LUẬN VĂN:
Phát triển thị trường sức lao động ở
tỉnh Bình Dương hiện nay
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển thị trường sức
lao động là một tất yếu khách quan vì lao động là hoạt động cơ bản nhất của con người, là
nguồn lực to lớn nhất góp phần tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội.
Đại hội Đảng lần thứ X chỉ rõ:
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn
kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học
nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút
nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc
biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn
thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong khu vực kinh tế
nhà nước và bộ máy công quyền. Đa dạng hoá các hình thức giao dịch việc làm;
phát triển hệ thống thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới.
Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ
và quản lý ở những ngành, nghề cần ưu tiên phát triển [14, tr.81-82].
Hàng hóa sức lao động đã xuất hiện trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và đã được
C.Mác nghiên cứu, xây dựng thành lý luận hàng hóa sức lao động. Với lý luận này, C.Mác
đã vạch rõ bản chất của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, nguồn gốc của giá trị
thặng dư do sức lao động tạo ra. Lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác được ra đời
trong nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh nhưng vẫn còn ý nghĩa về mặt lý luận và thực
tiễn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, sức lao
động là nhân tố cơ bản góp phần tạo ra giá trị mới cho nền kinh tế, là nguồn lực quan trọng
để góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế tri thức và hội
nhập kinh tế quốc tế nguồn lực này càng trở nên quan trọng hơn.
Ở nước ta một số thị trường đã phát triển và bước đầu hình thành song chưa phát
triển đồng bộ, chưa tạo điều kiện cho các loại thị trường khác cùng phát triển. đặc biệt là
trong thị trường sức lao động, nếu thị trường này phát triển không đồng bộ sẽ cản trở trong
phát triển kinh tế thị trường.
Bình Dương là một tỉnh nằm trong khu vực kinh tế trong điểm phía nam, nơi có nhiều
tiềm năng phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế của miền Đông Nam Bộ cũng như
của cả nước, nhưng hiện nay vấn đề đặt ra là lực lượng lao động chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển đó, sự điều tiết thị trường sức lao động và các quan hệ trên thị trường lao động diễn
ra thiếu tính ổn định và phát triển bền vững. Thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương
không nằm ngoài những bất cập trong bước chuyển đổi của nền kinh tế thị trường, thêm vào
đó cần nắm vững cung cầu sức lao động sẽ làm cơ sở để quyết định chính sách, quy hoạch, kế
hoạch về nguồn nhân lực, phân bổ, sử dụng lao động ở địa phương một cách hợp lý, có hiệu
quả. Vì vậy, đề tài "Phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương hiện nay” được
chọn là luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu về thị trường
sức lao động, như:
- Đỗ Thị Xuân Phương (2000): Phát triển thị trường sức lao động giải quyết việc
làm (qua thực tế Hà Nội), Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
- Bùi Thị Xuyến (2002): Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của Mác vào thực
tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Vương Thanh Tú (2004): Thị trường lao động trong thời ký quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Phạm Đức Chính (2005): Thị trường lao động cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Hương (2006): Phát triển các loại thị trường trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Nguyễn Văn Phúc (2008): Thị trường sức lao động trình độ cao ở Việt Nam hiện
nay, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Ngọc Bình (2008): Thị trường sức lao động ở thành phố Hồ Chí Minh
dưới tác động của đầu tư trưc tiếp nước ngoài, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Thu Hường (2008): Lý luận hàng hóa sức lao động của C.Mác với việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Nghệ An, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu đăng trên nhiều tạp chí viết về vấn đề này.
Các công trình nghiên cứu này đã tiếp cận vấn đề của thị trường sức lao động ở
nhiều góc độ khác nhau, tập trung vào phân tích đánh giá thị trường sức lao động. Tuy
nhiên thị trường sức lao động ở nước ta còn nhiều tồn tại, khó khăn, còn nhiều diễn biến
phức tạp chưa giải quyết được thì việc nghiên cứu, làm rõ về lý luận và thực tiễn thị trường
sức lao động của Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng trong giai đoạn hiện
nay phải cần được tiến hành thường xuyên, để từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp thúc đẩy
thị trường này hoạt động có hiệu quả và phát triển bền vững.
Vì vậy, tiếp tục nghiên cứu về thị trường sức lao động là điều cần thiết, có ý nghĩa
cả về lý luận và thực tiễn trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thị trường sức lao động trong
nền kinh tế thị trường, phân tích, đánh giá đúng thực trạng thị trường sức lao động ở Bình
Dương hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển thị
trường sức lao động ở Bình Dương trong giai đoạn hiện nay, dựa trên cơ sở hệ thống hóa
những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thị trường sức lao động của một số tỉnh
và ở tỉnh Bình Dương trong thời gian qua.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn là:
- Phân tích làm rõ bản chất, đặc điểm, các yếu tố tác động đến thị trường sức lao
động vai trò của thị trường sức lao động.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động của một số tỉnh, thành
như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thị trường sức lao động ở tỉnh Bình Dương trong
giai đoạn hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Bình
Dương.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thị trường sức lao động, quan hệ kinh tế giữa người có sức
lao động với người sử dụng sức lao động thông qua các quan hệ kinh tế trên thị trường sức
lao động.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khảo sát thị trường sức lao động ở tỉnh Bình
Dương hiện nay. Đồng thời có sự so sánh với thị trường sức lao động ở một số tỉnh, thành
khác.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về thị trường sức lao động trong
trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời có tham khảo, kế thừa những kết quả nghiên cứu của
các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố và chú ý khai thác kinh nghiệm một số
tỉnh.
- Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kết hợp với một số phương pháp như thống kê, phân tích, so
sánh, tổng hợp…
6. Những đóng góp của luận văn
- Tổng hợp và hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến thị trường sức lao động.
- Khẳng định phát triển thị trường sức lao động trong giai đoạn hiện nay là tất yếu
khách quan, là chiến lược quan trọng, lâu dài trong phát triển kinh tế.
- Làm tài liệu tham khảo cho UBND tỉnh Bình Dương trong việc quản lý và phát
triển thị trường sức lao động của tỉnh trong thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỊ TRƯỜNG
SỨC LAO ĐỘNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. HÀNG HOÁ SỨC LAO ĐỘNG, THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG
1.1.1. Sức lao động và hàng hóa sức lao động
1.1.1.1. Sức lao động
Quá trình lao động sản xuất là sự kết hợp của ba yếu tố: sức lao động, đối tượng lao
động và tư liệu lao động, mỗi yếu tố đóng vai trò nhất định trong quá trình sản xuất, trong
đó sức lao động là yếu tố quyết định. Lao động chính là quá trình đang vận dụng sức lao
động. Theo C.Mác: "Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống,và được người
đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [20, tr.251].
Từ khái niệm của Mác về sức lao động có thể hiểu sức lao động bao gồm toàn bộ
những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con người và được người đó vận dụng
vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm nào đó. Thể lực chính là phần xương thịt của mỗi
con người được thể hiện ở ngoại hình: chiều cao, cân nặng và khả năng hoạt động của mỗi
con người. Trí lực là phần tinh thần, sự thoải mái của con người, sở thích và năng lực
chuyên môn. Các bộ phận này thống nhất với nhau trong một cơ thể sống, sức lao động là
yếu tố tiềm năng của mỗi con người, nó được biểu hiện ra bên ngoài thông qua quá trình
con người tiến hành lao động sản xuất. Sức lao động của mỗi con người đang sống chỉ
được người khác nhận biết khi nó tham gia sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Sức lao động khác với lao động: sức lao động là khả năng lao động của con người,
là điều kiện tiên quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu
của xã hội. Nhưng sức lao động mới chỉ là khả năng của lao động, còn lao động là sự tiêu
dùng sức lao động trong hiện thực. Lao động là hoạt động có mục đích có ý thức của con
người nhằm làm thay đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người
đồng thời nó còn cải tạo cả bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và
trí lực. C.Mác viết:
Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá
trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm
tra sự trao đổi giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực thể của tự nhiên
với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới
một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự
nhiên thuộc về thân thể của họ: tay và chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự
nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó, và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng
đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó. Con người phát triển những tiềm lực đang
ngái ngủ ở trong bản tính đó và bắt đầu sự hoạt động của những tiềm lực ấy phải phục tùng
quyền lực của mình [20, tr.226].
Lao động là phẩm chất đặc biệt của con người, khác với hoạt động bản năng của
con vật. C.Mác đã chỉ rõ:
Con nhện làm những động tác giống như những động tác của người thợ
dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong còn làm cho
một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân biệt nhà kiến
trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong
bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng trong đầu óc của mình rồi [20,
tr.266-267].
Quá trình lao động chỉ con người mới có, con người không chỉ làm biến đổi hình
thái những cái do tự nhiên cung cấp; trong những cái đó, con người cũng đồng thời thực
hiện cái mục đích tự giác của mình, mục đích ấy quyết định phương thức hành động của
họ giống như một quy luật và bắt ý chí của họ phải phục tùng nó.
1.1.1.2. Hàng hóa sức lao động
Sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong người lao động, còn lao động
là một quá trình họat động nhằm một mục đích nhất định, là sự kết hợp giữa sức lao động
và tư liệu sản xuất.
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản của quá trình sản xuất.
Nhưng nó chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện sau đây:
Một là, người có sức lao động phải được tự do về thân thể được pháp luật bảo vệ.
nghĩa là người có sức lao động có quyền sở hữu khả năng lao động của mình, có thể mang
ra thị trường bán như một hàng hoá đặc biệt. C.Mác chỉ rõ:
Nhưng muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức lao
động với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện khác phải được thực
hiện. Tự bản thân nó, trao đổi hàng hóa không bao gồm những quan hệ lệ thuộc
nào khác ngoài quan hệ lệ thuộc toát ra từ bản chất của chính nó. Với tiền đề ấy
thì sức lao động chỉ có thể xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa khi
nó được đưa ra thị trường và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra thị trường,
hay ngay được chính người chủ của nó, tức bản thân người có sức lao động đó,
đem bán. Muốn cho người chủ sức lao động thấy có thẻ bán được nó với tư
cách là hàng hóa, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy,
do đó, người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của
mình. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với
tư cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ
một người thì mua, còn người kia thì bán và vì thế cả hai đều là những người bình
đẳng về mặt pháp lý [20, tr.251].
Hai là, người có sức lao động không còn tài sản nào để bán anh ta buộc phải đem
bán chính ngay cái sức lao động đang tồn tại ở trong cơ thể của anh ta… Theo C.Mác:
Để một người nào đó có khả năng bán những hàng hóa khác với sức lao
động của mình, thì tất nhiên anh ta phải có những tư liệu sản xuất, ví dụ như
nguyên liệu, công cụ lao động v.v. Anh ta không thể làm giày ống mà không
có da thuộc. Ngoài ra anh ta còn cần tư liệu sinh hoạt nữa. Không một ai,
ngay cả một nhạc sĩ của tương lai, cũng không thể sống bằng những sản
phẩm của tương lai, không thể sống bằng những giá trị sử dụng còn chưa sản
xuất xong, cũng giống như ngày đầu tiên xuất hiện trên trái đất, con người đã
buộc phải tiêu dùng hàng ngày, phải tiêu dùng nó trước khi bắt đầu sản xuầt
và trong khi nó sản xuất. Nếu các sản phẩm được sản xuất ra với tư cách là
hàng hoá thì sau khi sản xuất xong, chúng phải được bán đi, và chỉ sau khi
bán xong thì những nhu cầu của người sản xuất mới được thoả mãn. Thêm
vào số thời gian cần thiết cho sản xuất và cả thời gian cần thiết cho bán nữa
[20, tr.253].
Như vậy, sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ cả hai điều kiện chủ yếu
trên vì nếu người lao động được tự do về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất trong tay thì họ
sẽ tự tiến hành sản xuất ra hàng hóa để bán chứ không bán sức lao động của mình.
Từ hai điều kiện C.Mác nêu ra thì cần có những điều kiện khác như:
- Tính đa dạng của thị trường lao động
Thị trường lao động có thể phân loại thành nhiều dạng theo nhiều tiêu chí khác
nhau. Có hai tiêu chí cơ bản thường được sử dụng để phân loại đó là trình độ kỹ năng tay
nghề của người lao động và phạm vi địa lý. Xét trên góc độ trình độ kỹ năng và tay nghề
của người lao động, thị trường lao động được phân ra thành thị trường lao động giản đơn
và thị trường lao động được đào tạo. Xét về mặt phạm vi địa lý, thị trường lao động được
phân chia thành thị trường lao động địa phương và thị trường lao động quốc gia hoặc thị
trường lao động quốc tế.
- Tính không đồng nhất của hàng hoá trên thị trường lao động
Hàng hoá trên thị trường lao động là một loại hàng hoá đặc biệt đó là "sức lao
động". Trong khi các loại hàng hóa thông thường khácđược chuẩn hoá ở mức cao thì hàng
hoá sức lao động hoàn toàn không giống nhau. Mỗi người lao động là một tập hợp của các
năng lực bẩm sinh cộng với các kỹ năng chuyên biệt tiếp thu được từ giáo dục và đào tạo.
Mỗi người lao động đều có những đặc điểm riêng về khả năng, trình độ, tuổi tác, nguồn
gốc, giới tính, nhu cầu, thể lực, động cơ làm việc… chính vì thế, sức lao động được những
người này đem ra trao đổi trên thị trường cũng hoàn toàn không đồng nhất với nhau.
- Vị thế yếu hơn của người lao động trong các đàm phán trên thị trường lao động
Thực tiễn cho thấy, thông thường, trong các quan hệ giao dịch hay đàm phán trên
thị trường lao động, cán cân thường nghiêng về phía người có nhu cầu sử dụng sức lao
động. Xuất phát điểm của thực tiễn này là ở chỗ cho đến nay, số lượng những người tìm
việc vẫn nhiều hơn số lượng các cơ hội việc làm sẵn có. Hơn nữa người lao động đi tìm
việc bao giờ cũng là người có nguồn lực hạn chế, trong khi đó, người sử dụng lao động có
khả năng chờ đợi và lựa chọn hơn. Chính vì thế trong quá trình đàm phán hay giao dịch,
khi thoả thuận các điều khoản hợp đồng, người sử dụng lao động thường có vị trí quyết
định.
Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là bước tiến lịch sử so với chế độ
nô lệ và phong kiến. Sự cưỡng bức lao động bằng biện pháp phi kinh tế đã được thay thế
bằng việc ký kết hợp đồng mua và bán giữa hai người bình đẳng về hình thức: người sở
hữu sức lao động và người sở hữu tư liệu sản xuất. Sự bình đẳng này che đậy bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản, chế độ bóc lột được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế
giữa kẻ bóc lột và người bị bóc lột.
Khi trở thành hàng hóa, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử
dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động được quyết định bởi thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Nhưng sức lao động chỉ tồn tại như năng
lực con người sống, muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một
lượng tư liệu sinh hoạt nhất định.
Vậy thời gian lao động cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành
thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt ấy, hay nói cách
khác, “Giá trị của sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì
cuộc sống của con người có sức lao động ấy” [20, tr.256].
Sức lao động chỉ tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, việc sản xuất ra
sức lao động chỉ có thể xảy ra khi có sự tồn tại của con người đó. Cho nên sức lao động
phải được tiêu dùng trong quá trình lao động. Trong quá trình lao động, phải hao phí một
lượng nhất định về cơ bắp, thần kinh và trí não… của con người, sự hao phí đó phải được
bù đắp lại. Hao phí càng nhiều thì việc bù đắp lại càng lớn. Người sở hữu sức lao động, đã
lao động ngày hôm nay, ngày mai lại có thể lắp lại những quy trình ấy với những sức khỏe
và thể lực như trước. Do đó, tổng số các tư liệu sinh hoạt phải đủ để duy trì con người lao
động với tư cách là như vậy ở trong một trạng thái sinh hoạt bình thường.
Là hàng hoá đặc biệt, giá trị sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó
còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử. điều đó có nghĩa là ngoài những nhu cầu về vật
chất, người công nhân cón có nhu cầu về tinh thần, văn hóa… những nhu cầu đó còn phụ
thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, phụ thuộc vào điều kiện địa lý,
khí hậu của nước đó và mức độ thoả mãn các nhu cầu phần lớn phụ thuộc vào trình độ văn
minh tập quán văn hóa của nước đó. Đối với một nước nhất định và đối với một thời kỳ
nhất định, thì tính trung bình, quy mô của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao
động là một đại lượng nhất định.
Người sở hữu sức lao động có thể chết đi hay quá trình tiêu dùng sức lao động đã bị
hao mòn, trong khi thế hệ các nhà tư bản đều cần đến hàng hoá sức lao động để tồn tại với
tư cách là giai cấp tư sản. Do đó, sức lao động phải được thường xuyên thay thế bằng
những sức lao động mới; điều này khẳng định trong tổng số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho
việc tái sản xuất sức lao động phải bao hàm cả những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho con
cái của người công nhân tồn tại và phát triển. C.Mác viết: “Tổng số những tư liệu sinh hoạt
cần thiết cho việc sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư liệu sinh hoạt cho những
người thay thế đó, tức là cho con cái của những người lao động, khiến cho cái giống những
người chủ hàng hoá đặc biệt đó được duy trì vĩnh cửu ở trên thị trường hàng hoá” [20,
tr.257].
Mặt khác, muốn cho người lao động có được kiến thức và những thói quen khéo léo
trong một ngành lao động nhất định, nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao động phát
triển và đặc thù thì họ cần phải được đào tạo, mà muốn thế phải chi phí một số tiền nhiều
hay ít để làm gia tăng giá trị sức lao động. Những chi phí đào tạo ấy khác nhau tuỳ thuộc
vào tính chất phức tạp của sức lao động. “Do đó, những chi phí học tập ấy - những chi phí
hoàn toàn không đáng kể đối với sức lao động bình thường - đều gia nhập vào tổng số
những giá trị đựơc chi phí để sản xuất ra sức lao động” [20, tr.257 - 258].
Giá trị của mọi hàng hoá thông thường có xu hướng càng giảm càng tốt nhưng
giá trị hàng hóa sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó, đó chính là “giá trị của
cái khối lượng hàng hóa thì hàng ngày thiếu nó thì kẻ mang sức lao động, chính là con
người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống của mình, tức là tạo thành giá trị của
những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu được về mặt sinh lý” [20, tr.259]. Vượt qua
giới hạn này, người lao động sẽ rơi vào trạng thái sống lay lắt mà thôi, việc sử dụng sức
lao động của người này sẽ bị ảnh hưởng và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
khó phát huy tốt được.
Giá trị hàng hoá sức lao động có hình thức biểu hiện là tiền công. Bản chất của tiền
công là giá cả của hàng hoá sức lao động, nó được tính trên cơ sở hao phí lao động cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng đáp ứng nhu cầu của người mua là
sử dụng vào trong quá trình sản xuất. Khác với hàng hóa thông thường, khi được sử dụng,
sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. “Nhưng cái có ý
nghĩa quyết định là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó là cái đặc tính của nó, là
cái nguồn gốc sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản
thân nó. Đó là sự phục vụ đặc biệt mà nhà tư bản mong chờ” [20, tr.289-290].
Người bán sức lao động thực hiện giá trị trao đổi của sức lao động và nhượng lại
giá trị sử dụng của sức lao động đó. Anh ta không thể nhận được giá trị trao đổi mà lại
không chuyển nhượng giá trị sử dụng. Người mua đã trả giá trị hàng ngày của sức lao
động, vì vậy, việc tiêu dùng sức lao động ấy trong một ngày là thuộc quyền của anh ta; và
nhà tư bản biết được rằng:
Chi phí hàng ngày để duy trì sức lao động và sự tiêu phí sức lao động ấy
trong một ngày - đó là hai đại lượng hoàn toàn khác nhau. Đại lượng thứ nhất
quyết định giá trị trao đổi của nó, đại lượng thứ hai tạo thành giá trị nhờ việc sử
dụng nó. Nếu nửa ngày lao động là cần thiết để nuôi sống người công nhân
trong 24 giờ đồng hồ thì điều đó quyết không ngăn cản người công nhân có thể
lao động suốt cả ngày [20, tr.289].
Nhưng tính có ích của sức lao động “Chỉ thực sự được thực hiện tức chỉ tạo ra được
một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó khi sức lao động phải hoạt động trong những
điều kiện bình thường” [20, tr.292], đó là các điều kiện sau:
- Phải đảm bảo tính chất bình thường của những yếu tố vật chất: tư liệu lao động,
nguyên liệu, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường.
- Bản thân sức lao động cũng phải là một sức lao động bình thường, nghĩa là trong
ngành chuyên môn mà sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có một trình độ trung bình
về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và tốc độ. Tức muốn nâng cao giá trị sử dụng của sức
lao động thì phải trải qua một thời kỳ huấn luyện chuyên môn nhất định.
- Nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý phù hợp với
đặc điểm của từng loại sản phẩm và yêu cầu của thị trường.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ
phát triển kinh tế của quốc gia, năng suất lao động, giáo dục đào tạo và nhiều yếu tố khác
trong đó giáo dục đào tạo giữ vai trò quyết định đến nghề nghiệp của mỗi người. Trình độ
giáo dục đào tạo càng cao thì giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động càng lớn.
Như vậy, muốn có thị trường sức lao động thì trước hết phải có hàng hoá sức lao
động.
1.1.2. Thị trường sức lao động và đặc điểm thị trường sức lao động trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm về thị trường sức lao động
Thị trường lao động là một loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế thị trường. Đây
là loại thị trường của một loại hàng hóa đặc biệt vì nó liên quan trực tiếp đến con người.
Nghiên cứu lý luận về thị trường lao động được bắt đầu từ những khái niệm, bao gồm
những định nghĩa và lý giải về bản chất hiện tượng, sự vật và những biểu hiện của nó trong
những bối cảnh khác nhau, đặc biệt nhấn mạnh đối tượng thị trường lao động.
Có rất nhiều quan niệm về thị trường sức lao động, mỗi quan niệm nhấn mạnh một
phương diện nào đó của thị trường.
- Theo A.Smith: “Thị trường lao động là nơi diễn ra sự trao đổi hàng hoá sức lao
động (hoặc dịch vụ lao động) giữa một bên là người mua sức lao động và người bán sức
lao động” [34, tr.11-12], khái niệm này nhấn mạnh đối tượng trao đổi trên thị trường lao
động là sức lao động chứ không phải người lao động, ở đây người lao động là chủ sở hữu
sức lao động của mình, họ chỉ đem bán sức lao động mà không phải bán bản thân người
lao động.
- Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO đưa ra định nghĩa: “Thị trường lao động là thị
trường trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình thỏa thuận để
xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công” [34, tr.12]. Khái
niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm và tiền
công.
- Theo các nhà khoa học Mỹ thì: “Thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao
động và kết hợp giải quyết trong lĩnh vực việc làm được gọi là thị trường lao động" [35,
tr.21]. Định nghĩa này nhấn mạnh đến quan hệ điều tiết giải quyết việc làm.
- Theo các nhà khoa học kinh tế Nga thì: "Thị trường lao động được hiểu như một
hệ thống quan hệ xã hội, những định mức và thể chế xã hội (trong đó có cả luật pháp), đảm
bảo cho việc tái sản xuất, trao đổi và sử dụng lao động" [35, tr.21]. Quan niệm này cũng
nhấn mạnh quan hệ giải quyết việc làm cho lao động làm thuê.
- Theo "Đại từ điển kinh tế thị trường” (xuất bản năm 1998) thì: "Thị trường lao
động là nơi mua bán sức lao động diễn ra giữa người lao động (cung lao động) và người sử
dụng lao động (cầu lao động)” [9, tr.10]. Quan niệm này nhấn mạnh mối quan hệ trên thị
trường lao động là quan hệ giữa cung và cầu lao động.
- Theo các nhà kinh tế Việt Nam cho rằng:
Thị trường lao động là toàn bộ các quan hệ lao động được xác lập trong
lĩnh vực thuê mướn lao động (nó bao gồm các quan hệ lao động cơ bản nhất như
thuê mướn và sa thải lao động, tiền lương và tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh
chấp lao động …), ở đó diễn ra sự trao đổi, thỏa thuận giữa một bên là người lao
động tự do và một bên là người sử dụng lao động [35, tr.21].
"Thị trường lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người có sức lao động
và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động
sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng” [35, tr.23], "thị trường lao động là sự trao
đổi hàng hóa sức lao động giữa một bên là người sở hữu sức lao động và một bên là những
người cần thuê sức lao động đó” [29, tr.73]. Các quan niệm này chỉ rõ có sự thống nhất
trao đổi mua bán sức lao động giữa người thuê lao động và lao động làm thuê.
Sự vận động của thị trường sức lao động tuân thủ các quy luật của nền kinh tế thị
trường. Hàng hoá trên thị trường lao động chính là sức lao động có tiềm năng về thể lực,
trí lực của người lao động, quan hệ cung cầu lao động trên thị trường lao động là quan hệ
thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ lao động (về việc làm, nghỉ ngơi, tiền công, và các
điều kiện làm việc khác).
Khác với các hàng hoá thông thường, thị trường sức lao động luôn gắn với chủ thể
mang nó, do đó thị trường sức lao động chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện người lao
động làm chủ khả năng của mình. Thông qua thị trường sức lao động, sức lao động được bán,
được mua trong một thời hạn xác định. Con người là chủ thể hàng hoá sức lao động, vì vậy,
việc cung ứng lao động phụ thuộc vào những đặc điểm tâm lý kinh tế, xã hội của người lao
động.
Qua các khái niệm trên cho thấy tính phức tạp trong nhận thức về thị trường sức lao
động, đôi khi dùng thuật ngữ "thị trường lao động”, lúc dùng "thị trường sức lao động”.
Mặc dù còn có những điểm khác biệt, song về cơ bản các quan niệm trên đều thống nhất
với nhau về nội dung các điều kiện hình thành thị trường sức lao động, đó là: người bán
sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động và những ràng buộc giữa các
bên về những nội dung này. Từ đó có thể hiểu:
Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó
diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do và một bên là
người có nhu cầu sử dụng lao động. Sự trao đổi này được thoả thuận trên cơ sở các
mối quan hệ lao động như tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã
hội… thông qua một hợp đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng [4, tr.39].
Quan niệm này càng khẳng định rõ hơn về thị trường sức lao động "thị trường sức
lao động là một hợp phần của kinh tế thị trường. Cũng như bất kỳ một hình thái thị trường
nào, các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động bao gồm: người mua, người bán và hàng
hoá” [10, tr.76], nó đòi hỏi phải giải quyết tốt quan hệ giữa người và người, chủ thể của xã
hội.
Tuy nhiên, thị trường sức lao động được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển
của nền kinh tế thị trường, do đó, khi tiếp cận và nghiên cứu thuật ngữ sử dụng có sự khác
nhau "thị trường lao động”, "thị trường sức lao động".
Theo Mác, dùng thuật ngữ "sức lao động” để phân tích, vạch rõ bản chất bên trong
của phương thức sản xuất tư bản và khẳng định người công nhân bán sức lao động chứ
không phải bán lao động. C.Mác cho rằng, sức lao động được hiểu là tổng hợp toàn bộ thể
lực, trí lực của con người, nó nói lên khả năng có thể lao động, là hoạt động có mục đích
của con người, là tiêu dùng sức lao động trong quá trình lao động.
Khi Mác nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá tư bản chủ nghĩa,
C.Mác sử dụng thuật ngữ "thị trường sức lao động" để phân tích biểu hiện bề ngoài khi
quá trình lưu thông hàng hoá diễn ra "tại sao người lao động tự do ấy đứng đối diện với
người chủ tiền trong lĩnh vực lưu thông, vấn đề ấy không làm bận tâm người chủ tiền là
người đã tìm thấy thị trường lao động với tính cách là một chi nhánh đặc biệt của thị
trường hàng hoá" [20, tr.253].
Vì vậy "thị trường lao động” (Labour Market) là cách gọi khác nhưng thực chất là
thị trường sức lao động, hơn nữa nếu xem xét đối tượng mua và bán trên thị trường sức lao
động là "sức lao động”, nên chính xác thì phải được gọi là "thị trường sức lao động".
Nhưng thực tế, trong các văn bản chính thống của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), cũng
như ở nhiều nước phát triển và ở Việt Nam thường dùng tên gọi "thị trường lao động".
Cho nên trong luận văn việc sử dụng khái niệm thị trường lao động và thị trường sức lao
động là đồng nhất với nhau.
1.1.2.2. Đặc điểm thị trường sức lao động
Do tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động và những đặc điểm riêng của quan
hệ lao động trên thị trường lao động, nên thị trường lao động có những đặc điểm sau:
Một là, hàng hóa trao đổi trên thị trường lao động là loại hàng hoá đặc biệt.
Hàng hóa trao đổi trên thị trường lao động là hàng hoá sức lao động. Khác với tất cả
hàng hóa thông thường khác, đây là loại hàng hóa đặc biệt, vì:
- Về mặt giá trị:
+ Trong khi giá trị của các hàng hóa thông thường được tính bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó, thì giá trị của hàng hoá sức lao động lại được tính
bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để duy trì và phát triển nó. Cụ thể, nó được tính
bằng: giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động và gia đình họ; chi phí đào tạo
để người lao động có một nghề nhất định.
+ Trong khi giá trị của các hàng hóa thông thường sẽ giảm dần cùng với quá trình
sử dụng hàng hóa đó, thì giá trị của hàng hoá sức lao động lại tăng dần cùng với quá trình
sử dụng nó vì theo thời gian, trình độ thành thạo, tay nghề của người lao động càng được
nâng lên và nhu cầu sinh hoạt, chi tiêu cần thiết cho người lao động và gia đình họ cũng
ngày càng cao.
- Về mặt giá trị sử dụng:
Với các hàng hóa thông thường, giá trị sử dụng sẽ giảm dần cùng với quá trình sử
dụng và mất đi. Còn đối với hàng hóa sức lao động thì ngược lại và đặc biệt là khi sử dụng
hàng hoá sức lao động, nó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Đây chính là
điểm khác biệt lớn nhất của hàng hoá sức lao động so với các hàng hóa khác. Chính đặc
điểm này gây ra sự hấp dẫn đối với người mua loại hàng hoá này trên thị trường.
- Một số đặc điểm khác:
+ Khác với các hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động luôn gắn chặt với
chủ thể mang nó, không thể tách rời được. Xét cả mặt số lượng và chất lượng, hàng hoá
sức lao động phụ thuộc vào hai quá trình: sinh đẻ và nuôi dạy, đào tạo. Hai quá trình này
vừa chịu sự chi phối của nhân tố sinh học, vừa chịu sự chi phối của các nhân tố kinh tế,
tâm lý, xã hội.
+ Khác với các hàng hoá thông thường, hàng hoá sức lao động dù đã được trao đổi
hay chưa, thì nó vẫn đòi hỏi phải được cung cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất
định để tồn tại và phát triển.
+ Trong khi các hàng hoá thông thường thường đựơc chuẩn hoá ở mức cao (kiểu
dáng, trọng lượng, chất lượng…) thì hàng hoá sức lao động lại hoàn toàn không giống
nhau. Mỗi người lao động đều có những đặc điểm riêng về khả năng, trình độ chuyên môn
kỹ thuật, học vấn, thể lực, nguồn gốc, động lực, nhu cầu…
Hai là, cung của thị trường lao động có nhiều điểm khác biệt so với cung của các
thị trường khác:
- Cung của các thị trường khác chủ yếu gắn liền với sản xuất, còn cung của thị
trường lao động chịu sự chi phối trực tiếp của yếu tố dân số và không thể vượt khỏi giới
hạn. Thông thường, quy mô dân số lớn thì cung lao động sẽ cao, tốc độ tăng dân số cao và
cơ cấu dân số trẻ thì cung lao động trong tương lai sẽ tăng lên. Cung của thị trường lao
động phụ thuộc vào dân số mà biến động của dân số lại tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố: lịch
sử, phong tục, tập quán, trình độ phát triển, văn hoá…. Nhìn tổng thể, cung của thị trường
lao động luôn cao hơn cầu của thị trường này, nên luôn có tình trạng thất nghiệp.
- Trong khi số lượng cung của các thị trường khác có thể tăng giảm nhanh chóng,
đột ngột, thì cung của thị trường lao động lại không thể, vì nó phụ thuộc vào sự sinh đẻ của
con người và quá trình nuôi dạy, đào tạo, đào tạo lại người lao động.
- Trong khi, chất lượng cung của các thị trường khác chủ yếu phụ thuộc vào công
nghệ sản xuất, thì chất lượng cung của thị trường lao động lại chủ yếu phụ thuộc vào sự
nuôi dưỡng, giáo dục – đào tạo và cơ chế, chính sách sử dụng con người.
- Nếu cơ cấu cung của các thị trường khác dễ dàng thay đổi và thay đổi nhanh chóng
thì cơ cấu cung của thị trường lao động lại không dễ dàng thay đổi và phải có thời gian. Chẳng
hạn, muốn thay đổi cơ cấu ngành nghề của cung lao động trên thị trường lao động thì phải qua
một thời gian đào tạo nhất định.
Ba là, giá cả của hàng hoá sức lao động tương đối ổn định và ít có khả năng phản
ứng linh hoạt trước sự biến động của cung - cầu trên thị trường như các hàng hoá thông
thường khác.
Về lý thuyết, giá cả sức lao động do mức cung - cầu trên thị trường quyết định như bất
kỳ một loại hàng hoá nào khác. Khi tiền công cao thì mức cung, trong khi đó mức cầu lại giảm
và thị trường lao động sẽ cân bằng khi cung và cầu gặp nhau. Tuy nhiên, trong thực tế, thị
trường lao động không bao giờ hoàn hảo. Tiền công thường ít thay đổi ( hoặc rất chậm thay
đổi) dù mức cầu giảm hay mức cung tăng và chính vì thế luôn tồn tại hiện tượng thất nghiệp.
Tính cạnh tranh không hoàn hảo của thị trường lao động có nguồn gốc từ sự độc quyền cả về
phía người bán lẫn người mua. Về phía người bán, sự độc quyền xảy ra khi sức lao động khan
hiếm. Còn sự độc quyền của người mua thể hiện rất rõ khi cung lao động dư thừa. Tính cạnh
tranh không hoàn hảo của thị trường lao động còn thể hiện ít nhiều ở tính cá biệt là nó không
thể đem ra mua bán theo phương thức đấu giá các các sàn giao dịch như các hàng hoá thông
thường khác. Mặt khác, việc thuê mướn lao động thường là dài hạn, với các hợp đồng đã ký
kết, nên tiền công tương đối ổn định và ít có khả năng phản ứng linh hoạt trước sự biến động
của cung - cầu trên thị trường như các hàng hoá khác.
Như vậy, những đặc điểm trên của thị trường lao động đòi hỏi Nhà nước phải có sự
quản lý đặc biệt đối với thị trường này. Bởi lẽ, nó không đơn thuần là vấn đề kinh tế, mà
vẫn là vấn đề chính trị, xã hội, con người. Có như vậy, quyền lợi, nghĩa vụ của các bên
tham gia thị trường và phát huy vai trò của nguồn lực lao động.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành thị trường sức lao động
Thị trường sức lao động là bao gồm các yếu tố cung, cầu, giá cả hàng hoá sức lao
động và thể chế hoạt động
- Cung sức lao động
Cung sức lao động là tổng nguồn sức lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá
trình tái sản xuất xã hội, tức tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động, có năng lực lao
động, và cả tổng số nhân khẩu không nằm trong độ tuổi lao động, nhưng trong thực tế
chính thức tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội.
Thông thường khi nói đến cung trên thị trường lao động, người ta thường phân biệt
rõ thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
+ Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc và những người thất nghiệp.
+ Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm
việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động
nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ, hoặc không có nhu cầu làm việc.
Như vậy, cung sức lao động được hiểu là cung cấp cả thể lực và trí lực người lao
động làm thuê và người sử dụng lao động (các doanh nghiệp, công ty) trong một thời gian
nhất định với một mức tiền công xác định, nó thể hiện quan hệ một bên là người chủ sức
lao động và một bên là người chủ tư liệu sản xuất. Do đó cung sức lao động bắt đầu từ
người lao động và nó mang tính chất cá nhân nhưng mức độ, số lượng, cấu trúc cung sức
lao động thực sự được xác định ở cấp khu vực và ngành hay cụ thể hơn ở mức độ ngành
nghề và trong thị trường sức lao động khu vực.
Cung sức lao động là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những người có nhu cầu
làm việc, bao gồm cả những người trong và ngoài độ tuổi lao động. Hay nói một cách khác
là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện tham gia vào quá trình tái sản xuất xã
hội. Đó là khối lượng lao động được sử dụng trong một thời gian nhất định với mức tiền công
khác nhau.
Trên góc độ quản lý và thống kê, cung sức lao động không đề cập đến lao động
dưới 15 tuổi mà chỉ đề cập đến lao động từ 15 tuổi trở lên. Cung sức lao động trên thị
trường sức lao động phụ thuộc vào các nhân tố cơ bản như: Quy mô và tốc độ tăng dân số,
tỉ lệ đủ 15 tuổi trở lên tham gia lực lượng lao động, chính sách nhập cư quản lý hộ tịch, hộ
khẩu, di cư lao động, chất lượng giáo dục đào tạo, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe…
Trong các nhân tố đó thì quy mô dân số sẽ quyết định số lượng sức lao động tham
gia vào thị trường và các hoạt động kinh tế. Yếu tố này tỉ lệ thuận với lượng cung sức lao
động trên thị trường sức lao động khi quy mô dân số lớn thì cung sức lao động cũng sẽ
tăng, đồng thời tốc độ tăng dân số cao thì cung sức lao động trong tương lai sẽ tăng lên và
ngược lại.
Sự tăng giảm của tiền lương, tiền công thực tế, khi giá cả sức lao động tăng thì cung
lao động sẽ có xu hướng tăng và ngược lại. Sự thay đổi điều kiện sống cũng ảnh hưởng
đến cung lao động, đời sống thấp thì người lao động có xu hướng tích cực làm thêm để có
thu nhập và ngược lại. Như vậy, khi đề cập đến cung sức lao động trên thị trường sức lao
động cần nghiên cứu về số lượng, chất lượng, cơ cấu lao động.
Cung lao động xét về mặt số lượng thể hiện qua cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả
những người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc và những người thất nghiệp, đó là lực lượng lao
động xã hội hay dân số hạot d965ng kinh tế; tiềm năng về lao động: bao gồm cung thực tế về
lao động và bộ phận những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đag đi
học, đang làm công việc nội trợ trong gia đình hoặc không cò nhu cầu lao động và tình trạng
khác.
Xét về chất lượng của cung lao động thể hiện qua tình trạng sức khoẻ, trình độ học
vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, thái độ, tác phong của cung sức lao động trên thị
trường.
- Cầu sức lao động
Cầu sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương,
một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể
hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Cầu lao động được chia
thành hai loại: cầu thực tế và cầu tiềm năng.
+ Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một thời
điểm nhất định, thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm việc mới.
+ Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc có
thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm trong
tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ, và cả những điều kiện khác như
chính trị, xã hội…
Những yếu tố này có sự khác nhau giữa các vùng lãnh thổ, các thành phần kinh tế,
thành thị - nông thôn, cũng như giữa các ngành kinh tế. Như vậy, có thể xác định cầu tiềm
năng như sau:
Cầu tiềm năng = Cầu thực tế + Số chỗ làm việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Một quốc gia thì có nhiều loại cầu lao động: cầu tổng thể, cầu từng ngành, từng khu
vực, từng nghề theo thời gian; cầu trong nước và cầu quốc tế.
Cầu lao động phụ thuộc vào những yếu tố liên quan đến tạo việc làm, tăng trưởng
việc làm như:
Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Hai là, sự phát triển của các ngành, các vùng, các khu vực kinh tế.
Ba là, sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Bốn là, khả năng huy động đầu tư toàn xã hội.
Năm là, khả năng mở rộng thị trường trong nước và quốc tế…
Cầu về lao động bao gồm hai mặt: thứ nhất, cầu về chất lượng lao động, và thứ hai,
cầu về số lượng lao động. Xét từ giác độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động
không biến đổi, cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. nếu
quy mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Còn
xét từ giác độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô, tiền vốn, tri
thức… của doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi nâng cao cầu về chất lượng sức lao động.
- Giá cả hàng hoá sức lao động
Giá cả hàng hoá sức lao động là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao
động. Trên thị trường sức lao động , giá cả được thể hiện dưới dạng tiền công. Cũng như
các loại hàng hoá khác, giá cả hàng hoá sức lao động không chỉ bị quy định bởi giá trị
hàng hoá sức lao động mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ cung cầu sức lao động. Khi
cung sức lao động vượt quá cầu, giá cả sức lao động sẽ thấp hơn giá trị sức lao động. Khi
cung sức lao động không đáp ứng đủ cầu sức lao động, giá cả sức lao động sẽ tăng lên.
Mối quan hệ này có thể diễn giải một cách đơn giản qua đồ thị sau:
Đồ thị 1.1: Mối quan hệ giữa cung - cầu sức lao động
Tại điểm E trên thị trường sức lao động cung = cầu, nhưng trong trường hợp này chỉ
là một sự hạn hữu hiếm có. Nhìn chung cung cầu trên thị trường sức lao động luôn mất cân
đối (cả về cơ cấu lao động, cả về chất lượng lao động - trình độ chuyên môn). Sự mất cân
đối đó tác động đến giá cả hàng hóa làm cho giá cả sức lao động tăng lên khi cầu > cung
và ngược lại. Điều này cho thấy giá cả sức lao động có tác động đến cung cầu và ngược lại
cung cầu đã tác động đến giá cả và giá cả sức lao động trở thành công cụ quan trọng để
điều tiết thị trường sức lao động.
Trong một thị trường cạnh tranh, mức lương được quyết định bởi quan hệ cung cầu
về lao động (xem đồ thị). Đường cong D (nhu cầu lao động) dốc xuống phản ánh giảm
khả năng sản xuất cận biên của lao động khi có nhiều người cùng lao động. Đường cong
S (cung lao động) dốc lên chứng tỏ mức lương càng cao thì số cung lao động càng lớn; vị
trí và độ dốc của S tuỳ thuộc vào trình độ chuyên môn của công nhân và khả năng di
động sức lao động về địa lí và nghề nghiệp. Mức lương cân bằng L
m
là nối hai đường
cong cung và cầu cắt nhau (E). Tác động của tiền lương vào cung cầu thị trường lao động
còn chịu ảnh hưởng các chính sách của các nghiệp đoàn và của giới chủ. Chính phủ có
thể tác động vào thị trường lao động bằng quy định mức lương tối thiểu và thời gian
ngày làm việc tối đa, hoặc chính sách giá và thu nhập.
Tuy nhiên, trên thực tế, thị trường lao động ở nước ta hiện nay là thị trường không
hoàn hảo: tiền công, tiền lương trên thị trường chưa hoàn toàn phản ánh đúng giá cả sức
lao động. Hơn thế nữa, do kinh tế chậm phát triển, khả năng mở mang các ngành nghề thu
hút thêm lao động còn thấp, nên cung lao động luôn lớn hơn cầu. Vì vậy, để có thể cân
bằng đựơc cung - cầu, cần có những chính sách phù hợp để thu hẹp dần khoảng cách giữa
chúng với nhau.
- Thể chế thị trường sức lao động
Thị trường lao động là sân chơi bình đẳng mà ở đó có nhiều lực lượng tham gia với
các vai trò khác nhau: Nhà nước, người sử dụng lao động; người lao động; nhà cung cấp
các dịch vụ việc làm; các đối tác xã hội khác. Các lực lượng tham gia thị trường lao động
có vai trò khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhất là hình
thành cơ chế ba bên trong xử lý các quan hệ lao động, đảm bảo hài hoà quyền hạn, trách
nhiệm và lợi ích các bên (lợi ích của người lao động, của người sử dụng lao động và của
Nhà nước) vì mục tiêu phát triển chung.
- Phân loại thị trường sức lao động
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường sức lao động hình thành, phát triển và hoạt
động rất đa dạng với nhiều phân lớp khác nhau. Trong thực tế thị trường sức lao động
được phân chia thành các loại sau đây:
+ Phân theo khu vực chia ra thị trường nông thôn và thị trường thành thị.
+ Phân chia theo trình độ quản lý có thị trường sức lao động chính thức và phi
chính thức.
+ Phân chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có thị trường sức lao động giản đơn
và thị trường sức lao động qua đào tạo, trong đó có thị trường sức lao động trình độ cao.
- Giao dịch trên thị trường sức lao động
+ Giao dịch trên thị trường sức lao động là hoạt động để nối cung cầu sức lao động.
Trong giao dịch các chủ thể người lao động và người sử dụng lao động hoặc giữa các chủ
thể với các tổ chúc trung gian thoả thuận về tuyển dụng và sử dụng sức lao động phù hợp
với quy định của pháp luật.
+ Các hình thức giao dịch chính thức trên thị trường là:
* Giao dịch trực tiếp: là hình thức người lao động trực tiếp gặp người sử dụng lao
động để thoả thuận về hợp đồng lao động.
* Giao dịch gián tiếp: là hình thức người lao động và người sử dụng lao động thoả
thuận về hợp đồng lao động thông qua tổ chức trung gian như thông tin quảng cáo trên các
phương tiện thông tin đại chúng, internet, website…; qua trung tâm giới thiệu việc làm;
qua hội chợ việc làm và qua các doanh nghiệp cung ứng lao động.
1.1.4. Thị trường sức lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Hình thành thị trường sức lao động ở Việt Nam không thể diễn ra trong chốc lát,
bởi vì chúng ta đang chuyển đổi từ hệ thống tổ chức lao động tập trung sang thị trường, do
vậy phải cần một thời gian dài để tạo lập những bản tính của nền kinh tế thị trường tổng
hợp. Xây dựng thị trường sức lao động tự do là yếu tố quan trọng nhất cho việc chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường, đồng thời cũng là điều kiện để tăng trưởng có hiệu quả nền
kinh tế đó. Tuy nhiên, thị trường lao động mới chỉ đạt được những bước đi ban đầu trên
con đường giải phóng khỏi những tồn đọng từ hệ thống kinh tế mệnh lệnh hành chính
trước đây.
1.1.4.1. Sự hình thành cung sức lao động trong nền kinh tế thị trường
Chỉ thị 100 CT/TW (03/1981) Ban bí thứ Trung ương quyết định thực hiện chế độ
khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, đã kích thích đầu tư và lao động
làm thuê, thúc đẩy quá trình làm xuất hiện hàng hoá sức lao động trong sản xuất nông
nghiệp. Trong ngành công nghiệp Quyết định 25/CP (1/1981) cho phép các doanh nghiệp
nhà nước được quyền mua tư liệu sản xuất và sử dụng lao động, gắn hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước với thị trường, nhằm mở rộng giao lưu, phát huy tính năng động tích cực
của người lao động. Như vậy, khi thị trường hàng hoá phát triển đến một mức nào đó thì
kéo thị trường sức lao động cũng phát triển tương ứng.
Thực tế lúc bấy giờ quan niệm về hàng hoá sức lao động là riêng có của chủ nghĩa
tư bản, là sự bóc lột người lao động, là sự đói nghèo, bần cùng hóa, điều này dẫn đến cơ sở
sản xuất cần sức lao động để sản xuất cũng không được phép sử dụng thêm sức lao động,
người lao động có sức lao động cũng không được làm thêm, do đó làm cho người lao động
trong hoạt động sản xuất kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, tính tự lực, tự chủ bị hạn
chế.
Sự phát triển của nền kinh tế bước sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã thừa nhận sức lao động là hàng hoá, nhận thứa này phù hợp với các quy luật kinh
tế khách quan, tạo điều kiện ra đời và phát triển thị trường sức lao động. Qua báo cáo Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, quan điểm về sức lao động được làm rõ một
bước trong quan hệ đối với việc làm:
Trong xã hội ta, còn nhiều người có sức lao động chưa có việc làm và
chưa sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu hút sức lao động của khu vực
nhà nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng không thể đưa tất cả
những người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế tập thể trong một thời gian
ngắn… [11, tr.55].
Từ các quan hệ thuê mướn, mua bán giữa người có sức lao động và người sử dụng
sức lao động được công khai, bình đẳng trước pháp luật. Theo đó nhiều nơi hình thành các
chợ tự phát, lén lút do yêu cầu khách quan của sản xuất và trao đổi hàng hoá, đã chuyển
sang quan hệ thuê mướn lao động ngày càng phổ biến, nhất là trong nông nghiệp. Hiện nay
các thành phần kinh tế có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tuyển dụng lao động thông qua các
hội chợ việc làm, các trung tâm dịch vụ việc làm, các phương tiện thông tin đại chúng theo
đúng yêu cầu chuyên môn, ngành nghề.
Mặt khác, Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) đã cho phép các xí nghiệp quốc
doanh chuyển dần từ chế độ tuyển dụng biên chế nhà nước sang chế độ hợp đồng lao động.
Pháp lệnh "Hợp đồng lao động” ngày 30/08/1990 đã thừa nhận phương thức tuyển chọn và
sử dụng lao đông mới, phù hợp với nền kinh tế, trong đó đề cao sự thoả thuận giữa người
lao động và người sử dụng lao động. Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh,
qua đó tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ thuê mướn lao động được phát triển.
Như vậy, thị trường sức lao động đã hình thành và tồn tại ngay trong thể chế kế
hoạch hoá tập trung, nhưng nó chỉ lộ diện khi có sự thừa nhận hàng hoá sức lao động.
Người có sức lao động có quyền bán cho người sử dụng sức lao động, qua đó hình thành
sức cung của thị trường. Xét đến nay biểu hiện của cung sức lao động trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua trước hết là quy mô và tốc độ tăng dân số