LUẬN VĂN:
Những tác động của Quốc tế Cộng
sản đến Cách mạng Việt Nam
I. phần mở đầu
yêu cầu khách quan cần tìm hiểu những tác động của quốc tế cộng sản đến cách
mạng nước ta
Trong môn học Quan hệ quốc tế, dành cho các học viên hệ Cao học Chính trị học
thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm, cần tìm hiểu sâu rộng. Song, do đặc trưng và
phương pháp tiếp cận của chuyên ngành quy định, trong Tiểu luận này, chúng tôi chỉ đề
cập đến một vấn đề quan trọng, dù đã thuộc về quá khứ, nhưng vẫn nguyên những giá trị
thời sự chính trị - xã hội, nếu đặt trong mối quan hệ mọi cuộc cách mạng trong thế giới
hiện đại đều phối thuộc, tác động sâu sắc lẫn nhau. Đó là vấn đề: "những tác động của
quốc tế cộng sản đến cách mạng Việt Nam".
Tìm hiểu mối quan hệ này là một yêu cầu khách quan. Bởi, có nhiều lý do. Thứ
nhất, trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong giai đoạn đầu, sự
ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đối với Cách mạng nước ta là sâu sắc. Là học viên Cao
học thuộc một trong những chuyên ngành về Khoa học - Chính trị, dĩ nhiên phải tìm hiểu,
nghiên cứu. Thứ hai, thực tế lịch sử - cụ thể của mối quan hệ ấy đã cho chúng ta nhiều
bài học, kinh nghiệm quý, từ đó cho phép chúng ta vừa thẩm định lại lịch sử cách mạng
Việt Nam với tư cách là một bộ phận của cách mạng thế giới; vừa góp phần định hướng
chúng ta trong tương lai, nếu cũng đặt trong mối quan hệ tương tự. Thứ ba, nhờ sự
nghiệp Đổi mới của đất nước ta ngày càng đi lên vững chắc, bước đầu đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa sâu sắc, ảnh hưởng tích cực của Cách mạng Việt Nam đối
với tiến trình Cách mạng thế giới hiện đại tiếp tục được giữ vững và nâng cao. Hơn lúc
nào hết, chúng ta lại thấy ra mối quan hệ giữa Cách mạng thế giới đối với Cách mạng
Việt Nam (và ngược lại). Do đó, nếu làm sáng tỏ hơn mối quan hệ giữa Quốc tế Cộng sản
đối với Cách mạng Việt Nam, thì lịch sử lại tiếp tục giúp cho chúng ta nhiều phương
pháp, cách thức tạo dựng, xây đắp các mối quan hệ quốc tế trong quá trình phát triển,
trước mắt là tập trung vào mục tiêu lớn "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
Bởi các lý do trên, tìm hiểu " Những tác động của Quốc tế Cộng sản đến Cách
mạng Việt Nam " đã và đang trở thành một nhu cầu bức thiết và có ý nghĩa thiết thực.
Trong Tiểu luận này, sau khi điểm lược qua quá trình ra đời, hoạt động và những đặc
điểm nổi bật của Quốc tế Cộng sản, chúng tôi sẽ phân tích, luận giải Mối quan hệ này từ
góc nhìn Chính trị học. Dĩ nhiên, do thời gian hạn chế và tư liệu chưa đa dạng, chắc Tiểu
luận chỉ phác thảo được những nét cơ bản của vấn đề. Hướng khai thác chủ yếu của
chúng tôi là cố gắng thông qua lịch sử - cách mạng, để luận giải thêm một số điểm trong
bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay.
II. phần nội dung
Chương 1
quá trình ra đời, hoạt động và những đặc điểm
nổi bật của quốc tế cộng sản
Như chúng ta biết, cụm từ "Quốc tế Cộng sản" chính là để chỉ, biểu thị tổ chức
"Quốc tế III" - một tổ chức quốc tế của những người cộng sản trên toàn thế giới, đã tồn
tại từ năm 1919 đến năm 1943, với tư cách là "Hiệp sĩ của các dân tộc bị áp bức", giúp đỡ
phong trào công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thế giới và trực tiếp hỗ trợ các
chính đảng vô sản ở các nước thuộc địa.
Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu -
lịch sử giai cấp vô sản và các dân tộc bộ áp bức trên toàn thế giới phải đoàn kết lại, tập
hợp trong một tổ chức thống nhất, để chống kẻ thù chung là giai cấp tư sản, các thế lực đế
quốc và thực dân.
Trước khi đề cập về sự xuất hiện của Quốc tế Cộng sản (tức Quốc tế III), cũng vẫn
nhắc lại đôi nét về quá khứ của cách mạng vô sản thế giới, nhất là nói về các tổ chức
cộng sản quốc tế trước Quốc tế Cộng sản. Chủ nghĩa Mác thật sự định hình vững chắc,
trở thành "bóng ma ám ảnh châu Âu và toàn nhân loại" (!) bắt đầu từ 1848, khi mà Tuy
ngôn Cộng sản của K.Mác và ăng-ghen ra đời. Sau đó không lâu để biến lý tưởng cao
đẹp của mình thành hiện thực, Mác và ăng-ghen đã nhanh chóng thành lập tổ chức Liên
minh Công nhân quốc tế, về sau được gọi là Quốc tế I, nhằm tập hợp, đoàn kết giai cấp
vô sản trên toàn thế giới, trước hết là ở châu Âu. Tổ chức này tồn tại được 8 năm, từ 1864
đến 1872. Sau Công xã Pari 1871 khoảng một năm, do bị kẻ thù đàn áp, tổ chức này đã
phải tự giải tán. Dù tồn tại không lâu, nhưng Quốc tế I đã đóng vai trò lịch sử tích cực,
tuyên truyền Học thuyết của K.Mác và ăng-ghen vào Phong trào công nhân, làm cho giai
cấp công nhân ý thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình trước vận mệnh tất yếu phải
đi lên của nhân loại. Tiếp đó sau khi K.Mác qua đời, ăng-ghen nhận thấy cần đưa Học
thuyết Mác vào đời sống nhanh hơn, nhất là đặt trong bối cảnh lúc đó đã xuất hiện một số
chính đảng của giai cấp công nhân ở một loạt nước tư bản phát triển, nên ông đã lập ra
Quốc tế II. Đó là tổ chức Liên minh quốc tế các Đảng Xã hội chủ nghĩa. Được thành lập
năm 1889 và giải thể vào cuối năm 1914, khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bộc phát,
cuốn hàng loạt dân tộc châu Âu vào biển máu, do dã tâm phân chia lại thuộc địa của giai
cấp tư sản. Trong quá trình tồn tại 1/4 thế kỷ ấy, tổ chức Quốc tế II này có hai giai đoạn.
Giai đoạn đầu, từ 1889 đến 1895, do ăng-ghen còn sống, trực tiếp lãnh đạo - chỉ đạo, nên
Liên minh này hoạt động khá hiệu quả, đúng hướng và có ảnh hưởng sâu rộng trong sự
phát triển của các phong trào cách mạng ở châu Âu. Nhưng, đáng tiếc, sau khi ăng-ghen
qua đời, thì Quốc tế II phân loại sâu sắc, chia thành 3 nhóm - phái chính. Bao gồm: Phái
hữu, do E.Bestanh đại diện, cố tình xuyên tạc Học thuyết Mác - ăng-ghen, lái phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đi theo hướng cải lương - dân chủ phi XHCN. Phái giữa
do K.Causky chủ xướng, nhân danh truyền bá Học thuyết Mác - ăng-ghen, nhưng thực
chất là xuyên tạc, bóp méo Học thuyết khoa học, tiến bộ này và đưa thêm vào học thuyết
những luận điểm giả dối, nguỵ biện. Phái chân chính Mác-xít do V.I.Lê-nin, một số
những lãnh tụ cộng sản chân chính khác trong Đảng Bôn-sơ-vích Nga lãnh đạo và có mối
liên hệ mật thiết với nhiều tổ chức cộng sản, lực lượng cánh tả trong phong trào cộng sản
và công nhân Tây Âu. Phái chân chính này đã kiên trì đấu tranh bền bỉ, không khoan
nhượng trên mặt trận tư tưởng - lý luận, kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét
lại; nhằm bảo vệ, phát triển sáng tạo Học thuyết Mác, chuẩn bị tập hợp hội họp để thành
lập Quốc tế Cộng sản.
Tháng 10-1917, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lê-nin và các lãnh tụ trong Đảng Cộng
sản Bôn-sơ-vích Nga, Cách mạng XHCN ở đất nước này thắng lợi, chặt đứt "mắt xích"
yếu nhất trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, được lịch sử phát triển của cách mạng thế giới
và sự phát triển của loài người sang bước ngoặt thời đại mới: Quá trình đi lên CNXH,
CNCS. Nối tiếp những ý tưởng lớn của K.Mác và F.ăng-ghen, đặt trong bối cảnh thuận
lợi, V.Lê-nin đã nghĩ ngay đến việc phải nhất thiết thành lập sớm Quốc tế III, tức là Quốc
tế Cộng sản. Sau khi chuẩn bị kỹ về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày
1/3/1919, tại Mát-xcơ-va (Nga), Lênin đã chủ trì họp, để chuẩn bị về mọi mặt cho
Chương trình làm việc của Hội nghị quốc tế những người cộng sản và công nhân trên
toàn thế giới, nhằm thành lập Quốc tế Cộng sản.
Khác với các Hội nghị thành lập Quốc tế I và Quốc tế II, Hội nghị thành lập Quốc
tế Cộng sản bắt đầu diễn ra vào chiều ngày 2/3/1919, lần đầu đã có đại biểu một số nước
phương Đông, đại diện cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa. Tham gia Đại biểu
của các đảng cộng sản và các tổ chức cách mạng của 30 nước có mặt trong Hội nghị
thành lập này, đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, như Cương lĩnh của Quốc tế
Cộng sản, Luận cương và Báo cáo về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản, Tuyên ngôn
của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản toàn thế giới. Quyết định thành lập Quốc
tế Cộng sản (ngày 4/3/1919) ghi rõ: "Hội nghị cộng sản quốc tế quyết định thành lập
Quốc tế III và thông qua tên gọi là Quốc tế Cộng sản ( ). Tất cả các Đảng, các tổ chức
và các nhóm trong thời gian 8 tháng có quyền tuyên bố dứt khoát về việc tham gia vào
Quốc tế III"
Quốc tế Cộng sản đã tồn tại 24 năm 2 tháng 11 ngày (tính từ ngày thành lập
4/3/1919 đến khi tuyên bố tự giải thể vào ngày 15/5/1943) và trải qua 7 kỳ Đại hội. Đại
hội I, từ ngày 2 đến ngày 6/3/1919. Đại hội II, từ ngày 19/7 đến ngày 7/8/1920. Đại hội
III, từ ngày 22/6 đến ngày 12/7/1921. Đại hội IV, từ ngày 5/11 đến ngày 5/12/1922. Từ
Đại hội V khoảng cách giữa các kỳ Đại hội doãng xa dần. Đại hội V, từ ngày 17/6 đến
ngày 8/7/1924. Đại hội VI, từ ngày 17/7 đến 1/9/1928. Đại hội VIII, từ ngày 25/7 đến
20/8/1935. Đây là Đại hội cuối cùng.
Quốc tế III (tức Quốc tế Cộng sản) đã để lại những dấu ấn - đặc điểm nổi bật. Một
là, Quốc tế Cộng sản đã trở thành một tổ chức quốc tế rộng lớn hơn so với các tổ chức
tương tự trước nó và có sự tham gia của các tổ chức, các đảng cộng sản và công nhân ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc vào công việc chung của phong trào cộng sản, công
nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nếu trong Quốc tế I và Quốc tế II
chỉ có các đảng công nhân (hoặc XHCN), các tổ chức cộng sản trong các nước tư bản
chính quốc; thì chính nhờ điểm mới này, mà Quốc tế Cộng sản đã khác cả về chất và
lượng so với trước. Hai là, Quốc tế Cộng sản ra đời trong bối cảnh lịch sử mới, đã có một
nước Nga Xô-viết; tức là đã có một hình mẫu thực tế của Học thuyết Mác-Lênin và do
đó, làm cho Quốc tế Cộng sản có sức mạnh tiềm ẩn lớn hơn, cuốn hút phong trào cách
mạng thế giới. Ba là, lần đầu trong lịch sử, vấn đề dân tộc - thuộc địa trở thành một trong
những vấn đề trung tâm được sự quan tâm chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng
sản coi cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cuộc cách mạng
vô sản trên hpạm vi toàn cầu. Thậm chí, Quốc tế Cộng sản xem đó như là điều kiện tiên
quyết để được gia nhập Quốc tế Cộng sản, khi yêu cầu các chính đảng, các tổ chức cách
mạng trên thế giới phải thừa nhận và giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong quá trình đấu
tranh giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Điều này thể hiện đậm nét
trong "Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" được
V.I.Lê-nin dự thảo và được Đại hội II Quốc tế Cộng sản thông qua năm 1920. Đó cũng là
khi câu khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại" của Mác và ăng-ghen đề ra trước
đó, đã được bổ sung thành "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết
lại" Bốn là, trong quá trình tồn tại, Quốc tế Cộng sản đã đề ra và định hướng cho các
đảng cộng sản và công nhân vận dụng Học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân. Quốc tế Cộng sản đã
tập hợp, liên kết phong trào cộng sản và công nhân chống chủ nghĩa phát-xít, ngăn chặn
nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Năm là, Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ các dân tộc thuộc địa
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân, dẫn đến thành lập nhiều
Đảng Cộng sản trên các châu lục. Đến Đại hội VII (19350 đã có 75 Đảng Cộng sản và
các tổ chức cách mạng trên thế giới tham gia vào Quốc tế Cộng sản. Sáu là, trong mối
quan hệ với cách mạng Việt Nam, trong 7 kỳ Đại hội; những người cách mạng Việt Nam
- với tư cách là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương
- đã tham gia 3 kỳ Đại hội của Quốc tế Cộng sản (ở các Đại hội V (1924); Đại hội VI
(1928) và Đại hội VII vào năm 1935). Trong đó, Nguyễn ái Quốc và Lê Hồng Phong,
bằng tài năng của chính mình, đã nổi bật dần lên giữa chính trường chính trị vô sản thế
giới, chứng minh thêm năng lực xuất chúng trên cương vị chính trị - xã hội là các lãnh tụ
của Đảng ta. Đáng chú ý thêm là ở Đại hội VII, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tham dự
với tư cách là một độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Và, trong số 46 uỷ viên chính
thức được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản đại diện cho 23 nước
trên thế giới; thì Lê Hồng Phong là một trong hai uỷ viên chính thức của các nước thuộc
địa (cùng với một đại biểu khác của Palextin).
Chương 2
vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong
Quốc tế Cộng sản
Trong Quốc tế I và Quốc tế II, do tầm nhìn hạn chế, có tính lịch sử - cụ thể, chỉ
nhận ra vai trò của các Đảng Cộng sản, các tổ chức cách mạng khác ở các nước tư bản
phát triển - chính quốc, nên chưa hề có vai trò của các Đảng Cộng sản, các tổ chức cách
mạng ở các nước thuộc địa - phụ thuộc. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã khắc phục
được nhận thức phiến diện ấy trong quá khứ và xác định đúng đắn vấn đề dân tộc, thuộc
địa; nhấn mạnh cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách
mạng vô sản thế giới (bắt đầu từ Đại hội lần thứ II). Luận điểm này, vấn đề này có ý
nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc nói
chung; mà đặc biệt có ý nghĩa thức tỉnh, định hướng đối với cách mạng Việt Nam. Qua
đó, cũng đã chỉ ra mối liên hệ tất yếu, bên trong của các bộ phận cấu thành nên cách
mạng vô sản toàn thế giới. Khách quan, còn biểu hiện và thể hiện được sức mạnh nội lực
bước đầu của cách mạng vô sản thế giới trước các thế lực thù địch của giai cấp tư sản, bắt
buộc chúng thực hiện sự áp bức, bóc lột ở đâu trên trái đất này.
Vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản còn cho thấy đây là
một quá trình đấu tranh lâu dài, để đạt được đường lối đúng đắn. Sau khi V.I.Lênin qua
đời, do nhận thức lệch lạc và có cả sự trì kéo của nhận thức kiểu cũ, một số nhân vật chủ
chốt trong Quốc tế Cộng sản đã cố gắng xác lập quan điểm tả khuynh, cho rằng nhất thiết
phải đánh đổ giai cấp phong kiến trước và luận giải về giai cấp phong kiến theo kiểu quy
nạp "cả gói" rất giáo điều. Tại Đại hội V (1924), đấu tranh gay gắt trong nội bộ Quốc tế
Cộng sản đã diễn ra. Đại biểu Đảng ta là đồng chí Nguyễn ái Quốc đã phát biểu rất thẳng
thắn, ba lần đòi hỏi các Đảng Cộng sản lớn trên thế giới phải chú ý đến và giúp đỡ thiết
thực cho các Đảng Cộng sản tại thuộc địa. Người còn cho rằng, để tập hợp lực lượng
cách mạng, thì có thể liên kết cả với trung, tiểu địa chủ, tiểu tư sản, tư sản dân tộc yêu
nước. Và, khẳng định rằng, trong "phương thức sản xuất á Đông", đặc điểm xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến Việt Nam có sự phân hoá giai cấp không rõ nét, không sâu sắc như
các dân tộc phương Tây tư bản chủ nghĩa. Tuy bị chụp mũ là "hữu khuynh", nhưng chính
những ý kiến xác đáng, đúng đắn, thể hiện "nẩy lửa" đó của Người, đã góp phần dẫn đến
những sự kiện quan trọng về sau. Dù tại Đại hội VI (1928), vấn đề dân tộc và thuộc địa
đã được Quốc tế Cộng sản nâng lên, thảo luận thành chiến lược, sách lược của cách mạng
vô sản thế giới; Khẳng định cách mạng thuộc địa chống phong kiến là "rường cột" của
cách mạng thuộc địa; nhưng Quốc tế Cộng sản vẫn không hiểu hết những luận điểm
"vượt trước thời đại" của Nguyễn ái Quốc và do vậy đã chỉ đạo không phù hợp đối với
cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam. Phải đến Đại hội VII (1935), tư tưởng
"Tả khuynh" trên của Quốc tế Cộng sản mới được khắc phục, điều chỉnh một bước. Bằng
chứng là vào lúc đó, Quốc tế Cộng sản đã tạm gác lại việc đánh đổ phong kiến đòi lại
ruộng đất, giải phóng dân tộc; mà tập trung mọi thực lực để chống chủ nghĩa phát-xít và
nguy cơ chiến tranh thế giới II, mở rộng các hình thức Mặt trận, đòi quyền lợi dân sinh,
dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
ở Việt Nam, Đảng ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Tổng Bí thư Hà Huy Tập,
Nguyễn Văn Cừ, đã sáng tạo ra hình thức Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tập hợp được
đông đảo quần chúng, tiến hành cách mạng sâu rộng trong cả nước, giành được nhiều
thắng lợi có ý nghĩa và phát triển thêm uy thế, uy lực của Đảng ta. Đó còn là sự đóng góp
có ý nghĩa về mặt lý luận đối với Cách mạng vô sản thế giới.
Tóm lại, vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản không chỉ có ý
nghĩa là vấn đề lý luận trong nội bộ tổ chức này; mà còn có tác dụng tích cực và thiết
thực đối với Cách mạng Việt Nam
Chương 3
những tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đến cách mạng Việt Nam
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã có những đóng góp to lớn đối với tiến trình phát
triển buổi đầu của Cách mạng Việt Nam. Chí ít, sự tác động tích cực này được thể hiện
trên 5 điểm chủ yếu, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày tiếp dưới đây.
Thứ nhất, việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng vấn đề dân tộc - thuộc địa đã định
hướng sáng tỏ cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Như
ở các chương trên đã phần nào đề cập, việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng vấn đề dân
tộc, thuộc địa; bổ sung khẩu hiệu của K.Mác và F.ăng-ghen đề ra trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"; thông qua
Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do V.Lê-nin khởi
thảo và các "Điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản"; coi cách mạng giải phóng dân tộc là
một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản tại Đại hội làn thứ II của Quốc tế
Cộng sản đã có một ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng toàn thế giới, đặc biệt
có ý nghĩa dẫn đường, định hướng, thức tỉnh đối với Cách mạng Việt Nam - nhất là đặt
trong bối cảnh lúc đó ở nước ta có rất nhiều xu hướng cách mạng, nhiều học thuyết cách
mạng tràn vào và thực tiễn cách mạng thì vẫn trong trạng thái "bế tắc như không có
đường ra".
Trước khi Quốc tế Cộng sản thành lập (1919), phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam đã phát triển mạnh. Hàng loạt nhân sĩ, trí thức; nhiều sĩ phu phong kiến
yêu nước đã anh dũng, mưu lược tập hợp lực lượng trong nước đứng lên đấu tranh chống
Pháp; hoặc cố đi ra nước ngoài "cầu viện", tìm cách chống lại chúng và bè lũ tay sai.
Cùng lúc, ở Việt Nam, có cả ba xu hướng cách mạng cùng tồn tại. Đó là cách mạng theo
con đường quân chủ lập hiến; Cách mạng theo con đường dân chủ tư sản và cách mạng
theo con đường vô sản. Song, cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường nào là
"chân chính nhất, cách mạng nhất, chắc chắn nhất" thì chưa được xác định rõ. Trong khi
đó, hằng ngày lại phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn, có kinh nghiệm xâm lược và thống trị,
có tiềm lực kinh tế, quân sự và cả sự liên kết quốc tế của các thế lực đế quốc, thực dân.
Việc tranh giành ảnh hưởng về đường lối như thế, tất nhiên sẽ dẫn đến sự chia rẽ, phân rã
và cuối cùng các phong trào cách mạng này hầu hết đều bị kẻ thù dìm trong biển máu, thất
bại cay đắng, dù có thừa ý chí nhiệt huyết yêu nước và hành động dũng cảm, bất khuất.
Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc - thuộc địa; vấn đề tăng cường lãnh
đạo- chỉ đạo, giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính quốc với cách
mạng thuộc địa là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, nằm ở vị trí trung tâm
chú ý của Quốc tế Cộng sản đã định hướng cho các lực lượng yêu nước và Cách mạng
Việt Nam; giúp họ đoàn kết lại với nhau, để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc Việt Nam, thoát khỏi những lệch lạc trước đó. Người có vai trò lịch sử nghiên cứu kỹ
những văn kiện cơ bản và tư tưởng chỉ đạo nói trên của Quốc tế Cộng sản là Nguyễn ái
Quốc - Hồ Chí Minh. Và, chính Người, bằng Thiên tài chính trị của mình, đã sớm nhận
ra tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa,
xem đó là "chiếc cẩm nang thần kỳ", là "con đường" để giải phóng "hoàn toàn" dân tộc
Việt Nam ta, phá vỡ sự bế tắc lịch sử đường thời mở đường đi tới thắng lợi ngày càng to
lớn hơn cho Cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để
truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, từ đó thành lập được Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam. Ai cũng biết, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản là cực kỳ quan trọng, là nền tảng bước đầu cho mọi thắng lợi.
Song, chưa đủ! Để biến đường lối đó thành hiện thực, phải trải qua công tác tổ chức thực
hiện lâu dài, phải có những điều kiện, bước đi, biện pháp cụ thể. Quốc tế Cộng sản đã tạo
ra môi trường hoạt động quốc tế thuận lợi giúp đỡ Nguyễn ái Quốc và những người yêu
nước Việt Nam trong việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và
phong trào yêu nước, nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng, các
phong trào, tạo diễn đàn đấu tranh để các đảng cộng sản ở chính quốc quan tâm đúng
mức đến việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa. Quốc tế Cộng sản đã giao nhiệm vụ cho các
Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu,
chuyển tài liệu về Việt Nam. Tổ chức nhiều lớp học ở Trường Đại học phương Đông và
các lớp ở Quảng Châu để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho phong trào. Chính nhờ sự giúp
đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua các phân bộ của mình, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước v thông qua các phân bộ của mình, phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam có một bước chuyển biến căn bản từ tự phát sang tự giác, từ lẻ tẻ
rời rạc đi đến có tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930,
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng hiện đại Việt Nam.
Thiếu sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản hoặc trực tiếp hoặc thông qua các chi bộ của
mình Chủ nghĩa Mác - Lênin khó có thể được truyền bá vào phong trào cộng sản và công
nhân ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Những tác phẩm cơ bản nhất như
"Cộng sản sơ giải", "Bệnh ấu trĩ tả khuynh", "Hai sách lược của Đảng Công nhân Nga
trong cách mạng dân chủ tư sản", "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" khó có thể vượt qua
hàng rào kiểm soát của Chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhờ có việc thâm nhập lý luận Mác -
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, Cách mạng Việt Nam đã có
bước nhảy vọt về chất tạo ra những tiền đề cho việc chuẩn bị thành lập đảng mác-xít,
lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Thứ ba, Quốc tế Cộng sản đã tạo môi trường, điều kiện cho Nguyễn ái Quốc học
tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin, khảo sát thực tế để xây dựng và hoàn thiện lý
luận về con đường Cách mạng Việt Nam
Nhờ hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và trong
Quốc tế Cộng sản, nhờ tiếp thu tận gốc Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc đã có
một bước chuyển biến căn bản từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin vận
dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo Cách mạng
Việt Nam. Nhờ hoạt động trong Quốc tế Cộng sản với tư cách là uỷ viên đoàn Chủ tịch
Hội đồng nông dân quốc tế phụ trách nông dân các thuộc địa, phụ trách Cục phương Nam
trong Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã đi nghiên cứu thực tế
ở 28 nước của 4 châu lục, điều mà ngay cả K.Mác, Ph.ăng-ghen và V.I.Lênin sinh thời
cũng chưa thực hiện được. Chính từ tiếp thu lý luận và có thực tiễn nghiên cứu phong
trào cách mạng các nước để so sánh, để kiểm chức mà Nguyễn ái Quốc đã có những vượt
trội hơn tầm nhìn của nhiều chính khách đương thời trong đánh giá, sắp xếp lực lượng
các giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sách lược Mặt trận, trong đánh giá
xu thế vận động của lịch sử tiến hoá mà thực tiễn lịch sử hiện đại thế giới và Việt Nam đã
minh chứng tính đúng đắn của nó. Chắc chắn nếu không tiếp thu tận gốc Học thuyết Mác
- Lênin, nếu không có những cuộc khảo sát phong trào công nhân và nông dân khắp 4
châu lục, Nguyễn ái Quốc không thể có những chủ trương chiến lược và sách lược rất
sớm, hết sức đúng đắn khác với Quốc tế Cộng sản đề ra ở Đại hội VI năm 1928.
Thứ tư, Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Việt Nam nhiều cán bộ xuất sắc nắm giữ
các trọng trách cao trong Đảng và Quốc tế
Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và bồi dưỡng cho Cách mạng Việt Nam nhiều cán bộ
ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính của Cách mạng Việt Nam. Thông qua việc phân
công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế Cộng sản
(Trường Quốc tế Lênin, Trường Lao động Cộng sản Phương Đông) nhiều chiến sỹ cộng
sản Việt Nam đã trưởng thành trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: Hồ
Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v Nhờ
được đào tạo cơ bản và có hệ thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý
luận. Một số chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trở thành những "giáo sư đỏ" tham gia vào
việc đào tạo cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
- Trong 10 năm đầu thành lập Đảng, các chức vụ chủ chốt trong Đảng như Tổng
Bí thư, Bí thư các Xứ uỷ, Tỉnh uỷ hầu hết là do cán bộ được đào luyện từ Quốc tế Cộng
sản đảm đương. Chính vì vậy các chủ trương của Quốc tế Cộng sản được thực hiện có
hiệu quả ở Đông Dương. Nhờ đó cho dù lịch sử có những biến động, những đổi thay ở
mỗi giai đoạn cụ thể có thể khác nhau tác động đến sự cần thiết phải có sự điều chỉnh về
đường lối nhưng nhìn chung đường lối chiến lược và sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ
thời kỳ xây dựng Đảng là đúng đắn và chính xác. Điều đó có được chỉ có thể cắt nghĩa do
sự trưởng thành của cán bộ đảng viên Việt Nam được đào tạo trách nhiệm cao trong
Quốc tế Cộng sản. Nhiều đồng chí trở thành cán bộ giảng dạy lý luận của Quốc tế Cộng
sản. Theo số liệu mới nhát, chỉ trong thời gian 10 năm tồn tại của Trường Lao động Cộng
sản Phương Đông (1921-1931), Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Đảng ta gần 100 cán bộ
mà đại đa số các đồng chí này khi về nước nắm giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt của
Đảng, lãnh đạo phong trào cách mạng từ cấp trung ương đến các Xứ uỷ, Thành uỷ, Tỉnh
uỷ.
Thứ năm, Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo, uốn nắn và biểu dương kịp thời đối với
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Trong thời kỳ tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản thường xuyên chỉ đạo, uốn nắn
kịp thời những vấn đề thuộc về đường lối, những vấn đề về chiến lược và chỉ đạo chiến
lược dễ dẫn đến "tả" hoặc hữu khuynh trong thực hiện - một điều khó tránh khỏi với một
Đảng còn non trẻ. Quốc tế Cộng sản đã đúng đắn khi phê bình sự công kích lẫn nhau của
các tổ chức cộng sản và có chỉ thị cho Đảng về sự cần thiết phải hợp nhất Đảng theo
đúng nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản cũng phê bình những biểu hiện
"tả" khuynh trong Xô-viết Nghệ An và Xô-viết Hà Tĩnh cùng với một vài biểu hiện hữu
khuynh, cầu an, dao động sau thất bại của phong trào. Với thái độ Bôn-sơ-vích và tính
nhân đạo cộng sản, thái độ phê bình và chỉ trích, của Quốc tế Cộng sản là có tình có lý.
Quốc tế Cộng sản vẫn biểu dương mặt tốt và thấy rõ cả những sai lầm khó tránh khỏi của
mt Đảng còn trẻ tuổi. Thái độ này giúp cho những người cộng sản Việt Nam đứng vững
và vượt qua khó khăn trong những năm khủng bố trắng của thực dân Pháp.
Nhờ có Quốc tế Cộng sản những người cộng sản Việt Nam có điều kiện tập hợp
và kiểm điểm, đánh giá lại phong trào thời gian qua, xây dựng Chương trình hành động
năm 1932. Quốc tế Cộng sản chủ trương và chỉ đạo mở nhiều cuộc thảo luận về các vấn
đề cách mạng Đông Dương trong Quốc tế Cộng sản những năm từ 1931-1934 để chuẩn
bị cho các văn kiện chính trị và phục hồi Đảng ở Đại hội I. Nhờ có Quốc tế Cộng sản,
Đảng ta kịp thời chuyển hướng sang thời kỳ Mặt trận dân chủ và sáng tạo ra một hình
thức Mặt trận thích hợp ở Đông Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương mà không sa vào
hình thức Mặt trận nhân dân chống đế quốc nói chung. Sự tiếp thu đường lối Mặt trận của
đảng ta trong và sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 đã đánh dấu sự vượt
qua tư tưởng giai cấp chống giai cấp để chuyển sang sự kết hợp giai cấp - dân tộc trong
Cách mạng Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông Dương
trên toàn thế giới, giúp cho các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới có thể học tập từ
kinh nghiệm của phong trào Cách mạng Việt Nam. Cao trào 1930-1931 được Quốc tế
Cộng sản xem như là "những hình thức chủ yếu" của phong trào cách mạng dân tộc, đã
"giáng một đòn trực diện" vào hệ thống đế quốc chủ nghĩa, coi Xô-viết Nghệ -Tĩnh là
"thành tích đặc biệt to lớn". Quốc tế Cộng sản lưu ý các đảng cộng sản đặc biệt là Đảng
Cộng sản Pháp trong lĩnh vực công tác thuộc địa cần phải học tập nhiều ở các đồng chí
Đông Dương. Chính vì vậy từ một phân bộ dự bị trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp, tháng
4/1931 Quốc tế Cộng sản đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một
bộ phận dự bị trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Hàng chục bài báo được đăng trên Tạp chí
Quốc tế Cộng sản đưa tin về tình hình và diễn tiến của phong trào cách mạng Đông
Dương nhằm biểu dương phong trào, đúc rút kinh nghiệm hoạt động và kêu gọi sự đồng
tình giúp đỡ của cộng đồng cộng sản quốc tế với Việt Nam. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ
"Phải triệt để tìm mọi phương kế thực hiện việc giúp đỡ những người Cộng sản Đông
Dương chăm lo việc gây dựng lại cơ sở cho Đảng Cộng sản Đông Dương", chỉ cho
những người Cộng sản Đông Dương hiểu rõ đường lối của Quốc tế Cộng sản cùng những
phương pháp hoạt động khôn khéo để tập hợp lại thợ thuyền làm đội tiền phong cho cách
mạng Đông Dương. Sự hy sinh của Tổng Bí thư Trần Phú được Quốc tế Cộng sản đánh
giá là một tổn thất to lớn không gì bù đắp được của giai cấp vô sản Đông Dương mà còn
là một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản quốc tế.
Chính sự ủng hộ mạnh mẽ, sự đồng tình biểu dương Đảng Cộng sản Đông Dương
của Quốc tế Cộng sản mà nhiều Đảng, nhiều phong trào trên thế giới biết đến Đông
Dương, Việt Nam, kính trọng hoạt động của Đảng ta và Nguyễn ái Quốc. Quốc tế Cộng
sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành đội tiền phong của giai cấp vô
sản Đông Dương đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền,
dân cày và lao động nghèo khổ xứ Đông Dương, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc. Đó là biểu hiện của Đảng Bôn-sơ-vích, Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng
sản Đông Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội VII và bầu
đồng chí Lê Hồng Phong là uỷ viên chính thức và là một trong hai uỷ viên Ban Chấp
hành Quốc tế Cộng sản là người các nước thuộc địa.
Chương 4
một số hạn chế trong mối quan hệ giữa quốc tế
cộng sản với cách mạng Việt Nam
Mặc dù có những ảnh hưởng tích cực, quan trọng như đã nêu rõ ở chương 3, trong
quá trình tồn tại hoạt động và chỉ đạo của mình, Quốc tế Cộng sản cũng có một số ảnh
hưởng không thật tốt, thậm chí đôi khi là kìm hãm đối với Cách mạng Việt Nam. Đó là
những biểu hiện giáo điều trong đánh giá về giai cấp tư sản nói chung và giai cấp tư sản
dân tộc ở các thuộc địa nói riêng của Quốc tế Cộng sản ở Đại hội lần thứ VI (1928). Đây
thực chất là đường lối giai cấp chống giai cấp, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp tồn lưu
trong tư duy chính trị lúc bấy giờ của Quốc tế Cộng sản.
Từ chỗ nhận định về sự phản bội của giai cấp tư sản trên phạm vi toàn thế giới,
đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa đã phản bội lại lợi
ích của giai cấp công - nông, Quốc tế Cộng sản đã cho rằng giai cấp tư sản nói chung là
đối tượng phải đánh đổ. Đặt giữa bối cảnh của chủ nghĩa phát-xít đã xuất hiện, nguy cơ
chiến tranh thế giới do chúng gây ra đã đến gần, luận điểm "tả khuynh" này càng được
củng cố và đã chi phối hành động của các đảng vô sản. ở Việt Nam và Đông Dương, đặc
điểm ra đời và phân hoá trong giai cấp tư sản khác rất nhiều nước. Do vậy, khi phải thực
hiện chủ trương này của Quốc tế Cộng sản đã dẫn đến những biểu hiện "tả khuynh" trong
phong trào cách mạng vô sản ở nước ta, nhất là gây nên khó khăn trong tập hợp lực lượng
cách mạng. Khẩu hiệu "Trí, phú, địa, hào - đào tận gốc, trốc tận rễ" trong giai đoạn cuối
1930 đến 1936 và bị lặp lại trong giai đoạn 1953 - 1955; rơi rớt cả đến thời kỳ chống xâm
lược Mỹ là biểu hiện của tinh thần này. ở đây có bài học về hậu quả vận động các chủ
trương của Quốc tế Cộng sản không phù hợp với thực tế Việt Nam; bài học về sự giáo
điều, không chịu nghiên cứu - tổng kết thực tiễn - cụ thể. Thực ra, ở Việt Nam, tư sản dân
tộc có hai khuynh hướng; Hoặc cách mạng; hoặc cải lương. Cả hai khuynh hướng này
đều có tinh thần chống Pháp và những mức độ khác nhau, mà người lãnh đạo cách mạng
vô sản cần và nên tập hợp, để gia tăng sức mạnh lực lượng cách mạng nói chung và thể
hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Hơn nữa, quan điểm "Tả khuynh" dẫn đến nhận định
về nhiệm vụ chính của cách mạng giải phóng dân tộc là chống phong kiến thì càng không
đúng. Cốt lõi của cách mạng giải phóng dân tộc chống đế quốc như Nguyễn ái Quốc - Hồ
Chí Minh đã nêu ra trong Chính cương và Sách lược vắn tắt khi thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam 1930. Kinh nghiệm lịch sử cách mạng Việt Nam chỉ ra: Đánh giá đúng các giai
cấp, các tầng lớp, để có chủ trương lập Mặt trận rộng rãi là một thành công có tính nền
tảng và phương pháp luận - thực tiễn Cung chính từ điểm này, mà những người cộng
sản Đông Dương từng học ở Quốc tế Cộng sản về nước và cả những người lãnh đạo
Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ đã phê phán Nguyễn ái Quốc là "dân tộc" và "quốc gia cải
lương". Ngược lại, rất đúng đắn, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã chủ trương nêu cao
nhiệm vụ giải phóng dân tộc và lập Mặt trận có cả tư sản dân tộc, trung, tiểu địa chủ tham
gia trong cuộc kịch chiến với đế quốc Pháp. Và, do đó, đã mở đường cho mọi thắng lợi
của cách mạng nước ta.
Quốc tế Cộng sản tuy có nêu trong Cương lĩnh của mình, trong các chương trình
nghị sự rằng đặt vấn đề cách mạng thuộc địa là một trọng tâm; nhưng trên thực tế, chưa
coi trọng đúng mức mặt công tác này. Các Cương lĩnh, các chương trình còn nằm trên
giấy trong khi các phân bộ thuộc các nước chính quốc ít quan tâm giúp đỡ thuộc địa. Một
trong nhiều nguyên nhân là Quốc tế Cộng sản cho rằng cách mạng vô sản chính quốc
thắng lợi trước, mới giúp được cho cách mạng thuộc địa thắng lợi. Rõ ràng, Quốc tế
Cộng sản mới chỉ thấy mối liên hệ một chiều, sự chi phối của cách mạng vô sản chính
quốc đến cách mạng thuộc địa; mà chưa thấy mối quan hệ biện chứng, chiều ngược lại,
mà Nguyễn ái Quốc đã dự báo và vận dụng thành công. Tư tưởng này đã làm cho không
ít đảng cộng sản, công nhân ở các nước thụ động, ỷ lại, trông chờ vào Quốc tế Cộng sản.
Trong bối cảnh đấu tranh bảo vệ Học thuyết Mác - Lênin, sau thắng lợi của Cách
mạng tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản ra đời là một tổ chức quốc tế giúp cho các đảng
cộng sản các phong trào cách mạng là cần thiết. Nhưng là một tổ chức chính trị của các
đảng, do áp dụng cơ chế tập trung dân chủ một cách máy móc, trong khi phong trào cộng
sản, công nhân quốc tế có những diễn biến không giống nhau, việc nắm thông tin, hiểu
biết thực tiễn còn có nơi, có lúc bất cập nên không tránh khỏi có lúc cứng nhắc, chưa sát
thực tế. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và phong trào cách mạng Việt Nam cũng có
những biểu hiện khó tránh khỏi này. Việc Quốc tế Cộng sản chỉ thị đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, việc quyết định cử một số cán bộ vào
các chức vụ lãnh đạo trong cơ quan lãnh đạo của Đảng và việc phê bình Nguyễn ái Quốc
thời gian từ 1931-1938 có thể xem như là những hạn chế ảnh hưởng nhất định đến phong
trào cách mạng Đông Dương. Những hạn chế của Quốc tế Cộng sản với Cách mạng Việt
Nam là điều dễ hiểu và có những hoàn cảnh lịch sử cụ thể cần phải gắn vào bối cảnh lịch
sử để có sự đánh giá cho đúng đắn.
III. phần kết luận
ý nghĩa, bài học chính trị - thời sự khi nghiên cứu
về những tác động của quốc tế cộng sản
cách mạng nước ta
Thời gian càng lùi xa, càng cho phép chúng ta - những người cộng sản ở Việt
Nam, đang phấn đấu thực hiện lý tưởng cộng sản giữa thời kỳ Đổi mới - có cái nhìn toàn
diện hơn, chính xác hơn, để kiểm chứng, nhận thức đúng về vai trò của Quốc tế Cộng sản
trong những năm tồn tại của mình, nhất là hiểu rõ, hiểu đúng về ảnh hưởng của tổ chức
cộng sản quốc tế này đối với sự phát triển buổi đầu của Cách mạng Việt Nam.
Hoàn toàn có thể khẳng định: Mặc dù còn một số hạn chế, Quốc tế Cộng sản đã có
những đóng góp to lớn đối với phong trào cộng sản, công nhân và sự nghiệp giải phóng
dân tộc của các quốc gia, lãnh thổ bị áp bức trên toàn thế giới. Cách mạng Việt Nam cũng
đã tiếp nhận cả hai mặt tích cực và chưa hoàn thiện ấy; song dưới sự lãnh đạo của Đảng
ta, nhất là của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh vĩ đại, cách mạng nước ta đã nhanh
chóng thoát dần ra, giảm thiểu bớt những hạn chế và tranh thủ được mặt tích cực của
Quốc tế Cộng sản trong quá trình này. Bởi vậy, xét về ý nghĩa của vấn đề, chúng ta
không thể và càng không nên đặt vấn đề phủ nhận vai trò của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế
III) đối với Cách mạng Việt Nam.
Vấn đề đặt ra trong Tiểu luận này còn có giá trị như những bài học nóng hổi tính
thời sự - chính trị. Vì, sau sự suy thoái và sụp đổ của phe XHCN vào những năm 1984-
1991, mà thực chất là sụp đổ mô hình giáo điều về CNXH kiểu Liên Xô - Đông Âu,
nhiều thế lực thù địch đối với giai cấp vô sản, nhân dân lao động trên toàn thế giới đang
tìm cách lợi dụng thời cơ này, để tấn công quyết liệt vào các nước XHCN còn lại, vào các
Đảng Cộng sản ở nước đó. Đồng thời, chúng tìm cách truyền bá Hệ tư tưởng tư sản, phủ
nhận Học thuyết khoa học, chân chính, cách mạng Mác - Lênin, phủ nhận cả vai trò của
Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng, các chính đảng vô sản trong lịch sử. Do
đó, nghiên cứu sáng tỏ về mối quan hệ, sự tác động của Quốc tế Cộng sản đối với Cách
mạng Việt Nam không chỉ có ý nghĩa khảo đính lại lịch trình phát triển của cách mạng
thế giới, Cách mạng Việt Nam; mà còn cho phép rút ra nhiều bài học quý, những kinh
nghiệm đáng tham khảo, để uốn nắn đường hướng phát triển Cách mạng Việt Nam trong
tương lai. Đó là: Phải có sự độc lập - sáng tạo khi tiếp thu một cách có chọn lọc, phù hợp
với thực tiễn xã hội Việt Nam. Trước những luận điểm về đánh giá giai cấp, thực lực, lực
lượng của cách mạng; thì cũng cần phải có tầm nhìn chiến lược, cân nhắc thấu đáo và
tỉnh táo khắc phục nhanh khuyết điểm, lệch lạc, nếu đã lỡ nhận thức lệch lạc, giáo điều.
Mặt khác, trong Đổi mới, đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào môi trường
kinh tế và chính trị quốc tế; do vậy, từ trong mối quan hệ đang đề cập, chúng ta còn có
thể nhận ra những mặt mạnh và mặt yếu trong quá trình mới mẻ này. Nghĩa là, phải thận
trọng khi tiếp thu cái mới, bởi cái mới chưa hẳn đã tốt. Song, khi đã chắc chắn là tốt, thì
phải nhanh chóng vận dụng, chớp bắt thời cơ, nâng cao sức mạnh và tính hiệu quả. Đây
là vấn đề phương pháp luận - nhận thức có ý nghĩa thời sự - chính trị hiện nay đối với sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước ta
Vậy là, tuy vấn đề "Những tác động của Quốc tế Cộng sản đến Cách mạng Việt
Nam" không hẳn là một chuyên luận hoàn toàn mới; nhưng bằng quá trình tìm hiểu -
nghiên cứu nghiêm túc; chúng ta đã nâng cao thêm đáng kể những nhận thức về mối quan
hệ lịch sử - chính trị này.
Trong bối cảnh mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam -
đất nước ta đang nỗ lực vươn lên trên con đường xây dựng CNXH, nhanh chóng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, "đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển" như Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) đã xác định; thì chuyên luận này càng
có ý nghĩa sâu sắc và thiết thực, nhất là về mặt nhận thức luận đối với học viên hệ Cao
học Chính trị học đang gắn bó hằng ngày với thực tiễn Đổi mới của Cách mạng Việt
Nam.
mục lục
I. phần mở đầu
Trang
Yêu cầu khách quan cần tìm hiểu về những tác động của Quốc tế Cộng sản
đến sự phát triển của Cách mạng nước ta
II. Phần nội dung
Chương 1: Quá trình ra đời, hoạt động và những đặc điểm nổi bật của Quốc
tế Cộng sản
Chương 2: Vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản
Chương 3: Những tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đến Cách mạng
Việt Nam
Chương 4: Một số hạn chế trong mối quan hệ giữa Quốc tế Cộng sản với
Cách mạng Việt Nam
III. phần kết luận
ý nghĩa, bài học chính trị - thời sự khi nghiên cứu về những tác động của
Quốc tế Cộng sản đến Cách mạng nước ta