Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ BẢO TÂM

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ BẢO TÂM

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN VỀ PHẠM TỘI NHIỀU LẦN
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm

HÀ NỘI - 2012

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Bảo Tâm

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
1


MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU

8

LẦN" TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.

Một số vấn đề về chế định đa tội phạm

8

1.2.

Khái niệm và đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần

10

1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần

10

1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần

12


1.3.

15

Phân biệt phạm tội nhiều lần với một số tình tiết khác có liên
quan (gần) trong pháp luật hình sự

1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội

15

1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục

18

1.3.3. Phạm tội nhiều lần và phạm tội có tính chất chuyên nghiệp

20

1.3.4. Phạm tội nhiều lần và tái phạm, tái phạm nguy hiểm

23

1.4.

Ý nghĩa của việc điều chỉnh về mặt lập pháp tình tiết phạm tội
nhiều lần

25


Chương 2:

27

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG

2.1.

Những quy định của pháp luật hình sự việt nam về phạm tội
nhiều lần từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999

4

27


2.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng 8 năm 1945 cho đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985

27

2.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho đến
trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999

29


2.2.

Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về
phạm tội nhiều lần

33

2.2.1. Những quy định của Phần chung Bộ luật Hình sự năm 1999
về phạm tội nhiều lần

33

2.2.2. Những quy định của Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự năm
1999 về phạm tội nhiều lần

35

2.3.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về phạm tội nhiều lần

43

Chương 3: NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN CỦA VIỆC TIẾP TỤC

57

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TÌNH TIẾT "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN"


3.1.

Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về phạm tội nhiều lần

57

3.2.

Nội dung hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về phạm tội nhiều lần

72

KẾT LUẬN

80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

82

5


Danh môc c¸c b¶ng

Số hiệu


Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Thống kê số liệu một số tội danh các đối tượng phạm tội
thường bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần
từ năm 2007 đến năm 2011

6

44


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phạm tội nhiều lần là một tình tiết thuộc chế định đa tội phạm. Tuy
nhiên tình tiết này vẫn chưa được quy định một cách cụ thể trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam năm 1999. Trong Bộ luật nó được coi là một tình tiết "tăng
nặng trách nhiệm hình sự" hay có thể là một tình tiết "định khung tăng nặng".
Trong các vụ án hình sự đối tượng phạm tội nhiều lần chiếm tỉ lệ rất lớn.
Về mặt pháp lý, phạm tội nhiều lần chưa được các nhà làm luật định
nghĩa một cách chính thức mà ở mỗi một tội danh cụ thể lại có một quy định
riêng. Ví dụ: tại Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT/TANDTC-VKSNDTCBNV ngày 2-01-1998 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự thì:
Tình tiết "Phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 133,
khoản 2 Điều 134a... (đối với một số tội phạm có tính chất tham

nhũng và tội phạm liên quan đến tình dục) được hiểu là đã có tất cả
từ hai lần phạm tội đó trở lên (hai lần phạm tội tham ô trở lên, hai
lần phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản
xã hội chủ nghĩa trở lên...) mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu
thành quy định tại khoản 1 điều luật tương ứng, đồng thời trong các
lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [22].
Về mặt lý luận, dưới góc độ khoa học luật hình sự các nhà nghiên cứu
đã đưa ra khái niệm này như sau: Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở
lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một
khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với
những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm
tội vẫn chưa bị xét xử. Đối với những trường hợp phạm từ hai tội trở lên mà

7


những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau của Bộ luật này, chỉ khi nào
do các điều tương ứng trong phần các tội phạm Bộ luật này quy định riêng
mới bị coi hoặc có thể bị coi là phạm tội nhiều lần. Hay có thể được hiểu là:
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần
trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm,
bốn lần tham ô... và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội
phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng
một bản án...; Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần
thực hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội,
xâm phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố,
xét xử... [26].
Qua khái niệm trên, chúng ta có thể thấy tình tiết phạm tội nhiều lần
bao gồm năm nội dung sau: (1) Phạm tội nhiều lần là người phạm tội đã thực

hiện từ hai hành vi phạm tội trở lên, tác động đến cùng một đối tượng hoặc
nhiều đối tượng khác nhau (ví dụ: phạm tội nhiều lần đối với cùng một người
hoặc đối đối với nhiều người - điểm c khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự,
nhiều lần trộm cắp, nhiều lần hiếp dâm...). (2) Nếu tách ra từng hành vi phạm
tội riêng lẻ thì mỗi hành vi ấy đã đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm độc
lập. (3) Tất cả các hành vi phạm tội đó đều được quy định tại một điều luật cụ
thể trong phần riêng Bộ luật Hình sự (cùng là tội trộm cắp, hiếp dâm...), có
thể cùng một khoản, có thể phạm tội ở các khoản khác nhau của cùng một
điều luật. (4) Các hành vi phạm tội đó chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, chưa bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật
(như đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án...) và cùng bị đưa ra xét xử một lần
trong cùng một vụ án (được tuyên trong một bản án). (5) Nếu điều luật có quy
định về giá trị tài sản hoặc thiệt hại về tài sản thì người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tổng giá trị tài sản của các lần phạm tội cộng lại [22].
Như vậy, có thể thấy việc hiểu về tình tiết phạm tội nhiều lần khá
phức tạp. Mặt khác để hiểu đúng về tình tiết phạm tội nhiều lần chúng ta cần

8


phải phân biệt nó với các tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm: phạm
nhiều tội, tội liên tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm
nguy hiểm. Đây là những tình tiết có nhiều dấu hiệu giống nhau, nếu không
phân biệt được sẽ dẫn đến việc hiểu sai và áp dụng sai.
Từ những lý do trên đây chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài "Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt
Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. T×nh h×nh nghiªn cøu
Phạm tội nhiều lần là một tình tiết được đề cập đến trong luật hình sự
Việt Nam với yếu tố là tình tiết tăng nặng định khung của rất nhiều loại tội và

là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết này đã được đề cập đến
trong Bộ luật Hình sự năm 1985 và tiếp tục được kế thừa trong Bộ luật Hình
sự 1999. Vấn đề này cũng được đề cập trong một số giáo trình, sách tham
khảo do các tác giả khác nhau biên soạn như: 1) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung). Tập thể tác giả do TSKH.PGS. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2003 (tái bản); 2) Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam, Tập I, Tập thể tác giả do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2007; 3) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập thể tác
giả do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
2005; 4) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Trường Đại học
Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 1995; 5) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự (Phần
chung), Tác giả Đinh Văn Quế, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; 6) Chế
định nhiều tội phạm - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tác giả TS. Lê Văn
Đệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 v.v...
Một số nhà khoa học - luật gia hình sự Việt Nam đã dành không ít
công sức cho việc nghiên cứu về đề tài này, đáng chú ý là các công trình
nghiên cứu của TSKH.PGS. Lê Cảm: 1) Chế định đa tội phạm trong Sách
chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự

9


(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; 2) Chế định đa (nhiều)
tội phạm và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân
chủ và pháp luật, số 6/2001; 3) Lê Cảm, Trịnh Quốc Toản, Định tội danh: lý
luận hướng dẫn mẫu và 350 bài thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004; 4) Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung luật hình sự, Tập IV,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2002.
Ngoài ra, còn có một số bài đăng trên tạp chí khoa học pháp lý như: 1)
Bàn về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Phạm tội nhiều lần" quy định

trong Luật Hình sự Việt Nam, của ThS. Lê Văn Luật (Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 4/2006; 2) Thực tiễn áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong
giải quyết hình phạt - tồn tại và giải pháp, của Vũ Hồng Thiêm (Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 10, tháng 5/2008); 3) Về việc áp dụng tình tiết phạm tội nhiều
lần, phạm tội đối với nhiều người trong một số tội phạm của Bộ luật Hình sự
năm 1999, của Nguyễn Hải Dũng (Tạp chí Kiểm sát, số 2/2005; 4) Áp dụng
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tình tiết tăng nặng phạm tội có
tổ chức và phạm tội nhiều lần, của Vũ Thành Long (Tạp chí Kiểm sát, số
21/2006); 5) Bàn về phạm tội có tổ chức, phạm tội nhiều lần, của Đỗ Thanh
Huyền (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/2007); 6) Các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999, của Dương Tuyết
Miên (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/2003); 7) Cần hiểu chính xác về tình tiết
tăng nặng chung và tình tiết tăng nặng định khung trong Bộ luật Hình sự, của
Trinh Đình Thể (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/1998); 8) Một số vấn đề cần
chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, của
Đinh Văn Quế (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4/2010); 9) Những hạn chế trong
các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự và hướng khắc phục, của Hồ Sĩ Sơn (Tạp chí Tòa
án nhân dân, số 16/2008); 10) Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng, của Mai
Bộ (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1999) v.v...

10


Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến vấn đề phạm tội
nhiều lần nhưng chỉ dừng lại ở một khía cạnh nào đó hoặc chừng mực xem
xét qua các trường hợp phạm tội cụ thể hay kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự. Tuy nhiên, về phương diện nghiên cứu lý luận chuyên sâu và có hệ
thống vấn đề phạm tội nhiều lần vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức.
Do vậy, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh vấn đề phạm tội nhiều

lần cần phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ và sâu sắc hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm tội nhiều lần là một vấn đề tương đối hẹp và phức tạp. Nghiên
cứu về vấn đề này đã có nhiều nghiên cứu chung mà ít có nghiên cứu chuyên
sâu. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ xem xét và giải quyết một số
vấn đề cơ bản xung quanh vấn đề phạm tội nhiều lần như: 1) Khái niệm và
đặc điểm của phạm tội nhiều lần; 2) Phân biệt phạm tội nhiều lần và một số
tình tiết khác thuộc chế định đa tội phạm như phạm nhiều tội, phạm tội liên
tục, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm; 3)
Những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về "Phạm tội nhiều lần".
Trên cơ sở nghiên cứu những nội dung cơ bản của phạm tội nhiều lần, luận
văn đi sâu nghiên cứu tình tiết này trên phương diện lập pháp và việc áp dụng
chế định này trong thực tiễn xét xử để từ đó đưa ra các kiến nghị.
4. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu đúng như tên gọi của nó là vấn đề
phạm tội nhiều lần trong luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở này, mục đính nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu
những vấn đề lý luận về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam. Đồng
thời luận văn còn phân tích và đánh giá những vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng những quy định của pháp luật hình sự về phạm tội nhiều lần để từ đó,
đưa ra những kiến nghị để việc áp dụng được thống nhất, tránh tình trạng hiểu
sai về tình tiết này.

11


5. Các phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để hoàn thành khóa luận, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu như: phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, nghiên cứu bản án điển
hình... để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề đã được

nêu ra trong luận văn. Cụ thể đó là:
- Phương pháp phân tích: Luận văn đã phân tích chi tiết các vấn đề có
liên quan đến vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể đánh giá được thực tiễn
áp dụng. Các nội dung cần phân tích bao gồm: Phân tích các vấn đề lý luận về
phạm tội nhiều lần, phân tích các thông số về tình hình phạm tội, người phạm
tội, phân tích thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về phạm
tội nhiều lần...
- Phương pháp so sánh: Là việc so sánh các vấn đề có liên quan đến
vấn đề phạm tội nhiều lần, từ đó có thể rút ra các kết luận mang tính đánh giá.
Các nội dung so sánh bao gồm: so sánh giữa phạm tội nhiều lần và phạm
nhiều tội; phạm tội liên tục; phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm; tái
phạm nguy hiểm.
- Phương pháp tổng hợp: Đó là việc khái quát hóa toàn bộ các nhận
định độc lập sau khi phân tích, so sánh từng nội dung, từng tiêu chí cụ thể.
Phương pháp tổng hợp giúp cho quá trình đánh giá tránh khỏi sự phân tán, rời
rạc và thiếu trọng tâm. Các nội dung tổng hợp được đặt trong một hệ thống
cấu trúc có mối liên hệ qua lại, trong đó xác định những nội dung cơ bản chi
phối nhận định chung.
- Nghiên cứu các vụ án điển hình: Đây là một phương pháp nghiên
cứu quan trọng của luận văn. Đó là những thực tiễn để chứng minh và làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận mà tác giả đã đưa ra.
6. Cơ sở khoa học và thực tiễn của luận văn
Cơ sở khoa học của luận văn là các quy định của Bộ luật Hình sự năm
1999 về phạm tội nhiều lần và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự

12


năm 1999, cũng như các công trình khoa học, sách báo pháp lý của các tác giả
trong và ngoài nước có liên quan đến vấn đề này.

Bên cạnh đó, cơ sở thực tiễn của luận văn là thực tiễn áp dụng các quy
định về phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam và qua nghiên cứu các
bản án của Tòa án nhân dân các cấp, những vụ án hình sự do cơ quan công an
điều tra, khởi tố để rút ra những nhận xét, đánh giá.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả
đã làm rõ khái niệm, đặc điểm của vấn đề phạm tội nhiều lần, bản chất pháp
lý của nó. Đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng để đưa ra các
kiến nghị phù hợp.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ
cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong
việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo
người phạm tội hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về "Phạm tội nhiều lần" trong pháp
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm
tội nhiều lần" và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Những phương hướng cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện
các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về "Phạm tội nhiều lần".

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ "PHẠM TỘI NHIỀU LẦN"

TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHẾ ĐỊNH ĐA TỘI PHẠM

Phạm tội nhiều lần là một trong các dạng của chế định đa tội phạm.
Do đó trước khi tìm hiểu về chế định này, chúng ta cần hiểu về chế định đa tội
phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam khi nghiên cứu về chế định đa
tội phạm giữa các nhà nghiên cứu tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có thể
kể đến một số quan điểm khác nhau như sau:
Quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh: Chế định đa tội phạm là một
chế định của luật hình sự cần bao hàm tất cả những trường hợp khi một người
thực hiện một số tội phạm với điều kiện nếu như đối với các tội này người đó
vẫn chưa hết án tích hoặc thời hiệu truy tố về hình sự.
Quan điểm khác với quan điểm của PGS.TS Võ Khánh Vinh là quan điểm
của PGS.TS Lê Văn Đệ: "Nhiều tội phạm là trường hợp một người phạm từ
hai tội trở lên, không phụ thuộc vào việc người đó đã bị xét xử về các tội đã
phạm hay chưa; các tội này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và
không có những trở ngại về mặt tố tụng hình sự để khởi tố vụ án hình sự" [14].
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm:
Nhiều (đa) tội phạm là một chế định độc lập của luật hình sự
Việt Nam bao gồm bốn dạng (trường hợp): (1) phạm tội nhiều lần;
(2) phạm nhiều tội; (3) tái phạm; (4) phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp, mà trong những điều kiện như nhau nếu so sánh với tội đơn
nhất thì các dạng này thường cho thấy tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội cao hơn của tội phạm được thực hiện, cũng như
của nhân thân người phạm tội [7, tr 388-389].

14



Như vậy, theo định nghĩa nói trên thì GS.TSKH Lê Văn Cảm đã nêu
rõ các dạng của chế định nhiều (đa) tội phạm. Theo đó, nhiều tội phạm không
chỉ là trường hợp một người phạm từ hai tội trở lên và người phạm tội vẫn
chưa bị xét xử (phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội) mà còn bao gồm cả
trường hợp phạm từ hai tội trở lên và có thể đã bị đưa ra xét xử (tái phạm,
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp). Nếu so sánh đặc điểm của bốn dạng tội
phạm nói trên thì có thể thấy chúng có một đặc điểm chung là người phạm tội
phạm từ hai tội trở lên và vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy
nhiên ở mỗi dạng lại nổi bật lên một điểm khác biệt để phân biệt giữa các
dạng tội phạm khác nhau.
Ở dạng phạm tội nhiều lần đặc điểm nổi bật là: phạm từ hai tội trở lên
và những tội ấy được quy định tại cùng một điều và người phạm tội vẫn chưa
bị xét xử.
Ở dạng phạm nhiều tội thì người phạm tội cũng phạm từ hai tội trở
lên, những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau và người phạm tội
cũng chưa bị đưa ra xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Ở dạng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì người phạm tội phạm
tội nhiều lần, có tính chất liên tục, có hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập,
nguồn sống chủ yếu của người phạm tội, người phạm tội có thể bị đưa ra xét
xử ở các lần khác nhau.
Ở dạng tái phạm đặc điểm khác biệt của nó là ở chỗ người phạm tội
trước đó đã bị kết án về bất kỳ tội phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội
do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Có thể nói khi nghiên cứu về chế định nhiều (đa) tội phạm ta có thể
thấy được tính phức tạp cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội và những thiệt hại do hành vi này gây ra thường là
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội nhiều lần chính là một trong
các dạng tội phạm có tính chất như vậy.

15



1.2. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TÌNH TIẾT PHẠM TỘI
NHIỀU LẦN

1.2.1. Khái niệm của tình tiết phạm tội nhiều lần
Về mặt lập pháp: phạm tội nhiều lần với tính chất là một dạng của chế
định đa tội phạm từ trước đến nay vẫn chưa nhận được sự điều chỉnh chính
thức bằng một quy phạm riêng biệt nào mà mới chỉ được quy định với tính
chất là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm cụ thể và là tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự chung tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật
Hình sự năm 1999.
Về mặt thực tiễn, lần đầu tiên bằng giải thích thống nhất có tính chất chỉ
đạo trong Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT ngày 02/01/1998 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Nội vụ (nay là Bộ
Công an) hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật sửa đổi bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình sự năm 1985 đã đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần
đối với riêng một số tội phạm có tính chất tham nhũng và tình dục được đề
cập trong Luật đã nêu mà theo đó, khái niệm phạm tội nhiều lần đối với một tội
nào đó trong số các tội phạm có tính chất tham nhũng được thực tiễn xét xử
của nước ta hiểu là: Bị cáo đã phạm tội ấy từ hai lần trở lên mà mỗi lần phạm
tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1) trong điều
luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình dự và tội
ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự [7, tr. 391]. Cụ thể
như sau:
Đối với tội phạm về ma túy: Tại điểm b khoản 3 Phần II quy định: Tình
tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 2 Điều 185b, khoản 2 Điều 185c,
khoản 2 điều 185d, khoản 2 Điều 185e, khoản 2 Điều 185g, khoản 2 Điều 185h,
khoản 2 Điều 185i, khoản 2 Điều 185k, khoản 2 Điều 185m, khoản 2 Điều 185n
được hiểu là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần sản xuất trái phép

chất ma túy trở lên, hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy trở lên…) mà mỗi

16


lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy định tại khoản 1 Điều luật tương
ứng; đồng thời trong số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách
nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội đó chưa có lần nào bị
truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người phạm tội phải chịu
trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma túy của các lần cộng lại, nếu
Điều luật có quy định về số lượng chất ma túy được định khung hình phạt.
Người nào tổ chức, cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng chất ma túy
từ hai lần trở lên dù chỉ đối với một người cũng được coi là phạm tội nhiều lần.
Đối với tội phạm hiếp dâm, cưỡng dâm: Tại điểm c khoản 1 Phần III:
Tình tiết "phạm tội nhiều lần" quy định tại khoản 3 Điều 112a, khoản 3
Điều 113a, khoản 2 Điều 114, khoản 2 Điều 201, khoản 2 Điều 137 được hiểu
là đã có tất cả từ hai lần phạm tội trở lên (hai lần hiếp dâm trở lên, hai lần
cưỡng dâm trở lên…) và mỗi lần phạm tội có đầy đủ yếu tố cấu thành quy
định tại khoản 1 Điều luật tương ứng, đồng thời trong các lần phạm tội đó
chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng được coi là phạm tội nhiều lần người nào hiếp dâm, cưỡng dâm
giao cấu… từ hai lần trở lên đối với một người.
Về mặt lý luận: Dưới góc độ khoa học luật hình sự chúng ta thấy có
hai quan điểm về khái niệm phạm tội nhiều lần. Một là:
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những
tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản
của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời
với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và
người phạm tội vẫn chưa bị xét xử [7].
Hai là:

Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần
trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mại dâm,
bốn lần tham ô… và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội

17


phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng
một bản án. Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực
hiện hành vi phạm tội, nhưng hành vi đó chỉ cấu thành một tội, xâm
phạm đến cùng một khách thể trực tiếp và chưa đưa ra truy tố, xét
xử…[26].
1.2.2. Đặc điểm cơ bản của tình tiết phạm tội nhiều lần
Từ khái niệm nói trên tình tiết phạm tội nhiều lần có những đặc điểm
cơ bản như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Người phạm tội thực hiện từ hai lần hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Có thể hiểu hành vi nguy hiểm cho xã
hội là hành vi đe dọa xâm phạm hoặc xâm phạm đến những quan hệ xã hội
được pháp luật hình sự bảo vệ.
Đặc điểm thứ hai: Hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực
hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
độc lập.
Các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm bao gồm bốn yếu tố: khách
thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan. Đây là một đặc điểm quan
trọng để xác định có phải người phạm tội đã thực hiện từ hai lần hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm hay không. Nếu hành vi không có đầy đủ
các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập thì không thể xác định được
đó là tình tiết phạm tội nhiều lần.
Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một điều hoặc một khoản của điều
tương ứng trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự quy định.

Đây là một đặc điểm đặc trưng của tình tiết phạm tội nhiều lần và dùng
để phân biệt với tình tiết phạm nhiều tội. Người phạm tội thực hiện từ hai lần
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, mỗi lần thực hiện hành vi
phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập và tội phạm
đó do cùng một điều hoặc một khoản tương ứng quy định tại Bộ luật Hình sự.

18


Đặc điểm thứ tư: Tội phạm này vẫn phải còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 23 Bộ
luật Hình sự năm 1999. Nếu hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì
người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Do đó, hành vi
nói trên không bị tính là một lần phạm tội.
Đặc điểm "người phạm tội phải bị đưa ra xét xử cùng một lần" có
nghĩa là các hành vi phạm tội trước đó chưa bị đưa ra xét xử lần nào. Đây là
một đặc điểm để phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
Như vậy, đây là bốn đặc điểm cần và đủ để có thể đánh giá thế nào là
phạm tội nhiều lần. Nếu thiếu một trong bốn đặc điểm hay còn gọi là dấu hiệu
nói trên thì khó có thể coi đó là tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần. Để
phân tích rõ hơn bốn đặc điểm nêu trên của tình tiết phạm tội nhiều lần, chúng
ta cùng nghiên cứu một ví dụ thực tế như sau:
Ngày 28/09/2010 Nguyễn Văn Thêm (chưa có tiền án, tiền sự) sang
nhà cháu Trần Thị H sinh ngày 04/08/1996, trú quán: Thôn Cựu, xã Vân Từ,
Phú Xuyên, Hà Nội (gọi Thêm là ông trẻ ở gần nhà), Nguyễn Văn Thêm có
hành vi sờ ngực, bộ phận sinh dục của cháu Trần Thị H sau đó định giao cấu với
cháu H thì bị anh Trần Thế Hưng (bố cháu H) trên gác chạy xuống cầm đòn
gánh đuổi đánh và hô hoán mọi người đến bắt quả tang Nguyễn Văn Thêm.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn Thêm khai nhận: Khoảng tháng 05/2009
nhà cháu H đang sửa chữa công trình phụ nên H thường mang bát đĩa sang
nhà Thêm rửa nhờ. Thêm thấy cháu H phát triển sớm nên Thêm đã nhiều lần
có hành vi dùng tay sờ ngực cháu H và nảy sinh ý muốn giao cấu với cháu H.
Một hôm cháu H sang nhà Thêm chơi thấy không có ai ở nhà nên cháu đã lấy
chiếc điện thoại di động Trung Quốc màu đen của Thêm mang về nhà. Sau đó
Thêm phát hiện ra cháu H lấy chiếc điện thoại nên đã nhắn cháu H phải đem

19


điện thoại sang trả nếu không sẽ nói cho bố mẹ biết. Ngày hôm sau cháu H
sang nhà Thêm để nói chuyện với Thêm về chiếc điện thoại H đã lấy của
Thêm, lúc này không có ai ở nhà. Thêm bảo cho cháu H chiếc điện thoại đó
rồi Thêm ôm cháu H, sờ bộ phận sinh dục của cháu H, cháu H không đồng ý,
Thêm dọa sẽ mách bố mẹ cháu về việc cháu H lấy chiếc điện thoại, sau đó
Thêm Thêm cởi quần của cháu H và thực hiện hành vi giao cấu.
Thêm còn khai từ tháng 05/2009 đến đầu năm 2010 Thêm đã nhiều
lần giao cấu với cháu H ở tại nhà Thêm và có lần ở nhà cháu H, cứ khoảng
một tuần, 1 đến 2 lần thêm lại giao cấu với cháu H nhưng không cho vào sâu
vì cháu H kêu đau và xuất tinh ra ngoài. Trong suốt thời gian quan hệ với
cháu H, Thêm đã mua chuộc cháu H bằng cách thỉnh thoảng cho tiền và mua
điện thoại di động cho cháu H, khi cháu H không muốn tiếp tục giao cấu thì
Thêm dọa sẽ nhắn tin cho các bạn của H biết. Vì vậy cháu H sợ buộc phải cho
Thêm tiếp tục hành vi giao cấu. Vào ngày 28/09/2010 Thêm thấy cháu H chỉ
có một mình ở nhà liền đi vào ôm lấy cháu H và định thực hiện hành vi giao
cấu thì bất ngờ bố cháu H ở trên gác chạy xuống cầm đòn gánh đuổi đánh và
hô mọi người đến bắt quả tang.
Tại bản giám định số 2480 ngày 26/10/2010 của Viện khoa học hình
sự, Bộ Công an kết luận: Trên cơ thể của cháu H không có dấu vết thương

tích, màng trinh không bị rách. Sức khỏe của cháu H hiện bình thường.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xử Nguyễn Văn Thêm phạm tội
"Hiếp dâm trẻ em". Áp dụng khoản 4 Điều 112, điểm g khoản 1 Điều 48
(phạm tội nhiều lần) của Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt Nguyễn Văn
Thêm 15 năm tù.
Phân tích vụ án nói trên ta thấy được rõ bốn đặc điểm của tình tiết
phạm tội nhiều lần là:
- Nguyễn Văn Thêm đã thực hiện từ hai lần trở lên hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm đó là hành vi xâm hại đến quyền tự do và bất

20


khả xâm phạm về tình dục trẻ em (cháu H chưa đủ 13 tuổi), xâm phạm đến
quá trình phát triển bình thường, sức khỏe và tinh thần của trẻ em.
- Hành vi nói trên của Thêm được thực hiện nhiều lần và mỗi lần đều
có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập bao gồm 04 yếu tố
là khách thể, chủ thể, mặt khách quan và mặt chủ quan). Thêm đã xâm hại
đến quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là quyền tự do và bất khả xâm
phạm về tình dục trẻ em, sức khỏe và tinh thần của trẻ em (khách thể). Nguyễn
Văn Thêm đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình
sự (chủ thể). Hành vi của Thêm đã gây ra hậu quả là ảnh hưởng đến sự phát
triển bình thường của cháu H cả về sức khỏe lẫn tinh thần (mặt khách quan).
Thêm thực hiện hành vi hoàn toàn với lỗi cố ý trực tiếp. Tức là Thêm nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của
hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra (mặt chủ quan).
- Những lần phạm tội nói trên của Nguyễn Văn Thêm do Điều 112 Bộ
luật Hình sự (Tội hiếp dâm trẻ em) quy định.
- Và Nguyễn Văn Thêm chưa bị đưa ra xét xử lần nào.
Tóm lại, nghiên cứu về những đặc điểm nói trên là để giúp chúng ta

phân biệt giữa tình tiết phạm tội nhiều lần với các tình tiết tương đồng khác
để tránh nhầm lẫn khi áp dụng trên thực tiễn.
1.3. PHÂN BIỆT PHẠM TỘI NHIỀU LẦN VỚI MỘT SỐ TÌNH TIẾT
KHÁC CÓ LIÊN QUAN (GẦN) TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.3.1. Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội
Cũng như tình tiết phạm tội nhiều lần, tình tiết phạm nhiều tội chưa
nhận được sự điều chỉnh chính thức bằng một quy phạm riêng biệt nào trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Thuật ngữ "phạm nhiều tội" chỉ được đề cập đến
trong tên gọi của một điều luật "Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm
nhiều tội" (Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1985 trước đây và Điều 50 Bộ luật
Hình sự năm 1999 hiện hành).

21


Vì vậy, để phân biệt hai tình tiết này chúng ta có thể dựa vào các khái
niệm, các đặc điểm của nó dưới góc độ khoa học luật hình sự.
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên mà những
tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản
của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời
đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử.
Phạm nhiều tội là phạm tội từ hai lần trở lên hoặc khi hành
vi của người phạm tội có dấu hiệu của từ hai tội trở lên mà những
tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc tại các khoản
khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác
nhau) trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy
vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và người phạm tội
chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy [7, tr. 396].

Từ hai khái niệm nói trên, có thể thấy đặc điểm duy nhất để phân biệt
hai tình tiết này là: số lần phạm tội từ hai lần trở lên nhưng ở tình tiết phạm
tội nhiều lần thì những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc một
khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng Bộ luật Hình sự, còn ở tình tiết
phạm nhiều tội thì những tội ấy được quy định tại các điều khác nhau (hoặc
tại các khoản khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm
khác nhau) trong Phần riêng của Bộ luật Hình sự.
Ví dụ: Khoảng 11 giờ ngày 27/10/2010, Nguyễn Quang Huy (không
có tiền án, tiền sự) đi xe máy Nouvo màu đen, không đeo biển kiểm soát trên
đường Thái Hà - Huỳnh Thúc Kháng tìm người có tài sản để cướp giật. Khoảng
12 giờ, Huy phát hiện chị Trần Thu Hoài, sinh năm 1970, trú tại Phòng 401
nhà 24T1 Trung Hòa, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội ngồi sau xe
máy ôm theo một túi xách để trước bụng. Huy liền bám theo để giật túi xách
của chị Hoài. Khi chị Hoài đi đến ngã tư Huỳnh Thúc Kháng với đường
Nguyên Hồng thì Huy áp sát bên phải xe của chị Hoài, dùng tay trái giật lấy

22


chiếc túi xách của chị Hoài rồi nhanh chóng tẩu thoát. Sau đó, Huy lục túi
xách thấy có 12 triệu đồng, một số giấy tờ mang tên chị Hoài và một điện
thoại di động Nokia 6500 màu đen. Quá trình bắt giữ Huy cơ quan điều tra đã
thu giữ được chiếc máy điện thoại di động tang vật nêu trên và thu giữ trong
người Huy một gói nilon đựng chất bột màu trắng. Huy khai là chất heroin (đã
được cơ quan giám định xác định đó là chất ma túy: hêroin, trọng lượng 0,416g).
Huy khai nhận về nguồn gốc chất ma túy như sau: khoảng 10 giờ ngày
3/11/2010, Huy mua một gói nhỏ heroin từ Trần Anh Tuấn trên phố Lò Đúc Hà Nội với giá 400.000 (bốn trăm nghìn đồng). Huy đã sử dụng một ít hêroin,
số còn lại cất trong người cho đến khi bị bắt giữ. Huy đã mua của Tuấn 04 lần
vào các thời điểm khác nhau với số lượng như trên.
Có thể thấy rằng: Huy đã thực hiện hai lần hành vi nguy hiểm cho xã

hội bị luật hình sự cấm là hành vi cướp giật tài sản (Huy không dùng vũ lực
mà chỉ nhanh chóng cướp tài sản rồi tẩu thoát nên hành vi của Huy cấu thành
tội cướp giật tài sản) và hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Hai hành vi
nói trên của Huy cấu thành hai tội là tội cướp giật tài sản theo Điều 136 Bộ
luật Hình sự năm 1999 và tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 Bộ
luật Hình sự. Như vậy, trường hợp phạm tội của đối tượng Huy chính là
trường hợp phạm nhiều tội tức là Huy đã phạm hai tội mà những tội ấy được
quy định tại các điều khác nhau (Điều 136 và Điều 194) trong Phần riêng Bộ
luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và Huy chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.
Bên cạnh đó, do nhiều lần Huy thực hiện hành vi mua bán trái phép
chất ma túy nên Huy sẽ bị truy tố theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình
sự năm 1999 với tình tiết tăng nặng định khung phạm tội nhiều lần. Bởi vì
Huy đã bốn lần phạm tội mua bán trái phép chất ma túy mà những tội ấy
được quy định tại cùng một điều (Điều 194) tương ứng trong Phần riêng Bộ
luật Hình sự, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự và Huy vẫn chưa bị xét xử.

23


1.3.2. Phạm tội nhiều lần và tội liên tục
Hai tình tiết phạm tội nhiều lần và tội liên tục nếu xét về thuật ngữ
"nhiều lần" và thuật ngữ "liên tục" ta thấy chúng dường như là tương đồng
nhưng thực ra về bản chất là rất khác nhau. Có thể hiểu tội liên tục là khi tội
phạm được hình thành từ một loạt hành vi nguy hiểm cho xã hội giống nhau,
mà các hành vi đó có cùng một mục đích chung, được thực hiện với một ý
định phạm tội thống nhất, cùng xâm hại đến một khách thể và trong sự tổng
hợp của những hành vi đó thì cấu thành một tội độc lập [7, tr. 389].
Như vậy, tội liên tục cũng là tội được hình thành từ nhiều hành vi nguy

hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, nhưng khác với phạm tội nhiều lần một
loạt hành vi nguy hiểm của tội liên tục mới cấu thành nên một tội vì mỗi hành
vi chưa đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập, còn với tình tiết
phạm tội nhiều lần thì hành vi nguy hiểm cho xã hội trong mỗi lần thực hiện
bao giờ cũng có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm độc lập. Mặt
khác, xét về hậu quả cũng như thiệt hại cho xã hội do hành vi gây ra thì phạm
tội nhiều lần gây ra thiệt hại lớn hơn rất nhiều so với tội liên tục. Về mức độ
trách nhiệm hình sự, phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm
hình sự còn phạm tội liên tục chỉ để chỉ tội đó do một loạt hành vi cấu thành
nên nó chỉ là tình tiết định tội mà thôi.
Ví dụ: Chị Nguyễn Thị Lưu sinh 1976 kết hôn với Nguyễn Văn Doanh
sinh 1975, trú tại thôn Đạo Thượng, Tân Hưng, Sóc Sơn, Hà Nội. Cuộc hôn
nhân kéo dài 15 năm, hai người đã có hai mặt con. Thế nhưng chị Lưu thường
xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ dã man. Từ cán cuốc, đòn gánh, mũ cối, dây
cu roa... đến tuýp nước, tất cả những vật dụng Doanh vớ được đều trở thành
hung khí hành hạ vợ. Nhiều lần, chị Lưu phải đi cấp cứu tại trạm xá do những
trận đòn của chồng. Người phụ nữ lam lũ sống ở làng quê vẫn cắn răng chịu
đựng cảnh bị chồng hành hạ nhiều năm mà không dám giải thoát cho mình.
Ngày 31/5/2009, chị gái của Doanh bị ốm có nhờ chị Lưu đến gặt lúa
hộ. Chị Lưu đến làm và còn biếu chị gái của Doanh 200 ngàn đồng để bồi

24


dưỡng, thuốc men. Khi về nhà, chị thật thà kể cho chồng nghe thì liền bị
Doanh chửi mắng vì đã đi gặt hộ lại còn cho những 200 nghìn đồng.
Sau khi dùng dây cu roa trói vợ và mặc sức đánh đập tàn nhẫn, được
người hàng xóm can ngăn thì Doanh mới chịu thả vợ ra. Người chồng vũ phu
này bắt vợ phải cùng lên nhà bố mẹ vợ để kể tội. Trước mặt mọi người trong
gia đình nhà vợ, Doanh ra sức thóa mạ vợ mình. Sau đó, hai vợ chồng lại dắt

nhau về nhà.
Khoảng 23h cùng ngày, gia đình chị Lưu chưa hết tâm trạng lo lắng
chị sẽ tiếp tục bị Doanh hành hạ khi về tới nhà thì nhận tin dữ chị Lưu chết vì
tự tử bằng bả chó.
Trước khi chết, lá thư của chị Nguyễn Thị Lưu (thôn Đạo Thượng, xã
Tân Hưng, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) gửi đến các cơ quan chức năng ngày
7/6/2007 với những lời lẽ thống thiết: "Tôi không hiểu tại sao gần đây chồng
tôi lại hay đánh đập, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, thể xác của tôi bằng
những hành động quá tàn bạo".
Chị Lưu tố cáo anh Nguyễn Văn Doanh, chồng chị, đã có những hành
vi bạo hành tàn bạo như sau:
Lần 1, khi đi chăn vịt, anh Doanh đã ném mũ cối vào mặt chị Lưu rồi
đấm đá túi bụi.
Lần 2, anh Doanh cầm chuôi cuốc thúc mạnh vào cổ chị Lưu khiến chị
phải đi viện. Lần thứ 3, chỉ vì thời tiết mưa bão nhiều khiến lúa bị bọ dầy phá
hoại, anh Doanh đổ lỗi cho chị Lưu làm hỏng lúa và đã đi mua xăng về đốt
lúa rồi lấy dây cô loa đánh túi bụi vào người chị Lưu ở bờ ruộng.
Vào khoảng tháng 4/2004, do ghen tuông, Doanh đã chửi mắng chị
Lưu vì khi chị Lưu đi bán hoa quả ở chợ đã có một thanh niên đến mua hoa
quả và bắt tay chị. "Những lời nhiếc móc, những trận đòn phũ phàng, những
sự tra tấn tàn bạo có thể ập đến với tôi bất cứ lúc nào khiến tôi luôn sống
trong tâm trạng sợ hãi giữa sự sống và cái chết. Nửa đêm, anh ta bắt tôi ngồi

25


×