Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

LUẬN VĂN: Bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.27 KB, 106 trang )














LUẬN VĂN:

Bình đẳng giới trong lao động và
việc làm ở nông thôn tỉnh
Bình Phước hiện nay






MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bình đẳng giới một cách toàn diện, triệt để là lý tưởng mà nhân loại đã theo đuổi
hàng nhiều thế kỷ. Đầu thế kỷ XIX, nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng Pháp S.
Phuriê đã nhận định: trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo trình độ phát triển của xã hội.
Luận điểm này tiếp tục được khẳng định trong học thuyết Mác – Lênin ngay từ khi nó ra
đời và được phát triển ở trình độ mới cao hơn ở các giai đoạn tiếp theo. Những quan điểm


trên đã cổ vũ cho nhiều phong trào đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ, trở thành một
trong những mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới trước đây và cho
tới hiện nay. Chính vì vậy từ giữa những năm 1980 đến nay, bình đẳng giới là vấn đề thu
hút sự quan tâm của các nhà khoa học cũng như quản lý trên thế giới và lĩnh vực này đã đạt
được nhiều thành quả đáng khích lệ. Trên bình diện xã hội, phụ nữ ngày càng được thu hút
vào các hoạt động của xã hội, trong phạm vi gia đình, người phụ nữ cũng đã nhận được sự
chia sẻ trách nhiệm của nam giới. Tuy nhiên, sự phân biệt đối xử, tư tưởng trọng nam kinh
nữ, áp lực công việc gia đình, những định kiến có tính chất bất công đối với phụ nữ vẫn
đang tồn tại ở những mức độ khác nhau trong nhiều quốc gia, khu vực. Đặc biệt đối với các
nước đang phát triển thì khoảng cách bất bình đẳng giới đang còn khá lớn, hạn chế khả
năng đóng góp của mỗi giới vào sự phát triển nói chung làm ảnh hưởng tới sự phát triển
bền vững.
Ở Việt Nam, tư tưởng về bình đẳng giới đã có ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời và được thể hiện trong văn kiện đầu tiên của Đảng. Trong Chính cương vắn tắt của Đảng,
Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố thực hiện nguyên tắc “nam nữ bình quyền”. Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã khẳng định: phụ nữ và nam giới được bình đẳng
với nhau trên mọi phương diện. Hơn 70 năm qua, tư tưởng bình đẳng giới tiếp tục được Đảng,
Nhà nước tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện một cách triệt để. Nhờ vậy, vị trí, vai trò của
người phụ nữ Việt nam đã có những thay đổi cơ bản theo hướng ngày càng bình đẳng hơn với
nam giới. Theo báo cáo của Liên hiệp quốc, năm 2008, chỉ số phát triển con người (HDI) ở Việt


Nam khá cao, chiếm vị trí thứ 105 trong tổng số 177 nước. Bất bình đẳng giới về phát triển con
người càng lớn thì GDI (chỉ số phát triển giới) của nước đó càng thấp so với HDI. Ở Việt Nam,
giá trị GDI bằng 0,732 so với HDI là 0,733, (gần như nhau). Trong số 156 nước có hai giá trị
này, chỉ có 8 nước có tỷ số cao hơn Việt Nam [20, tr.1].
Phụ nữ Việt Nam nói chung, phụ nữ nông thôn nói riêng đã tham gia tích cực và có
đóng góp đáng kể trong chiến lược xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
Trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, việc hình
thành và phát triển nhiều thành phần kinh tế, việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa

nông nghiệp, nông thôn đã tạo ra những thuận lợi, mở ra những cơ hội cho sự phát triển của
lực lượng lao động nói chung, lao động nữ nói riêng, nhưng cũng đặt ra không ít khó khăn,
thách thức và yêu cầu mới đối với lực lượng này, làm cho khoảng cách bất bình đẳng giới
trong lao động và việc làm nông thôn có xu hướng gia tăng nhanh hơn so với ở thành thị. Do
vậy, thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm nói chung, ở nông thôn nói riêng
nhằm tạo điều kiện để phụ nữ được hưởng các quyền cơ bản của mình, tham gia và hưởng
thụ một cách bình đẳng và đầy đủ trong mọi khía cạnh của đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội đang trở thành mục tiêu được quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước hiện
nay.
Bình Phước là một tỉnh miền núi, thuộc một trong 6 tỉnh của khu vực Đông Nam bộ. Đến
nay, Bình Phước vẫn là một tỉnh nông nghiệp với cơ cấu kinh tế năm 2008: nông nghiệp 53,17%,
công nghiệp 21,14%, dịch vụ 25,69% . Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế cùng với sự hội nhập kinh tế thế giới đã tạo
cho nông thôn Bình Phước có bước khởi sắc. Cũng như nam giới, phụ nữ ở Bình Phước có nhiều
cơ hội tham gia xây dựng kinh tế làm giàu cho bản thân và gia đình. Tuy nhiên, lao động nữ ở
nông thôn tỉnh Bình Phước đang phải đối đầu với những thách thức mới, đó là lực lượng lao động
nữ nông thôn của tỉnh tăng lên không ngừng và luôn nhiều hơn lao động nam, trong khi việc làm
dành cho lao động nữ ở nông thôn của tỉnh lại hạn chế, khả năng cạnh tranh của họ trên thị trường
lao động yếu hơn nam giới. Thực tế cho thấy, vấn đề bình đẳng giới nói chung, bình đẳng giới
trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay vẫn còn là vấn đề cần quan tâm
giải quyết.


Từ những lý do nêu trên, với cương vị là một cán bộ công tác tại Hội Liên hiệp phụ
nữ tỉnh Bình Phước, học viên mạnh dạn lựa chọn đề tài Bình đẳng giới trong lao động và
việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay làm luận văn tốt nghiệp hệ cao học,
nhằm góp phần đề xuất một số giải pháp tăng cường bình đẳng giới trong lao động và việc
làm cho khu vực nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thúc đẩy bình đẳng giới là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan

tâm lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay,
thúc đẩy bình đẳng giới là vấn đề hết sức quan trọng góp phần bảo đảm sự phát triển bền
vững. Thực tiễn cho thấy, vấn đề giải phóng phụ nữ từ lâu đã được các nhà tư tưởng và các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin quan tâm nghiên cứu và được đề cập rất sớm. Ở
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản và Nhà nước ta ngay từ những ngày đầu
của cách mạng đã quan tâm đến vấn đề này, coi việc giải phóng phụ nữ, nâng cao vai trò,
vị trí của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội, thực hiện bình đẳng nam nữ là một nội
dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và tâm huyết của các nhà khoa học, một
số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề giới, bình đẳng giới đã được đặt ra để xem xét và
đề ra những biện pháp giải quyết. Những năm gần đây, nhiều trung tâm nghiên cứu khoa
học về gia đình và phụ nữ đã được thành lập, đã có nhiều công trình nghiên cứu góp phần
luận giải nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu về vai trò của phụ nữ trong gia
đình và ngoài xã hội, thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu có liên quan đến giới và bình đẳng giới
tiêu biểu như:
- GS Lê Thi (1998) “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội, là một trong những công trình nghiên cứu chỉ rõ thực trạng đời sống lao
động nữ trong giai đoạn đổi mới của đất nước và những vấn đề cần quan tâm giải quyết.
- Đỗ Thị Bình, Lê Ngọc Lân (1996) “Phụ nữ nghèo nông thôn trong điều kiện kinh
tế thị trường”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS Lê Thi (1999): “Phụ nữ và bình đẳng
giới trong đổi mới ở Việt Nam”, “Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở


Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà
khoa học đã làm rõ sự cần thiết phải tạo các điều kiện, cơ hội đề người phụ nữ nông thôn
được vươn lên, phát huy vai trò của mình trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Trung tâm Nghiên cứu gia đình và phụ nữ (1998-2000) “Điều tra cơ bản về gia
đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”. Đề tài này chỉ ra sự biến đổi các mối quan hệ cơ bản trong gia đình như quan

hệ cha mẹ, vợ chồng, con cái. Qua đó phân tích, làm rõ quan hệ bình đẳng giới trong gia
đình cũng có sự chuyển biến theo một cách rõ rệt. Nếu trước đây người mang lại thu nhập
chính cho gia đình đồng thời cũng là người có uy quyền tối cao khi đưa ra các quyết định
lớn trong gia đình là người đàn ông trong gia đình, thì ngày nay vị thế của người phụ nữ
được khẳng định hơn đối với các vấn đề này.
- TS Hoàng Bá Thịnh (2002) “Vai trò của người phụ nữ nông thôn trong công
nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong đó tác giả
đã phân tích những đóng góp quan trọng của phụ nữ nông thôn đối với sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn, qua đó kiến nghị một số giải pháp chủ yếu về phát triển chuyên môn -
kỹ thuật và nâng cao sức khỏe cho phụ nữ nông thôn.
- TS Trần Thị Thu (2003) Tạo việc làm cho lao động nữ trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (phân tích tình hình tại Hà Nội), Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Cuốn
sách đã chỉ ra, trong thời kỳ đổi mới đất nước đã và đang tạo cơ hội tìm kiếm việc làm
cho lao động nữ trong các khu vực kinh tế với nhiều ngành nghề đa dạng và phong phú,
nhưng cũng đặt ra những khó khăn tìm kiếm việc làm, mà người chịu thiệt thòi là lao
động nữ.
- Vũ Tuấn Huy (2004) “Xu hướng gia đình ngày nay” (một vài đặc điểm từ nghiên
cứu thực nghiệm tại tỉnh Hải Dương). Công trình nghiên cứu này đã phân tích về sự biến
đổi gia đình ngày nay, cuốn sách cũng nhấn mạnh “Sự biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội,
các yếu tố thị trường, thay đổi công nghệ, di cư, sự biến đổi của định hướng giá trị đã tác
động đến sự hình thành hôn nhân, quan hệ giữa các thế hệ, phân công lao động trong gia
đình, số con và khoảng cách sinh con…”.


- PGS,TS Phan Thanh Khôi, PGS,TS Đỗ Thị Thạch (chủ biên) (2007) “Những vấn
đề giới: từ lịch sử đến hiện đại”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình nghiên cứu
này đã đi sâu phân tích về vấn đề giới trong tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
và Hồ Chí Minh, làm rõ địa vị của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ở các xã hội có
tình trạng đối kháng giai cấp, áp bức, bất công. Các tác giả còn đi sâu phân tích quan
điểm giới, bình đẳng giới trong đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước…

- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Bình đẳng giới, Nxb
chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề cập đến bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình như bình đẳng giới trong lĩnh vực: chính trị; kinh tế; lao động; giáo dục
và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế; gia đình.
- GS,TS Trịnh Quốc Tuấn, PGS, TS Đỗ Thị Thạch (chủ biên) (2008) Khoa học
giới những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Công trình
nghiên cứu này ngoài việc nêu bật quan điểm về giới và bình đẳng giới của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh còn đề cập đến vấn đề giới trong lĩnh vực lãnh
đạo quản lý, văn hóa, giáo dục đào tạo, giới trong chiến lược giảm nghèo, trong gia đình
và chiến lược dân số, giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động.
Ở Bình phước, những năm qua liên quan đến đề tài có một số tư liệu sau:
- Báo cáo tình hình phát triển kinh tế, xã hội của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh
Bình Phước các từ năm 2005 đến 2008.
- Báo cáo tổng kết công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh từ năm 2005 đến 2008.
- Báo cáo của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh từ năm 2005 đến 2008.
Kết quả nghiên cứu của các đề tài, các công trình khoa học, các báo cáo nêu trên là
những tài liệu tham khảo rất quý giá cho việc nghiên cứu về bình đẳng giới trong lao
động và việc làm. Song những công trình ấy đã đề cập đến vấn đề phụ nữ, giới và phát
triển, vấn đề bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở một phạm vi rộng, có tính chất
bao quát chưa đi sâu làm rõ vấn đề bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn
nói chung, ở khu vực nông thôn tỉnh Bình Phước nói riêng. Trước tình hình đó, tác giả
chọn đề tài “Bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện


nay” với mong muốn góp phần công sức nhỏ của mình vào sự nỗ lực chung của toàn xã
hội đối với vấn đề giải phóng phụ nữ cả về lý luận lẫn thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Trên cơ sở nhận diện đúng thực trạng bình đẳng giới trong lao động và việc làm
ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay, luận văn nêu những định hướng và đề xuất một

số giải pháp nhằm thúc đẩy bình đẳng giới ở lĩnh vực này trong thời gian tới.
Nhiệm vụ
- Phân tích cơ sở lý luận của vấn đề bình đẳng giới trong lao động và việc làm.
- Làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện bình đẳng giới
trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay.
- Nêu lên những định hướng cơ bản và đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần
thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động và việc làm ở Bình Phước trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng bình đẳng giới trong lao
động và việc làm, các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia lao động của phụ nữ và nam giới
ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay.
Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện bình đẳng giới trong
lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước từ khi tách tỉnh (1997) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề bình đẳng giới và
mối quan hệ giữa bình đẳng giới với lao động và việc làm nói riêng và sự phát triển của
xã hội nói chung.
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp kết hợp
logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, điều tra xã hội học - so sánh.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn


- Trên cơ sở khái quát về giới, bình đẳng giới, lao động, việc làm và vai trò của
bình đẳng giới trong lao động và việc làm, luận văn góp phần làm rõ tầm quan trọng của
bình đẳng giới trong lao động và việc làm ở nông thôn tỉnh Bình Phước hiện nay.
- Từ việc khảo sát, đánh giá đúng thực trạng bình đẳng giới trong lao động và việc
làm ở nông thôn cấp tỉnh, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, luận văn đề xuất một số
định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục thúc đẩy bình đẳng giới trong thời

gian tới ở Bình Phước.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc hoạch định chính sách, đặt biệt là chính
sách xã hội có liên quan đến yếu tố giới trong lĩnh vực lao động và việc làm ở nông thôn
tỉnh Bình Phước thời gian tới.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành có
liên quan ở tỉnh Bình Phước nhằm điều chỉnh các chủ trương, chính sách theo hướng có
trách nhiệm giới.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.





Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN VÀ Ý NGHĨA CỦA BÌNH ĐẲNG GIỚI
TRONG LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM
1.1.1. Những khái niệm cơ bản
Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi, có liên hệ chặt chẽ với nhau. Do đó, để
hiểu rõ khái niệm giới trước hết cần tìm hiểu khái niệm giới tính.
Khái niệm Giới tính
Phụ nữ và nam giới khác nhau ở hai phương diện: sinh học và xã hội. Những khác
biệt về mặt sinh học của phụ nữ và nam giới gọi là sự khác biệt về mặt giới tính. Như vậy
“giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ” [36, tr.2], là một thuật ngữ chỉ sự khác
biệt giữa nam giới và nữ giới xét về mặt sinh học, sự khác biệt căn bản về hình dáng bên

ngoài của cơ thể, sự khác nhau về chức năng sinh học tạo nên vai trò của giới tính như:
phụ nữ mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ. Về mặt sinh học, nam và nữ
không giống nhau trên nhiều phương diện nhưng chủ yếu nhất là hình dáng, giọng nói và
chức năng sinh sản.
Giới tính có đặc trưng cơ bản như: Tính bẩm sinh: Về phương diện sinh lý (hoóc
môn, nhiễm sắc thể, bộ phận sinh dục…) nam giới và nữ giới đã khác nhau ngay từ trong
bào thai, được quy định bởi tự nhiên, không theo và không phụ thuộc vào mong muốn
của con người. Nó ổn định về tương quan giữa hai giới trong quá trình sinh sản. Chức
năng sinh sản của nữ giới hay nam giới là không thể thay thế, thay đổi hay chuyển dịch
cho nhau. Tính đồng nhất: Nam giới hay nữ giới trên khắp thế giới đều có cấu tạo về mặt
sinh lý học giống nhau, đều tham gia và mang các yếu tố đóng góp vào quá trình sinh sản
như nhau. Tính không đổi và không thay đổi: Về phương diện sinh lý, chức năng sinh sản
của nữ giới hay nam giới là không thể thay đổi hay chuyển dịch cho nhau được. Sự khác
biệt về giới tính hầu như bất biến cả về thời gian cũng như về không gian. Ngoài những


khác biệt sinh học như đã nêu, giữa phụ nữ và nam giới còn khác nhau ở nhiều đặc điểm
về mặt xã hội, và những khác biệt này dùng để phân biệt giới.
Khái niệm Giới
Giới là khái niệm khoa học ra đời từ môn nhân loại học, chỉ sự khác biệt giữa nam
và nữ về mặt xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội
quan niệm hay quy định cho nam và nữ.
Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự phân công lao động,
phân chia các nguồn của cải vật chất và tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu cầu của nam và nữ
trong xã hội. Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều nước, nhiều khu vực thì
phụ nữ phải làm hầu hết các công việc trong nhà như nấu ăn, chăm sóc con, phục vụ
chồng… Còn nam giới có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia đình và làm các công
việc xã hội. Khi sinh ra con người chưa có trong bản thân sự phân biệt giới mà họ dần tiếp
thu và chấp nhận từ nền nếp gia đình, quy ước của xã hội và chuẩn mực của nền văn hóa.
Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên quy định. Nó

ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian và
thời gian. Chẳng hạn, phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền văn hóa
đều giống nhau ở khả năng mang thai và sinh sản. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã
hội, thái độ và hành vi ứng xử giữa nam và nữ do hoàn cảnh, điều kiện, văn hóa, xã hội…
tạo nên. Địa vị, thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi theo sự thay đổi của
hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hóa.
Giới và giới tính có quan hệ chặt chẽ với nhau. Giới tính là tiền đề sinh học của
giới, là dấu hiệu đầu tiên và lâu dài để phân biệt nam, nữ. Không nên và không thể xem
nhẹ sự khác biệt về giới tính giữa nam, nữ. Trái lại, cần tìm hiểu rõ những sự khác biệt
này vì điều đó cho phép người ta hiểu được đầy đủ hơn năng lực, sở trường, nhu cầu
riêng của nam, nữ để có sự phân công lao động phù hợp nhằm phát huy năng lực và đáp
ứng đúng hơn nhu cầu riêng của nam và nữ.
Hiểu rõ vai trò của giới và giới tính trong mối quan hệ qua lại là điều cần thiết để
tổ chức và triển khai sự phân công lao động hợp lý. Tuy thế cần thấy vai trò của từng
nhân tố và quan hệ giữa chúng không đơn giản và luôn thay đổi do tác động của hoàn


cảnh xã hội, văn hóa, điều đó được biểu hiện rõ ở thời kỳ đầu của lịch sử loài người, ở
thời kỳ này, nhân tố giới tính chi phối mạnh hơn, bởi con người sống theo bản năng tự
nhiên, còn quan hệ xã hội thì mới sơ khai. Đặc điểm tự nhiên của con người lúc đó tác
động mạnh hơn so với tác động của quan hệ xã hội. Do vậy, đặc điểm giới tính của nhóm
xã hội nào phù hợp với tính chất, trình độ của nền sản xuất thì nhóm đó tự nhiên có được
vị trí cao hơn. Ví dụ, thời kỳ đầu tiên của lịch sử loài người, đặc điểm giới tính của phụ
nữ phù hợp hơn với nền kinh tế hái lượm và trồng trọt và đó chính là cơ sở tự nhiên của
chế độ mẫu quyền. Khi xã hội chuyển sang nền kinh tế lấy chăn nuôi săn bắn là chính thì
đặc điểm giới tính của đàn ông tỏ ra phù hợp và họ đã giành được vị trí thống trị của phụ
nữ trước đó và chế độ phụ quyền được xác lập.
Từ khi chế độ phụ quyền được xác lập, đàn ông với ưu thế sẵn có đã buộc xã hội
chấp nhận quan niệm và cách sắp xếp của họ. Điều đó được nâng lên thành hệ tư tưởng và
được thể chế hóa thành pháp luật, lâu dần thành thói quen, thành nếp sống, phong tục tập

quán… Đến lúc này, giới tính được nhìn nhận và giải thích theo quan niệm thiên lệch của
nam giới. Thực nghiệm khoa học và thực tế xã hội đã chứng minh đầy thuyết phục rằng khả
năng tư duy logic của nữ không kém nam, mặt khác, khả năng chăm sóc, nuôi dạy con của
nam cũng không khác nữ nhiều. Tuy nhiên từ trước đến nay, trong xã hội gần như tuyệt đối
hóa sự phân công, nam thì lao động trí óc, làm công việc khoa học, phụ nữ thì nuôi con và
làm mọi công việc nhà. Sự phân công đó in sâu vào quan niệm của mọi người, cả nam và nữ.
Nhiều thế hệ được giáo dục theo tinh thần chấp nhận, tuân thủ sự phân công đó từ trong gia
đình, nhà trường và xã hội.
Trong xã hội, người ta thường lấy sự khác biệt về giới tính để giải thích sự khác
biệt về giới. Các quan niệm rập khuôn, những thói quen đã làm những điều mà xã hội
chấp nhận thường được coi là thước đo hành vi, là chuẩn mực đánh giá phẩm chất của
mỗi giới. Những tác động này làm duy trì và tăng thêm khoảng cách khác biệt giữa nam
giới và nữ giới trong xã hội.
Qua đó cho thấy, giới có đặc trưng là do dạy và học mà có: Đứa trẻ được dạy dỗ
để trở thành nữ giới hay nam giới theo khuôn mẫu của xã hội. Bắt đầu từ khi sinh ra, đứa
trẻ đã được đối xử và dạy dỗ tùy theo nó là trai hay là gái. Đó là sự khác biệt về quần áo,


đồ chơi, màu sắc, cách nói năng, thái độ và có thể cả về thức ăn và tình cảm của cha mẹ,
anh chị. Con trai không được khóc, phải tỏ ra mạnh mẽ, dũng cảm, không chơi búp bê,
con gái không được cáu kỉnh, không nên nói to, phải dịu dàng, giúp mẹ cơm nước, nội
trợ. Giới còn có đặc trưng có thể thay đổi được. Mặc dù rất khó khăn và lâu dài, nhưng
các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội là hoàn toàn có thể thay đổi được. Quan niệm
“bếp núc” là “thiên chức” của nữ giới đang được xem xét lại khi rất nhiều đầu bếp giỏi,
các thợ giặt tinh xảo là nam giới. Trong nhiều gia đình hạt nhân, khi cả vợ và chồng cùng
phải tham gia tích cực vào quá trình sản xuất nhằm tăng thu nhập thì nam giới cũng đang
tham gia một cách tích cực vào các công việc nội trợ như: nấu ăn, chăm sóc con
cái…Thậm chí trong một số gia đình, khi người vợ tham gia công việc quản lý, điều hành
xã hội, tham gia vào các công việc sản xuất nhiều hơn người chồng thì người chồng đã
thay vai trò của người vợ trong các công việc gia đình. Bởi vậy, để thay đổi quan hệ giới

và các đặc trưng giới cần vượt qua những định kiến và quan niệm cũ, tức là cần bắt đầu
từ việc đổi mới nhận thức, thái độ, hành vi của từng người về giới. Do đó, điều mà nhân
loại đang hướng tới không phải là sự bình đẳng về giới tính giữa nam và nữ, mà là sự
bình đẳng giới. Bình đẳng về giới tính là việc không thể làm được và cũng không chủ thể
nào muốn làm, mà mục tiêu của thế giới là tiến tới bình đẳng giới.
Khái niệm Bình đẳng giới
Bình đẳng giới là môi trường trong đó cả nữ giới và nam giới được hưởng vị trí
ngang nhau, họ có các cơ hội bình đẳng để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình nhằm
cống hiến cho sự phát triển quốc gia và được hưởng lợi từ các kết quả đó [49]. Luật Bình
đẳng giới (2007) tại Điều 5 chỉ rõ: Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó [36,
tr.2]. Điều quan trọng nhất, bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và phụ nữ được hưởng
các thành quả một cách bình đẳng. Tuy nhiên, việc đối xử như nhau, cơ hội như nhau
không đem lại kết quả như nhau đối với giới nữ và giới nam. Vì vậy, bình đẳng giới cần
được hiểu là sự đối xử ngang quyền giữa hai giới nam và nữ có xét đến những đặc điểm


giống nhau và khác nhau của mỗi giới, và được điều chỉnh bởi các chính sách đối với
từng giới một cách hợp lý.
Nếu như cả phụ nữ và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả
năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp
và hưởng thụ từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được hưởng tự do và
chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của
xã hội, thì xã hội đó đã đạt được bình đẳng giới. Nếu những tiêu chí này không được xác
lập có nghĩa là trong xã hội đang tồn tại bất bình đẳng giới.
Không nên hiểu bình đẳng giới theo cách đơn giản là nam giới và nữ giới tham gia
như nhau trong tất cả các hoạt động, cũng không phải phương châm phụ nữ “vùng lên” đòi
hỏi quyền lợi ngang bằng nam giới, bất chấp sự khác biệt về đặc tính sinh học giữa nam và
nữ. Hơn nữa, việc không phân định rõ ràng sự khác biệt mang tính chất giới và giới tính lại

chỉ thấy có một phía là không bình đẳng nghiêng về nữ, chắc sẽ dẫn đến hệ quả ngược lại
với mong muốn ban đầu mang tính nhân văn sâu sắc của nhận thức giới và cách giải quyết
sẽ chỉ là: hoặc hoán vị vai trò giới một cách máy móc những gì phụ nữ có và phải làm thì
đem chuyển cho nam giới và ngược lại, hoặc đi đến chủ nghĩa bình quân giữa nam và nữ
để chỉ chia nhau cơ hội, lợi ích, trách nhiệm…
Bình đẳng giới theo yêu cầu của xã hội hiện nay còn cần phải gắn với quan điểm
phát triển, sự tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Nó đòi hỏi một sự chuyển biến
đồng bộ của tất cả mọi thành phần, mọi lứa tuổi, nhưng trước hết đối với nam giới trong
hàng loạt vấn đề: từ nhận thức đến thái độ ứng xử xã hội và hành vi cụ thể trong mối
quan hệ với phái nữ. Để có thể đáp ứng được yêu cầu trên, cần đảm bảo hai yếu tố: Thứ
nhất. Đó là sự tôn trọng giá trị nhân phẩm (quyền con người toàn diện) cũng như giá trị
lao động của lao động nam cũng như lao động nữ trong những đóng góp của họ đối với
xã hội và gia đình. Thứ hai. Là cả lao động nữ lẫn lao động nam đều có trách nhiệm, chia
sẻ với nhau trong thực hiện công việc gia đình và công việc chung của xã hội.
Muốn đạt được bình đẳng giới thì một trong những điều kiện quan trọng là nam và nữ
được bình đẳng với nhau trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó lĩnh vực kinh
tế, lao động và việc làm giữ vai trò cốt yếu nhất.


Khái niệm Lao động
Lao động là một phạm trù kinh tế, một mặt, lao động là quá trình tác động giữa
con người với tự nhiên, trong quá trình đó, con người cải biến những vật tự nhiên làm
cho nó thích ứng với nhu cầu của mình; mặt khác, lao động luôn luôn được tiến hành
trong xã hội, vì vậy nó đòi hỏi những quan hệ nhất định giữa người với người trong quá
trình tác động vào tự nhiên.
C.Mác chỉ ra: Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc
vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự
trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người. Con
người phải vận dụng sức lực tiềm tàng trong cơ thể mình, sử dụng công cụ lao động để
tác động vào tự nhiên một cách có mục đích, ý thức nhằm biến đổi những vật thể của tự

nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Vì vậy, trong bất cứ nền sản xuất nào, kể cả
nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ cũng là yếu tố cơ bản, điều kiện không thể thiếu
của sự tồn tại và phát triển của đời sống xã hội loài người, là sự tất yếu vĩnh viễn, một
điều kiện chung của sự trao đổi chất giữa con người với tự nhiên. Trong quá trình lao
động diễn ra việc sử dụng lao động.
Ph.Ăngghen viết:
Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi
của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là giới cung cấp
những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một
cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó,
chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [23, tr.641].
Từ khi con người xuất hiện, con người đã tiến hành các hoạt động như kinh tế,
chính trị, văn hóa, nghệ thuật…, trong đó hoạt động kinh tế giữ vị trí trung tâm và là cơ
sở cho các hoạt động khác. Để tiến hành các hoạt động này, trước hết con người phải tồn
tại. Con người muốn tồn tại thì phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở, đi
lại…Muốn vậy, con người phải sản xuất và không ngừng sản xuất. C. Mác và


Ph.Ăngghen đã khám phá ra: sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của con người
và xã hội.
Sản xuất vật chất ngày càng phát triển thì càng đòi hỏi ở con người chức năng
sáng tạo và luôn đòi hỏi người lao động nâng cao trình độ mọi mặt nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của con người. Có thể khái quát nhu cầu của con người trên ba mặt:
Thứ nhất là nhu cầu sinh tồn, phát triển và hưởng thụ về vật chất; Thứ hai là nhu cầu về
tinh thần; Thứ ba là nhu cầu hoạt động lao động. C.Mác dự đoán trong xã hội cộng sản
chủ nghĩa, năng suất lao động xã hội cao, sản phẩm sản xuất ra quá dư thừa đủ để thực
hiện phân phối theo cơ chế làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, khi đó lao động là nhu
cầu đầu tiên của đời sống con người; còn trong giai đoạn hiện nay, thời kỳ đầu của quá
trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, năng suất lao động chưa cao, chưa đáp ứng được

đầy đủ các nhu cầu của con người, thì lao động vẫn còn là phương tiện sinh sống của con
người.
Trong những điều kiện lịch sử nhất định và cho đến nay lao động là phương tiện
để sinh sống, là nguồn gốc chân chính của thu nhập đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
mỗi thành viên và xã hội loài người. Do vậy, ở các quốc gia cũng như ở nước ta, vấn đề
lao động luôn luôn được coi trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Sau khi lãnh đạo nhân dân ta làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền
về tay nhân dân Đảng ta đã lãnh đạo xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Từ
sau khi giành chính quyền đến nay, Nhà nước đã nhiều lần thông qua Hiến pháp, đầu tiên
là Hiến pháp 1946, sau đó là các Hiến pháp sửa đổi, bổ sung vào các năm 1959, 1980,
1992. Trong tất cả các Hiến pháp nói trên đều quy định lao động là quyền và nghĩa vụ
của công dân.
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã hội loài
người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm thế giới xung quanh những sản
phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi xã hội phát triển, những hoạt động lao
động sản xuất nói chung ấy, được phân chia thành những ngành nghề cụ thể khác nhau và
người lao động được làm việc trong những lĩnh vực phù hợp với khả năng của mình. Mỗi
người tham gia lao động sản xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống


bản thân, gia đình và đóng góp cho xã hội. Từ đó cho thấy lao động có sự liên quan chặt
với vấn đề việc làm
Khái niệm Việc làm
Theo C.Mác vấn đề việc làm trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có liên quan chặt
chẽ với lao động. Xét về mặt xã hội, việc làm thể hiện mối quan hệ giữa người với người
trong những giới hạn cần thiết mà trong đó quá trình lao động đang diễn ra, đồng thời nó
cũng là điều kiện cần thiết để thỏa mãn nhu cầu xã hội về lao động. Xét về mặt kinh tế,
việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con
người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Vấn đề việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, đó là công việc của mỗi cá

nhân nhưng lại gắn liền với xã hội. Có việc làm, không những người lao động có thu
nhập nuôi sống bản thân mà còn tạo ra một lượng của cải lớn cho xã hội. Việc làm có ý
nghĩa kinh tế xã hội và chính trị rất quan trọng đối với mỗi quốc gia. Hiện nay, đảm bảo
an toàn việc làm là một trong những yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững.
Trên thế giới có những cách hiểu không giống nhau về “người có việc làm”,
“người thất nghiệp”, theo ILO:
“Lực lượng lao động” hay “dân số hoạt động kinh tế” là một bộ phận dân
số trong độ tuổi quy định, bao gồm người có việc làm và người thất nghiệp.
Người có việc làm là những người làm một việc gì đó (không bị pháp luật
cấm) được trả tiền công, lợi nhuận hoặc thanh toán bằng hiện vật, hoặc những
người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay
vì thu nhập gia đình mà không được trả tiền công hoặc hiện vật.
Người thất nghiệp là người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm
việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc.
Còn người không thuộc lực lượng lao động là một bộ phận dân số gồm
những người không có việc làm và cũng không phải là người thất nghiệp, đó là
học sinh, những người mất khả năng lao động, nội trợ và những người thuộc
tình trạng khác [45, tr.49].


Từ quan niệm trên về việc làm cho thấy, dân số hoạt động kinh tế là một bộ phận dân
số thường ở trong độ tuổi trên dưới 15-60 (có khác nhau ở các nước).
Ở Việt Nam, trong công cuộc đổi mới, thực hiện nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa đã có sự đổi mới trong quan niệm về việc làm. Trước đây, người
có việc làm chủ yếu ở thành phần kinh tế nhà nước và tập thể, lao động theo kế hoạch từ
trên xuống, thu nhập bình quân là chính, không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, lao
động dư thừa. Hiện nay ở nước ta, lực lượng lao động là bộ phận dân số có độ tuổi từ 15
đến 55 đối với nữ và từ 15 đến 60 đối với nam và tại Điều 13, chương II, Bộ luật Lao
động bổ sung sửa đổi năm 2003 nêu rõ: Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp
luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.

Vấn đề việc làm luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam quan tâm giải quyết, tạo
điều kiện để người lao động có việc làm, tăng thu nhập, thể hiện trong các văn bản pháp
lý như:
Điều 58, Hiến pháp 1980 quy định: “Nhà nước dựa vào phát triển kinh tế và văn
hóa mà tạo thêm việc làm, bố trí công tác căn cứ vào năng lực, nguyện vọng cá nhân và
nhu cầu xã hội, nâng cao trình độ nghề nghiệp, bồi dưỡng sức lao động, không ngừng cải
thiện điều kiện làm việc của lao động chân tay và lao động trí óc”.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI xác định: “Nhà nước cố gắng tạo thêm việc
làm và có chính sách để người lao động tự tạo việc làm bằng cách khuyến khích phát
triển kinh tế gia đình, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác, kể cả
thành phần kinh tế tư bản tư nhân” [5, tr.88].
Đảng, Nhà nước đã xác định tầm quan trọng của vấn đề giải quyết việc làm và
thấy rõ mối quan hệ giữa các vấn đề giải quyết việc làm với phát huy nhân tố con người.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX nhận định: “giải quyết việc làm là yếu tố quyết
định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội,
đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân” [7, tr.210].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X đã đề ra các nhiệm vụ chủ yếu, trong đó
khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, khuyến khích
làm giàu hợp pháp, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh xã hội” [8, tr.187]


Mặc dù Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến vấn đề việc làm, giải quyết việc
làm, song hiện nay vẫn còn tồn tại tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp ở cả lao động
nam và lao động nữ, tình trạng đó nghiêng về phía lao động nữ nhiều hơn, qua đó cho
thấy rõ trong xã hội và gia đình đã và đang tồn tại vấn đề giới trong lao động và việc làm.
Hai khái niệm lao động và việc làm có mối quan hệ chặt chẽ và rất khó phân biệt
rạch ròi, do vậy tác giả đề tài xin không tách biệt, mà trình bày gắn kết chung về hai khái
niệm trên, nghĩa là trình bày cả cụm từ: lao động và việc làm.
Khái niệm Bình đẳng giới trong lao động và việc làm
Theo Luật Bình đẳng giới (2007), bình đẳng giới trong lao động được xác định:

“Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi
làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các
điều kiện làm việc khác. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ
nhiệm giữ các chức danh trong các ngành nghề có tiêu chuẩn chức danh [36, tr.5].
Bình đẳng giới trong lao động, việc làm là đảm bảo cơ hội ngang bằng cho cả nữ
giới và nam giới trong lĩnh vực lao động và việc làm. Điều này bao gồm cơ hội tiếp cận
các nguồn lực đầu tư cho “vốn con người”, các nguồn lực sản xuất, cơ hội được tham gia
thị trường lao động và có được việc làm phù hợp với khả năng, sở thích và có thể phát
huy hết tiềm năng của bản thân.
Tuy nhiên, cùng với việc đảm bảo cơ hội ngang nhau giữa nam, nữ là việc cần
thấy rõ vai trò giới, nhu cầu giới của nam, nữ có thể giống và khác nhau, chỉ có một phần
nhỏ sự khác biệt này là do những khác nhau về đặc điểm sinh học giữa nam và nữ, còn
phần lớn là do những định kiến và quan niệm xã hội tạo nên. Mức độ ảnh hưởng của
những điểm bất lợi này đối với những tầng lớp phụ nữ khác nhau là khác nhau. Chẳng
hạn như, mức độ ảnh hưởng sẽ trầm trọng nhất và sâu sắc nhất là đối với những em bé
gái phải bỏ học hay đi làm sớm do gia đình quá nghèo, do đông anh em, hay do quan
niệm là con gái không cần học nhiều…Trong tương lai, các em sẽ phải chịu những rủi ro
thất nghiệp cao hoặc làm những công việc đem lại thu nhập thấp, hoặc những công việc
có gây tổn hại cho bản thân như mại dâm. Những phụ nữ đã có gia đình, những phụ nữ ở


nông thôn, trong những hộ gia đình nghèo là những người chịu nhiều thiệt thòi nhiều hơn
trước những bất lợi này.
Không có công việc hay nghề nghiệp nào chỉ dành riêng cho nam hay cho nữ mà
chỉ có công việc phù hợp với khả năng và sở thích của mỗi người. Nếu có bất kỳ sự phân
biệt đối xử nào cũng có thể dẫn tới những hậu quả xấu, chẳng hạn như với quan niệm nam
giới không nên làm công việc bán hàng, trong điều kiện nam giới đang thất nghiệp nhiều, sẽ
khiến cho tỷ lệ thất nghiệp càng tăng, mức thu nhập của nhiều hộ gia đình do vậy sẽ bị ảnh
hưởng.
Thực tế cho thấy vấn đề giới trong lao động và việc làm thể hiện ở các khía cạnh

sau:
Về việc làm:
Một là, lao động nữ ít có cơ hội hơn trong tiếp cận với việc làm (nhất là việc làm
phù hợp) và dễ bị thất nghiệp hơn so với lao động nam. Trong rất nhiều các đơn vị, doanh
nghiệp, quy trình tuyển dụng lao động (quảng cáo, tiêu chuẩn tuyển dụng, kiểm tra tuyển
chọn, phỏng vấn…) đã công khai ẩn ý thu hẹp hoặc gạt bỏ cơ hội của lao động nữ. Phụ nữ dễ
bị thất nghiệp hơn, nhất là ở vào những thời điểm mà các quốc gia đang có biến cố như:
chiến tranh, khủng hoảng kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hai là, chỉ những hoạt động kinh tế được trả thù lao bằng tiền hoặc hiện vật thông
qua trả lương, trả công…mới được nhìn nhận là việc làm. Ngoài ra, nhiều hoạt động khác
thuộc vai trò tái sản xuất ra con người không được coi là việc làm, như nội trợ, nuôi con,
chăm sóc người già, ốm.
Ba là: vấn đề giới còn thể hiện cụ thể hơn ở các ngành nghề ngoài xã hội, cộng
đồng và trong gia đình mà nam và nữ tham gia. Ngoài xã hội, trong phân công lao động
thể hiện vấn đề giới rất rõ, ở chỗ tỷ lệ nam nữ trong các ngành nghề rất khác nhau, phụ
nữ thường chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động ở các ngành nghề như nông nghiệp,
thương mại buôn và bán lẻ. Nghĩa là phụ nữ làm nhiều ở các ngành nghề kỹ thuật thấp,
lao động giản đơn và ít làm quản lý hơn…do vậy, vất vả hơn và thu nhập thấp hơn so với
nam giới. Các hoạt động thuộc lĩnh vực công cộng như tham gia xây dựng đường sá, vệ
sinh và các công trình cộng đồng nói chung nam và nữ đều tham gia, nhưng nam thường


ở vị trí quyết định, làm công việc gián tiếp. Riêng các công việc trong gia đình không
được trả công như nấu ăn, chăm sóc con cái, mua bán…khoảng cách giới rất lớn [45,
tr.51].
Khoảng cách giới còn khá lớn, thể hiện ở thời gian làm việc giữa nam và nữ. Phần
lớn trong số lao động làm việc trên 50 giờ một tuần là phụ nữ. Ở mọi lứa tuổi, phụ nữ
phải làm việc nhà nhiều hơn nam giới. Ở lứa tuổi từ 25 đến 55, một năm người phụ nữ
phải làm đến khoảng 700 giờ việc nhà, thì người nam giới chỉ khoảng 300 giờ [50].
Nhìn chung, phụ nữ làm nhiều việc hơn, thời gian nhiều hơn, vất vả hơn và thu

nhập thấp hơn so với nam giới. Ngày nay, đang có sự san sẻ chuyển đổi nhất định về vai trò
giới trong xã hội, cộng đồng và gia đình nhưng rất chậm chạp. Thực trạng đó cho thấy có
những điểm chưa thật hợp lý.
Về tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực
Có việc làm mới chỉ là khởi đầu. Việc làm ấy được tiến hành trong thực tế, tức là
lao động, khi quá trình này “con người có công cụ sản xuất và nắm được kỹ năng sản
xuất, đã thay đổi ngoại giới và làm cho đối tượng lao động phù hợp với nhu cầu của
mình” [47, tr.299]. Nghĩa là tiếp cận và kiểm soát được các nguồn lực cho hoạt động kinh
tế. Các nguồn lực hoạt động kinh tế của người lao động bao gồm các yếu tố hữu hình
(công cụ sản xuất, đối tượng lao động, hạ tầng cơ sở…) và vô hình (khả năng, chuyên
môn làm việc…)
Hiện nay, trên thế giới còn có khoảng cách giới trong tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực trong lĩnh vực lao động, việc làm, thậm chí mang tính phổ biến như:
Do học vấn thấp hơn, hạn chế trong đào tạo nghề, lao động nữ trong gia đình và xã hội
(doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh…) tiếp cận các công cụ lao động kém kỹ thuật hơn, các đối
tượng lao động kém hiện đại và ít giá trị hơn nam giới.
Phần lớn lao động nữ không được quyền quyết định vốn sản xuất, vay vốn ngân
hàng khó hơn nam giới, thậm chí có những quốc gia (kể cả ở Mỹ) chỉ có chồng chứ
người vợ không được vay vốn ngân hàng.
Tổ chức Ngân hàng thế giới đã khái quát bức tranh hiện tại và tương lai của vấn đề
tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong lĩnh vực lao động và việc làm như sau:


Phụ nữ vẫn tiếp tục một cách có hệ thống có ít dần khả năng đòi hỏi hàng
loạt những nguồn lực sản xuất như giáo dục, đất đai, thông tin và tài chính. Ở
châu Á, phụ nữ có số năm đi học trung bình chỉ bằng nửa của nam giới và tỷ lệ
nhập học của bé gái ở cấp trung học chỉ bằng hai phần ba tỷ lệ đó ở các bé trai.
Khi có thể có đất đai, phụ nữ thường đòi phần sở hữu đất của mình ít hơn nam
giới. Ở phần lớn các khu vực đang phát triển, các doanh nghiệp do phụ nữ điều
hành thường thiếu vốn, khó tiếp cận đến các nguồn lực như máy móc, phân

bón, thông tin và tín dụng hơn các doanh nghiệp do nam giới điều hành [35,
tr.10]
Việc tiếp cận đã bất bình đẳng giới thì việc kiểm soát (quản lý, chi phối…) lại
càng có khoảng cách giới nhiều hơn. Điều này là do lao động nữ hạn chế về chuyên môn,
nhất là chiếm tỷ lệ thấp trong quản lý, lãnh đạo xã hội…do vậy, ít có cơ hội quản lý, chi
phối các yếu tố, các khâu hoạt kinh tế, hoạt động lao động tạo thu nhập và có thu nhập
cao: chủ gia đình, giám đốc doanh nghiệp, thủ trưởng cơ quan kinh tế và tổ chức sản xuất
kinh doanh.
Ở Việt Nam, trong điều kiện của nền kinh tế nhiều thành phần, định kiến giới vẫn
còn…thì bất bình đẳng nam, nữ về tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực trong lĩnh vực nói
chung, trong lao động và việc làm còn tồn tại ở những dạng nhất định như:
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai trong gia đình trước khi có Luật Đất đai
sửa đổi 2003, chủ yếu chỉ ghi tên chồng, kể cả hiện nay, khi Luật Đất đai sửa đổi đã quy
định lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai mang tên cả hai người thì phần lớn vẫn
do nam giới đứng tên. Theo số liệu thống kê về giới của Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam thì: trung bình đất đai canh tác do phụ nữ quản lý chỉ bằng khoảng
một nửa đất canh tác do nam giới quản lý. Điều này gây khó khăn cho việc vay vốn, thiếu
chủ động về vốn của lao động nữ khi đầu tư sản xuất kinh doanh.
Trong nông nghiệp, việc tiếp cận các hình thức chuyển giao khoa học, kỹ thuật
phục vụ sản xuất, chăn nuôi (tập huấn, hội thảo, mô hình, tham quan…) phần lớn là nam
giới. Qua công cụ phân tích giới tiếp cận và kiểm soát “càng nhận thấy tình trạng bất hợp lý
và bất bình đẳng giữa nam và nữ, vì phần lớn phụ nữ nước ta ở nông thôn và làm nông


nghiệp (75%)” [45, tr.58]. Do vậy, sự hiểu biết về kiến thức khoa học, kỹ thuật canh tác
chăn nuôi của lao động nữ thấp hơn lao động nam, nên lao động nữ thường làm những
công việc giản đơn, năng suất lao động thường không cao, thu nhập thấp.
Về điều kiện và môi trường làm việc
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã có lồng ghép giới trong nghiên cứu, giải
quyết các vấn đề liên quan đến điều kiện và môi trường làm việc của người lao động, nếu có

khác biệt giới thì quy định riêng cho nam và nữ. Ví dụ: danh mục việc làm, môi trường làm
việc mà chỉ lực lượng lao động nam mới làm được, được tuyển dụng; danh mục cấm lao
động nữ (không lợi cho sức khỏe và không phù hợp đạo đức…, điều kiện bảo vệ sản phụ
trong lao động…).
Ở Việt Nam, đã có nhiều văn bản của Nhà nước về công tác bảo hộ lao động. Bộ
luật Lao động dành riêng một chương về vấn đề này. Trong ý thức xã hội về an toàn lao
động, vệ sinh lao động được nâng cao. Việc giải quyết những hậu quả xấu do điều kiện
và môi trường làm việc không thuận lợi gây ra khá tốt, chính sách xã hội bảo hộ lao động
nữ có nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, trong thực tế việc thực hiện các chính sách trên còn hạn
chế, vấn đề giới đang xuất hiện ngày càng nhiều như:
Ở các cơ sở lao động, các thành phần kinh tế thường xảy ra tình trạng vi phạm
hoặc coi nhẹ công tác bảo hộ lao động, nhất là không chú ý đến đặc thù lao động nữ, tình
trạng này xảy ra thường xuyên hơn ở các cơ sở kinh tế nhỏ, ngoài quốc doanh.
Các yếu tố gây ô nhiễm môi trường công nghiệp (bụi, tiếng ồn, nhiệt độ) ở nhiều
doanh nghiệp đã vượt quá, thậm chí vượt quá nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép, gây
tác hại lớn đến sức khỏe và cả tính mạng người lao động, nhất là lao động nữ. Do “miếng
cơm, manh áo”, một số người lao động cả nam và nữ, nhất là nữ, đã phải tự nguyện làm
những công việc không cho phép, không phù hợp, phải chấp nhận mạo hiểm làm việc ở
môi trường độc hại, không an toàn, quá nặng nhọc. Tỷ lệ lao động nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm, lao động nữ chiếm tới 76% so với lao động nam, có 8,66% tổng số doanh nghiệp có
lao động nữ đang làm các nghề cấm sử dụng lao động nữ. Cao nhất là các ngành hóa chất –
cao su, vật liệu xây dựng, cơ khí năng lượng…


Ở nông thôn, ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường lao động nói riêng
cũng bắt đầu tăng. Nữ nông thôn mắc bệnh phụ khoa ngày càng nhiều. Ở các ngành công
nghiệp lao động nữ hay mắc các bệnh bụi phổi, viêm xạm da, điếc nghề nghiệp [45,
tr.62].
Về lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của: việc làm, tiếp cận và kiểm soát các nguồn

lực, môi trường lao động. Lợi ích kinh tế thỏa đáng, công bằng giữa nam và nữ là động
lực mạnh mẽ trong lao động.
Trên thế giới, ở mọi quốc gia, nghiên cứu, bàn về lợi ích kinh tế là chủ đề hàng
ngày, nổi bật. Lợi ích kinh tế chủ yếu của người lao động thể hiện rất cụ thể: lương, tiền
công, tiền thưởng vật thưởng, tiếp cận phúc lợi xã hội…Bình đẳng giới về lợi ích kinh tế
là trả công, trả lương…bằng nhau cho nam và nữ ở những công việc có giá trị như nhau.
Ở Việt Nam, từ khi đổi mới đến nay, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội là cơ sở và điều kiện thuận lợi
để bình đẳng giới hơn về lợi ích kinh tế. Bộ luật Lao động, điều 111 ghi rõ “Người sử
dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng
bậc lương và trả công lao động”.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, người lao động cả nam và nữ có cơ hội việc
làm nhiều hơn, do vậy có quyền lựa chọn ngành nghề có thu nhập cao. Tuy vậy, nền kinh
tế nhiều thành phần, đã làm nảy sinh không ít vấn đề giới trong phân phối, đó là: Thứ
nhất, những công việc vệ tinh, những việc làm thuộc vai trò tái sản xuất mà phần lớn do
phụ nữ thực hiện, vẫn không được xã hội nhìn nhận, đánh giá đúng mức. Thứ hai, lao
động nữ thường có mức thu nhập thấp hơn lao động nam. Thứ ba, có không ít hiện tượng
người sử dụng lao động vi phạm luật Lao động về điều khoản quy định về tiền lương
(không đủ mức tiền lương tối thiểu, không đóng các loại bảo hiểm, trả lương chậm và
không đền bù, trả lương làm thêm giờ không tương xứng…), nhưng phần lớn chịu hậu
quả của sự vi phạm ấy là lao động nữ. Thứ tư, Lợi ích kinh tế thể hiện ở thu nhập, nhưng
đồng thời còn thông qua hưởng thụ. Người lao động nam, nữ trở về nhà là thành viên gia


đình. Phụ nữ Việt Nam thường quản tiền nong, nhưng trước hết họ là những người vợ,
người mẹ, tiêu thì nhiều nhưng hưởng thì ít hơn chồng con.
1.1.2. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong lao động và việc làm
Thứ nhất: Vị trí quyết định của lao động và việc làm trong phát triển xã hội, phát
triển con người.

Lao động, việc làm giúp con người từ vượn thành người, giúp con người thành
con người xã hội.
C. Mác đã chỉ ra rằng: thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm
thay đổi, cải biến giới tự nhiên, con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái
sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên. Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động
sản xuất vật chất; hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của
con người. Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy;
xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội
của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Lao động, việc làm tạo ra của cải vật chất cho xã hội, làm giàu cho xã hội, nhờ đó
xã hội phát triển tiến bộ. Theo quan điểm duy vật lịch sử: vật chất quyết định ý thức. Lao
động, việc làm tạo ra kinh tế, quy định sự phát triển của xã hội, xã hội phát triển được
hay không trước hết phải trên cơ sở phát triển kinh tế.
Lao động và việc làm là lĩnh vực quan trọng quyết định của đời sống xã hội.
Không có việc làm sẽ không có thu nhập và không có điều kiện thỏa mãn các nhu cầu
chính đáng về vật chất, tinh thần của cả lao động nam và nữ, nhất là đối với lao động nữ,
chất lượng cuộc sống giảm sút. Cả lao động nam, nữ có việc làm, có thu nhập, một mặt
góp phần xây dựng kinh tế gia đình, mặt khác góp phần vào quá trình phát triển kinh tế,
xã hội.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của mọi quá trình phát triển. Phát triển
của một quốc gia hay địa phương phải quan tâm đến hai nhân tố: sự phát triển tiềm lực
chung như công nghiệp, thương mại, giao thông vận tải, cơ sở hạ tầng…và sự phát triển
nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực có liên quan trực tiếp với chương trình nâng


cao chất lượng cuộc sống. Chất lượng cuộc sống có thể hiểu là mức độ phúc lợi xã hội và
sự thỏa mãn một số nhu cầu của con người. Chất lượng cuộc sống càng cao, mức độ phúc
lợi xã hội, sự thỏa mãn nhu cầu của con người càng cao và càng thích ứng. Các yếu tố cốt
lõi của chất lượng cuộc sống bao gồm: sức khỏe, giáo dục, công việc làm, tiền bạc (do có

thu nhập), quan hệ xã hội, môi trường. Do đó, có việc làm, có thu nhập do việc làm đem
lại được coi là hai yếu tố quan trọng trong các yếu tố cấu thành chất lượng cuộc sống của
con người.
Thứ hai: bình đẳng giới trong lao động và việc làm góp phần trực tiếp phát huy
lực lượng lao động nam, nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Để phát triển đất nước cần có nhiều nguồn lực, trong đó nguồn lực con người trở
thành yếu tố quan trọng nhất. Nguồn lực con người bao gồm cả lao động nam và lao động
nữ, khi có bình đẳng giới sẽ phát huy được cả hai lực lượng lao động này, lao động nữ
chiếm một nữa bầu trời, nếu họ được bình đẳng với nam giới họ sẽ phát huy hết tiềm
năng, như vậy nguồn lực lao động sẽ có chất lượng hơn.
Thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm, đồng nghĩa với việc giúp lao
động nữ có điều kiện, cơ hội tìm kiếm việc làm như lao động nam, từ đó giúp họ tự
khẳng định mình trong gia đình và ngoài xã hội, đồng thời cân bằng cuộc sống cho bản
thân, cho con và các thành viên trong gia đình, qua đó giúp họ có lòng tin đối với xã hội,
và cũng chính là điều kiện thực hiện quyền cơ bản nhất trong Hiến pháp, đó là quyền
được làm việc.
Để thực hiện mục tiêu bình đẳng giới theo các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký
thì việc khắc phục và xóa bỏ dần khoảng cách giới trong lĩnh vực lao động, việc làm là
điều kiện quan trọng nhất. Thực hiện bình đẳng giới trong lao động và việc làm sẽ tạo
điều kiện cho lực lượng lao động yếu thế hơn (chủ yếu là lực lượng lao động nữ) có cơ
hội tìm kiếm việc làm, góp phần phát huy được vai trò của họ trong quản lý gia đình,
nuôi dạy con cái, giảm nghèo khổ, tăng thu nhập, đảm bảo sự bình đẳng nam nữ; phát
triển thể lực, trí lực, tài năng, sáng tạo, cũng như nâng cao nhân cách, địa vị của người
lao động, trong đó có lao động nữ, đó còn là một trong những biện pháp hữu hiệu hạn chế
sự phát sinh những tệ nạn xã hội, nhức nhối nhất là tệ nạn mại dâm. Ý nghĩa sâu xa của

×