Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.62 KB, 99 trang )













LUẬN VĂN:


Thực hiện chính sách cán bộ đối với
cán bộ xã ở thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay









Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách cán bộ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ, là công cụ và
biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có hệ thống chính sách cán bộ đúng sẽ hỗ trợ,


thúc đẩy các mặt công tác cán bộ, tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ;
ngược lại, chính sách cán bộ không tốt sẽ gây khó khăn cho công tác cán bộ, thậm chí
làm làm biến dạng sự phát triển của đội ngũ cán bộ, gây ra những hậu quả tiêu cực không
lường hết. Đảng ta nhận thức: thực hiện chính sách đối với cán bộ là khâu rất quan trọng,
là điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ [4, tr.108].
Xã là địa bàn sinh sống của phần lớn dân cư nước ta, là nơi trực tiếp thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thấy rõ vị trí, tầm quan trọng
của cơ sở xã và đội ngũ cán bộ cơ sở ở đây, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách về xây dựng hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở xã; đã thực
hiện một số chính sách về đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, sử dụng, đề bạt, bầu cử, tiền
lương, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ cơ sở phù hợp với tình hình mới. Nhờ đó, cán
bộ cơ sở xã ngày càng tiến bộ về trình độ, năng lực, phong cách làm việc, năng động,
sáng tạo, hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Qua thực hiện các Nghị quyết của Đảng về xây dựng cán bộ cơ sở, đội ngũ cán bộ
xã, phường, thị trấn từng bước được phát triển cả về số lượng, chất lượng. Việc thực hiện
tiêu chuẩn hóa các chức danh cán bộ và chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên tốt
nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở xã đã từng bước nâng cao được trình độ và trẻ
hóa đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp
xã luôn là vấn đề mang tính chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Nó chi phối khả năng
thành công hay thất bại của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bởi xét
đến cùng thì mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải
được triển khai thực hiện ở cơ sở và thông qua hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ
cơ sở.

Mặt khác, Đảng ta thấy rõ hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ xã còn nhiều hạn
chế. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân quan trọng như ý kiến của
Trung ương, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa IX) là:
Nguyên nhân chưa nhận thức đúng vai trò, vị trí của cơ sở, quan liêu, để một thời gian

quá dài không có chính sách đồng bộ đối với cán bộ, thiếu chăm lo bồi dưỡng, đào tạo
đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và
tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, Đảng ta chủ
trương tiến tới xây dựng hệ thống chính sách cán bộ một cách đồng bộ và nhất quán,
công bằng, thống nhất phù hợp với từng loại đối tượng cán bộ, khuyến khích những cán
bộ có tài, trân trọng những cán bộ có đóng góp lớn, đồng thời xử lý nghiêm minh và kịp
thời những người có sai phạm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xây dựng hệ thống chính
sách cán bộ chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Trong những năm qua, thành phố Hà Nội rất quan tâm đến việc thực hiện chính
sách cán bộ đối với đối với cán bộ xã ở Thành phố. Việc thực hiện chính sách cán bộ xã
đó đạt được một số kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ xó từng bước phát triển về số
lượng và chất lượng; việc thực hiện chính sách thu hút cán bộ trẻ, sinh viên mới tốt
nghiệp về công tác ở cơ sở đó tạo nờn sự chuyển biến tớch cực về chất lượng của đội ngũ
cán bộ xã, trỡnh độ mọi mặt của đội ngũ cán bộ này từng bước được nâng lên và xu thế
ngày càng được trẻ hoá. Phong trào học tập nõng cao trỡnh độ của cán bộ, công chức xó
được đẩy mạnh hơn. Việc chuyển từ chế độ sinh hoạt phí sang chế độ tiền lương, từ
hưởng trợ cấp hàng tháng khi nghỉ việc sang hưởng chế độ hưu trí, đã tạo sự an tâm phấn
khởi trong đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức xã ở
thành phố Hà Nội.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả thu được, việc thực hiện chính sách đối với
cán bộ xã nói chung và ở Hà Nội nói riêng hiện nay đã và đang phát sinh những vướng
mắc, bất cập, như: bố trí tỷ lệ chưa tương xứng giữa cán bộ giữ chức vụ bầu cử và công
chức chuyên môn; số lượng cán bộ, công chức cấp xã chưa đủ để bố trí cho phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ mới; chế độ, chính sách đãi ngộ (tiền lương, phụ cấp, bảo hiểm xã hội

) đối với cán bộ, công chức xã, đến nay còn nhiều bất cập, mâu thuẫn; việc ban hành và
thực hiện các văn bản, quy định về chính sách cán bộ cơ sở của Đảng và Nhà nước hầu
hết vẫn mang tính giải pháp tình thế, chưa cơ bản, chưa đồng bộ. Chế độ, chính sách đãi
ngộ đối với cán bộ, công chức cấp xã những năm qua thường xuyên thay đổi, không ổn

định. Điều đó chứng tỏ quan điểm, nhận thức về cán bộ cơ sở còn rất khác nhau. Việc
giải quyết chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ xã mới chỉ chạy theo những vấn đề
phát sinh, chưa cơ bản và toàn diện.
Từ những vấn đề nêu trên và trước yêu cầu, đòi hỏi mới đối với cán bộ, công chức
cơ sở cho thấy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn để đề ra các giải
pháp góp phần tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã. Do vậy,
tôi chọn đề tài “Thực hiện chớnh sỏch cỏn bộ đối với cỏn bộ xó ở thành phố Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chính sách cán bộ nói chung và chính sách cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn là
một vấn đề lớn trong công tác cán bộ, được Đảng và Nhà nước rất quan tâm. Nhiều nhà
khoa học và hoạt động thực tiễn cũng đã có những nghiên cứu về chính sách cán bộ ở các
góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
* Sách, đề tài khoa học
- TS Thang Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên): “Cơ sở lý luận
và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức", Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2004.
- Nguyễn Đặng: “Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn", Nxb Lao động Thương binh Xã hội, Hà Nội 2004;
- PGS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Trần Xuân Sầm: “Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước" Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Đề tài độc lập cấp nhà nước: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng
thang bảng lương mới (Bộ Nội vụ). 2005. Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Trọng Điều.

- TS. Dương Quang Tung: (Đề tài nhánh): Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- TS. Hồ Công Dũng: “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức cơ sở người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên" (Đề tài cấp Bộ), Bộ Nội vụ,
2007.

-TS. Nguyễn Thị Hải Vân - Lê Xuân Từ: “Hỏi đáp về chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn", Nxb Thống kê, Hà Nội, 2007. Nội dung cuốn
sách gồm 5 phần: Phần thứ nhất: Những vấn đề chung; Phần thứ hai: Chế độ, chính sách
về tiền lương, sinh hoạt phí và phụ cấp; Phần thứ ba: Chế độ bầu cử, tuyển dụng, đào tạo,
khen thưởng, kỷ luật; Phần thứ tư: Chế độ Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ
khác; Phần thứ năm: Một số văn bản quy phạm pháp luật áp dụng đối với cán bộ, công
chức cấp xã, phường, thị trấn.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp cơ sở" của Học Viện Nguyễn ái Quốc, 1992.
- Đề tài khoa học cấp bộ: “Nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách đối
với cán bộ, công chức cơ sở", chủ nhiệm đề tài TS Nguyễn Thế Vịnh - chuyên viên cao
cấp Bộ nội vụ, Hà Nội, 2009.
- Báo cáo chuyên đề: Quan điểm, chính sách đào tạo, sử dụng và chế độ đãi ngộ
đối với cán bộ, thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của ban Tổ chức Trung ương, 1998
* Các bài viết trên tạp chí:
+ TS. Nguyễn Hữu Đức, Vụ Chính quyền địa phương, Bộ Nội vụ: “Bàn về chế độ,
chính sách đối với cán bộ cơ sở xã, phường, thị trấn"
( />ttachments/1933_BAI%2012%20TRANG%2040.rtf).
Tác giả trình bày số lượng xã, phường, thị trấn theo 3 loại được quy định tại Nghị
định 159/2005/NĐ-CP ngày 29/12/2005 của Chính phủ và đánh giá về số lượng, chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo một số tiêu chí cơ bản. Bên cạnh đó, tác giả
nêu lên những bất cập về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ chuyên trách ở cơ sở
xã, phường, thị trấn về chế độ, chính sách lương, bảo hiểm xã hội: còn bất hợp lý về chế

độ tiền lương cán bộ bầu cử và công chức chuyên môn có cùng trình độ đào tạo; về bảo
hiểm xã hội: theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian công tác có đóng bảo
hiểm xã hội của cán bộ, công chức xã là 20 năm và phải đủ 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi
đối với nam mới đủ điều kiện nghỉ hưu, việc này có nhiều bất cập cho cán bộ, công chức
xã, nhất là những vùng đặc biệt khó khăn. Chế độ bảo hiểm xã hội đối với cán bộ cấp xã
trước đây có quy định "chức danh khác" đó tham gia bảo hiểm xó hội theo Nghị định số

09/1998/ NĐ-CP của Chính phủ đến nay nghỉ việc chưa được giải quyết.
Theo nội dung bài viết, tác giả đề cập đến đối tượng cỏn bộ chuyờn trỏch giữ
chức vụ bầu cử cấp xó, nếu cả trỡnh độ chuyên môn từ trung cấp trở lên được xếp ngạch
và hưởng chế độ tiền lương theo bảng lương hành chính; trường hợp chưa có bằng cấp
chuyên môn thỡ được hưởng lương chức vụ theo quy định hiện nay của Nghị định
121/2003/NĐ-CP. Đồng thời cả hai trường hợp trên được cộng thêm phụ cấp chức vụ
lónh đạo. Mức phụ cấp lónh đạo tùy theo mô hỡnh phõn loại xó, tương đương với phụ
cấp lónh đạo của trưởng, phó phũng cấp huyện.
+ Lê Thanh Hà, “chính sách với cán bộ, công chức cơ sở cần đồng bộ, sát thực
tế” Object=4&news _ID =51177710.
Theo tác giả: trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã và đang quan tâm chăm lo
đối với cán bộ cơ sở. Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản về thực hiện chế độ chính
sách đối với cán bộ cơ sở ở xó, phường, thị trấn. Điển hỡnh là Nghị định số
114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21-10-2003
của Chính phủ quy định về tổ chức, biên chế, tiêu chuẩn và chế độ, chính sách đối với
cán bộ, công chức cơ sở xó, phường, thị trấn - đội ngũ cán bộ có một thời gian dài bị “bỏ
quên”, làm việc không lương, chỉ có sinh hoạt phí. Sau một thời gian thực hiện, cả hai
Nghị định trên bộc lộ một số bất cập, thiếu đồng bộ, chưa sát thực tế. Ví dụ, chế độ chính
sách đối với phú cụng an xó và xó đội phú; giữa xó đội phó với trưởng công an xó; giữa
bớ thư đảng uỷ xó, cú trỡnh độ đại học, có thâm niên công tác hàng chục năm nhưng tiền
lương không bằng cán bộ chuyờn mụn ở xó ra trường chỉ 5-6 năm. Tác giả đưa một số
kiến nghị sửa đổi những quy định về chế độ, chính sách đối với cỏn bộ ở xó, phường, thị
trấn.

* Luận án, luận văn
- Phạm Công Khâm: “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng nông thôn
đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận án tiến sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2000.
- Mạc Minh Sản: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp
xã đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận

án Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
- Trần Đình Gia (2008): Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ thuộc diện
Ban thường vụ Huyện uỷ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh quản lý trong giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Văn Dũng (2008): Thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở tỉnh Vĩnh
Long trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
- Trần Ngọc Danh (2005): Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính
trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An”, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2008.
Cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu trờn, ở những góc độ và mức độ khác nhau đã bàn đến
vấn đề chính sách cán bộ. Một số công trình đã đi sâu luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn
việc thực hiện chính sách cán bộ, chỉ ra phương hướng và giải pháp đổi mới chính sách cán
bộ với một đối tượng, ở một địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trỡnh nào đi
sâu nghiên cứu về thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán
bộ xã ở thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm góp phần vào việc hoàn
thiện hệ thống chính sách cán bộ cơ sở xã ở thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ hơn những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ
xã ở thành phố Hà Nội.
- Đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở
thành phố Hà Nội, tìm ra nguyên nhân, rút ra kinh nghiệm.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt chính sách cán bộ đối với cán
bộ xã ở thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố
Hà Nội
- Đề tài khảo sát việc thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà
Nội kể từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX đến nay và định hướng giải pháp đến
năm 2015
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ, chính sách
cán bộ.
- Phương pháp nghiên cứu: luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp
khái quát hoá; tổng hợp, phân tích; tổng kết thực tiễn; lịch sử - lôgic, kết hợp với các
phương pháp khảo sát, điều tra, so sánh
6. Những đóng góp về khoa học, thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách cán bộ
đối với cán bộ xã nói chung, cán bộ xã ở thành phố Hà Nội nói riêng; đề xuất các giải
pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính sách đối với đội ngũ cán bộ đó.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc thực hiện chính sách đối với đội
ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn ở Hà Nội và làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập môn xây dựng Đảng.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm
3 chương 6 tiết.
Chương 1
thực hiện chính sách cán bộ đối với cán bộ xã
ở thành phố hà Nội - lý luận và thực tiễn

1.1. Cán bộ xã và chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
1.1.1. Xã và cán bộ xã ở thành phố Hà Nội

1.1.1.1. Xã ở thành phố Hà Nội
Hà Nội- Thủ đô của cả nước, nằm ở phía Tây Bắc của vùng Đồng bằng châu thổ
sông Hồng, từ 20
o
53’ đến 21
o
23’ độ vĩ Bắc và 105
o
44’ đến 106
o
02 độ kinh Đông; Phía
Bắc giáp các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; Phía Nam giáp Hà Nam, Hòa Bình; Phía
Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên; Phía Tây giáp Hòa Bình, Phú Thọ.
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với
độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình, địa thế của Hà Nội
hiện nay rất đa dạng, có đồng bằng chiếm phần lớn diện tích toàn Thành phố, Ba phần tư
diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng
và chi lưu các con sông khác, có dải bán sơn địa ở phía Tây - Tây Bắc với hàng nghìn ha,
có tiềm năng lớn trong trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc. Phần lớn diện tích đồi
núi thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, Quốc Oai.
Với vị trí địa lý có nhiều sông cổ chảy qua, như: Sông Đà, sông Hồng, sông Tích,
sông Đáy, sông Nhuệ, sông Kim Ngưu Những con sông này xưa kia là huyết mạch giao
thông chính, đầy ắp những truyền thuyết dựng làng giữ nước của dân tộc; phía Đông
Thành phố, đối diện thuộc phía tả ngạn sông Hồng là tỉnh Hưng Yên; phía Bắc, qua sông
Hồng và sông Đà là tỉnh trung du Vĩnh Phúc; phía Tây tiếp giáp với tỉnh miền núi Hòa
Bình, phía nam là tỉnh Hà Nam. Ngoài ra, Hà Nội còn có nhiều tuyến giao thông chiến
lược chạy qua, như: quốc lộ 1A, 6, 11, 21, 22, 73 Với vị trí địa lý như vậy, nên Hà Nội
có vị trí rất quan trọng và thuận lợi về nhiều mặt ở đồng bằng Bắc Bộ, trước hết là vị trí
chính trị và vị trí chiến lược về quân sự, một trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế, văn


hóa - xã hội của cả nước; là cầu nối Hà Nội với nhiều miền của đất nước và là bản lề giữa
đồng bằng với miền núi, nối các tỉnh đồng bằng phía nam hữu ngạn sông Hồng với Việt
Bắc, Tây Bắc.
Theo Nghị quyết số 15/2008/NQ-QH12, ngày 29 tháng 5 năm 2008 của kỳ họp thứ
3, Quốc Hội khóa XII về việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô. Hiện nay, Thành phố
Hà Nội bao gồm 10 huyện, 18 huyện và 1 thị xã. Hà Nội có 577 đơn vị hành chính cấp
xã, trong đó 401 đơn vị cơ sở xã, 157 phường và 22 thị trấn, với diện tích 334.470,02 ha
và dân số trên 6.400.000 người, mật độ dân cư trung bình 1875 người/km
2
(đại bộ phận là
người Kinh, chỉ có một số ít người dân tộc Mường, dân tộc Dao, Tày, Nùng, sán dìu ).
Xã là đơn vị hành chớnh lónh thổ cấp cơ sở có đầy đủ các tổ chức trong hệ thống
chính trị, cú cỏc tổ chức kinh tế, cỏc tổ chức xó hội, nghề nghiệp. Góp phần làm nên vị
trí và tầm vóc của Thủ đô, với quy mô 401 đơn vị, các xã thuộc ngoại thành Hà Nội cú
vai trũ to lớn. Đây là vùng đệm bảo đảm sự cân bằng giữa khu vực nội thành và các địa
phương lân cận. Các xã thuộc ngoại thành Hà Nội là không chỉ là nguồn cung cấp
lương thực, thực phẩm và là nơi tiêu thụ hàng hóa quan trọng cho khu vực nội thành
mà còn là nguồn cung cấp lao động, nguyên liệu, không gian phát triển cho Thủ đô
trước mắt và lâu dài. Các liên kết giữa nông thôn ngoại thành và nội thị thủ đô ngày
càng trở nên đa dạng, phức tạp. Nhiều khu vực nông thôn ngoại thành của Hà Nội có
những chuyển dịch rất mạnh trong cơ cấu kinh tế, lao động; có bước phát triển mạnh
trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, cũng như trong phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ
cho mục tiêu phát triển Thủ đô.
Với cơ cấu như hiện nay, tỷ lệ xã của Hà Nội chiếm tới 2/3 trong tổng số đơn vị cơ
sở cấp xã. Do đó, xã ở Hà Nội có vai trò to lớn trong nội dung các chính sách phát triển
của Thủ đô thời gian tới.
1.1.1.2. Cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
* Quan niệm về cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã xác định: Hệ thống chính trị ở cơ sở có cán
bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách.


Thứ nhất: Cán bộ chuyên trách là những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao
động làm việc công để thực hiện chức trách được giao, bao gồm:
Cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử gồm: cán bộ chủ chốt của cấp ủy đảng, Hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, những người đứng đầu ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội.
Cán bộ chuyên môn được ủy ban nhân dân tuyển chọn gồm: công an trưởng, xã
đội trưởng, cán bộ văn phòng, địa chính, tài chính- kế toán, tư pháp, văn hóa-xã hội. Số
lượng cán bộ chuyên trách do Chính phủ quy định.
Cán bộ chuyên trách ở cơ sở có chế độ làm việc và được hưởng chính sách về cơ bản
như cán bộ, công chức nhà nước; khi không còn là cán bộ chuyên trách mà chưa đủ điều
kiện để hưởng chế độ hưu trí, được tiếp tục tự đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng trợ cấp
một lần theo chế độ nghỉ việc. Cán bộ, công chức ở cơ sở có đủ điều kiện được thi tuyển vào
ngạch công chức ở cấp trên.
Theo Khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
cán bộ công chức ngày 29/04/2003, thì cán bộ cấp xã gồm cán bộ xã và công chức xã:
Cán bộ xã là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người
đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã.
Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh
chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
cán bộ, công chức 1998 và Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày21/10/2003 của Chính
Phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn cũng quy định
rõ cán bộ, công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
- Cán bộ chuyên trách cấp xã bao gồm:
+ Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, Thường trực Đảng ủy cấp xã (nơi không có Phó Bí
thư chuyên trách công tác đảng); Bí thư, Phó bí thư chi bộ xã (nơi chưa thành lập Đảng ủy
cấp xã);


+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
+ Chủ tịch, Phó Chủ tịch ủy ban nhân dân;
+ Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc;
+ Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
+ Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ,
+ Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
- Công chức cấp xã bao gồm:
+ Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
+ Chỉ huy trưởng quân sự;
+ Văn phòng - Thống kê;
+ Địa chính - Xây dựng;
+ Tài chính - Kế toán;
+ Tư pháp - Hộ tịch;
+ Văn hóa - Xã hội.
Cán bộ chuyên trách ở xã của thành phố Hà Nội cũng nằm trong các quy định
chung về cán bộ, công chức nói trên.
Thứ hai: Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia việc công trong
một phần thời gian lao động. Căn cứ hướng dẫn của Trung ương, ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quy định về số lượng và mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách trong hệ thống
chính trị ở cấp cơ sở.
Cán bộ không chuyên trách xã, phường, thị trấn của thành phố Hà Nội được quy
định theo Nghị quyết số 13/2008/NQ-HĐND ngày 09/12/2008 của Hội đồng nhân dân
Thành phố khóa XIII, kỳ họp thứ XVII như sau:
+ Trưởng ban Tổ chức Đảng, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra Đảng, trưởng ban Tuyên
giáo và một cán bộ văn phòng đảng ủy xã.
+ Phó trưởng công an xã
+ Phó chỉ huy trưởng quân sự xã.
+ Cán bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.


+ Cán bộ văn thư, thủ quỹ hoặc cán bộ làm công tác tiếp nhận hành chính theo cơ
chế một cửa.
+ Trưởng Đài truyền thanh hoặc cán bộ phụ trách Đài truyền thanh.
+ Cán bộ kế hoạch - giao thông - thủy lợi - công nghiệp - nông, lâm, ngư nghiệp.
+ Cán bộ dân số - gia đình và trẻ em.
+ Cán bộ văn hóa.
+ Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, phó các đoàn thể và Chủ tịch các hội Người cao
tuổi, Chữ thập đỏ.
Từ các quy định trên, theo phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn, cán bộ xã ở Thành
phố Hà Nội nói trong luận văn bao gồm tất cả những người là cán bộ chuyên trách và
không chuyên trách trong hệ thống chính trị xã.
* Vai trò của đội ngũ cán bộ xã ở Thành phố Hà Nội
Lịch sử cho thấy, để tiến hành đấu tranh cách mạng có kết quả cần có những người
tổ chức, lãnh đạo phong trào. C.Mác và Ph.ăngghen đã khẳng định: “Muốn thực hiện tư
tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [56, tr.181]. Con người
mà hai ông đã nói chính là cán bộ, những người có vai trò lãnh đạo quần chúng thực hiện
các tư tưởng cách mạng.
Đối với sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân, dù chưa có nhiều thực tế để
bàn về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, C.Mác và Ph.ăng ghen luôn cho rằng cần phải
có một đội ngũ vừa có tri thức lý luận, lòng trung thành với lý tưởng của giai cấp, vừa có
năng lực tổ chức thực tiễn mới có khả năng đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đó.
V.I.Lênin, người kế thừa và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác, đã đặc biệt coi
trọng vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: "Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành
được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"
[51, tr.473].
Theo VI.Lênin, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ cán bộ là
người bảo đảm tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Cán bộ vừa là
người xây dựng đường lối, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp, chỉ đạo và kiểm tra quá


trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu đã đề ra. Trong thời kỳ phải tập trung thực
hiện đường lối của Đảng, Lênin khẳng định “Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa chọn
người” và “kiểm tra việc chấp hành” [55, tr.132,136] chứ không phải là việc ra các nghị
quyết.
Khi giành được chính quyền, vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách
hơn. Hàng loạt vấn đề được đặt ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đòi hỏi Đảng
phải lãnh đạo, quản lý. Nhiệm vụ mới mẻ đầy khó khăn của giai đoạn này là quản kinh
tế- xã hội bàng nhà nước nhằm xây dựng thành công xã hội mới: xã hội xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ đó được tiến hành trên quy mô rộng lớn và phải là sự nghiệp của toàn dân. Do
vậy, nó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ đóng vai trò tổ chức các quá trình thực tiễn
một cách có hiệu quả. Qua thực tiễn lãnh đạo xây dựng và bảo vệ thành quả cách mạng,
VI.Lênin đã khẳng định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay
đó là then chốt, nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy
lộn” [54, tr.449].
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng và cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến cán bộ và công tác cán bộ. Người
coi: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” [64, tr.269], và Người cũng đã lý giải một cách
cặn kẽ, dễ hiểu vai trò “cái gốc” của người cán bộ trong nhiều bài nói bài viết cũng như
việc làm của Người. Vai trò ấy được thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ yếu: cán bộ với
đường lối chính sách, cán bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công việc và cán bộ với
quần chúng. Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ không chỉ là người vạch
ra đường lối mà còn có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện đường lối: “Nếu
cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [64, tr.54]. Bên cạnh đó,
Người còn yêu cầu cán bộ phải biết phản ánh tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng của
quần chúng cho Đảng và Nhà nước đề ra đường lối, chủ trương, chính sách hợp lòng dân.
Đối với cán bộ cơ sở, vai trò này càng quan trọng hơn vì họ là những người hàng ngày,
hàng giờ tiếp xúc với dân, có điều kiện thuận lợi để nắm “tình hình của dân chúng” mà đề
xuất, kiến nghị cho Đảng, Nhà nước. Do vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ phải quán triệt
quan điểm: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần


chúng ra, trở lại nơi quần chúng” [64, tr.290]. Nhấn mạnh vai trò của cán bộ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn nói: “Cán bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không
chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, máy cũng tê liệt” [64, tr.54] và Người kết luận: “Công
việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [64, tr.273]. Chính vì vậy,
trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan
tâm đến công tác cán bộ và Người đã làm tất cả mọi việc để có một đội ngũ cán bộ không
ngừng phát triển, nối tiếp nhau, nhanh chóng trưởng thành đáp ứng với đòi hỏi của sự
nghiệp cách mạng lâu dài và ngày càng khó khăn ở nước ta.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
cán bộ, từ khi ra đời cho đến nay, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng và quan tâm
xây dựng đội ngũ cán bộ. Đảng khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại
của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng đảng” [29, tr.66].
Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước,
Đảng ta đứng trước yêu cầu phải xây dựng cho được một đội ngũ cán bộ ngang tầm với
nhiệm vụ. Trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán các cấp, trước
hết là ở cấp chiến lược và cấp cơ sở. Đứng trước đòi hỏi như vậy, Đảng ta xác định phải
“có một đội ngũ cán bộ đầy đủ phẩm chất, có năng lực xây dựng đường lối chính trị
đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là
sinh mệnh của Đảng cầm quyền” [29, tr.27].
Đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ của
Đảng, có vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ nói chung. Tuy nhiên, do vị trí, nhiệm vụ,
đặc điểm địa bàn công tác, những đặc thù trong quá trình phát triển, nên vai trò của đội
ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội thể hiện trên các mặt sau:
- Đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội giữ vai trò quyết định trong việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phát triển và
ổn định kinh tế -xã hội - an ninh, trật tự trên địa bàn xã. Cán bộ xã là người đại diện cho
Đảng và Nhà nước trong việc lãnh đạo, quản lý, điều hành mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã
hội, quốc phòng và an ninh ở xã; là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện các chủ


trương đường lối của Đảng, thực thi quyền hành pháp, cũng như tiến hành tổ chức, triển
khai các chương trình kinh tế xã hội ở địa phương. Là những người giữ vai trò “trung
tâm”, “trụ cột” tại cơ sở, cán bộ xã không những có trách nhiệm thấu suốt đường lối chủ
trương, chính sách của các tổ chức Đảng, Nhà nước cấp trên để giải thích, tuyên truyền,
tổ chức cho quần chúng thực hiện mà còn phải nắm bắt sâu sát đặc điểm, tình hình của
phường để cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách ấy cho phù hợp với điều kiện đặc
thù của cơ sở, làm cho chủ trương, đường lối, chính sách được thực hiện, đi vào cuộc
sống. Do vậy, kinh tế - xã hội của xã có phát triển hay không? An ninh, trật tự trên địa
bàn xã có ổn định hay không? đều phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán
bộ xã. Thực tế cho thấy xã nào có đội ngũ cán bộ tốt thì ở đó các phong trào đều khá,
kinh tế, xã hội phát triển, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm
bảo. Đó là cơ sở của câu ngạn ngữ mới: “Cán bộ nào thì phong trào ấy”.
Với vai trò như vậy, đội ngũ cán bộ xã còn phải gánh vác trách nhiệm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần của hàng ngàn, vạn nhân dân trong làng, xã, chịu trách nhiệm
đối với mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội tại xã, đồng thời là người đại diện cho ý chí,
quyền lợi của nhân dân địa phương, có tráh nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người
nhân dân trong xã.
- Đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội giữ vai trò quyết định trong việc xây
dựng hệ thống chính trị xã vững mạnh và phát triển phong trào cách mạng của quần
chúng ở cơ sở xã trong toàn huyện. Thực tế cho thấy, sự mạnh yếu của hệ thống chính trị
và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ chủ
chốt. Đối với hệ thống tổ chức bộ máy, họ là những trụ cột, là trung tâm đoàn kết, tổ
chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ thống đó. Họ có
vai trò quyết định đến năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ xã, đến năng lực
và hiệu quả quản lý của chính quyền, đến mọi hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở
xã. Những tổ chức này có hoàn thành được nhiệm vụ của mình hay không, trước hết phụ
thuộc vào đội ngũ cán bộ chủ chốt. Chính vì vậy, có củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ xã
ở thành phố Hà Nội mới có thể tăng cường khả năng lãnh đạo và quản lý của đảng bộ và

chính quyền xã, đồng thời phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân,

từ đó góp phần thúc đẩy kinh tế- xã hội của Thành phố phát triển.
Đối với phong trào quần chúng ở địa phương, cán bộ xã không những là những
người dẫn dắt, định hướng, tổ chức các phong trào mà còn là những người có trách nhiệm
tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân các điển hình tiên tiến trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, trong xây dựng đời sống văn hóa tại cơ sở. Quá trình đó cũng sẽ là những
đóng góp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện các đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
Cán bộ xã là những người trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân dân, sống, làm việc
và có mối quan hệ chặt chẽ với dân. Trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện đường
lối, chủ trương, chính sách đến với dân, họ sẽ tạo ra nhịp “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân, thông qua họ mà “ý Đảng, lòng dân” được thống nhất, làm cho Đảng và
Nhà nước có cơ sở ăn sâu bám rễ trong quần chúng, tạo nên mối quan hệ máu thịt với
nhân dân, trực tiếp củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ.
Đội ngũ cán bộ xã tốt chính là những tấm gương về đạo đức, lối sống cho quần
chúng noi theo. Họ là những người tiên phong trong hành động, tổ chức, lôi cuốn quần
chúng làm theo một cách tự giác. Ngược lại, cán bộ xã kém sẽ tác động tiêu cực trực tiếp
đến uy tín, vai trò của Đảng, Nhà nước, làm cho dân mất lòng tin vào Đảng, vào chính
quyền.
Với ý nghĩa đó, có thể nói, xây dựng đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội là
một mắt xích quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển, củng cố hệ thống chính trị và
kinh tế - xã hội của các xã cũng như của huyện và Thành phố nói riêng.
- Đội ngũ cán bộ xã vững mạnh là một trong những nguồn quan trọng cung cấp
cán bộ cho cấp trên cơ sở (huyện và Thành phố). Có thể khẳng định rằng cơ sở xã chính
là một trong những môi trường quan trọng tạo điều kiện cho cán bộ trưởng thành. Thông
qua quá trình triển khai và tổ chức cho quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối,
chính sách ở cơ sở, cán bộ sẽ có điều kiện gần gũi quần chúng, học hỏi ở quần chúng.
Cũng quá trình đó rèn luyện họ phải bình tĩnh, khách quan, nhanh nhạy trong ứng xử

công việc. Từ đó hình thành, phát triển tri thức, năng lực hoạt động thực tiễn, sự năng
động và khả năng sáng tạo cho cán bộ.

Trong bài báo nói về sự cần kíp phải giáo dục cán bộ và cốt cán ở cơ sở, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ cơ sở “không những là cái khâu liên hệ, mà lại là cái kho
dồi dào cho Đảng lấy thêm lực lượng mới. Nếu cốt cán được phát triển và củng cố, thì
Đảng sẽ phát triển và củng cố. Nếu không có cốt cán, thì Đảng sẽ khô héo” [70, tr.273-
274]. Người còn nhấn mạnh: “Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không học tập nổi những
việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết thực của cấp dưới, để rút
kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung cho tất cả các bộ phận” [64, tr.289].
Nhìn vào thực tế, có thể thấy một số cán bộ do chưa từng trải qua công tác và rèn
luyện thực tế ở cơ sở nên khi đảm nhận các vị trí lãnh đạo ở những cấp cao hơn thường
khó thích ứng với nhiệm vụ và gặp nhiều khó khăn. Ngược lại, những cán bộ đã từng lăn
lộn, từng trải ở cơ sở thì thường nhạy bén, năng động hơn, có bản lĩnh và khả năng thực
tế để hoàn thành những nhiệm vụ nặng nề hơn ở cấp huyện và thành phố.
Tóm lại, đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội có vai trò quan trọng về nhiều mặt.
Họ chính là “trụ cột”, là “linh hồn” của các tổ chức trong hệ thống chính trị xã, là trung
tâm đoàn kết ở cơ sở, là người tập hợp lực lượng, sắp xếp bố trí phân công nhân sự và
mọi công việc từ đó, chất lượng của đội ngũ cán bộ xã có ý nghĩa quyết định năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu đảng bộ xã, hiệu lực quản lý của chính quyền và chất lượng
hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở xã. Mỗi tổ chức có hoàn thành được nhiệm vụ
của mình hay không, trước hết tùy thuộc vào đội ngũ cán bộ. Đội ngũ này nếu được xây
dựng vững mạnh sẽ là lực lượng quan trọng nhất tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và vững
chắc trên địa bàn các xã ngoại thành Hà Nội. Thực tế cho thấy, những xã vững mạnh là
do có đội ngũ cán bộ vững mạnh và những xã yếu kém thì cũng thường bắt đầu yếu kém
từ khâu cán bộ . Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ đó thật sự trong sạch, vững mạnh là
một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược góp phần quyết định vào sự thành bại của
công cuộc xây dựng nông thôn mới, sự phát triển chung của Thành phố.
* Đặc điểm của đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội

Việc xác định đặc điểm của đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng, ban hành hệ thống chính sách phù hợp với đội ngũ này. Đặc điểm
của đội ngũ cán bộ xã được quy định bởi vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của đội

ngũ cán bộ xã. Về vị trí, xã là cấp cơ sở trong hệ thống chính trị, cấp thấp nhất trong hệ
thống hành chính bốn cấp của Nhà nước, gắn liền với các tổ chức tự quản của cộng đồng
làng, xã, cụm dân cư. Về tổ chức, đội ngũ này gồm hai bộ phận: một là do bầu cử theo nhiệm
kỳ, hai là theo chế độ tuyển dụng. Đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội cũng nằm trong
đặc điểm chung của đội ngũ cán bộ xã, tuy nhiên có những điểm khác biệt.
- Cán bộ xã ở Hà Nội phần lớn là dân bản địa, cư trú, sinh sống tại địa phương, có
quan hệ dòng tộc và gắn bó với dân làng về mọi mặt kinh tế, văn hóa, tình cảm và trong sinh
hoạt hàng ngày. Xuất phát từ thực tế đặc trưng truyền thống nhà - làng - nước của Người
Việt. Cán bộ xã hầu hết xuất thân là những người cùng làng, cùng xã. Họ đồng thời là người
đại diện cộng đồng, và người đại diện Nhà nước. Các yếu tố này chi phối các hoạt động của
họ, nhất là trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích
cá nhân - cộng đồng - Nhà nước.
Phần lớn cán bộ xã bị chi phối bởi các quan hệ họ hàng, làng xóm, họ làm việc chịu
sự giám sát của dân, gắn bó với lợi ích gia đình, họ mạc, dòng tộc, xóm giềng. Họ là những
người hiểu dân, gần gũi với dân, thông thạo những phong tục, tập quán của nhân dân trên địa
bàn nên dễ đi vào lòng dân. Do vậy, đội ngũ này có điều kiện thuận lợi trong việc thuyết
phục nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, cũng chính từ đặc điểm này mà nhiều cán bộ xã đã coi
nặng tình cảm mà quên mất kỷ cương, phép nước, giải quyết công việc hoàn toàn dựa trên
tình cảm.
- Một bộ phận khá lớn trong đội ngũ cán bộ xã ở Hà Nội đã được rèn luyện và
trưởng thành qua thực tiễn. Bộ phận này có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động lãnh
đạo, quản lý, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo và chủ động các chủ trương, nghị quyết,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong việc tổ chức thực tiễn tại
địa phương. Tận tụy trong công việc, giữ gìn được sự đoàn kết nội bộ, có uy tín với nhân
dân và giác ngộ nhân dân trong các phong trào thực tiễn thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

kinh tế - xã hội ở địa phương, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây
dựng nông thôn mới.
- Đội ngũ cán bộ xã ở Hà Nội hiện nay có tính ổn định thấp so với cán bộ các cấp

trên. Trước đây, phần lớn đội ngũ cán bộ xã ở Hà Nội đều trưởng thành từ những thanh
niên “không thóat ly” qua các phong trào ở địa phương, một bộ phận khác là bộ đội sau
khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, sỹ quan quân đội, phục viên, xuất ngũ, một số là cán bộ
hưu trí, nghỉ chế độ và một số ít được tăng cường từ trên về cơ sở. Hiện nay, ở Hà Nội
nhiều xã đã tuyển được đội ngũ cán bộ, công chức thông qua thi tuyển, qua luân chuyển
cán bộ từ trên xuống. Tuy nhiên, các cán bộ luân chuyển hầu hết chưa phát huy được tác
dụng, mà mới chỉ dừng lại ở mức độ làm quen với cơ sở thì lại được chuyển đến một vị
trí công tác mới. Đặc biệt, với những chức danh cán bộ chủ chốt như chủ tịch, bí thư
đảng ủy xã thường hay bị xáo trộn nhất. Bởi đây chính là những vị trí mà cán bộ huyện
được luân chuyển về tạm thời để lên một vị trí công tác cao hơn. Do đó, đội ngũ cán bộ
xã nhìn chung hay bị xáo trộn, không ổn định dẫn đến chất lượng, hiệu quả công việc
không cao.
- Đội ngũ cán bộ xã ở thành phố Hà Nội có tính chuyên môn hóa thấp, kiêm nhiệm
nhiều. Do tổ chức bộ máy làm việc không được chuyên môn hóa như các cấp trên cơ sở,
nên mặc dù được quy định từng chức danh cụ thể song đội ngũ cán bộ xã đều phải kiêm
nhiệm. Ranh giới giữa cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở xã không rạch ròi. Thậm chí
cả công chức chuyên môn cũng không hoàn toàn được chuyên môn hóa mà ít nhiều cũng
đều phải kiêm nhiệm các công việc khác. Chế độ và lề lối làm việc của cán bộ xã còn
nghiệp dư, không theo quy định mà phụ thuộc vào tình hình cụ thể của xã để bố trí giải
quyết công việc.
Đội ngũ cán bộ xã ở Hà Nội ít được đào tạo chính quy và hay có sự biến động, dẫn
tới trình độ chuyên môn không cao. Số lượng cán bộ xã có bằng đại học chính quy chỉ là
con số ít ỏi. Hầu hết cán bộ được trưởng thành từ phong trào, sau khi được vào một vị trí
công tác ở xã tìm cách đi học để hoàn thiện bằng cấp, cho nên ngay cả những cán bộ có
bằng đại học cũng chỉ là đại học tại chức và làm việc không phải dựa vào trình độ được
đào tạo mà giường như chỉ dựa vào kinh nghiệm công tác của bản thân. Mặt khác, nhiều

cán bộ chưa được đào tạo, chưa qua trường lớp, trưởng thành từ phong trào, chỉ khi được
trúng cử mới được cử đi đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh nên rất khó khăn khi áp dụng
tiêu chuẩn ngạch, bậc công chức.

Mặt khác, đội ngũ cán bộ xã ở đây làm việc còn theo lối tư duy kinh nghiệm, đôi
khi giải quyết công việc quá nguyên tắc, cứng nhắc, thiếu mềm dẻo, đôi khi lại giải quyết
công việc theo ý nghĩ chủ quan, tình cảm nên nhiều khi không đạt được hiệu quả công
việc. Từ thành phần xuất thân từ nông dân, tư tưởng tiểu nông, sống mang tính cộng
đồng cao với lối suy nghĩ “tam ngu thành hiền”, “xấu bầy hơn tốt lỏi” nên có xã còn tình
trạng cán bộ mất đoàn kết, cục bộ, bè cánh, níu kéo lẫn nhau không, không tạo điều kiện
cho đồng chí phát triển. Đặc biệt đối với những xã có chủ tịch và bí thư không ăn khớp,
dẫn đến tình trạng mất đoàn kết kéo dài ở mộ số xã.
- Phần lớn cán bộ xã ở thành phố Hà Nội vừa là cán bộ, vừa là người dân trực
tiếp sản xuất, kinh doanh. Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng của đội ngũ cán bộ xã
ở thành phố Hà Nội. Họ có tư liệu sản xuất, đời sống gắn liền với kinh tế gia đình, kinh tế
tập thể, khi được “Đảng cử, dân bầu” thì làm, không trúng cử thì nghỉ.
Khác với cán bộ, công chức cấp trên cơ sở là những cán bộ nhà nước, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, sống bằng lương, nghề nghiệp của họ là cán bộ, công chức,
viên chức. Đội ngũ cán bộ xã đều trực tiếp sống và làm ăn trên mảnh vườn, khổ ruộng
của họ. Họ vừa trực tiếp tham gia làm kinh tế gia đình, vừa tham gia việc xã. Trong nhiều
trường hợp, nguồn thu chính của họ không phải từ lương, phụ cấp từ ngân sách Nhà nước
mà chính là từ sản xuất kinh doanh. Nhiều cán bộ xã trẻ có năng lực đã bứt lên làm giàu
trên chính mảnh đất quê hương mình. Nhiều gương thanh niên điển hình từ các mô hình
làm ăn của các xã đã được biểu dương.
1.1.2. Quan niệm và vai trò của chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành
phố Hà Nội
1.1.2.1. Quan niệm về chính sách cán bộ đối với cán bộ xã ở thành phố Hà Nội
* Quan niệm về chính sách

Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học,
2003): chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào
đường lối chính trị chung và thực tế mà đề ra.
Từ góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số
định nghĩa về "Chính sách".

Từ cách phân biệt "chính sách" theo nghĩa rộng và "chính sách" theo “nghĩa hẹp”,
trong bài: "Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn xây dựng chính sách ở nước ta", TS. Nguyễn
Hữu Đổng và TS. Lê Minh Quân định nghĩa: "Chính sách với nghĩa rộng (nghĩa chung
nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội) tác động lên đối tượng lãnh đạo, quản lý nhằm đạt
đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn "Chính sách" theo
nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối, nhiệm vụ trong một
thời gian nhất định" [83, tr.134-135].
Định nghĩa về chính sách của TS. Chu Thành phân biệt cụ thể hơn "chính sách"
theo nghĩa bao quát "chính sách lĩnh vực" và "chính sách theo nghĩa hẹp": Chính sách
theo nghĩa bao quát là đường lối, chủ trương quyết định chính trị để giải quyết công việc
quốc gia của một chính đảng, của nhà nước. Chính sách cũng là chủ trương, quyết định
của Đảng, Nhà nước để giải quyết một lĩnh vực nhất định của đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước. Theo nghĩa hẹp, chính sách là sự quy định chế độ, thể chế hoá các
mối quan hệ lợi ích, các lợi ích nhóm, bộ phận trong xã hội [83, tr.190].
Trong bài: "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", TS.Vũ Hoàng Công đưa ra định
nghĩa: “Chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể hiện
thái độ, quan điểm của Nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động nào đó
trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội ” [83, tr.200].
Trong xác định nội hàm của khái niệm chính sách trên góc độ chính trị học, TS.
Nguyễn Đăng Thành với cách tiếp cận xác lập định nghĩa là ngoài việc xác định những
hình thức thể hiện của chính sách, điều quan trọng là phải chỉ rõ những đặc trưng thực
chất của chính sách, giải quyết được những khác biệt nhất định các hình thức của chính
sách, đó chính là trả lời câu hỏi: Ai là chủ thể quyết định chính sách ở nước ta, chỉ có Nhà

nước? hay còn Đảng? hoặc còn là các tổ chức chính trị - xã hội? Tác giả phân tích rõ một
đặc trưng cơ bản, thực chất của chính sách là tập hợp các phương án giải quyết các mâu
thuẫn, các xung đột về giá trị (lợi ích) trong một cộng đồng. Từ đó tác giả đưa ra định nghĩa:
"Chính sách là tập hợp những văn bản theo một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể
cầm quyền nhằm quy định quá trình hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết

những vấn đề mà nhóm chủ thể - đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để
phân bổ giá trị" [83, tr.12].
Từ các công trình của các tác giả nghiên cứu về chính sách, đã cho thấy sự thống
nhất ở một số điểm cơ bản sau:
- Định nghĩa chính sách được đề cập tới đồng nghĩa với “chính sách công” (phân
biệt với "chính sách tư"), chính sách quốc gia tức là những chính sách có ảnh hưởng, tác
động đến toàn bộ xã hội.
- Chính sách có thể là đường lối, chủ trương của một chính đảng hay một chính
phủ, hay một tổ chức xã hội.
- Thực chất chính sách là tập hợp các phương án giải quyết các mâu thuẫn, các
xung đột về giá trị, có thể hiểu nó như là lời giải của bài toán xung đột các giá trị xã hội
trong một cộng đồng, có mục đích cuối cùng là tạo ra một trật tự quan hệ lợi ích mà cộng
đồng mong đợi thông qua ý chí của chủ thể cầm quyền quyết định.
- Chính sách do chủ thể quyền lực đề ra (Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ
thống chính trị).
- Chính sách bao gồm các quan điểm, chủ trương, quyết định, quy định có liên
quan lẫn nhau.
- Ngoài những giải pháp mang tính chất vĩ mô như các chủ trương, đường lối,
quan điểm chính sách còn là các giải pháp mang tính cụ thể như các quyết định, quy
định
- Chính sách tập trung giải quyết một lĩnh vực, một vấn đề đang đặt ra trong đời
sống chính trị - xã hội.
- Hướng vào những mục tiêu cụ thể đã xác định bởi một hệ thống tiêu chí.
Từ những nhận thức trên, có thể khái niệm về chính sách như sau:

Chính sách với nghĩa rộng là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể
lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội) tác động lên đối
tượng lãnh đạo, quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian
nhất định.
Chính sách theo nghĩa hẹp, là quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối,

nhiệm vụ trong một thời gian nhất định.
* Chính sách cán bộ
Theo quan điểm về chính sách nói chung ở trên và nhiệm vụ công tác cán bộ, có
thể đưa ra quan niệm: Chính sách cán bộ là tổng thể những quan điểm, biện pháp, quyết
định, quy định của Đảng, Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị về cán bộ và
công tác cán bộ nhằm góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Như vậy, chủ thể đề ra và tổ chức thực hiện chính sách cán bộ là Đảng, Nhà nước,
các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đội ngũ cán bộ vừa là đối tượng của chính sách cán
bộ vừa là người tham gia xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ.
Nội dung chính sách cán bộ bao gồm toàn bộ các quan điểm, chủ trương, biện
pháp, quy định về công tác cán bộ. Do đó, chính sách cán bộ gắn liền với các khâu trong
công tác cán bộ, khó có thể tách bạch rạch ròi chính sách cán bộ với từng khâu công tác
cán bộ. Khâu tuyển dụng cán bộ phải thực hiện trên cơ sở chính sách tuyển dụng cán bộ;
khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải tiến hành trên cơ sở chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; khi bố trí, sử dụng cán bộ phải quán triệt chính sách sử dụng và quản lý cán bộ,
chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần cho cán bộ Do đó, khi bàn
đến chính sách cán bộ cần khắc phục thói quen hiểu chính sách cán bộ chỉ là chế độ đãi
ngộ vật chất, động viên tinh thần đối với cán bộ.
Hình thức thể hiện của chính sách cán bộ là các văn bản của Đảng, Nhà nước, các
tổ chức chính trị - xã hội, như: chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quyết
định, nghị định, thông tư
Có nhiều loại chính sách cán bộ, tuy nhiên theo Nghị quyết Trung ương ba khóa
VIII, hệ thống chính sách cán bộ bao gồm ba loại chủ yếu, đó là: chính sách đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ; chính sách sử dụng và quản lý cán bộ; chính sách đảm bảo lợi ích vật chất
và động viên tinh thần. Quan điểm của Đảng ta về 3 chính sách đó như sau:
1- Chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.
Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ
chủ chốt. Chú ý con em gia đình cách mạng, những người có công với nước, công nhân,
nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, cán bộ nữ, con em cỏc dõn tộc thiểu số, vùng căn

cứ cách mạng. Có chính sách học bổng và miễn giảm học phí cho con em các gia đình có
công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh, con các gia đình nghèo vượt khó, cho
học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành sư phạm. Bồi dưỡng tài năng ngay từ các
trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử cán bộ ưu tú và
sinh viên xuất sắc đi đào tạo, tham quan, bồi dưỡng ở nước ngoài. Tổ chức tốt trường bổ túc
văn hóa, dự bị đại học, trường dân tộc nội trú.
Nguồn đầu tư để phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bao
gồm từ ngân sách Nhà nước các cấp, kinh phí của các tổ chức đảng, đoàn thể, của doanh
nghiệp, tài trợ của các tổ chức quốc tế và các nước.
2- Chính sách sử dụng và bố trí cán bộ
Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn phù hợp với sở
trường. Đề bạt cán bộ phải đúng lúc, đúng người, đúng việc. Có chính sách đoàn kết tập
hợp rộng rói cỏc loại cỏn bộ, trọng dụng những người có đức, có tài trong Đảng và ngoài
Đảng, người ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Phát hiện, lựa chọn
và giới thiệu những người đủ tiêu chuẩn trong các tầng lớp nhân dân, các thành phần kinh
tế tham gia cỏc tổ chức chớnh trị, xó hội, tạo điều kiện thuận lợi để họ đóng góp vào các
công việc chung của đất nước.
Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp uỷ, thủ trưởng các cơ quan
phải nắm chắc từng cán bộ, cả về đức, tài và tỡnh trạng sức khỏe.
Trên cơ sở đó có kế hoạch sử dụng, đề bạt, giúp đỡ, khen thưởng đúng mức những
cán bộ có thành tớch, xử lý kỷ luật kịp thời và nghiêm minh những cán bộ vi phạm Điều
lệ Đảng và pháp luật Nhà nước.
3- Chính sách bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần.

×