trí
lực của người lao động làm thuê cho người sử dụng lao động trong một thời gian nhất
định với mức tiền công xác định.
Khi xem xét cung sức lao động trên thị trường cần phân biệt rõ hai phạm trù
cung thực tế và cung tiềm năng.
Cung thực tế về sức lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc hoặc chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Cung tiềm năng về sức lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên
chưa có việc làm hoặc đang đi học, đang làm việc nội trợ hoặc chưa có nhu cầu tìm kiếm
việc làm
Cung sức lao động chịu tác động của nhiều yếu tố có thể khái quát sau đây:
- Cung sức lao động phụ thuộc vào số lượng dân số có khả năng lao động cụ thể
là số lượng dân số hoạt động kinh tế thường xuyên
Dân số kinh tế thường xuyên gồm tất cả những người trong độ tuổi lao động, có
khả năng lao động đang làm việc hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Chính lực lượng
này quyết định đến mức cung sức lao động và nó mang tính chất tỷ lệ thuận với mức
cung sức lao động.
- Cung sức lao động phụ thuộc vào định mức giờ làm việc.
Trong thực tế luôn tồn tại các bộ phận người lao động khác nhau về nhu cầu thời
gian làm việc. Trong đó, một bộ phận có khả năng về kinh tế tài chính họ cần có thời gian

nghỉ ngơi, giải trí không muốn làm việc với thời gian dài. Một bộ phận khác do khó khăn
về mặt kinh tế yêu cầu tăng giờ làm việc; cũng có một số lao động nữ phải nuôi con nên
muốn giảm thời gian làm việc trong ngày. Vì vậy, việc xác định định mức thời gian làm
việc sẽ tác động đến các bộ phận người lao động kể trên và sẽ làm tăng hay giảm nguồn
cung lao động. Hơn nữa, cũng cần chú ý sức lao động là một loại hàng hóa đặc biệt chịu

sự tác động của các yếu tố tinh thần và lịch sử nên phải xem xét cung trong điều kiện lịch
sử cụ thể.
- Cung sức lao động phụ thuộc vào tiền lương
Đối với hàng hóa thông thường, sự biến động giá cả của hàng hóa tác động trực
tiếp đến tình hình cung cầu hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên tình hình này lại không
diễn ra như vậy đối với hàng hóa sức lao động. Việc tăng giá sức lao động không nhất
thiết đi cùng với tăng cung của nó. Cung sức lao động phụ thuộc vào tiền công trên thị
trường. Một mặt, tiền công và cung sức lao động tác động cùng chiều nghĩa là, khi tiền
công cao ảnh hưởng trực tiếp đến tăng cung. Trong nền kinh tế thị trường, số đông người
lao động có thu nhập thấp trong khi nhu cầu về những tư liệu sinh hoạt cao nên họ sẵn
sàng cung ứng lượng lao động lớn hơn, vì vậy, tăng tiền công tác động rất lớn đến tăng
cung về hàng hóa sức lao động. Mặt khác, tiền công và cung sức lao động tỷ lệ nghịch
với nhau nghĩa là, tăng tiền công tác động giảm cung ở chỗ, thu nhập tăng lên, người lao
động sẽ có điều kiện mua sắm hàng hóa và dịch vụ để thoả mãn nhu cầu tốt hơn. Nhưng
khi độ thoả mãn đạt đến một giới hạn nhất định thì số lượng hàng hóa và dịch vụ thêm
vào có giá trị rất ít, người lao động có thu nhập cao sẵn có vô số hàng hóa và dịch vụ
hưởng thụ, do đó nếu được đề nghị mức lương cao hơn, họ sẵn sàng giảm giờ làm việc
mà vẫn duy trì mức thu nhập cao để tăng thời gian nghỉ ngơi, làm cung giảm xuống. Vì
thế, đối với từng loại hàng hóa sức lao động, các nhà quản lý và hoạch định chính sách đề
xuất mức tiền công hợp lý để tác động đến cung- cầu trên thị trường hàng hóa sức lao
động.
- Cung sức lao động phụ thuộc vào yếu tố di dân
Việc di chuyển lao động từ vùng, địa phương, khu vực, ngành nghề này sang
vùng, địa phương, ngành nghề khác… dưới tác động của quy luật cung- cầu lao động và

chính sách lao động việc làm của nhà nước sẽ tác động đến cung lao động ở các thị
trường lao động giới hạn trong không gian và thời gian xác định. Việc di chuyển lao động
là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp và được phân loại thành những tiêu chí khác
nhau.
Theo độ dài thời gian cư trú: phân chia thành di dân tạm thời và di dân lâu dài.

Theo tính chất pháp lý của di dân: gồm có di dân hợp pháp và di dân bất hợp
pháp.
Theo tính chất tự giác của di dân: gồm có di dân có tổ chức và di dân tự do; di
dân tự nguyện và di dân bắt buộc.
Việc di dân có ảnh hưởng trực tiếp đến cung sức lao động bởi vì nó có thể làm
tăng lực lượng lao động ở vùng này và đồng thời làm giảm lực lượng lao động ở vùng
khác. Đây là hiện tượng bình thường, thông qua đó người ta có thể đánh giá được tình
trạng hoạt động bình thường của thị trường lao động. Ngoài ra, di dân có thể làm thay đổi
cơ cấu lực lượng lao động về giới, trình độ và về trình độ học vấn. Chính vì thế, khi điều
chỉnh cung sức lao động cần chú ý đến ýêu tố di dân.
* Cầu sức lao động
Cầu về sức lao động là số lượng lao động được thuê mướn trên thị trường lao
động. Hay nói cách khác, cầu về sức lao động là toàn bộ nhu cầu về sức lao động của một
nền kinh tế(hoặc của một ngành, địa phương, doanh nghiệp…) ở một thời kỳ nhất định,
bao gồm cả số lượng và chất lượng, cơ cấu và thường được xác định thông qua chỉ tiêu
việc làm.
Cầu về sức lao động biểu hiện khả năng thuê lao động của người sử dụng lao
động trên thị trường lao động và được xem xét ở hai góc độ là cầu thực tế và cầu tiềm
năng.
Cầu thực tế về sức lao động là nhu cầu thực tế lao động cần được sử dụng tại
một thời điểm nhất định, bao gồm những người đang làm việc, chỗ làm việc trống (chỗ
làm việc đã từng sử dụng lao động, nay không có lao động lànm việc và đang có nhu cầu
sử dụng lao động) và chỗ làm việc mới đang cần thuê lao động làm việc (chỗ làm việc
mới xuất hiện và đang có nhu cầu sử dụng lao động.

Cầu tiềm năng về sức lao động là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ làm việc có
thể có được, trên cơ sở nhu cầu lao động hiện tại và có tính đến các yếu tố việc làm trong
tương lai như: vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và các điều kiện khác. Cầu tiềm
năng được xác định như sau:
Cầu tiềm năng = Cầu thực tế + chỗ làm việc sẽ được

về sức lao động về sức lao động tạo ra trong tương lai
Các nhân tố tác động đến cầu về sức lao động
- Năng suất lao động: Trong doanh nghiệp, ngành hay toàn bộ nền kinh tế thì
năng xuất lao động thay đổi làm cho cầu về sức lao động thay đổi theo hai xu hướng khác
nhau. Năng xuất lao động tăng sẽ làm cho sản phẩm biên và giá trị sản phẩm biên tăng,
lúc đó doanh nghiệp sẽ thuê thêm lao động, cầu về sức lao động tăng, tăng chỗ làm việc
cho người lao động trong nền kinh tế. Ngược lại, năng xuất lao động giảm làm cho cầu về
sức lao động giảm. Tuy nhiên, nếu năng xuất lao động tăng mà doanh nghiệp không mở
rộng quy mô, kế hoạch sản xuất thì có thể giảm cầu về sức lao động.
- Tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mặt thiết với các yếu
tố đầu vào như vốn, lao động và công nghệ. Trong điều kiện khoa học công nghệ không
thay đổi, giá cả của lao động không thay đổi, vốn không thay đổi, thì tác động của tăng
trưởng kinh tế sẽ làm tăng mức cầu về sức lao động trên thị trường lao động. Tuy nhiên,
trong môi trường phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ thì bất cứ một nền
kinh tế có tăng trưởng nào cũng đều cố gắng áp dụng những tiến bộ khoa học, công nghệ
vào sản xuất để tăng năng xuất lao động. Trong những điều kiện như vậy, cầu lao động
về chuyên môn, kỹ thuật tăng lên và giảm cầu về lao động giảm đơn.
- Thu nhập của dân cư và sức mua của người dân
Khi thu nhập tăng làm sức mua tăng, lúc đó doanh nghiệp bán sản phẩm ra được
nhiều hơn, tăng sản xuất làm cho cầu đầu vào sức lao động tăng. Tuy nhiên đạt đến một
mức độ nhất định.
- Giá cả hàng hoá sức lao động
Cũng như bất cứ hàng hoá nào khác trên thị trường, cầu hàng hoá sức lao động
phụ thuộc vào giá cả sức lao động. Tuy nhiên là một loại hàng hóa đặc biệt, giá cả hàng

hóa sức lao động nó được đo bằng giá cả của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người
công nhân và gia đình của anh ta, nên sự tác động của giá cả của hàng hóa sức lao động
đến cầu sức lao động có những điểm đặc biệt. Nếu tiền lương cao sẽ giảm cầu sức lao
động
- Sự thay đổi mức lương

Số lượng lao động được thuê phụ thuộc vào mức lương mà người sử dụng lao
động trả cho họ. Điều này nói lên rằng cầu sức lao động phụ thuộc vào giá cả của nó. Nếu
mức lương càng cao thì cầu về sức lao động càng giảm, nó phù hợp với quy luật cung cầu
trên thị trường. Hơn nữa, giữa tiền lương và lợi nhuận có quan hệ với tác động lẫn nhau;
Ngược lại, giá cả sức lao động giảm xuống thì cầu về súc lao động sẽ tăng. Ngoài ra, mức
tiền lương trên thị trường lao động còn bị tác động bởi mức lương tối thiểu của chính
phủ. Trên thực tế, việc nâng mức tiền lương tối thiểu của chính phủ thường bị quy ước
của tối đa hoá lợi nhuận gây trở ngại, vì trong các doanh nghiệp, việc thuê lao động
bao gồm một sự so sánh doanh thu cận biên và mức tiền lương. Theo quy luật tối đa
hóa lợi nhuận, khối lượng sản phẩm được ssản xuất ra tại thời điểm mà chi phí cận
biên đúng bằng doanh thu cận biên của doanh nghiệp thì doanh nghiệp sẽ dừng nhận
thêm lao động tại điểm này.
- Thời gian làm việc của người lao động
Thời gian làm việc trong ngày, tuần và cả cuộc đời, yếu tố này tác động đến cầu
về cơ bản và ngược lại so với khi phân tích tác đến cung về sức lao động. Chẳng hạn, thời
gian lao động nông nhàn trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao, cung về sức lao động trên thị
trường cao và cầu giảm.
* Về giá cả sức lao động
Giá cả sức lao động là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động. Trên thị
trường sức lao động, giá cả được biểu thể hiện dưới dạng tiền công. Cũng như mọi hàng
hóa khác, giá cả phụ thuộc vào quan hệ cung, cầu sức lao động trên thị trường. Khi cung
sức lao động vượt quá cầu, giá cả sức lao động giảm và ngược lại. Tuy nhiên, là hàng hóa
đặc biệt mà giá trị của nó được đo bằng giá cả những tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết cho người có sức lao động ấy, và cả gia đình anh ta, nên sự lên xuống của giá cả sức

lao động tác động đến cầu cũng có những đặc điểm riêng. Đặc điểm riêng này được biểu
hiện ở chỗ: Nếu mức giá cả sức lao động cao sẽ tác động đến mức cầu sức lao động theo
một cơ chế phức tạp có tính chất ngược chiều. Khi giá cả sức lao động tăng sẽ giảm cầu
sức lao động giống như các loại hàng hóa khác. Đồng thời, giá cả sức lao động tăng về
phía doanh nghiệp, sẽ tăng chi phí sản xuất, giảm lợi nhuận, cầu sức lao động của doanh

nghiệp giảm, tăng thất nghiệp. Trường hợp, khi giá cả sức lao động tăng mà không giảm
cầu, thậm chí tăng cầu sức lao động. Như tăng lương, tăng sức mua của người lao động,
làm tăng khối lượng hàng hóa bán ra của doanh nghiệp, lợi nhuận tăng, làm tăng cầu sức
lao động. Mặc khác, khi giá cả sức lao động thấp, làm cho sức mua của người lao động
giảm sút. Điều này gây nên hậu quả tiêu cực cho doanh nghiệp, hàng hóa bán ra thấp, giảm
cầu sức lao động. Đồng thời, giá cả sức lao động giảm, tái sản xuất sức lao động khó khăn,
giảm hiệu quả sản xuất.
Ngoài ra, giá cả trên thị trường sức lao động còn phụ thuộc vào các nhân tố khác
như: tiềm năng kinh tế, mức sinh hoạt của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, sự ưa thích
nghề nghiệp, địa vị xã hội, phong tục tập quán, điều kiện lao động, điều kiện sống.
* Về thể chế và các hình thức giao dịch của thị trường sức lao động
Về cơ bản, thể chế chính là cơ chế pháp luật và tổ chức để xử lý các mối quan hệ
lao động cơ bản giữa người bán sức lao động, người sử dụng lao động và nhà nước, nhằm
đảm bảo hài hoà các lợi ích và trách nhiệm của các bên về mục tiêu phát triển chung. Thể
chế thị trường sức lao động bao gồm nhiều tổ chức như hệ thống thể chế và tổ chức; hệ
thống dịch vụ việc làm; hệ thống doanh nghiệp xuất khẩu lao động; hệ thống thông tin thị
trường sức lao động; hệ thống thông tin hướng nghiệp dạy nghề, hệ thống thông tin giới
thiệu việc làm và hệ thống bảo hiểm xã hội.
Hiện nay, có hai nhân tố của thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển và hoàn
thiện của thị trường sức lao động.
Một là, các trung tâm và các phương thức giao dịch trên thị trường hàng hóa sức
lao động. Các trung tâm được thành lập với vị trí, vai trò là cầu nối trung gian giữa cung,
cầu cần được thể hiện rõ hơn. Giới trung gian có thể là các tổ chức giới thiệu việc làm,
các trung tâm đào tạo hoặc các cơ quan chức năng nằm trong hệ thống quản lý lao động.

Tuỳ thuộc vào nhiệm vụ và quyền hạn, giới trung gian có chức năng được quy định cụ
thể
Về phương thức giao dịch. Trên thị trường hàng hóa sức lao động, các phương thức
giao dịch rất phong phú và đa dạng. Có thể tiếp cận theo giao dịch trực tiếp và gián tiếp,
nhưng hiện nay phổ biến nhất là: giao dịch thông qua các tổ chức giới thiệu việc làm; giao

×