LUẬN VĂN:
Vấn đề phát huy vai trũ của Công đoàn Việt Nam
trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, Đảng ta
chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện để các thành
phần kinh tế cùng phát triển nhất là các DNNQD. Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định
kinh tế ngoài quốc doanh là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời là
chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN.
Tình hình phát triển kinh tế nhiều thành phần trong những năm qua cho thấy, khu vực
kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, chiếm tỷ
trọng ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế góp phần tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Sự phát triển nhanh của các DNNQD trong thời gian qua đã
mang lại hiệu quả to lớn. Đặc biệt là huy động được nguồn lực cho đầu tư phát triển đất
nước, tiếp thu khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại tiên tiến, xây dựng kết cấu hạ tầng,
tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, có ý nghĩa then chốt trong giải quyết các vấn đề xã
hội, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, đào tạo phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả
nước.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã tác động sâu sắc làm chuyển dịch cơ cấu
giai cấp công nhân nước ta bởi tính sở hữu hợp pháp của các thành phần kinh tế. Cơ cấu,
chất lượng đội ngũ công nhân lao động ở nước ta ngày càng phát triển phong phú, đa dạng
và thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh sự thay đổi mang tính tích cực đã có nhiều những bất
cập xảy ra: về việc làm, đời sống, công bằng xã hội, quan hệ chủ thợ v.v Nhiều chủ
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã không chấp hành, không làm
đúng các quy định của pháp luật lao động, vi phạm quyền lợi của người lao động như việc
làm, tiền lương, giao kết hợp đồng lao động, BHLĐ, ký kết TƯLĐTT, điều kiện làm việc
cho người lao động. Vì vậy đã phát sinh nhiều mâu thuẫn trong quan hệ lao động, tình
trạng tranh chấp lao động và đình công của công nhân lao động trong các doanh nghiệp
ngày càng ra tăng và có nhiều diễn biến phức tạp, nhất là trong các doanh nghiệp khu vực
ngoài quốc doanh.
Đi đôi với chính sách mở cửa hội nhập với nền kinh tế quốc tế là công cuộc cải cách
hành chính của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đan
xen cùng phát triển; chính sách cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, tạo thế chủ động
cho các doanh nghiệp phát triển. Trong quá trình sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nước một bộ phận công nhân lao động nghỉ chế độ chính sách hoặc chuyển sang các
thành phần kinh tế khác trong các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do đó số công
nhân lao động trong doanh nghiệp Nhà nước giảm.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và
người lao động, với chức năng bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của các DNNQD, việc thành lập công đoàn cơ sở ở các
doanh nghiệp này để bảo vệ lợi ích cho người lao động là một nhiệm vụ trọng tâm của tổ
chức Công đoàn, nhằm tập hợp đông đảo giai cấp công nhân nâng cao nhận thức cho
công nhân lao động về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo vệ
lợi ích người lao động, đồng thời xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà ổn định nhằm
phát triển sản xuất kinh doanh tiến tới công bằng, dân chủ văn minh.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giai đoạn mới của tổ chức Công đoàn
là phải đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động, nhanh chóng mở rộng phạm vi, đối
tượng tập hợp đông đảo công nhân lao động trong các thành phần kinh tế vào tổ chức
Công đoàn. Đây là yêu cầu khách quan của tổ chức công đoàn và hoàn toàn phù hợp với
chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
Xuất phát từ những điều nói trên, tác giả chọn đề tài: “Vấn đề phát huy vai trũ của
Cụng đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu và hy vọng góp phần vào việc nghiên
cứu và đề ra những giải pháp để xây dựng và nâng cao vai trò của Công đoàn trong các
DNNQD.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho đến nay, trước sự chuyển biến của nền kinh tế thế
giới, trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở xã hội - chính trị của tổ chức công
đoàn đã có những biến đổi quan trọng. Nhiều nhà lý luận công đoàn trong nước và nước
ngoài đã viết những tác phẩm về chủ đề công đoàn và các giải pháp của nó nhằm tập hợp
ngày càng đông đảo quần chúng để bảo vệ lợi ích của bản thân người lao động trước những
thách thức của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Tôn Trung Phạm một nhà nghiên
cứu về giai cấp công nhân, công đoàn ở Trung Quốc đã có tác phẩm “Kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa và công đoàn” (người dịch sang tiếng Việt: Nguyễn Tiến Chiên, do Ban đối
ngoại Tổng Liên Đoàn Việt Nam, Trường Đại học Công đoàn và nhà xuất bản lao động xuất
bản năm 1997. Hai tác giả người Nga: V.N.Kiselev và V.G Smolkov đã có tác phẩm “Quan
hệ đối tác xã hội ở Nga”, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của công đoàn trong quan hệ đối tác
ba bên: Công đoàn (đại diện cho người lao động), giới chủ và nhà nước. Các tác giả này đã
có nhiều ý kiến giá trị cho cán bộ công đoàn Việt Nam tham khảo.
Trước yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, xuất phát từ tầm quan
trọng của việc nâng cao vị trí, vai trò và chức năng của Công đoàn Việt Nam để đáp ứng
đòi hỏi của thời kỳ hội nhập, nhiều nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã tập trung nghiên cứu
về Công đoàn. Có thể liệt kê một số tác giả, tác phẩm mới được công bố những năm gần
đây như:
“Giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, Nxb Lao động, năm
2003.
“Nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài” của TS. Dương Văn Sao, chủ biên, Nxb Lao động, năm 2003.
“Lý luận Mác - Lênin về công đoàn và vận dụng vào hoạt động công đoàn Việt Nam
trong kinh tế thị trường” của PGS.TS Nguyễn Viết Vượng, năm 2005.
Ngoài ra, còn có một số bài nghiên cứu về vai trò của công đoàn trên các tạp chí,
"Mấy suy nghĩ về công tác đào tạo, quy hoạch cán bộ Công đoàn hiện nay" của Lê Phan
Ngọc Rỉ, Tạp chí Lao động và Công đoàn, ngày 2 tháng 8 năm 1999,"Công đoàn Việt
Nam với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng" của Cù Thị Hậu, Tạp chí Cộng sản,
tháng 4 năm 2000,“Vai trò của Công đoàn Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” của
PGS.TS Nguyễn Viết Vượng Tạp chí Cộng sản, tháng 7 năm 2007
Các công trình và bài viết nêu trên phần lớn tập trung phân tích và khẳng định
những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin công đoàn, đồng thời đặt những luận điểm
này trong những điều kiện lịch sử cụ thể để phân tích, nghiên cứu. Về Công đoàn, các
công trình, bài viết đó chỉ đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng và Công đoàn, những giải
pháp để nâng cao vai trò của Công đoàn nói chung. Trong khi đó “Vấn đề phát huy vai
trò của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động hiện nay" đặc
biệt là trong các DNNQD chưa trình bày một cách cơ bản và có hệ thống trong bất kỳ
một công trình khoa học nào, nếu có thì cũng chỉ được trình bày lướt qua, đề cập đến một
biểu hiện nào đó của vấn đề mà thôi. Vì vậy, đề tài “Vấn đề phát huy vai trò của Công
đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh hiện nay" không trùng lặp với các công trình, bài viết đã được công bố.
Trong đề tài này, tác giả đã kế thừa có chọn lọc các kết quả của những công trình có
trước, tiếp tục bổ sung, phát triển hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ vấn đề. Tác giả cũng hy
vọng rằng có thể vận dụng được những kết quả nghiên cứu vào hoạt động thực tiễn để tổ
chức Công đoàn đạt được hiệu quả tốt hơn trong bảo vệ lợi ích của người lao động ở các
DNNQD, để công đoàn xứng đáng là tổ chức chính trị - xã hội của người lao động hiện
nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm sáng rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động ở các
DNNQD, luận văn góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xác định những giải pháp
thực hiện tốt vai trò của Công đoàn trong tình hình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn đề cập đến các nội dung cơ
bản sau:
+ Công đoàn Việt Nam và vai trò của nó.
+ Thực trạng vai trò của Công đoàn Việt Nam đặc biệt là vai trò bảo vệ lợi ích của
người lao động ở DNNQD hiện nay.
+ Quan điểm và giải pháp nhằm phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam trong
việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở DNNQD hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Để hoàn thành mục tiêu đề ra, luận văn đi sâu phân tích
đánh giá Vai trò của công đoàn và phát huy vai trò của Công đoàn Việt Nam ở DNNQD
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu và tìm hiểu vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để giải quyết nhiệm vụ của luận văn, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của Công đoàn.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp kết hợp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
so sánh và điều tra xã hội học trong việc nghiên cứu để thực hiện được nhiệm vụ và đạt
được mục đích mà luận văn đề ra.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Từ việc phân tích vị trí của Công đoàn Việt Nam, luận văn đã làm rõ vai trò của
Công đoàn Việt Nam trong việc bảo vệ lợi ích của người lao động ở các DNNQD và đề
xuất một số giải pháp để phát huy vai trò của Công đoàn trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các cán bộ công đoàn hoạt
động, phục vụ công tác giảng dạy tại các trường đào tạo cán bộ công đoàn các cấp.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- ý nghĩa lý luận:
+ Luận văn làm rõ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về công đoàn, vai trò của
Công đoàn và vận dụng những quan điểm lý luận trên vào nghiên cứu vai trò của công
đoàn trong các DNNQD.
+ Làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của công đoàn
và vận dụng những quan điểm trên vào giải quyết vấn đề vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ
lợi ích người lao động.
+ Những quan điểm của các nhà khoa học về sự chuyển biến của hoạt động công
đoàn trước tác động của hội nhập kinh tế quốc tế.
- ý nghĩa thực tiễn:
+ Làm rõ sự chuyển biến của hoạt động Công đoàn thế giới và Việt Nam trước tác
động của hội nhập hiện nay.
+ Phân tích thực trạng hoạt động Công đoàn Việt Nam trong những DNNQD hiện
nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.
Chương 1
Một Số Vấn Đề Lý Luận CHUNG
Về VAI Trò Của CÔNG Đoàn TRONG Việc Bảo Vệ
Lợi ích Của Người LAO Động
1.1. Lý luận chung về vai trò của công đoàn trong việc bảo vệ lợi ích của người
lao động
1.1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin về vai trò bảo vệ lợi ích
người lao động của Công đoàn
1.1.1.1. Quan điểm của C.Mác - Ph.Ăngghen
Lý luận về Công đoàn của C.Mác và Ph.Ăngghen gắn liền với học thuyết về giai
cấp công nhân, về vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại chúng ta.
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Ph.Ăngghen phân tích rất
sâu sắc quá trình phát triển của phong trào công nhân. ở tác phẩm này, hai ông xem xét
các trình độ khác nhau trong sự phát triển của giai cấp vô sản và đã đi đến kết luận rằng,
việc tổ chức những người vô sản thành một giai cấp là yêu cầu khách quan của lịch sử.
Khi nói về sự phát triển của công đoàn trong “Chỉ thị gửi các đại biểu Hội đồng Trung
ương lâm thời”, C.Mác nhận định rằng, hoạt động của công đoàn nhằm cố gắng chặn
đứng cuộc tấn công không ngừng của tư bản vào những người lao động cần được mở
rộng một cách phổ biến bằng cách lập ra những công đoàn trong tất cả các nước và liên
hiệp những trung tâm tổ chức đối với giai cấp công nhân nhằm loại trừ chế độ làm thuê
và quyền lực của tư bản.
C.Mác coi các Công đoàn là một lực lượng hùng hậu chống lại chế độ nô lệ làm thuê,
nêu rõ những nhiệm vụ của Công đoàn khi đã đặt cho mình sứ mệnh giải phóng toàn bộ
giai cấp công nhân, thì các Công đoàn phải rèn luyện năng lực hoạt động một cách tự giác,
ủng hộ mọi phong trào xã hội, phải tự coi mình là những đại biểu của giai cấp công nhân
và chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp đó.
Đối với C.Mác, tổ chức Công đoàn xuất hiện là yêu cầu khách quan của phong trào
công nhân trên bước đường đấu tranh chống giai cấp tư sản. Trong bức thư gửi Ph.Bôn-tơ
ngày 23 tháng 1 năm 1871, C.Mác nhận định rằng, những mục tiêu quần chúng rộng lớn,
nhiệm vụ đấu tranh chính trị và kinh tế đã xác định rõ ràng, phong trào chính trị của giai
cấp công nhân có mục tiêu cuối cùng là giành chính quyền về tay mình. Muốn thế, thì
trước đó, phải có một tổ chức của giai cấp trưởng thành từ trong bản thân cuộc đấu tranh
kinh tế rời rạc của công nhân ở khắp nơi, đó là tổ chức Công đoàn.
C.Mác cổ vũ cho các Công đoàn hãy biết thống nhất lực lượng đấu tranh cho mục
tiêu giải phóng hoàn toàn giai cấp công nhân. Người viết:
Các công đoàn phải ủng hộ mọi phong trào xã hội và chính trị nhằm mục
tiêu ấy. Tự coi mình là những người đại biểu của toàn bộ giai cấp công nhân và
chiến đấu cho quyền lợi của giai cấp công nhân và chiến đấu cho quyền lợi của
giai cấp đó, các công đoàn phải thu hút vào hàng ngũ mình cả những công
nhân chưa đứng trong tổ chức. Các công đoàn cần đặc biệt quan tâm đến quyền
lợi của những người công nhân làm nghề có lương thấp nhất. Các Công đoàn
phải làm cho toàn thế giới thấy rằng mình chiến đấu không phải vì những
quyền lợi cá nhân hẹp hòi, mà là để giải phóng hàng triệu người bị áp bức [20,
tr.104-105].
Sau khi xác định vị trí của Công đoàn trong đấu tranh của giai cấp vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản trong cuộc đấu tranh ấy,
đồng thời cho rằng các Công đoàn đóng vai trò to lớn trong việc ngăn chặn những cuộc
chiến tranh phục vụ quyền lợi của giai cấp cầm quyền ở các nước tư bản. Hai ông đã cố
gắng cổ vũ, thu hút các công đoàn vào cuộc đấu tranh chống lại những cuộc chiến tranh
đó v.v …
Như vậy, Công đoàn ra đời dưới chế độ tư bản, bắt nguồn từ sự phản kháng của
công nhân chống lại sự áp bức bất công của giới chủ. Trong học thuyết của C. Mác và
Ph. Ăngghen, công đoàn với với chức năng bẩm sinh đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp
công nhân có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển biến giai cấp công nhân từ tự phát
lên tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp vì mình”. Điều mà C.Mác khẳng định:
Các công đoàn đó trở thành những trung tâm tổ chức đối với công nhân
cũng giống như những thị xã và công xã thời trung cổ là những trung tâm tổ
chức đối với giai cấp tư sản. Nếu công đoàn cần thiết cho cuộc đấu tranh du
kích giữa tư bản và lao động, thì công đoàn lại càng quan trọng hơn với tư cách
là một lực lượng có tổ chức để tiêu diệt bản thân chế độ lao động làm thuê và
quyền lực của tư bản [20, tr.235- 236].
Trong quá trình chuyển biến về chất của phong trào công nhân, Công đoàn trở thành
trường học đấu tranh giai cấp, ở đó công nhân được tập hợp, đoàn kết thành trung tâm
phản kháng đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, chống lại quyền lực của chế độ tư bản
đương thời.
1.1.1.2. Quan điểm của V.I.Lênin về vai trò của Công đoàn trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Tiếp tục phát triển lý thuyết của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra vai trò
trường học của Công đoàn. Theo Lênin, bản chất Công đoàn là trường học CNCS vẫn
không thay đổi ngay trong điều kiện của chính sách kinh tế mới. Song, sự thể hiện vai trò
đó được bổ sung thêm những nội dung mới. Đồng thời cũng có những thay đổi tương ứng
về hình thức và phương pháp công tác của Công đoàn.
Cũng như trước đây, chức năng hoạt động chủ yếu của Công đoàn vẫn là những
phương hướng hoạt động có liên quan đến việc thu hút đông đảo quần chúng lao động
tham gia quản lý sản xuất và các công việc xã hội khác, bồi dưỡng cho quần chúng những
phương pháp quản lý kinh tế - xã hội chủ nghĩa, phổ biến cho công nhân viên chức những
thao tác lao động mới và phương pháp tổ chức quá trình sản xuất, giáo dục cho họ thái độ
lao động mới đối với lao động và tài sản, kỷ luật lao động mới, tinh thần làm chủ xí
nghiệp, tinh thần làm chủ đất nước. Đó chính là những chức năng trường học quản lý,
trường học kinh doanh của Công đoàn.
Điều có ý nghĩa quan trọng là Công đoàn tham gia vào việc xây dựng tất cả cơ quan
Nhà nước và kinh doanh về quản lý kinh tế. Công đoàn có quyền giới thiệu ứng cử viên
của mình vào các chức vụ quản lý hành chính - kinh tế. Có quyền xét duyệt các ứng cử
viên thuộc về tổ chức Đảng và các cơ quan chính quyền. Chức năng Công đoàn là trường
học quản lý, trường học kinh doanh cũng được thực hiện bằng cách đại diện của Công
đoàn tham gia với tư cách là thành viên của các cơ quan tối cao của Nhà nước, các ban
lãnh đạo kinh tế, ban giám đốc nhà máy, người quản lý, trợ lý của người quản lý v.v
Nội dung chức năng của công đoàn là trường học quản lý, trường học kinh doanh
còn bao gồm cả việc Công đoàn tham gia vào việc thiết lập kế hoạch sản xuất. Với mục
đích đó, Đảng đã nêu rõ sự cần thiết phải có đại diện của Công đoàn tham gia vào tất cả
các cơ quan kế hoạch của Nhà nước vô sản. Như Lênin đã nhấn mạnh, hoạt động của
Công đoàn
Phải lôi cuốn ngày càng sâu rộng giai cấp công nhân và quần chúng lao
động vào toàn bộ sự nghiệp xây dựng kinh tế, toàn bộ hoạt động công nghiệp,
từ việc thu mua nguyên liệu đến việc bán sản phẩm, bằng cách làm cho họ có
một ý niệm ngày càng cụ thể về kế hoạch kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất
của Nhà nước cũng như về lợi ích thực tiễn của công nhân và nông dân trong
việc thực hiện kế hoạch đó [15, tr.424-425].
Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong lý thuyết của Lênin về Công đoàn là
bảo vệ lợi ích của người lao động.
Chính sách kinh tế mới do Lênin đề xướng đã mang lại hàng loạt những biến đổi quan
trọng về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện một chức năng nữa của Công đoàn
là gắn liền với việc bảo vệ lợi ích kinh tế, các quyền của công nhân viên chức, việc quan
tâm đến điều kiện lao động và sinh hoạt của họ.
Lênin từng nhấn mạnh: Công đoàn có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của người lao động
theo ý nghĩa đúng đắn và trực tiếp của từ đó. Bằng cách thường xuyên và không ngừng
sửa chữa những thiếu sót và sự cường điệu vấn đề của cán bộ phụ trách, đấu tranh chống
mọi biểu hiện quan liêu trong công tác của các cơ quan kinh tế và bộ máy quản lý Nhà
nước, tuỳ khả năng cho phép, Công đoàn cần tạo mọi điều kiện để cải thiện điều kiện lao
động và sinh hoạt của công nhân viên chức, nâng cao phúc lợi vật chất của họ. Mọi tổ
chức công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ ở các xí nghiệp nhà nước tuyệt nhiên không
mang và không thể mang tính chất đấu tranh giai cấp về mặt kinh tế.
Theo Lênin, Công đoàn dưới CNXH phải gánh vác lấy những nhiệm vụ đặc biệt và
một trách nhiệm đặc biệt trong công cuộc xây dựng CNXH. Bởi vì, giai cấp công nhân, mà
Công đoàn là người đại diện, từ địa vị bị thống trị, áp bức dưới chế độ tư bản, nay đó trở
thành giai cấp lãnh đạo, quản lý xã hội, quản lý nhà nước. Do đó, Công đoàn trở thành
trung tâm đoàn kết, tập hợp, giáo dục công nhân, lao động xây dựng xã hội mới - xã hội
XHCN. Theo đó, nhiều nội dung mới về nhiệm vụ, vai trò và chức năng của Công đoàn đó
được Lênin làm sáng tỏ như việc tham gia của Công đoàn vào quản lý kinh tế, văn hoá - xã
hội, quản lý nhà nước. Đặc biệt Người đó cụ thể hoá, phát triển nhiều vấn đề rất mới, chưa
có tiền lệ đặt ra đối với việc bảo vệ lợi ích của người công nhân, người lao động trong quá
trình xây dựng CNXH.
Trong khi đấu tranh với những quan điểm sai lầm về chức năng của Công đoàn
trong tình hình mới, Lênin khẳng định:
Nhà nước công nhân cũng mắc bệnh quan liêu. Và chúng ta buộc phải gắn
cho Nhà nước - biết nói như thế nào nhỉ - cái nhãn hiệu đáng buồn đó. Đó là tình
hình thực tế của bước quá độ. Trong một Nhà nước được hình thành trong những
điều kiện cụ thể như vậy, chẳng lẽ công đoàn lại không có cái gì để bảo vệ hay
sao? [15, tr.52].
Lênin còn chỉ rõ: “Các công đoàn có nhiệm vụ tuyệt đối phải bảo vệ lợi ích của
công nhân, phải góp phần vào phúc lợi vật chất của họ trong phạm vi có thể được, phải
luôn luôn uốn nắn những sai lầm và những việc làm thái quá của các cơ quan kinh tế, khi
những cái đó là do một sự lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của bộ máy Nhà nước gây ra” [15,
tr.9]. Theo Lênin, chúng ta cần phải dùng Công đoàn để bảo vệ công nhân khỏi bị sự xâm
phạm của Nhà nước của họ và để công nhân bảo vệ Nhà nước của chúng ta. Và cả hai sự
bảo vệ đó được tiến hành bằng một sự kết hợp độc đáo những biện pháp Nhà nước của
chúng ta với sự thoả thuận của chúng ta, sự “kết hợp” với các công đoàn của chúng ta
[15, tr.53].
Điều đó thể hiện sự vận dụng, phát triển sáng tạo nhiệm vụ, chức năng bảo vệ lợi
ích người lao động trong điều kiện hoàn cảnh mới. Về vấn đề bãi công trong chặng
đường đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đã có những chỉ dẫn hết sức quý giá.
Người không những thừa nhận thực tế hoạt động bãi công, mà cũng làm rõ nguyên nhân
của hoạt động này:
Đảng cộng sản, cũng như chính quyền xô viết, cũng như các công đoàn,
đều tuyệt đối không được quên và không được dấu không cho công nhân và quần
chúng cần lao biết rằng việc dùng đến đấu tranh bói cụng trong một nước mà
chính quyền thuộc về tay giai cấp vô sản chỉ có thể giải thích và biện hộ duy nhất
bằng một mặt, những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa của Nhà nước vô sản và mọi
thứ tàn dư của quá khứ tư bản chủ nghĩa trong các tổ chức của Nhà nước vô sản,
và mặt khác, bằng trình độ chính trị của quần chúng cần lao cũng thấp kém và
trình độ văn hoá của họ cũng lạc hậu mà thôi [15, tr.123].
Từ đó, Lênin chỉ ra nhiệm vụ đặc biệt và trách nhiệm cũng như phương pháp đặc
biệt của Công đoàn khi bãi công xảy ra: nhiệm vụ các công đoàn là phải góp phần giải
quyết thật nhanh chóng và không đau đớn những xung đột đó, làm thế nào cho những
nhóm công nhân mà các công đoàn ấy thấy được mặt lợi nhiều nhất, nhưng với điều kiện
là có thể thực hiện được những điều lợi ấy mà không hại đến nhóm công nhân khác, cũng
không hại đến sự phát triển của Nhà nước công nhân và của nền kinh tế xét về toàn bộ
của Nhà nước đó, vì chỉ có sự phát triển đó mới có thể tạo ra một cơ sở cho phúc lợi vật
chất và tinh thần của giai cấp công nhân. Phương pháp duy nhất đúng, lành mạnh và hợp
lý để giải quyết những va chạm và xung đột giữa những bộ phận nào đó của giai cấp công
nhân với những cơ quan Nhà nước công nhân, là sự trung gian của các công đoàn; với
những cơ quan đại diện riêng của mình, mỗi công đoàn hoặc là điều đình với những cơ
quan kinh tế hữu quan, trên cơ sở những yêu sách và đề nghị mà hai bên nêu ra một cách
thật rõ ràng, hoặc là nhờ đến cấp trên có thẩm quyền của Nhà nước.
Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh, nhiệm vụ của các công đoàn là phải góp phần thanh
toán cho thật nhanh những xung đột bằng những biện pháp nhằm loại bỏ những cái thật là
không bình thường và vô trật tự, nhằm giải quyết những yêu sách chính đáng và có thể
thực hiện được của quần chúng, nhằm tác động vào quần chúng về mặt chính trị Và
Lênin xác định:
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để đánh
giá sự đúng đắn và thành công trong hoạt động của một công đoàn, là mức độ
mà công đoàn đó đã đạt được trong việc ngừa trước được một cách có ích
những xung đột to lớn trong những xí nghiệp Nhà nước bằng một chính sách
ngừa trước nhằm thực sự bảo vệ lợi ích quần chúng công nhân trong mọi lĩnh
vực, và loại bỏ kịp thời những lý do xung đột [15, tr.123-124].
Có thể nói những luận điểm của Lênin về Công đoàn nói chung và việc bảo vệ lợi
ích của người lao động nói riêng trong công cuộc xây dựng CNXH, đặc biệt là trong thời
kỳ thực hiện chính sách kinh tế mới, rất phong phú và hàm chứa rất nhiều chỉ dẫn sâu sắc
cho hoạt động bảo vệ lợi ích người lao động của Công đoàn.
Tóm lại, vai trò bảo vệ lợi ích người lao động của tổ chức công đoàn không chỉ có ý
nghĩa về mặt tư tưởng, lý luận mà còn cả về mặt hoạt động thực tiễn. Vai trò đó là sự cụ
thể hoá chức năng của tổ chức công đoàn thông qua hoạt động của mình. Đây chính là
vấn đề khách quan nảy sinh trong quá trình phân công và hợp tác lao động của con người.
Lý luận mác xít khẳng định: “ở đâu không có sự nhất trí về lợi ích thì ở đó sẽ không có
sự nhất trí về mục đích tư tưởng chứ đừng nói gì có sự nhất trí trong hành động” [19,
tr.11].
1.1.2. Quan niệm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) về bảo vệ lợi ích người
lao động
Tổ chức lao động Quốc tế (gọi tắt là ILO) được thành lập năm 1919, là cơ quan chuyên
môn phụ trách công tác xã hội và lao động của Liên hợp quốc, là tổ chức quốc tế duy nhất có cơ
chế mang tính ba bên trong hệ thống của Liên hợp quốc.
Ngay từ thế kỷ XIX, ý tưởng thành lập tổ chức này đã hình thành trong một số nước
công nghiệp hoá. Vào ngay trước khi kết thúc cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất, người
ta đã nhận thức được rằng, cần đấu tranh với ảnh hưởng có hại do công nghiệp hoá đem
lại, cần phải có những nỗ lực chung mang tính quốc tế. Nếu như người lao động không
nhận được đãi ngộ công bằng về xã hội và kinh tế, thì sẽ không thể nói đến hoà bình thế
giới thực sự.
Sau khi đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, các nước tham chiến đã họp hội nghị
hoà bình tại Pari vào đầu năm 1919, ký kết hiệp ước hoà bình. Tại hội nghị đã thành lập hội
đồng lập pháp lao động do 15 nước cấu thành, đây là tiền thân của Tổ chức lao động quốc
tế. Hội đồng đã soạn thảo ra 9 nguyên tắc liên quan tới vấn đề lao động và “Dự thảo
chương trình Tổ chức lao động quốc tế”, được hội nghị hoà bình Pari thảo luận thông qua,
là phần thứ 13 của “Hiệp ước hoà bình Véc xây”, tức cái gọi là “Hiến chương lao động
quốc tế”, đặt nền tảng cho “Chương trình Tổ chức lao động quốc tế” sau này.
Mục đích thành lập của Tổ chức lao động quốc tế và hoạt động chủ yếu của nó là
làm công tác lập pháp lao động quốc tế, tức đề ra và thúc đẩy thực hiện công ước lao
động quốc tế và kiến nghị thư, gọi chung là tiêu chuẩn lao động quốc tế, nhằm thúc đẩy
bảo vệ quyền lợi cơ bản của người lao động trên toàn thế giới. Là cơ quan chuyên môn
lập pháp lao động quốc tế, kể từ khi thành lập năm 1919 đến nay, Tổ chức lao động quốc
tế đã có lịch sử hơn 80 năm, vào năm 1969 khi nó kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, còn
nhận được giải thưởng hoà bình Nô ben. Tổ chức lao động quốc tế hiện có 178 nước
thành viên.
Cơ quan chủ yếu của Tổ chức Lao động quốc tế là Đại hội, hội đồng lao động quốc
tế và Cục lao động quốc tế. Đại hội lao động quốc tế là cơ quan quyền lực tối cao của Tổ
chức lao động quốc tế. Trong trường hợp bình thường, cứ cách 6 năm lại tổ chức hội nghị
tại Giơ-ne-vơ, Thuỵ Sĩ, do mỗi nước thành viên cử đoàn đại biểu ba bên (bao gồm đại
biểu chính phủ 2 người, đại biểu công nhân và chủ thuê mỗi bên 1 người, tổng cộng 4
người) tham dự. Đại biểu ba bên được hưởng địa vị bình đẳng, các bên phát biểu ý kiến
một cách độc lập, tiến hành bỏ phiếu một cách độc lập. Nhiệm vụ chủ yếu của đại hội,
ngoài nghe báo cáo của Cục trưởng Cục lao động quốc tế ra, chủ yếu là đề ra công ước
lao động quốc tế và kiến nghị thư, và thẩm tra tình hình chấp hành của các nước đối với
những công ước và kiến nghị thư này.
Đề xướng hợp tác giữa công nhân và chủ thuê nhằm thúc đẩy kinh tế và xã hội
phát triển là nền tảng tư tưởng quan trọng thực hiện nguyên tắc có tính ba bên của Tổ
chức lao động quốc tế. Những việc mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm và xử lý
nói chung đều liên quan tới quyền lợi và nghĩa vụ của công nhân, chủ thuê các nước.
Khi thảo luận và quyết sách đối với những công việc này, thu hút đại biểu công nhân
và đại biểu chủ thuê cùng với chính phủ nghiên cứu, bàn bạc và đưa ra quyết định với
địa vị bình đẳng, thể hiện ý nguyện sự tôn trọng đối với các bên đương sự quan hệ lao
động nhằm tìm kiếm thông qua bàn bạc thảo luận đi tới nhận thức chung. Quyết định
được đưa ra như vậy tương đối chiếu cố đến các bên liên quan, tiện cho đưa ra thực
hiện.
1.1.2.1. Tiêu chuẩn lao động quốc tế là xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân
trên phạm vị thế giới
Quyền lợi công nhân còn gọi là quyền lợi lao động, là quyền lợi xã hội liên quan tới
lao động mà người lao động trong quan hệ lao động hiện đại mà pháp luật quy định được
hưởng đồng thời với thực hiện nghĩa vụ lao động.
Trong “Tuyên ngôn Floriđa” đã xác định: “Toàn nhân loại không phân biệt chủng tộc,
tín ngưỡng và giới tính đều có quyền mưu cầu phúc lợi vật chất và phát triển tinh thần
trong điều kiện tự do và tôn nghiêm, bảo đảm kinh tế và bình đẳng cơ hội”. Vì vậy, Tổ
chức lao động quốc tế cần phải thông qua phương thức đề ra và thực hiện tiêu chuẩn lao
động quốc tế để xác lập và bảo đảm quyền lợi công nhân trên phạm vi thế giới, cải thiện
điều kiện lao động của công nhân các nước, nhằm đạt tới mục tiêu bảo vệ CNXH và hoà
bình thế giới.
Là một thứ nhân quyền cơ bản, quyền tự do thành lập tổ chức chiếm vị trí quan trọng
trong lập pháp nhân quyền quốc tế. Đại hội lao động quốc tế khoá 31 năm 1948 đã thông qua
“Công ước tự do thành lập tổ chức và bảo đảm quyền lợi tổ chức” (số 87), công ước này lấy
quyền lợi công dân “tự do thành lập tổ chức” trong hiến pháp nhà nước dân chủ làm căn cứ
và xuất phát điểm, quy định cụ thể những nội dung và yêu cầu của quyền kết thành tổ chức.
Đại hội lao động quốc tế khoá 32 năm 1949 lại thông qua “Công ước quyền tổ chức và
quyền đàm phán tập thể” (số 98), nó có thể được coi là sự bổ sung đối với công ước số 87.
Hai công ước này cấu thành tiêu chuẩn lao động quốc tế hạt nhân ở các mặt quyền tự do
thành lập tổ chức và quyền đàm phán tổ chức”.
Công ước số 87 có mấy điểm quan trọng như sau: một là, về tự do thành lập tổ
chức: “Tất cả công nhân và chủ thuê, đều cần có quyền thành lập tổ chức mà bản thân họ
lựa chọn một cách không có bất kỳ sự phân biệt nào, và chỉ dựa vào chương trình của tổ
chức liên quan đưa vào tổ chức mà bản thân họ lựa chọn, chứ không cần phải được phê
chuẩn trước”. Hai là, “Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều có quyền đề ra chương
trình và quy định của họ, bầu ra kế hoạch công tác của mình một cách tự do đầy đủ;
đương cục chính phủ không được có bất kỳ hạn chế nào đối với quyền lợi nói trên, hoặc
tiến hành ngăn trở đối với việc thực hiện hợp pháp quyền lợi nói trên”.
Công ước số 98 có các điểm quan trọng như sau: Công nhân cần được bảo vệ đầy
đủ, nhằm ngăn ngừa chịu bất cứ hành vi kỳ thị bài xích công đoàn nào về mặt việc làm.
Tổ chức công nhân và tổ chức chủ thuê đều cần được bảo vệ đầy đủ, nhằm ngăn ngừa bất
kỳ hành vi một bên trực tiếp hoặc thông qua người đại diện hoặc hội viên can thiệp bên
kia trong các mặt thành lập tổ chức, triển khai hoạt động hoặc quản lý nội bộ. Đối với cơ
chế tiến hành đàm phán tự nguyện giữa chủ thuê hoặc tổ chức chủ thuê với tổ chức công
nhân, chính phủ cần có biện pháp phù hợp với tình hình nước mình để khuyến khích.
ILO chủ trương xoá bỏ lao động cưỡng bức: Đại hội lao động quốc tế năm 1930 đã
thông qua “Công ước lao động cưỡng bức” (số 29), khi đó điểm nhấn của việc đề ra công
ước này là ở chỗ giải quyết vấn đề lao động cưỡng chế ở các thuộc địa. Đến Đại hội lao
động quốc tế năm 1957, lại thông qua “Công ước phế bỏ lao động cưỡng bức” (số 105).
Công ước này yêu cầu, phế bỏ ngay lập tức và triệt để lao động cưỡng chế hoặc lao động
nghĩa vụ dùng vào mục đích chính trị, phế bỏ lao động cưỡng bức lấy bất cứ hình thức
nào dưới đây làm mục đích: như coi đó là một biện pháp áp chế chính trị hoặc giáo dục
chính trị, hoặc làm một sự trừng phạt đối với việc có hoặc phát biểu quan điểm chính trị
hoặc quan điểm tư tưởng nào đối lập với chế độ chính trị, xã hội hoặc kinh tế có sẵn; coi
nó là một biện pháp động viên và sử dụng lao động để phát triển kinh tế; coi nó là một
biện pháp để bảo vệ kỷ luật lao động; coi nó là một sự trừng phạt đối với thành viên tham
gia bãi công; coi nó là một biện pháp để thực hiện kỳ thị chủng tộc, xã hội, dân tộc và tôn
giáo.
Bảo vệ hữu hiệu quyền lợi trẻ em, từng bước loại bỏ hiện tượng lao động trẻ em là
một vấn đề mà Tổ chức lao động quốc tế quan tâm lâu dài kể từ ngày thành lập. Trong
chương trình của ILO, tổ chức này đã coi bảo vệ lao động trẻ em và công nhân vị thành
niên là một nhiệm vụ bức thiết của mình. “Công ước độ tuổi thấp nhất” (số 138) năm
1973 và “Công ước lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất” (số 182) năm 1999 là hai công
ước trung tâm quan trọng đề cập tới nghiêm cấm vấn đề lao động trẻ em.
Công ước số 138 yêu cầu các nước thành viên đề ra chính sách quốc gia loại bỏ hữu
hiệu lao động trẻ em và từng bước nâng cao độ tuổi làm việc thấp nhất, theo quy định của
công ước, độ tuổi thấp nhất cho phép làm việc không được thấp hơn độ tuổi hoàn thành
giáo dục nghĩa vụ, và trong bất cứ trường hợp nào không được thấp hơn 15 tuổi; nhưng
nếu như cơ sở kinh tế và giáo dục của nước thành viên không đủ phát triển, thì phải bước
đầu quy định độ tuổi thấp nhất là 14 tuổi sau khi đã bàn bạc với tổ chức chủ thuê và tổ
chức công nhân hữu quan.
Tổ chức lao động quốc tế đã tính đến, hoàn toàn xoá bỏ lao động trẻ em là một
nhiệm vụ lâu dài và khó khăn, cần phải thông qua tiêu chuẩn lao động mới, nhằm bổ sung
công ước số 138 năm 1973 vẫn là tiêu chuẩn lao động cơ bản về mặt lao động trẻ em, coi
cấm và loại bỏ lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất là mục tiêu ưu tiên chính của hành
động quốc gia và quốc tế. Vì vậy, năm 1999 đã thông qua “Công ước lao động trẻ em
hình thức tồi tệ nhất”.
Công ước này quy định, đối với công ước này mà nói, từ “trẻ em” thích hợp cho tất
cả những người tuổi dưới 18. Cái gọi là lao động trẻ em hình thức tồi tệ nhất, chủ yếu bao
gồm mấy loại hình dưới đây: Chế độ nô lệ các loại hình thức hoặc cách làm tương tự chế
độ nô lệ, như buôn bán trẻ em, lao dịch trả nợ và nô dịch, cũng như lao động cưỡng bức
hoặc cưỡng chế, bao gồm chiêu mộ trẻ em cưỡng bức hoặc cưỡng chế dùng vào xung đột
vũ trang. Sử dụng thu nhận hoặc cung cấp trẻ em bán dâm, sản xuất các sản phẩm sex hoặc
tiến hành biểu diễn sex. Sử dụng, thu nhận hoặc cung cấp trẻ em tiến hành hoạt động bất
hợp pháp, đặc biệt là sản xuất và buôn bán các loại chất độc được xác định trong các công
ước quốc tế liên quan. Nhưng công việc mà tính chất của nó hoặc môi trường làm việc
trong đó có thể gây tổn hại tới sức khoẻ, an toàn hoặc đạo đức trẻ em, như: công việc khiến
cho trẻ em bị ngược đãi về thể xác, tâm lý hoặc tình dục; công việc ở dưới giếng, dưới
nước, nơi cao có nguy hiểm hoặc trong không gian hẹp; công việc sử dụng máy móc, thiết
bị và công cụ nguy hiểm, hoặc là công việc vận chuyển vật nặng; làm việc trong môi
trường không lành mạnh; làm việc trong điều kiện khó khăn đặc biệt. Công ước quy định,
các nước thành viên cần áp dụng bước đi thích hợp, thông qua tăng cường hợp tác hoặc
viện trợ quốc tế, bao gồm khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch loại bỏ nghèo
khó và phổ cập giáo dục, thực hiện chế tài cần thiết nhằm bảo đảm thực thi hữu hiệu các
điều khoản của công ước.
1.1.2.2. Về chính sách việc làm
Công ước chính sách việc làm nhấn mạnh: Một là trong phát triển cần phải đặt con
người lên vị trí hàng đầu, nếu không phát triển kinh tế sẽ không thể sản sinh ra cơ hội việc
làm; Hai là đề ra chính sách việc làm cần tính toán thích đáng tới giai đoạn và trình độ phát
triển kinh tế, hơn nữa tính toán tới mối quan hệ lẫn nhau giữa mục tiêu việc làm và các mục
tiêu kinh tế - xã hội khác, khi thúc đẩy thực hiện chính sách việc làm cần áp dụng phương
pháp thích hợp và điều kiện nước mình và thực tế nước mình; Ba là cần tiến hành hiệp
thương với đại diện giới chủ và đại diện công nhân về vấn đề chính sách việc làm liên quan,
nhằm suy xét đầy đủ tới kinh nghiệm và ý kiến của họ, khi đề ra và cố gắng giành được sự
hợp tác đầy đủ của họ về mặt ủng hộ chính sách này.
“Công ước hiệp thương ba bên (tiêu chuẩn lao động quốc tế)” là nhằm làm cho việc
đề ra tiêu chuẩn lao động quốc tế có thể sát hợp với thực tế, việc thực thi chúng có thể
tương đối thuận lợi, và yêu cầu các nước hình thành chế độ hiệp thương ba bên. Công
ước yêu cầu: các nước phê chuẩn được phép áp dụng các loại trình tự, bảo đảm việc tiến
hành hiệp thương hữu hiệu giữa chính phủ, chủ thuê và đại diện công nhân về các công
việc như đề ra, phê chuẩn, thực thi, báo cáo và xoá bỏ cam kết liên quan tới tiêu chuẩn
lao động quốc tế. Trong hiệp thương loại này, chủ thuê và công nhân cần có quyền đại
diện bình đẳng. Thời gian hiệp thương mỗi năm ít nhất tiến hành một lần.
Những việc mà công ước và kiến nghị thư quy định, trong các thời điểm khác nhau
cũng có sự khác nhau, xu thế phát triển của nó đại thể giống như lập pháp lao động của
các nước. Trước đại chiến thế giới lần thứ hai, cái mà tiêu chuẩn lao động quốc tế quan
tâm là các việc liên quan tới cải thiện điều kiện lao động, bảo vệ sức khoẻ công nhân,
thực hiện bảo hiểm xã hội, bồi thường tổn thất công nhân, cũng như quy định tiền lương
thấp nhất. Tiêu chuẩn lao động quốc tế thông qua vào sau đại chiến thế giới lần thứ hai
nhấn mạnh bảo vệ nhân quyền cơ bản, nội dung từ “kế hoạch lớn có tính lập pháp” dần
dần chuyển sang đề ra phương hướng có tính chính sách, nhấn mạnh vai trò nhất thể hoá
của cơ quan xã hội trong hình thành sự công bằng, phồn vinh và ổn định xã hội. Kể từ
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay, Tổ chức lao động quốc tế quan tâm cao độ tới các vấn
đề ở bình diện xã hội của toàn cầu hoá kinh tế, áp dụng một loạt biện pháp ứng phó, và
lần lượt đề ra các công ước lao động quốc tế và kiến nghị thư mới. Tổ chức lao động quốc
tế cho rằng, ba trụ cột chính sách xã hội ứng phó với thách thức của toàn cầu hoá kinh tế
và bảo đảm phát triển bền vững là: giáo dục và đào tạo thích ứng với yêu cầu toàn cầu
hoá, chính sách bảo vệ xã hội và chính sách quan hệ chủ thợ hợp lý.
Theo nhận thức chung của “Lao động thể diện”, địa vị quan trọng của việc làm là không
còn nghi ngờ gì nữa. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề việc làm vừa bao
gồm chính sách việc làm và khai thác nguồn nhân lực, thành lập cơ quan giới thiệu việc làm
miễn phí, tổ chức chỉ đạo nghề nghiệp và đào tạo nghề, hoàn thiện hệ thống dịch vụ việc làm;
cũng bao gồm điều kiện việc làm thông thường, như quy định tiền lương thấp nhất, bảo đảm
tiền lương, quy định thời gian làm việc, hạn chế thời gian làm việc ban đêm, thời gian nghỉ
ngơi mỗi tuần, nghỉ phép năm vẫn hưởng lương và học tập thoát ly khỏi sản xuất vẫn hưởng
lương Năm 1997, Đại hội lao động quốc tế đó thông qua “Công ước cơ quan việc làm tư
nhân” (số 181), khẳng định vai trò mà các cơ quan dịch vụ việc làm này phát huy trong mặt
chính sách thị trường sức lao động. Năm 1998, đã thông qua “Kiến nghị thư kích thích tạo điều
kiện việc làm thông thường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ” (số 189), nhấn mạnh tầm quan
trọng của các doanh nghiệp này trong các mặt như tạo việc làm, thu hút nhóm người yếu thế
tham gia vào hoạt động kinh tế. Tháng 6 năm 2004, Đại hội lao động quốc tế lại thông qua
“Kiến nghị thư khai thác nguồn nhân lực: giáo dục, đào tạo và học tập suốt đời” (số 195). Kiến
nghị thư này đó đưa vào tư duy mới học tập suốt đời, đưa ra cần làm rõ trách nhiệm của chính
phủ, doanh nghiệp, cá nhân người lao động và các bên xã hội trong khai thác và đào tạo nguồn
nhân lực.
Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề bảo vệ xã hội, một là an toàn và vệ
sinh của người lao động trong lĩnh vực nghề nghiệp, như đề ra và thực hiện chính sách
quốc gia an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp công nhân, xây dựng cơ sở y tế nghề nghiệp
tương ứng, đề phòng các sự cố công nghiệp lớn, đề ra tiêu chuẩn chuyên nghiệp an toàn
và vệ sinh nghề nghiệp tương ứng đối với một số môi trường làm việc, bộ phận ngành
nghề dễ xảy ra sự cố an toàn lao động và có độc hại; hai là bảo đảm xã hội của người lao
động khi sinh lão bệnh tử và bị thương tật, tàn phế, như bảo hiểm y tế, bảo hiểm dưỡng
lão, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm thương tật lao động cũng như bảo hiểm sinh đẻ; ba là
bảo vệ đối với nhóm lao công yếu thế, như bảo vệ đối với lao động trẻ em, lao động vị
thành niên, lao động nữ, công nhân tàn tật, công nhân di dân, công nhân tuổi tác tương
đối cao, công nhân làm việc chế độ không phải cả ngày, công nhân gia đình , bảo đảm
cho họ cơ hội việc làm bình đẳng và đãi ngộ bình đẳng với công nhân bình thường. Năm
1994, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước làm việc chế độ không phải cả
ngày” (số 175), năm 1996 đã thông qua “Công ước làm việc trong gia đình” (số 177).
Năm 2000, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công ước bảo vệ sinh đẻ” (số 183),
công ước này ở nhiều mặt đã nhấn mạnh yêu cầu đối với bảo vệ sinh đẻ, và nới rộng diện
bao trùm của bảo vệ sinh đẻ. Năm 2001, Đại hội lao động quốc tế đã thông qua “Công
ước vệ sinh an toàn nông nghiệp” (số 184) và kiến nghị thư cùng tên, công ước và kiến
nghị thư này là tiêu chuẩn lao động quốc tế vệ sinh an toàn đầu tiên trong nông nghiệp,
nó đưa ra xây dựng bộ khung có tính toàn cầu, nhằm giúp các nước thành viên có thể đề
ra bộ khung pháp luật của nước mình trên cơ sở của bộ khung này.
Đối thoại xã hội là chỉ đàm phán, hiệp thương hoặc giao lưu thông tin đơn giản các
loại hình được tiến hành giữa hai bên hoặc ba bên chính phủ, tổ chức chủ thuê và tổ chức
công nhân về các vấn đề liên quan tới chính sách kinh tế và xã hội mà các bên cùng quan
tâm. Đối thoại xã hội vừa bao gồm đối thoại ba bên ở bình diện xã hội, cũng bao gồm đối
thoại hai bên chủ thợ ở cấp doanh nghiệp. Những năm gần đây, một số nước phương Tây
đã có sự mở rộng đối với chủ thể của đối thoại xã hội, cũng đưa vào phạm vi đối thoại
một số tổ chức xã hội ngoài ba bên. Tiêu chuẩn lao động quốc tế liên quan tới vấn đề đối
thoại xã hội vừa bao gồm quản lý hành chính lao động và giám sát lao động, như quản lý
hành chính lao động, xây dựng chế độ giám sát lao động, quy phạm thống kê lao động,
thực hiện hiệp thương ba bên thúc đẩy thực hiện tiêu chuẩn lao động quốc tế; cũng bao
gồm điều chỉnh quan hệ ngành nghề (chủ thợ), như thực hiện đàm phán tập thể giữa công
nhân và chủ thuê, ký kết thoả ước tập thể, hoà giải, trọng tài và tố tụng tư pháp tranh chấp
lao động, hiệp thương và hợp tác ở cấp doanh nghiệp, ngành nghề và toàn quốc, giao lưu
và hiệp thương giữa công nhân và nhà quản lý trong nội bộ doanh nghiệp, cũng như quan
tâm và xem xét sự bất mãn của công nhân trong doanh nghiệp.
Việt Nam gia nhập ILO từ năm 1980. Trải qua 29 năm hợp tác, mối quan hệ Việt
Nam - ILO ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực, nhưng đến năm 1982 vì một
số lý do kỹ thuật Việt Nam đã rút khỏi ILO và đến năm 1993 Việt Nam tái gia nhập ILO.
Từ khi tham gia trở lại, Việt Nam tích cực hoạt động trong ILO, tham dự đầy đủ các
Hội nghị Lao động Quốc tế hàng năm, thực hiện các nghĩa vụ của nước thành viên. Nói
chung, đối với các công ước Lao động Quốc tế đã tham gia phê chuẩn, Việt Nam luôn
thực hiện một cách nghiêm túc, có sự phối hợp ba bên giữa Chính phủ, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (tổ chức đại diện cho người lao động) và Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (tổ chức đại diện cho người sử dụng lao động) kiểm điểm đánh
giá việc thi hành.
Theo cơ chế ba bên, Công đoàn Việt Nam ngày càng tham gia tích cực trong hoạt
động của ILO. Điều đó được thể hiện cụ thể trong hoạt động đối nội và đối ngoại của
Công đoàn Việt Nam. Trong khuôn khổ hợp tác với ILO, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam đã tích cực tham gia xây dựng luật pháp của Việt Nam; kiểm tra giám sát việc áp
dụng luật; thông qua việc cử cán bộ ra nước ngoài trao đổi kinh nghiệm, học tập, nghiên
cứu, tổ chức ở trong nước các lớp tập huấn, hội thảo, hội nghị, tuyên truyền, đào tạo cán
bộ công đoàn về nâng cao kỹ năng, phương pháp hoạt động, nội dung hoạt động, các tiêu
chuẩn lao động quốc tế, bộ quy tắc ứng xử liên quan đến lao động, quan hệ lao động, hoạt
động công đoàn trong cơ chế thị trường, thương lượng ký kết thảo ước lao động tập thể,
an toàn vệ sinh lao động, bình đẳng giới, chống lao động trẻ em, công tác tư vấn pháp luật
trong công đoàn, tạo mối quan hệ hài hoà giữa chủ doanh nghiệp và người lao động,
doanh nghiệp phát triển, người lao động được đảm bảo về công ăn việc làm, về quyền lợi,
nhân phẩm, hàng hoá chất lượng mang tính cạnh tranh cao hơn, nền kinh tế phát triển
lành mạnh, tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hoà nhập kinh tế quốc tế và khu vực tốt
hơn.
Ngày 17/2/2003, Văn phòng ILO tại Hà Nội đã chính thức khai trương. Mục tiêu
hoạt động của ILO tại Việt Nam luôn gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của
chính phủ và phù hợp với bốn mục tiêu chiến lược về chương trình việc làm của ILO.
Các hỗ trợ của ILO tập trung giúp Chính phủ hoạch định chiến lược và chính sách về lao
động, việc làm nhằm giúp cải thiện điều kiện sống và điều kiện làm việc của người lao
động.
1.2. Công đoàn việt nam với việc bảo vệ lợi ích của người lao động
1.2.1. Khái quát về Công đoàn Việt Nam
1.2.1.1. Sự ra đời và phát triển của Công đoàn Việt Nam
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã ghi rõ:
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của
người lao động. Cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
chăm lo bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao
động khác, tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục công nhân, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [27, tr.17].
Như vậy Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội, một bộ phận hợp
thành của hệ thống chính trị, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và những người
lao động khác, được Hiến pháp thừa nhận.
Sự ra đời của tổ chức Công đoàn Việt Nam gắn liền với tên tuổi và cuộc đời hoạt động
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, người anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá của thế giới.
Ngay từ những năm tháng xa Tổ quốc, bôn ba hoạt động trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc thành lập tổ chức Công
đoàn ở Việt Nam (lúc bấy giờ gọi là Công hội).
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" viết năm 1927, Người đã nói rõ hơn về công
hội, trình bày một cách mộc mạc, dễ hiểu về tổ chức, nhiệm vụ của tổ chức công hội mà
những tư tưởng đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị: "Tổ chức công hội trước hết là để
công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang
cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là để giữ gìn quyền lợi cho công
nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới" [23, tr.302]. Người khẳng định
công hội là cơ quan của công nhân để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
Những lý luận về việc thành lập tổ chức Công đoàn cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
ái Quốc được các hội viên Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - một tổ chức
tiền thân của Đảng Cộng sản, truyền bá rộng rãi trong phong trào công nhân, nhiều tổ
chức Công hội bí mật được thành lập. Đặc biệt, từ năm 1928, Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội phát động phong trào “Vô sản hoá” thì phong trào đấu tranh của công nhân
Việt Nam càng sôi nổi, đã thúc đẩy sự phát triển của tổ chức Công hội lên một bước mới.
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác vận động công nhân và tăng cường sức mạnh cho tổ
chức Công hội. Ngay sau khi thành lập trước sự phát triển của phong trào công nhân và
nhu cầu tập hợp lực lượng, Đông Dương cộng sản đảng đã triệu tập đại hội thành lập Tổng
công hội đỏ Bắc Kỳ vào ngày 28 tháng 7 năm 1929, tại số nhà 15 Hàng Nón - Hà Nội. Đại
hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 6 người do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - uỷ viên Ban chấp
hành Trung ương lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng, phụ trách công tác vận động công
nhân của Đảng đứng đầu. Trong Đại hội đồng chí Nguyễn Đức Cảnh đã trình bày báo cáo,
trong đó nhấn mạnh đặc điểm tình hình phong trào công nhân nước ta và đề ra những
nhiệm vụ thiết yếu của giai cấp công nhân, công hội trong thời gian sắp tới.
Sự ra đời của Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ là kết quả tất yếu của sự phát triển của
phong trào công nhân với sự truyền bá lý luận cách mạng của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc
và các đảng viên cộng sản vào phong trào công nhân nước ta. Sự ra đời của tổ chức này
là một mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào công nhân ở nước ta. Từ đây, giai cấp
công nhân Việt Nam có tổ chức đại diện cho quyền lợi của mình, Công đoàn Việt Nam
đã thực sự bước lên vũ đài lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng đấu tranh giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc.
Từ sau hội nghị này, Tổng Công hội Đỏ Bắc kỳ, một tổ chức được Đảng Cộng sản
thành lập, đã trở thành tổ chức Công đoàn cách mạng, tiêu biểu của giai cấp công nhân
Việt Nam. Nó là kết quả tất yếu của phong trào công nhân vận động với sự truyền bá lý
luận Công đoàn cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và các đảng viện cộng sản vào
phong trào Công đoàn nước ta.
Tổng công hội đỏ Bắc Kỳ đã trở thành tổ chức tiền thân của Công đoàn Việt Nam.
Ngày thành lập tổ chức này ngày 28 tháng 7 năm 1929 đã trở thành ngày thành lập Công
đoàn Việt Nam.
Để phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử, Công đoàn Việt Nam đã qua
nhiều tên gọi khác nhau: Tổng công hội đỏ Bắc kỳ, Nghiệp đoàn ái hữu, Hội công nhân
phản đế, Hội công nhân cứu quốc, Tổng Công đoàn Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam. Nhưng bản chất cách mạng và mục tiêu cơ bản, lâu dài của Công đoàn Việt
Nam là không thay đổi.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy nhanh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế,
Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006) của Đảng đã nhấn mạnh: Đối với giai cấp công
nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất
nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, BHXH, bảo hiểm
thất nghiệp, BHLĐ, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi
nhà ở đối với công nhân bậc cao.
Trải qua 80 năm xây dựng và trưởng thành, Tổ chức Công đoàn Việt Nam đã trải
qua 10 kỳ đại hội, có 63 Liên đoàn Lao động tỉnh, thành phố, 20 Công đoàn ngành Trung
ương và Công đoàn Tổng công ty trực thuộc, với hơn 6 triệu đoàn viên. Trong đó, đoàn
viên công đoàn khu vực các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể, các đơn vị hành chính sự
nghiệp nhà nước khoảng 3.741.627 người, trong đó đoàn viên công đoàn trong các doanh
nghiệp nhà nước khoảng 1.580.026 người, đoàn viên công đoàn khu vực ngoài quốc
doanh khoảng 2.201.044 người, đoàn viên trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khoảng 1.093.764 đoàn viên.
1.2.1.2. Về vị trí, vai trò của Công đoàn Việt Nam.
a. Vị trí của tổ chức Công đoàn.
Ngay từ khi mới thành lập, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã thực sự là một tổ chức
quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân, nằm trong mặt trận dân tộc thống nhất,
được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác trong