Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh quảng bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.31 KB, 119 trang )








LUẬN VĂN:

Vai trò của đội ngũ trí thức
tỉnh quảng bình trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa hiện nay












mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
ở mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ của xã hội, đội ngũ trí thức là lực
lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức.
Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão đã làm cho thế giới


đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, mà thực chất là quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế
chủ yếu dựa vào tri thức con người. Chính vì vậy, vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ
trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Nước ta đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong quá trình hội nhập với thế giới
theo xu thế toàn cầu hoá. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra trước mắt
chúng ta nhiều yêu cầu, đòi hỏi, điều kiện, trong đó có yêu cầu đặc biệt quan trọng là
phát triển nguồn lực con người. Muốn thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao
nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội
ngũ trí thức. Vậy nên, trong suốt tiến trình cách mạng, vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức
luôn được đề cao, tôn vinh; việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nước
nhà luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Năm 2008, tại Hội nghị Trung ương 7 (Khoá X), Đảng đã ra Nghị quyết về “Xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, trong đó
nhấn mạnh vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức nước nhà hiện nay: “Trí thức Việt Nam là
lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát
triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”[20, tr.90].
Là một bộ phận của đội ngũ trí thức nước nhà, đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình có
một vị trí và vai trò quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh và

cũng luôn được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan tâm phát triển. Vậy nên, trong nhiều
năm qua, cùng với đội ngũ trí thức của cả nước, đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình đã có
sự tăng lên về số lượng, nâng dần về chất lượng. Đội ngũ này đã có những đóng góp nhất
định trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh; góp phần trực tiếp từng bước xoá đói, giảm nghèo,
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong tỉnh.

Tuy vậy, trước những đặc điểm và yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của tỉnh, đội ngũ này còn bộc lộ nhiều hạn chế: Số lượng và chất
lượng chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển; cơ cấu còn có những mặt bất hợp
lý, đặc biệt là về ngành nghề. Là một tỉnh duyên hải miền Trung, có nhiều lợi thế tiềm
năng về nông-lâm-ngư nghiệp và du lịch nhưng bộ phận trí thức làm việc trong các
lĩnh vực, ngành nghề này còn yếu, đặc biệt là thiếu những trí thức có trình độ cao và
có chuyên môn giỏi. Nhìn chung, vai trò của đội ngũ trí thức trong việc thực hiện
nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh còn nhiều hạn chế. Quảng Bình hiện
vẫn còn là tỉnh nghèo, kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhất là khu vực nông thôn. Để
sớm thoát nghèo và phát triển bền vững tỉnh Quảng Bình cần phát huy vai trò của đội
ngũ trí thức. Đây là vấn đề hết sức cấp thiết đang đặt ra, đòi hỏi phải được nghiên cứu
để có các giải pháp pháp thiết thực, phù hợp.
Vì những lẽ trên, tôi lựa chọn vấn đề: “Vai trũ của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng
Bỡnh trong sự nghiệp cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoá hiện nay” làm đề tài nghiên cứu
luận văn thạc sĩ triết học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học, nhiều bài viết hết sức có giá trị đã
được công bố nghiên cứu về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức. Trong quá trình
nghiên cứu thực hiện luận văn này, ngoài khai thác các giá trị kinh điển, các quan điểm,
tư tưởng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và một số tư liệu khác, tác giả chú trọng tham
khảo sâu hơn một số công trình khoa học, luận văn, luận án liên quan trực tiếp đến đề tài
để có sự kế thừa và tránh trùng lắp. Cụ thể như sau:
- Nguyễn Quốc Bảo - Đoàn Thị Lịch: Trí thức trong công cuộc đổi mới đất nước,

Nxb Lao động, Hà Nội,1998. Trong công trình này các tác giả đã khái quát tình hình biến
đổi của trí thức Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trên cơ sở phân tích những ưu điểm
cũng như những hạn chế của trí thức Việt Nam các tác giả đã đề ra những giải pháp xây
dựng đội ngũ trí thức nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới.
- Nguyễn Thanh Tuấn: Một số vấn đề về trí thức Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội,1998: Trong công trình này tác giả đã nêu và phân tích những đặc trưng cơ bản

của trí thức nói chung, trí thức Việt Nam nói riêng cùng lịch sử hình thành và phát triển
của đội ngũ này. Đồng thời, tác giả cũng đã khai thác những đặc trưng mang tính truyền
thống dân tộc của trí thức Việt Nam qua đó đề xuất một số phương hướng đổi mới công
tác quản lý và chính sách đối với đội ngũ này để họ phát huy vai trò một cách có hiệu
quả.
- Phạm Tất Dong: Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Đây là công trình chung
của tập thể tác giả. Từ việc nghiên cứu tình hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và một số yêu cầu đặt ra về nguồn lực trí tuệ, các tác giả đã khẳng định vai trò đồng thời
làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức ở nước ta, từ đó đề xuất những định hướng
trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 -
2010.
- Bùi Thị Ngọc Lan: Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Trong công trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích
một cách khá công phu về vị trí, vai trò và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước, tác
giả đã tập trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát huy có
hiệu quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Nguyễn Đắc Hưng: Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Trong công trình này, khái niệm trí thức, nguồn gốc
hình thành, vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay được
tác giả nghiên cứu khá kỹ. Tác giả cũng đã trình bày một số vấn đề bức xúc đang đặt ra
cho đội ngũ trí thức nước nhà và đề xuất một số phương hướng xây dựng, phát triển đội
ngũ trí thức.

Ngoài những công trình trên còn có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ có nội
dung và phạm vi nghiên cứu gần với đề tài hơn như: Đặng Thị Mai : Đội ngũ trí thức tỉnh
Hải Dương trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá - thực trạng và giải pháp,
Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2003; Nguyễn Xuân Phương: Vai trò của trí thức thủ
đô Hà Nội trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ triết học, Hà
Nội, 2004; Võ Quốc Tín: Đội ngũ trí thức tỉnh Cà Mau trong sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá, Luận văn thạc sĩ triết học, Hà Nội, 2008. Tuy nhiên, các luận án, luận văn này
đều có cách tiếp cận khác nhau, đối tượng nghiên cứu khác nhau, mục đích nghiên cứu cũng
như hướng giải quyết vấn đề cũng không giống nhau.
Trên thực tế, cho đến nay chưa có một đề tài khoa học, một công trình nghiên cứu
nào đề cập một cách trực tiếp, có chủ ý và có hệ thống đến vai trò của đội ngũ trí thức
tỉnh Quảng Bình, kể cả trên địa bàn tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở lý luận mác-xít và thực tiễn của Quảng Bình luận văn phân tích các giải
pháp để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức của tỉnh Quảng Bình trong sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh hiện nay.
- Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên luận văn cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ quan niệm về trí thức và vai trò của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
+ Phân tích thực trạng của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình; đánh giá vai trò của
đội ngũ này trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh, tìm ra nguyên nhân,
đặc biệt là các nguyên nhân của hạn chế, yếu kém, những vấn đề đặt ra đối với việc phát
huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát huy vai trò đội ngũ trí thức tỉnh Quảng
Bình trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà tỉnh đang thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức của tỉnh Quảng Bình, chủ yếu là đội ngũ
trí thức do ủy ban nhân dân tỉnh quản lý.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động của trí thức Quảng
Bình ở một số lĩnh vực trong thời kỳ đổi mới, thời gian từ khi tái thành lập tỉnh năm
1989, đặc biệt trong giai đoạn tỉnh bước vào thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận cơ bản của luận văn là những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng ta về trí thức và
vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ đổi mới. Luận văn cũng kế thừa những thành tựu
nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến nội dung luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê,
điều tra xã hội học.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò của đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình trong giai
đoạn hiện nay, đặc biệt là vai trò của đội ngũ trí thức do UBND tỉnh quản lý.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp thiết thực để phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức tỉnh Quảng Bình trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh,
của đất nước.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của trí thức
trong sự tiến bộ xã hội, bổ sung làm rõ thêm những đặc điểm cơ bản của trí thức Việt
Nam nói chung, trí thức Quảng Bình nói riêng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
- Về mặt thực tiễn: Các giải pháp nhằm phát huy vai trò đội ngũ trí thức của tỉnh
Quảng Bình được đề xuất trong luận văn này khi áp dụng thực hiện sẽ góp một phần làm
chuyển biến việc xây dựng đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Bình, để đội ngũ này có đóng góp
xứng đáng và to lớn hơn nữa trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hiện nay, góp phần đưa tỉnh thoát nghèo và trở thành
một tỉnh giàu mạnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.




Chương 1
trí thức và vai trò của trí thức đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh quảng bình

1.1. trí thức và vai trò của trí thức trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.1. Quan niệm về trí thức và những đặc điểm của trí thức
1.1.1.1. Quan niệm về trí thức
Khái niệm “trí thức” có nguồn gốc từ tiếng La-tinh là Intellidentina, nghĩa là sự
thông minh, có trí tuệ, có nhận thức hiểu biết, dùng để chỉ một bộ phận người trong xã
hội có được những đặc điểm này. Khái niệm này xuất hiện rất sớm trong lịch sử khi cùng
với sự phân công lao động xã hội làm nảy sinh một bộ phận người tách khỏi lao động
chân tay để lao động bằng trí óc. Tuy vậy, nó chỉ thực sự được sử dụng phổ biến ở
khoảng thời gian từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay, khi mà vai trò của trí thức được thể hiện
rõ nét như là nhân tố không thể thiếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Về cơ bản, từ trước tới nay khái niệm trí thức vẫn được dùng để chỉ những người
lao động trí óc, nhất là những người có học vấn cao. Tuy vậy, xung quanh khái niệm này
có nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau. Sỡ dĩ có hiện tượng này trước hết là vì
tuỳ góc độ tiếp cận đối tượng trí thức của mỗi người hay mỗi nhóm người có sự khác
nhau. Hơn nữa, kể từ khi khái niệm này xuất hiện cho đến nay nó luôn được dùng để chỉ
một lực lượng lao động đặc biệt trong xã hội, mà lực lượng này tuỳ theo từng giai đoạn
phát triển của lịch sử luôn có những thay đổi rất đa dạng về chức năng, vị trí, vai trò và
nhiệm vụ. Vì vậy, trí thức là một phạm trù xã hội có tính lịch sử.
Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học như C.Mác, Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh là những người đặc biệt quan tâm đến trí thức và vấn đề tri thức,
không chỉ vì các ông là những người trí thức lớn mà còn là vì họ nhận thức được một
cách sâu sắc vai trò quan trọng của trí thức đối với sự phát triển của xã hội.
ở vào thời đại của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã quan tâm nghiên cứu tầng lớp trí
thức trong quá trình phát triển xã hội trên mọi lĩnh vực, tuy vậy, do những điều kiện nhất
định các ông chưa đưa ra định nghĩa về trí thức.


Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trong điều kiện mới khi giai cấp
công nhân và nhân dân lao động nước Nga đã giành được chính quyền và bắt tay vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi phải có sự đóng góp thật nhiều của nguồn lực có trí tuệ,
VI.Lênin - nhà lý luận thiên tài, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động thế giới đã quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng và sử dụng tầng lớp trí thức. Ông
đã định nghĩa về trí thức như sau: “Trí thức bao hàm không những chỉ các nhà trước tác
mà thôi, mà còn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự
do nói chung, các đại biểu của những người lao động trí óc”[28, tr.372].
Trên cơ sở những quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, tiếp thu tinh hoa
văn hoá của dân tộc và trí tuệ thời đại, đồng thời qua thực tiễn xây dựng và sử dụng trí
thức trong cách mạng giải phóng dân tộc, cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí
Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới định nghĩa về trí
thức:
Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: một là hiểu
biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh
đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó,
không có trí thức nào khác. Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức.
Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không
biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là
y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí thức
hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức toàn toàn, thì phải biết đem trí thức
đó áp dụng vào thực tế [36, tr.235].
Ngày nay, do lực lượng trí thức tăng nhanh và chiếm tỷ lệ khá cao trong cơ cấu dân
cư nên cách tiếp cận nghiên cứu về trí thức cũng có những xu hướng khác nhau. Thứ nhất
là xu hướng mở rộng khái niệm trí thức, cho rằng trí thức là những người lao động trí óc
nói chung. Thứ hai là xu hướng muốn thu hẹp khái niệm trí thức, coi trí thức là những
nhà tư tưởng, là một nhóm nhỏ những nhà bác học, những nhà sáng chế, phát minh. Cả
hai xu hướng quan niệm này đều có những mặt chưa hợp lý, do những cách quan niệm


khác nhau về nội hàm của khái niệm nên ngoại diên của khái niệm được mở rộng quá,
hoặc bị thu hẹp quá.
ở xu hướng thứ nhất chúng ta thấy, không thể đơn giản cho rằng cứ làm nghề lao
động trí óc thì sẽ được coi là trí thức. Bởi lẽ, như quan niệm của VI.Lênin, trí thức không
bao gồm tất cả những người lao động trí óc mà chỉ bao gồm những người có học thức và
là đại diện của những người lao động trí óc; hơn nữa, theo Hồ Chí Minh, nếu một người
chỉ có học thức nhưng không vận dụng được vào thực tiễn thì chỉ là “trí thức một nửa”
mà thôi. Đồng thời, trên thực tế, những người lao động trí óc nhưng giản đơn không thể
coi là trí thức được.
ở xu hướng thứ hai, do chỉ giới hạn đối tượng ở một số trí thức bậc cao, những
người lỗi lạc, ưu tú nên cũng không thể qua đó mà đánh giá hết được vị trí, vai trò và
những cống hiến to lớn của những người có học vấn, có tri thức ở những cấp độ khác đối
với sự phát triển của xã hội, trong lúc những người này chiếm số đông và tuy không phải
là những nhà tư tưởng, những bác học, những nhà phát minh nhưng lao động của họ cũng
hết sức phức tạp và luôn có sự kế thừa, phát huy và sáng tạo.
Xu hướng thứ ba là nghiên cứu và đưa ra được định nghĩa bao quát được đầy đủ,
phản ánh được những đặc điểm cơ bản của trí thức, không quá thu hẹp cũng như không
mở rộng khái niệm một cách thái quá. Đây là xu hướng cơ bản và phổ biến nhất hiện nay.
Xu hướng này được thể hiện qua các quan niệm sau:
Trong Từ điển Bách khoa Liên Xô, do A.M Prokhorov chủ biên, xuất bản năm 1985,
khái niệm trí thức được nhìn từ phương diện chức năng xã hội, trí thức được coi là tầng
lớp những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sáng tạo, phát triển và truyền bá văn
hoá.
Trong Từ điển tiếng Nga do Gozegov chủ biên, trí thức được hiểu là người lao động
trí óc có học vấn, có kiến thức nghề nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau của khoa học kỹ
thuật, văn hoá.
Trong Từ điển Triết học, Nhà xuất bản Tiến bộ Mátxcơva, xuất bản năm 1986, do
Rozental chủ biên đưa ra định nghĩa: “Trí thức là tập đoàn xã hội gồm những người làm
nghề lao động trí óc. Giới trí thức gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ,


thầy giáo và những người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên chức” [53,
tr.598].
ở Việt Nam, trong Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội, xuất bản năm 1986 lại cho rằng: “Trí thức - Tập đoàn xã hội, bao gồm những người
chuyên làm nghề lao động trí óc phức tạp và có học vấn chuyên môn cần thiết cho ngành
lao động đó”[51, tr.360].
Trong Từ điển Tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học biên soạn và phát hành năm 1997,
Hoàng Phê chủ biên cho rằng: “Trí thức là người chuyên làm việc bằng trí óc và có tri
thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của mình”[52, tr.999].
Gần đây, trong đề tài Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với trí thức nước ta hiện nay do Viện Xây dựng Đảng-Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh chủ trì, đã đưa ra khái niệm sau:
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, có trình độ học vấn cao, trình độ
chuyên môn sâu, có đạo đức, lao động trí tuệ - sáng tạo khoa học, phổ biến và
nghiên cứu ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt động thực tiễn, góp phần
quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển mọi mặt của đời sống xã hội [22, tr.
9].
Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy rằng, mỗi định nghĩa đều có mặt hợp lý nhưng
chưa thể xem là đã hoàn chỉnh và còn phải được thực tiễn kiểm nghiệm để tiếp tục bổ
sung, hoàn thiện. Tuy vậy, nhìn chung, các định nghĩa về trí thức nói trên đều cho thấy có
những điểm chung, thống nhất, đó là xác định nội hàm khái niệm trí thức đều dựa trên cơ
sở đặc trưng là lao động trí óc và trình độ học vấn, chuyên môn cao của người trí thức.
Đối với Đảng ta, trong quan niệm về trí thức luôn xuất phát từ quan niệm của chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng. Hiện nay, trong điều
kiện mới việc đưa ra định nghĩa về trí thức cũng đã có sự thay đổi, bổ sung. Qua việc
nghiên cứu, tham khảo các định nghĩa hiện có, đồng thời trên cơ sở tổng kết cả về mặt lý
luận và thực tiễn, tại Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây dựng
đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đảng ta
đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ


học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo,
truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối
với xã hội [20, tr.81].
Trong định nghĩa này, khái niệm trí thức về cơ bản vẫn dùng để chỉ những người
lao động trí óc, có trình độ học vấn cao. Tuy vậy, nội hàm của khái niệm cũng đã được bổ
sung cụ thể hơn. Từ các tiêu chí được đề cập trong định nghĩa cho thấy, nếu một người
lao động trí óc, có trình độ học vấn cao, nhưng trong lao động không có được sự sáng
tạo, không truyền bá và làm giàu tri thức, không tạo ra được những sản phẩm tinh thần và
vật chất có giá trị đối với xã hội cũng không thể được coi là trí thức. Đây là một đòi hỏi
cao nhưng cần thiết đối với người trí thức, đặc biệt là đối với trí thức xã hội chủ nghĩa.
Theo Phó giáo sư, tiến sĩ Đàm Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu
nhân tài, nhân lực thì:
Định nghĩa này khái quát đặc trưng và tiêu chí cơ bản của trí thức Việt
Nam hiện nay. Trên cơ sở định nghĩa này, khi định chính sách, chế độ cần phải
cụ thể hoá, như ấn định bằng cấp nào là trí thức, tiêu chí đối với trí thức trong
các lĩnh vực, ngành nghề, các thời kỳ khác nhau; cần xác định rõ trí thức là
những người lao động trí óc, các nhà khoa học tự nhiên và xã hội, các viện sĩ,
giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, kỹ sư, kiến trúc sư, kỹ thuật viên,
thầy giáo, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, nhà điêu khắc, nhà ngôn
ngữ, nhà toán học, nhà hoá học, nhà vật lý học, nhà văn, nhà thơ, nhà thiết kế,
một bộ phận lớn công chức, viên chức, các nhà sáng chế, phát minh, sáng tác,
sáng tạo [66].
Trong xã hội ta, việc đòi hỏi người trí thức xã hội chủ nghĩa phải là người biết sáng
tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị
đối với xã hội không chỉ thuần tuý là đòi hỏi về mặt tài năng mà còn cả về mặt đạo đức,
nhân cách. Người trí thức không chỉ có năng lực chuyên môn mà còn cần phải có đạo
đức, nhân cách tốt mới có thể cống hiến được một cách tích cực những sản phẩm trí tuệ
của mình vì sự tiến bộ, phát triển của xã hội, của quê hương, đất nước. Nếu như một
người có tài năng, có sáng tạo nhưng những sản phẩm trí tuệ của họ chỉ phục vụ riêng


cho lợi ích cá nhân, không vì sự phát triển của xã hội thì cũng không thể được coi là trí
thức, đúng hơn là không phải là trí thức chân chính.
Trí thức chân chính ở nước ta hiện nay phải là người dùng tài năng, trí tuệ của mình
phụng sự xã hội, phụng sự Tổ quốc và nhân dân, vì tài năng, trí tuệ của họ là do xã hội
tạo nên. Đây là biểu hiện mối quan hệ giữa tài và đức trong mỗi con người, nó hoàn toàn
phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với người
trí thức xã hội chủ nghĩa - người trí thức chân chính, tài năng, trí tuệ đóng vai trò quan
trọng trong việc sáng tạo ra các giá trị mới; đạo đức đóng vai trò định hướng cho người
trí thức sử dụng tri thức mới của mình hướng tới các giá trị nhân văn, nhân đạo, tiến bộ
và phát triển.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay định nghĩa về trí thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam là cơ sở để từ đó giúp ta nhìn nhận, đánh giá và xây dựng quan điểm về trí thức.
1.1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của trí thức
Qua nghiên cứu một số quan niệm về trí thức nói trên, đặc biệt là quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta, chúng ta có thể rút ra một số
đặc điểm cơ bản của trí thức như sau:
Thứ nhất: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng tạo ra các
giá trị mới, các tri thức mới.
Đây là đặc điểm đầu tiên và cũng là đặc điểm cơ bản nhất, cũng chính là đặc trưng
nổi bật nhất của trí thức để nhận diện và phân biệt người trí thức với những người lao
động khác, những bộ phận lao động khác trong xã hội. Trí thức trước hết cũng là người
lao động, nhưng lao động của họ là lao động trí óc phức tạp, có sự sáng tạo, đó là sự sáng
tạo ra các giá trị mới, các tri thức mới. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo ấy đặt ra đòi hỏi
cao về tính độc lập của người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã
được tích luỹ cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải
quyết công việc.
Chúng ta biết rằng lao động là hoạt động tất yếu và phổ biến của con người và xã
hội loài người do nhu cầu sinh tồn và phát triển. Trong lao động con người phải kết hợp
cả hai yếu tố vật chất và ý thức, nghĩa là phải kết hợp cả thể lực và trí trí lực. Tuỳ theo


mức độ kết hợp này mà hình thành 2 loại lao động khác nhau: lao động trí óc và lao động
chân tay. Đối với người lao động chân tay- sở dĩ được gọi như vậy vì ở họ sự chi phí hao
tổn năng lượng thần kinh, trí tuệ hạn chế, chủ yếu là làm theo sự hướng dẫn, chỉ vẽ của
người khác, làm theo kinh nghiệm, hạn chế sự sáng tạo. Còn đối với lao động trí óc thì
điều này ngược lại.
Tuy nhiên, lao động trí óc cũng có nhiều dạng khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp.
Tiêu chí để phân biệt hai dạng lao động này là sự hao phí trí tuệ, hàm lượng chất xám ít
hay nhiều trong quá trình lao động. Đối với những người lao động trí óc giản đơn, sự hao
phí năng lượng trí tuệ không phải là cơ bản thì họ không được gọi là người trí thức. Thậm
chí, cũng không thể coi là trí thức đối với những người có trình độ học vấn cao, được tốt
nghiệp đại học nhưng không được bố trí sử dụng đúng chuyên môn, không có việc làm
phù hợp và tham gia lao động phổ thông giản đơn, hoặc thất nghiệp, vì họ có trình độ học
vấn nhưng không lao động trí óc hoặc lao động trí óc giản đơn.
Đối với người lao động trí óc phức tạp, đòi hỏi họ phải có sự chi phí hàm lượng trí
tuệ lớn trong quá trình lao động và đặc biệt là phải có sự sáng tạo, tức dùng tri thức đã có
để sáng tạo ra tri thức mới, các sản phẩm vật chất và tinh thần mới có giá trị đối với xã
hội. Những người lao động trí óc ở dạng này mới thực sự được coi là trí thức. Hay nói
cách khác, lao động của trí thức là sự tìm tòi, khám phá, sáng tạo cái mới, tiến bộ, đòi hỏi
phải có tư duy ở mức độ cao, sự hao phí của năng lượng, thời lượng của bộ não là chủ
yếu. V.I.Lênin cho rằng: Lao động nói chung đã là sáng tạo. Nhưng từ sự phân công lao
động xã hội mà tính sáng tạo trội lên thuộc về lao động trí óc của người trí thức.
Thứ hai: Trí thức là người có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất
định.
Vì lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng tạo ra các giá trị mới,
các tri thức mới nên trí thức cần phải có một trình độ học vấn căn bản được xã hội thừa
nhận.
Chúng ta biết rằng, khả năng tham gia lao động trí óc phức tạp và sáng tạo không
phải ai cũng có, ngoài một số ít thiên tài bẩm sinh, còn lại sự sáng tạo bao giờ cũng được
bắt đầu từ sự bắt chước, sự kế thừa, nó được tích luỹ dần qua giáo dục, đào tạo và nảy


sinh trong quá trình nghiên cứu, tìm tòi, khảo nghiệm. Lao động sáng tạo là một quá trình
tìm tòi gian khổ, công phu, đòi hỏi phải có kiến thức hệ thống và thế giới quan biện
chứng để độc lập tư duy trong xử lý kiến thức mà chỉ người được đào tạo đến một trình
độ học vấn cao về ít nhất là một lĩnh vực chuyên môn nhất định mới thực hiện được.
Trí thức là người có trình độ học vấn cao nhưng tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử nhất
định mà xã hội có những tiêu chí để đánh giá trình độ học vấn đó. Trước đây, một người
có trình độ cao đẳng trở lên được coi là trí thức. Hiện nay tốt nghiệp cao đẳng chuyên
nghiệp chưa thể được coi là người có học vấn cao, về cơ bản ở họ chưa có được tư duy
hoàn toàn độc lập, sự sáng tạo còn hạn chế, nên mặc dầu họ có tham gia lao động trí óc
nhưng không được coi là trí thức.
Để đảm bảo cho hoạt động trí óc phức tạp, sáng tạo của trí thức được thực hiện
thuận lợi, trí thức cần phải có trình độ học vấn tối thiểu đại học trở lên. Bởi hiện nay xét
về mặt học thuật, chỉ có người được đào tạo qua bậc đại học trở lên mới được công nhận
là người có trình độ học vấn cao, có năng lực tư duy độc lập. Hơn nữa, do đặc trưng của
đào tạo đại học là gắn chặt giữa quá trình đào tạo và tự đào tạo nên những kiến thức mà
người đã học qua đại học có được không thuần tuý chỉ được trang bị trong nhà trường,
các cơ sở đào tạo mà còn là kết quả của quá trình tự đào tạo, rèn luyện, nỗ lực phấn đấu
không ngừng, là sản phẩm của sự trăn trở, lăn lộn với đời sống, với thực tiễn của họ.
Tuy nhiên, giới hạn này chỉ mới được xem xét về phương diện hình thức, là tiêu chí
mang tính hình thức để giới hạn một đặc điểm trong nội hàm của khái niệm trí thức. Trên
thực tế, đây chỉ là một trong nhiều tiêu chí để phân biệt trí thức chứ không phải là tiêu chí
bắt buộc, bởi vì trong nhiều trường hợp cụ thể, không ít người dù không có bằng cấp,
hoặc không đạt được trình độ học vấn đại học nhưng vẫn được xã hội thừa nhận là những
nhà trí thức do sản phẩm mà họ làm ra cho xã hội có tính phát minh, sáng tạo và ứng
dụng vào thực tiễn mang lại hiệu quả, có giá trị to lớn góp phần nâng cao nhận thức xã
hội và thúc đẩy xã hội phát triển.
Thứ ba: Trí thức tham gia vào hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội và là nhân tố
không thể thiếu của quá trình này trong bất cứ xã hội nào.

Bất kỳ chế độ xã hội nào giai cấp cầm quyền và đảng của nó luôn cần đến sự tham

gia trực tiếp của những người trí thức trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành xã
hội bởi hoạt động này là hoạt động chính trị phức tạp. Hoạt động này đòi hỏi người tham
gia phải có bản lĩnh và năng lực trí tuệ hơn người bình thường, tức phải có những kiến
thức, tri thức khoa học sâu, rộng về lĩnh vực lãnh đạo, quản lý; đồng thời có năng lực và
uy tín trong việc tập hợp, tổ chức, giáo dục và thuyết phục quần chúng hướng vào thực
hiện những nhiệm vụ mà giai cấp thống trị và đảng của nó đã vạch ra.
Tuy nhiên, lịch sử đã cho thấy, việc bố trí, sử dụng trí thức tham gia các hoạt động
lãnh đạo quản lý xã hội như thế nào còn do nhận thức, thái độ và ý chí của giai cấp cầm
quyền; và không phải là toàn bộ trí thức mà chỉ là một bộ phận trí thức tiên tiến, ưu tú
được lựa chọn. Nếu trong hàng ngũ lãnh đạo, quản lý vắng bóng lực lượng này xã hội sẽ
trở nên trì trệ, lạc hậu và không thể phát triển lên được. Lịch sử cũng đã chứng minh, xã
hội nào huy động được đông đảo trí thức tham gia lãnh đạo, quản lý và điều hành xã hội
thì xã hội đó phát triển một cách ổn định, năng động, hợp quy luật và đảm bảo được
những yếu tố văn hoá, văn minh.
ở Việt Nam điều này thể hiện khá rõ nét. Dưới thời đại phong kiến nhiều “kẻ sĩ”, “sĩ
phu” được nhà nước trọng dụng vào các vị trí lãnh đạo, quản lý khác nhau trong bộ máy
chính quyền. Hiện nay, có một thực tế là, có không ít trí thức làm việc trong các cơ quan
Đảng, Nhà nước, trong các tổ chức đoàn thể của hệ thống chính trị ở Trung ương và địa
phương. Đây là nhóm trí thức tham gia vào hệ thống quyền lực nhân dân thuộc hệ thống
quản lý các cấp, trong các cơ quan công quyền và trong các lĩnh vực hành chính sự
nghiệp và hoạt động xã hội. Trong số họ có những người giữ trọng trách chủ chốt trong
lãnh đạo, quản lý.
Bộ phận trí thức này được gọi là các cán bộ, quan chức có vai trò hoạch định đường
lối, chính sách và tổ chức thực hiện đường lối chính sách. Tuy đội ngũ này không đông
bằng các trí thức khoa học, giáo dục - đào tạo, y tế hay văn hoá - nghệ thuật nhưng họ có
vị trí, vị thế xã hội quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của đất nước và sự phát
triển của tầng lớp trí thức nói chung ở nước ta.

Thứ tư: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt, tuy
không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức là đại diện cho trí tuệ nhân dân trong từng

thời đại lịch sử.
Khi nghiên cứu về trí thức từ góc độ cơ cấu xã hội - giai cấp, V.I. Lênin đã chỉ ra
rằng: trí thức không phải là giai cấp, mà “là một tầng lớp đặc biệt” trong xã hội. Tính chất
“đặc biệt” của tầng lớp trí thức biểu hiện ở chỗ do vị trí của mình trong phân công lao
động xã hội, trí thức không trực tiếp sở hữu tư liệu sản xuất - cái dấu hiệu quan trọng
nhất để xác định giai cấp, do đó không phải là một giai cấp độc lập, không có hệ tư tưởng
độc lập. Tầng lớp này được hình thành dựa trên đặc trưng chung nhất là lao động trí óc
nhưng do có nguồn gốc xuất thân đa dạng, từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong xã
hội, lao động ở các lĩnh vực khác nhau nên có lợi ích khác nhau. Về mặt tổ chức, điều
kiện lao động và điều kiện sống của trí thức “không cho phép họ thống nhất lực lượng
một cách trực tiếp rộng rãi, không cho họ được giáo dục trực tiếp trong lao động tập thể
có tổ chức”[29, tr.18].
V.I Lênin cũng khẳng định, trí thức không phải là một lực lượng “siêu giai cấp”,
“đứng trên các giai cấp”, “trọng tài tầng lớp”. Bởi vì, trong xã hội, các tập đoàn xã hội
(gồm các giới, các tầng lớp…) luôn phụ thuộc vào các giai cấp. Với tư cách là một tầng
lớp thì trí thức luôn gắn liền với một giai cấp nhất định. Lịch sử đã cho thấy, quá trình
đấu tranh giai cấp và tác động nhiều mặt về lợi ích đã làm cho tầng lớp trí thức phân hoá
thành những bộ phận khác nhau. Những bộ phận khác nhau đó bảo vệ lợi ích của lực
lượng xã hội này hay lực lượng xã hội khác, giai cấp này hay giai cấp khác.
Do đặc thù lao động là loại lao động trí tuệ phức tạp sáng tạo, nên trí thức có khả
năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, để xây dựng hệ tư tưởng cho giai cấp
cầm quyền. Vậy nên, bất cứ giai cấp nào khi nắm quyền cũng cần đến tri thức và tìm
cách thu hút, tập hợp lực lượng trí thức về phía mình. Như vậy, về phương diện chính trị,
trí thức tự bản thân không có hệ tư tưởng độc lập nhưng lại góp phần quan trọng trong
việc tổng kết, hình thành nên hệ thống tư tưởng, học thuyết lý luận cho các giai cấp trong
xã hội. Trong một thể chế chính trị nhất định, tính giai cấp của trí thức là do tư tưởng của

giai cấp thống trị quyết định, khuôn mẫu người trí thức do hệ thống giáo dục và đường
lối đào tạo của nhà nước do giai cấp thống trị thiết lập tạo ra.
Tuy vậy, như đã trình bày ở trên, do nguồn gốc xuất thân của trí thức hết sức đa

dạng, từ mọi giai cấp, mọi tầng lớp, mọi giới trong nhân dân và vì họ là người có tri thức
nên được lựa chọn làm đại diện về mặt trí tuệ trước hết cho thành phần mà họ xuất thân,
những sáng tạo của họ trước hết phản ánh và phục vụ cho đời sống vật chất cũng như tinh
thần của bộ phận nhân dân sản sinh ra họ. Từ đó, tựu trung lại, trí thức đại diện cho trí tuệ
của nhân dân nói chung trong xã hội trên mọi phương diện trong các thời kỳ lịch sử từ
khi lao động trí óc xuất hiện. Trong đó, bộ phận trí thức đi theo và ủng hộ giai cấp cầm
quyền đang trong thời kỳ tiến bộ - giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đại
diện vì quyền lợi của các giai cấp, tầng lớp xã hội, đại diện cho dân tộc và toàn thể nhân
dân và vì sự tiến bộ xã hội luôn luôn được đánh giá cao, được nhân dân lựa chọn uỷ thác
nói lên tiếng nói của mình.
Thứ năm: Trí thức ra đời là kết quả của sự phát triển của lực lượng sản xuất, trực
tiếp là của các quá trình phân công lao động diễn ra trong lịch sử.
Chúng ta biết rằng, lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển của
sản xuất vật chất, trong đó được thể hiện cụ thể và rõ nét bằng sự phát triển không ngừng
của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất là
nguyên nhân dẫn đến những lần phân công lao động lớn trong lịch sử. Theo sự phân tích
của Ph.Ăngghen trong tác phẩm: “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà
nước” thì lịch sử loài người đã diễn ra 3 lần phân công lao động xã hội. Lần thứ nhất:
chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Lần thứ hai: thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Lần
thứ ba: thương nghiệp ra đời, dẫn đến xuất hiện loại lao động trí óc và lao động chân tay.
Theo quan niệm trước đây, những người tham gia lao động trí óc đều được coi là trí thức.
Như vậy, trí thức ra đời gắn liền với sự phân công lao động xã hội, cụ thể là sự xuất
hiện của lao động trí óc với đặc trưng là hao phí năng lượng thần kinh trung ương là chủ
yếu nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày càng cao. Lao động trí óc không
thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển xã hội loài người.

1.1.1.3. Vài nét về quá trình hình thành tầng lớp trí thức Việt Nam sau cách
mạng Tháng Tám
Khi cách mạng xã hội chủ nghĩa giành được thắng lợi thì đội ngũ trí thức vô sản
mới dần dần được hình thành bằng hai con đường: Sử dụng, cải tạo đội ngũ trí thức cũ

của các chế độ trước, và phát triển đội ngũ trí thức mới của giai cấp công nhân, nhất là
đào tạo mới từ con em lao động, trong đó, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức mới là cơ bản. V.I.Lênin chỉ ra rằng: Cũng như bất cứ giai cấp nào khác của xã hội
hiện đại, giai cấp vô sản không những chỉ tạo ra tầng lớp trí thức riêng của mình, mà còn
thu nạp cả những người ủng hộ mình trong tất cả mọi người có học thức. Đó chính là con
đường của quá trình hình thành đội ngũ tri thức mới, nhất là trong giai đoạn đầu khi giai
cấp công nhân mới giành được chính quyền: một mặt, khôn khéo sử dụng và cải tạo trí
thức cũ; mặt khác, tích cực đào tạo trí thức mới từ công-nông.
Trí thức vô sản có nhân sinh quan và thế giới quan mác-xít, gắn bó với nhân dân lao
động, khắc phục dần những đặc điểm của trí thức nói chung và khả năng phát huy vai trò
ngày càng cao trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
ở Việt Nam, kể từ sau thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính
quyền công nông được thiết lập, một đội ngũ trí thức mới - trí thức xã hội chủ nghĩa, trí
thức Việt Nam hiện đại được hình thành. Về con đường hình thành đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện đại cơ bản cũng tương tự như quá trình hình thành đội ngũ trí thức vô sản nói
chung. Tuy vậy, do đặc thù của xã hội Việt Nam vừa thoát thai từ một xã hội thuộc địa
nửa phong kiến, lạc hậu, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không qua thời kỳ
phát triển tư bản chủ nghĩa nên trí thức Việt Nam hiện đại chủ yếu xuất thân là con em
nông dân, công nhân, hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hoá giai cấp công
nhân và nông dân.
Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của
nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Nhìn chung, chỉ có một số
rất ít trong số trí thức được thừa hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc
điểm đó đã tạo cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động,
thông cảm với người lao động vất vả, cực nhọc, với hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất

nước. Thiết tha mong muốn xây dựng nước ta thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có nền kinh tế phát
triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng có thể thấy, giới trí thức Việt Nam nhận thức
rõ rằng: chỉ có sát vai cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động

nói chung mới có thể giải phóng cho họ, xoá được nghèo nàn, lạc hậu và xây dựng, phát
triển đất nước.
ở đây cũng cần lưu ý thêm rằng, xét về nhóm xã hội trí thức, các nhà nghiên cứu
thường dùng hai khái niệm: "tầng lớp trí thức" hay "đội ngũ trí thức". ở Việt Nam, do
điều kiện lịch sử trước đây còn có cách gọi trí thức cũ và trí thức mới nhằm phân biệt trí
thức được đào tạo dưới chính quyền, chế độ cũ với trí thức được đào tạo dưới chế độ
mới. Trong nhiều tài liệu, văn bản còn gọi là "trí thức xã hội chủ nghĩa". Từ trước đến
năm 1998, chủ yếu dùng thuật ngữ tầng lớp trí thức, thuật ngữ đội ngũ trí thức được thể
hiện trong văn bản lần đầu tiên tại Chỉ thị 45-CT/TƯ, ngày 11/11/1998 của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII. Từ đó đến nay thuật ngữ này được dùng
phổ biến thay cho thuật ngữ tầng lớp trí thức. Như vậy, thuật ngữ đội ngũ trí thức là cách
gọi mới thay thế cho khái niệm tầng lớp trí thức, một lực lượng quan trọng trong liên
minh chiến lược công nhân - nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Qua phân tích một số đặc trưng cơ bản của trí thức cùng quá trình hình thành đội
ngũ trí thức vô sản nói chung, trí thức Việt Nam hiện đại nói riêng trên đây giúp chúng ta
có cơ sở nhận thức rõ hơn về trí thức. Quan niệm đúng về trí thức là điều kiện quan trọng
cho việc khơi dậy và phát huy tiềm năng to lớn của trí thức, từ đó khai thác và sử dụng có
hiệu quả tiềm năng và sự cống hiến của họ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
1.1.2. Vai trò của trí thức trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.1.2.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Công nghiệp hoá xuất hiện vào giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa tư bản. ở thế
kỷ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hoá
được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Những khái niệm thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội nói chung và khái niệm công nghiệp hoá

nói riêng mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản
xuất xã hội.
ở nước ta công nghiệp hoá đã được tiến hành vào những năm 60 của thế kỷ XX, tuy
vậy do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau nên còn dẫn tới nhiều hạn

chế, khiếm khuyết. Kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với tinh
thần đổi mới, quan niệm về công nghiệp hoá được nhận thức lại một cách sâu sắc hơn,
đường lối công nghiệp hoá của Đảng ta đã có nhiều thay đổi, công nghiệp hoá gắn liền
với hiện đại hoá, là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ.
Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, đúc rút
những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá và từ thực tiễn công nghiệp
hoá trong thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và sau đó là Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương lần thứ 7, khoá VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định:
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát
triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao
động xã hội cao[14, tr.65].
Khái niệm công nghiệp hoá trên đây được Đảng ta xác định rộng hơn khái niệm
trước đó, bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế -
xã hội, được sử dụng bằng phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ
thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hoá trong tư tưởng mới là không bó hẹp
trong phạm vi trình độ của các lực lượng sản xuất đơn thuần để chuyển lao động thủ công
thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Công nghiệp hoá là một tất yếu khách quan của tất cả các nước có nền kinh tế kém
phát triển hoặc đang trong thời kỳ phát triển, muốn phát triển kinh tế theo hướng công
nghiệp. Đối với nước ta lại càng là một tất yếu. Tính tất yếu của công nghiệp hoá ở nước
ta được thể hiện trên cơ sở lý luận và thực tiễn của nó.

Cơ sở lý luận của công nghiệp hoá mà chúng ta dựa vào đó là học thuyết hình thái
kinh tế- xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là cơ sở cơ bản. Xuất phát từ
quy luật này chúng ta thấy rằng việc phát triển lực lượng sản xuất là vô cùng quan trọng.
Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, một hình thái kinh tế- xã hội ở nấc thang sau,

cao hơn chủ nghĩa tư bản, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ, dựa trên cơ
sở công hữu toàn bộ tư liệu sản xuất. Muốn vậy phải tiến hành công nghiệp hoá để phát
triển lực lượng sản xuất, nếu không phát triển lực lượng sản xuất theo hướng tiên tiến
hiện đại chúng ta không thể thiết lập được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở thực tiễn của công nghiệp hoá hiện nay trước hết là việc chúng ta đi lên chủ
nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, cơ sở
vật chất - kỹ thuật thấp kém, trình độ của lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa mới được thiết lập, chưa được hoàn thiện. Nhiệm vụ quan trọng
nhất của nước ta được xác định là phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội, trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên
tiến. Đồng thời, thực tiễn những thành công và sai lầm của quá trình công nghiệp hoá
trước đây là bài học kinh nghiệm cho chúng ta thấy không thể không tiến hành công
nghiệp hoá bởi công nghiệp hoá là con đường duy nhất để chúng ta có thể phát triển
mạnh mẽ các yếu tố của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật đảm bảo cho chủ nghĩa xã hội, vấn đề là phải lựa chọn phương pháp và bước đi cho
phù hợp.
Ngoài ra, thực tiễn cũng còn cho thấy, hiện nay do cách mạng khoa học, kỹ thuật và
công nghệ phát triển mạnh mẽ đã làm cho xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế
phát triển nhanh chóng hơn; tình hình đó tạo cho chúng ta những thuận lợi và khó khăn
về khách quan và chủ quan. Hiện có nhiều thời cơ và cũng không ít nguy cơ đang tồn tại
đan xen với nhau, tác động lẫn nhau, vừa tạo ra vận hội mới lại vừa cản trở, thách thức
nền kinh tế của nước ta. Chúng ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế, trong khi
nhiều quốc gia trên thế giới đã chuyển qua nền kinh tế hậu công nghiệp, nền kinh tế tri
thức điều đó buộc chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá.

Trong giai đoạn hiện nay, do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện
cụ thể của đất nước, công nghiệp hoá ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:
Một là, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Nói tới công nghiệp hoá là
phải nói tới hiện đại hoá, vì hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại. Hiện nay một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công

nghiệp sang kinh tế tri thức, vậy nên, chúng ta phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cận kinh tế tri thức để hiện đại hoá
những ngành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt.
Hai là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, nghĩa là công nghiệp hoá ở nước ta phải nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay khác với
công nghiệp hoá trong thời kỳ trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý tập trung - hành
chính, bao cấp, công nghiệp hoá được thực hiện theo kế hoạch, theo mệnh lệnh của Nhà
nước. Trong cơ chế thị trường hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình công nghiệp hoá, nhưng công nghiệp hoá không xuất phát từ chủ quan
của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng các quy luật khách quan mà trước hết là quy luật
thị trường.
Bốn là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu
hoá kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế là tất yếu
đối với nước ta. Công nghiệp hoá trong điều kiện "chiến lược" kinh tế mở chúng ta có thể
tiến hành nhanh nếu biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giúp đỡ
quốc tế. Tuy vậy, cũng trong điều kiện đó, do tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới,
do "trật tự" của nền kinh tế thế giới mà các nước tư bản thiết lập nên không có lợi cho các
nước nghèo, lạc hậu nên sẽ có nhiều trở ngại, vì thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

Từ khái niệm về công nghiệp hoá và những đặc điểm của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở nước ta hiện nay cho thấy, thực chất của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cả một sự nghiệp cách mạng to lớn, lâu dài và
không phải lúc nào cũng diễn ra thuận lợi. Đảng ta chỉ ra: con đường công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của đất nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự,
vừa có những bước nhảy vọt.

Mục tiêu tổng quát của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được
Đảng ta xác định tại Đại hội lần thứ VIII và tiếp tục khẳng định tại Đại hội lần thứ IX là:
Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc
phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao[18, tr.24].
Mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt là trong điều kiện khả năng về vốn vẫn
hạn hẹp; nhu cầu về công ăn việc làm còn bức bách; đời sống nhân dân còn nhiều khó
khăn; tình hình kinh tế - xã hội phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập
trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, ra sức phát triển một
cách toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản
nhằm khai thác tối đa hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư nghiệp, bảo đảm an
toàn về lương thực, thực phẩm cho xã hội, đảm bảo chất lượng, giá thành hạ, tăng khối
lượng hàng xuất khẩu, tạo điều kiện giải quyết lao động và việc làm cho một lực lượng
đông đảo lao động dư thừa ở nông thôn.
Để có thể thực hiện thắng lợi đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá và mục tiêu
đề ra, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đặt ra nhiều yêu cầu đối với toàn Đảng,
toàn dân chúng ta. Trong giai đoạn hiện nay sự nghiệp đó yêu cầu chúng ta cần phải phát
huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên

tiến, kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tranh thủ đi nhanh vào
công nghệ hiện đại ở những khâu quyết định, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức,
phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Những yêu cầu trên của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay đặt ra cho
toàn Đảng, toàn dân chúng ta nói chung, đội ngũ trí thức nước nhà nói riêng những nhiệm
vụ vẻ vang nhưng cũng hết sức nặng nề.
1.1.2.2. Vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
Trong mọi thời kỳ lịch sử phát triển của thế giới cũng như của nước ta, đội ngũ trí
thức luôn là lực lượng quyết định trong sáng tạo, truyền bá tri thức, có vai trò vô cùng to
lớn trong việc sáng tạo ra những giá trị tinh thần cũng như vật chất của nhân loại.
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đánh giá
cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự tiến bộ của xã hội, đặc biệt đánh giá rất
cao vai trò của trí thức trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Theo Ph.Ăngghen: “sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân còn cần những bác sĩ, kỹ sư, nhà hoá học, nông học và các chuyên gia
khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả
toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa, và ở đây cần những kiến thức vững chắc chứ không phải
là những câu suông sáo”[33, tr.613].
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về trí thức, trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, V.I.Lênin hiểu rõ tầm quan trọng của tri thức, trí tuệ và
hết sức coi trọng vai trò của trí thức, ông cho rằng trí thức chính là “niềm tự hào vĩ đại
của nhân loại” và khẳng định: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh
vực khoa học, kỹ thuật và có kinh nghiệm thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội
được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để

×