LUẬN VĂN:
Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo
trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật
giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo
đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan
trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những
bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra
trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, xu hướng biến đổi ảnh hưởng của nhân
sinh quan Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào? Cần đánh giá những biến đổi đó theo chiều
hướng tích cực hay tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và
bằng cách nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
là vấn đề đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
2. Tình hình nghiên liên quan đến cứu đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đạt được những kết
quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội,
1986; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học,
Hà Nội, 1991; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội, 1993 ; Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Văn
hóa Thông tin, 1996; Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
thiết, Trung tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn
hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị
Bảy, Nxb Văn hóa thông tin 1997; ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
nội 1997; Tư tưởng triết của học Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung,
Nxb Chính trị quốc gia, 1998; ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 ; Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng
Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn
Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 v.v
Có thể nhận xét một cách khái quát, những công trình nghiên cứu trên đều thống
nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam,
đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với
văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt
Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và
khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối
với đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực
của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng triết học này trong đời sống xã hội Việt Nam lâu nay, là việc làm hết sức có ý
nghĩa. Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và
nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam
dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì hãy còn chưa
nhiều. Vì vậy, luận văn có nhiệm vụ là: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên
cứu của những công trình đi trước để khảo sát đánh giá sự biến đổi của ảnh hưởng nhân
sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích
Luận văn làm rõ sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
b) Nhiệm vụ
Một là, khái quát nội dung nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần truyền thống của con người Việt Nam.
Hai là, tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Phân tích những nhân tố tác động đến sự
biến đổi đó; nêu lên một số xu hướng biến đổi của nhân sinh quan Phật giáo.
Ba là, đề ra một số phương hướng, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng
- ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt
Nam
b) Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật
giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng.
b) Cơ sở thực tiễn
Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
c) Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; sự thống nhất
giữa lôgíc và lịch sử; điều tra phỏng vấn và kết hợp các phương pháp khái quát hóa, trừu
tượng hóa v.v
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan
sinh Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi
mới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đến đời sống tinh thần người Việt Nam
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế" [17, tr. 73].
Điều đó có nghĩa là, tôn giáo do con người sáng tạo ra, tôn giáo không sáng tạo ra
con người song lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người trên nhiều lĩnh vực khác
nhau.
Phật giáo - một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới - ra đời đã hơn 2500 năm
nay, đã được truyền bá và ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như: Xrilanca, Xiry, Ai
Cập, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và một phần Anh, Đức, Pháp … và
nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Trong quá trình du nhập trải qua các
thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà
đã biến đổi ít nhiều. Sự ảnh hưởng của phật giáo đến ngoại bang diễn ra rất sớm và rất
nhanh chóng. Ngày nay trên phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong
đời sống tinh thần của con người, trong đó có Việt Nam.
Người sáng lập ra Phật giáo là Hoàng tử Tất Đạt Đa - con vua Tịnh Phạn. Ông
sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên ở ấn Độ. Sau khi tu hành đắc đạo có danh
hiệu Thích Ca Mâu Ni. Tương truyền, Hoàng tử Tất Đạt Đa từ khi mới sinh ra đã được
vua cha hết đỗi chiều chuộng, "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa". Hoàng tử, vốn
là con độc nhất, được sống trong nhung lụa, được chăm sóc, giáo dục rất đầy đủ, toàn
diện. Chẳng bao lâu Hoàng tử đã trở thành người văn võ song toàn. Hoàng tử được vua
cha cưới vợ năm 17 tuổi, về sau có một người con trai tên là La Hầu La. Vua không
muốn cho Hoàng tử phải chứng kiến quy luật của cuộc sống là sinh - lão - bệnh - tử. Mặc
dù vậy, sau những lần dạo chơi ở cổng thành Hoàng tử đã chứng kiến nỗi khổ của con
người về sinh - lão - bệnh - tử; thấy được cuộc sống cơ cực của người dân trong xã hội ấn
Độ cổ đại lúc bấy giờ, vốn có sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã. Hoàng tử lại là người có
tấm lòng từ bi, bác ái vô hạn, sống gần gũi với con người, đầy tình người và trí tuệ.
Cái tâm đức Phật thật là từ bi
Còn trong Thái tử thời kỳ
Xem người cày ruộng mới đi ra ngoài
Thấy cò cứ mổ sâu hoài
Động lòng thương xót mọi loài chúng sinh.
(Từ bi)
Chứng kiến đời sống khổ cực và sự bất lực của con người trong xã hội đương
thời, đã khiến Hoàng tử Tất Đạt Đa có ý định từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý
cứu đời. Năm 29 tuổi, nhân lúc vua cha, vợ con đang ngủ say, Tất Đạt Đa rời bỏ Hoàng
cung ra đi trở thành người tu tập thiền định và bắt đầu cuộc sống khổ hạnh. Qua một thời
gian học đạo, Người nhận thấy, cuộc sống giàu sang về vật chất, thỏa mãn dục vọng và cả
cuộc sống tu hành khổ hạnh ép xác đều là con đường sai lầm. Người cho rằng, cuộc sống
dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh thì tăm tối,
mà chỉ có con đường trung đạo mới là con đường đúng đắn. Người nói: "Ta tu khổ hạnh
mà như thế này, mà không thấy rõ đạo thì cái tu của ta vẫn chưa phải. Ta nên theo con
đường giữa, cứ ăn uống như thường, không say mê việc đời nào vẫn không khắc khổ hại
thân rồi mới thành đạo được" [14, tr. 42].
Sau khi tự mình đào sâu suy nghĩ tìm con đường giác ngộ chân lý mới, Tất Đạt
Đa quyết định từ bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh để đi vào tư duy trí tuệ. Qua nhiều lần tu
tập, sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, với những suy tư sâu thẳm, Người
đã giác ngộ được chân lý. Tất Đạt Đa đã lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người,
cũng như phương pháp giải thoát diệt khổ. Là một tôn giáo, Phật giáo ra đời nhằm xoa
dịu nỗi khổ của con người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
ấn Độ cổ đại.
Sinh thời, Đức Phật không viết sách, mà chỉ thuyết giảng cho các học trò của
mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát triển tư
tưởng của người để xây dựng một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh (kinh, luật và luận
tạng). Về sau Phật giáo chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều tông phái khác nhau,
du nhập và phát triển ra nhiều nước trên thế giới. Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn
2500 năm, với nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước
hết là triết lý nhân sinh của nó giàu lòng vị tha, thương người, rất gần gũi với con người
và mang nặng tính nhân sinh hơn các tôn giáo khác.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế giới quan
và nhân sinh quan có kết cấu chặt chẽ. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung với chức
năng riêng là tiền đề và hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế
giới quan. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, là giải phóng con
người, mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ sự đau khổ ở đời
sống con người mà sáng lập ra Phật giáo để giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau.
Triết học phương Đông nghiêng về việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính
trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự
nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con người, vạch ra
nguyên tắc ứng xử, giải quyết các mối quan hệ giữa người với người, chú ý đến đời sống
tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người. Mục đích nhận thức thế giới của
triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Còn triết học phương
Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết,
các phạm trù v.v Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo đề
cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác
biệt của triết học phương Đông so với phương Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì
sao mặt vũ trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi
mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục
đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con
đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như không đề cập và không có chủ
trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình, như chính lời của Đức Phật thuyết
giảng:
Giống hệt như người bị thương vì một mũi tên thuốc độc, bạn bè thân
thích đưa một ông thầy giải phẫu nhưng anh ta nói: Ta sẽ không để cho rút
mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên họ
hắn là gì, hắn ta to bé hay trung bình, hắn ta từ đâu tới. Ta sẽ không cho rút
mũi tên này trước khi biết nó là loại cung nào, dây cung và mũi tên được làm
bằng gì, đầu nhọn mũi tên được làm như thế nào? Con người này sẽ chết đi mà
không biết điều đó chúng là vô ích không dẫn ta đến giải thoát. Việc cấp bách
là cứu khổ giống như việc lấy mũi tên thuốc độc ra khỏi thân thể con người
[12, tr. 266].
Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh
hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như Lai
sau khi chết có tồn tại hay không? thì người im lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ
cho con người.
Như vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối tượng nghiên
cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh. Qua việc phải chứng kiến
nỗi khổ của con người ở đời sống trần thế mà Thích Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết
mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát, cứu khổ cho con người khỏi khổ nạn. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ ở ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và
chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận
uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng
và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân ấn Độ. Đây là sự
thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời:
Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp
trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai
dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó
thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội.
Nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu được khổ
hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con người. ở Việt Nam,
từ thuở xa xưa, Phật chính là "Bụt". Bụt ở đây là cách dịch âm khác của "Buddha" có
nghĩa là Phật, là giác ngộ. Hình ảnh ông Bụt hiện lên trong nhiều câu chuyện cổ tích như
truyện Tấm Cám… luôn là người đem lại niềm vui, hạnh phúc cho những người tốt bụng
mà gặp điều không may, đồng thời Bụt cũng là người trừng phạt cái xấu, kẻ ác.
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Triết lý nhân sinh Phật giáo bắt nguồn từ thế giới quan, do thế giới quan Phật
giáo chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật
giáo chịu sự qui định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác.
Điều này giải thích tại sao trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan Phật giáo có
sự biến đổi, không còn giữ nguyên như ở Phật giáo nguyên thủy. Nghiên cứu chi tiết, cho
thấy các phái Phật giáo có những quan niệm khác nhau về nhân sinh. Phật giáo Tiểu thừa
coi trọng "xuất gia khổ hạnh", chủ trương "ngã không pháp hữu", đề cao sự giải thoát
chính mình với mục đích cuối cùng là chứng đắc La Hán. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo
Tiểu thừa là "tịnh độ" và "xuất thế gian", nhấn mạnh cuộc đời là bể khổ mà nguyên nhân là
do "Thập nhị nhân duyên". Mục đích thoát khổ là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm
tục, diệt dục mới có thể rũ bỏ bụi trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Còn Phật giáo Đại thừa
không quá đề cao xuất gia khổ hạnh, chủ trương"ngã pháp đều không", tự giác ngộ và giác
ngộ người khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa cũng có nhiều
biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa ở sự tôn nghiêm cũng như nội dung. Nếu giới
luật của Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới luật của Đại thừa lại
thường hướng đến lợi ích cho người khác Phật giáo Đại thừa về sau phát triển và lại chia
thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ ấn Độ và truyền bá ra các nước xung quanh,
triết lý Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển
ngày càng đa dạng phong phú để thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc
trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Vì khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ là có hạn, nên tác giả luận văn chỉ nghiên
cứu ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt
Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay trong thuyết tứ đế của Phật
giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời
sống của con người.
Về con người
Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và
tái sinh.
Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh
sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần.
Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:
Địa : Nghĩa là đất, xương thịt.
Thủy : Nước, máu, chất lỏng.
Hỏa : Lửa, nhiệt khí.
Phong : Gió, hô hấp
Không : Các lỗ trống trong cơ thể
Thức : ý thức tinh thần.
Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố cuối cùng
thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết lục đại xét cấu tạo con người
nghiêng nặng về vật chất còn thuyết kia gần như có sự cân bằng, hài hòa về hai lĩnh vực
vật chất, tinh thần.
Thuyết Ngũ ẩn : Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.
Sắc : Vật chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong.
Thụ : Tình cảm, cảm giác con người.
Tưởng : Tưởng tượng, tri giác, ký ức.
Hành : ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động.
Thức : ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành.
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ
biến hơn cả. Như vậy, Phật giáo cho rằng, con người không có thực thể là "không", gọi là
"nhân vô ngã" (nhân không). Con người được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có
chủ thể hằng thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên không có hình thái cố định của
tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô
kệch có sự phân biệt tính cách, màu da. Có bốn loại thực:
Đoạn thực : Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống
hàng ngày.
Xúc thực : Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
Thức thực : Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh thần
thanh cao.
Phật giáo quan niệm sự vật đều luôn vận động biến đổi, không có cái gì là
thường hằng, bất biến. Xuất phát từ duyên khởi luận, Phật giáo cho rằng thế gian hết thảy
đều biến hóa, vô ngã, vô thường. Theo Phật giáo, có hai loại vô thường. Đó là sát na vô
thường và tương tục vô thường. Trong đó, sát na vô thường chỉ sự biến hóa trong khoảng
thời gian cực ngắn. Còn tương tục vô thường chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có
sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành - trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối
với con người là sinh - lão - bệnh- tử.
Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con người là sự kết hợp động của những yếu
tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn như thế, Phật giáo cho
rằng, mọi sự vật hiện tượng là giả danh không có thực, con người chỉ là giả hợp của Ngũ
uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là hư vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại
thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn.
Do mê lầm, mà vô thường con người tưởng là thường, vô ngã mà tưởng có ngã. Thân xác
con người là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ như đói khát, sinh, lão, bệnh, tử,
nóng, giận, dâm dục v.v đều có gốc từ con người mà ra. Điều này cho thấy, Phật giáo
nhìn nhận cuộc đời con người là khổ.
Nếu quan niệm chết là hết là chưa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật giáo, chết là
điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết của con người bằng
thuyết luân hồi nghiệp báo… Khi con người hình thành thì mọi suy nghĩ, hành động được
ghi lại ở một nơi là Alaya, cứ thế tích tụ thành Karma - Luật vô hình đặc trưng của người.
Khi con người chết luật vô hình quay lại gặp điều kiện thuận lợi tạo thành sinh linh mới
chịu quả ở kiếp trước và nhân ở kiếp sau cứ thế luân hồi. Cuộc đời con người là một mắt
xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la. Cuộc sống của con
người trên trần thế không thay đổi được, nó do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả;
mọi việc làm của con người đều là nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo.
Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con người gieo nhân nào hưởng quả
ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão.
Đời này ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lười biếng thì
đời sau ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì đời
sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có tâm vỗ về an ủi
người khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh thì đời sau tướng mạo xấu
xí Đức Phật có nói: "Những kẻ tạo nghiệp ác dù có lên trời, xuống biển hay vào hang
núi cũng không nơi nào có thể trốn thoát" [12, tr. 275].
Có thể nói, Phật giáo quan niệm mối quan hệ nhân quả là mối quan hệ phổ biến
và chi phối tất cả. Phật giáo nguyên thủy cho thế giới này không có nguyên nhân đầu tiên
cũng như cuối cùng, thế giới không do một đấng tối cao nào sáng tạo ra; từ đó đi đến bác
bỏ mọi quan niệm cho rằng Thượng đế hay linh hồn là lực lượng đầu tiên sáng tạo ra
muôn vật. Tuy nhiên, quan niệm về mối liên hệ nhân quả mà Phật giáo đề cập và nhấn
mạnh thuộc lĩnh vực đạo đức, tinh thần, tâm lý cá nhân.
Theo quan niệm của Phật giáo, xét đến cùng muôn vật trong vũ trụ là hệ thống
nhân duyên của nhau, cứ thế sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau vô cùng tận; thế giới là
vô thủy vô chung, không có cái gì là trường tồn bất biến. Mọi cái đều biến đổi vận động
không ngừng, không có cái vĩnh hằng; mọi vật đều tuân theo quy luật sinh, trụ, dị, diệt.
Con người cũng thuộc về thế giới hiện tượng. Thân xác con người được đề cập trong các
thuyết Danh sắc, thuyết Lục đại, thuyết Ngũ uẩn của Phật giáo. Theo luật nhân quả của
Phật giáo, những việc làm của con người là nguyên nhân tạo ra sự ngũ uẩn tiếp theo. Bản
thân nghiệp này do kiếp trước quy định; cứ thế con người ở trong vòng luân hồi sinh tử
không ngừng từ đời này sang đời khác. Điều đó ít nhiều mang tính biện chứng. Tuy
nhiên, do tuyệt đối hóa sự vận động và gắn sự vận động với tính giả tạm vô thường của
sự vật, cho nên Phật giáo không có được quan niệm đúng đắn về sự thống nhất biện
chứng giữa vận động và đứng im tương đối, không thấy được sự vận động bao giờ cũng
gắn với sự phát triển.
Về cuộc đời con người
Triết học Phật giáo bác bỏ Brahma và Atman, nhưng lại tiếp thu tư tưởng luân
hồi Samsara và nghiệp Karma của Upanisad cho rằng, mọi vật mất đi ở chỗ này là để
sinh ra ở chỗ khác, trong quá trình biểu hiện sinh tử theo nghiệp nhân quả luân hồi.
Để giải thoát chúng sinh khỏi nghiệp nhân quả luân hồi sinh - tử;
tử - sinh, Đức Phật nêu ra Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên. Tứ diệu đế là bốn chân lý
giải thoát tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người đều phải nhận thức được đó là: Khổ đế,
tập đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế
Triết lý nhân sinh Phật giáo cho rằng, bản chất cuộc đời con người là khổ: "Đời
là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phương đều là bể khổ, nước mắt
chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt chúng sinh mặn hơn nước
biển" [16, tr. 12].
Khổ đế nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết học Phật
giáo mang tính tiêu cực yếm thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vô minh, con người
không nhận thức được điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời
con người đầy rẫy những nỗi khổ, nhưng không ai nhìn thấy tường tận và rõ ràng. Đức
Phật chỉ rõ: "Ba giới không chút nào yên như là lò lửa, nỗi khổ đầy rẫy trong đó, thật là
đáng sợ" (Kinh Pháp Hoa); "ta thấy các chúng sinh đắm chìm trong bể khổ" (Kinh Pháp
Hoa, Thọ Lượng Phẩm).
Nỗi khổ của thế gian là khôn cùng, song có thể chia làm ba loại khổ hay tám thứ
khổ.
Ba loại khổ (Tam khổ) là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
Khổ khổ: Muốn nói tới cái khổ chồng chất nối tiếp cái khổ. Mỗi chúng sinh là
nạn nhân của bao cái khổ. Cái khổ có ở ngay thể xác như bệnh tật hiểm nghèo… lại có
cái khổ khác bên ngoài thể xác như thiên tai, chiến tranh Tất cả những cái khổ đó liên
tiếp dồn dập đến với con người.
Hoại khổ: Do sự thay đổi tạo nên tuân theo luật vô thường - không có cái vĩnh
hằng. Ca dao có câu "nước chảy đá mòn", để nói một sự vật vững chắc, cứng rắn như đá
nhưng cùng với thời gian chịu tác động của ngoại cảnh cũng phải thay đổi rồi bị hủy diệt
tan biến. Con người cũng vậy, không thể nằm ngoài quy luật chung đó.
Hành khổ: Những nỗi khổ về tinh thần con người, do không làm chủ được mình
bị lôi kéo vào những dục vọng làm cho tâm bị dằn vặt sinh ra buồn vui, giận hờn, yêu
ghét…
Tám thứ khổ (Bát khổ): Đức phật tóm tắt thành tám thứ khổ trong cuộc đời của
một con người gồm: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ
uẩn khổ.
Tám thứ khổ này là sự cụ thể hóa, tỉ mỉ hơn về các nỗi khổ của chúng sinh ở trần
thế, song nội dung thì được bao hàm bởi ba khổ trên. Sinh khổ: con người khi sinh ra đã
cất tiếng khóc chào đời; trước đó còn ở trong bụng mẹ thì chật chội tăm tối; người mẹ
mang thai con thì vất vả mệt nhọc, kém ăn, mất ngủ, chịu bao cái khác thường so với
người khác.
Trong cuộc sống hàng ngày, con người muốn tồn tại được thì trước hết phải ăn,
uống, mặc ở, sinh hoạt, đi lại… Muốn vậy, con người phải lao động hết sức vất vả, cực
khổ, tất bật trong công việc. Đó là về mặt vật chất, còn những nỗi khổ về tinh thần dày vò
con người cũng không kém nỗi khổ về vật chất, nó làm con người suy kiệt, ốm yếu,
(lão khổ). Con người đến lúc già, tuổi cao, thân thể hao mòn già yếu các giác quan, hoạt
động kém; mắt mờ, chân chậm, tai điếc dễ sinh bệnh gây đau ốm cho người bệnh và
người thân xung quanh.
Tử: đến một thời điểm nhất định con người phải chết, xa lìa trần thế để lại nỗi xót
thương vô hạn cho người thân, bè bạn. Ai cũng vậy, sợ phải xa lìa người thân, bè bạn, bởi
cuộc sống biết bao điều thú vị.
ái biệt ly: nỗi khổ khi phải xa cách chia ly người mình mến thương như vợ
chồng, cha mẹ, anh em… Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly: Sống phải xa
nhau đã khổ, nhưng người ở lại người đi vào thế giới khác thì đó là nỗi khổ tình thương,
tuyệt vọng biết nhường nào.
Oán tăng hội khổ: nỗi khổ vì phải sống cùng với người mà mình không hề yêu
thích; ở chung với những người như vậy giống như gai đâm vào mắt mà không làm gì
được.
Sở cầu bắt đắc khổ: là những nỗi khổ do con người mong muốn, ước ao mà
không được, con người phải lao tâm khổ tứ biết bao, mong có được ngày thành đạt; nếu
điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò con người, khiến con người
tuyệt vọng…
Ngũ thụ uẩn khổ gây ra bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm cho thân tâm phải
chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: già là khổ, bệnh khổ, chết khổ,
cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ưa thích mà phải hợp là khổ, cái gì muốn
mà không được là khổ. Tóm lại là triền miên trong ngũ trọc giả hợp.
Học thuyết khổ đế đã chỉ ra những nỗi khổ lớn nhất trong cuộc đời con người.
Với lòng từ bi thương người của mình, Đức Phật muốn chúng sinh biết hết mọi nỗi khổ
có ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy
xét tìm cách giải khổ, làm chủ được bản thân, vượt lên trên số phận. Điều này cho thấy,
Phật giáo không hề trốn tránh cuộc sống trần gian, cũng như không tô hồng nó, mà đã
dũng cảm nhìn vào hiện thực cuộc đời con người.
Tập đế
Tập đế nói lên sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đưa tới cái khổ. Đức
Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó (Thập nhị nhân duyên). Phật
Thích Ca thuyết pháp cho môn đệ phép màu nhiệm về nguyên nhân sự khổ. Đó là lòng
tham sống mà luân hồi sinh tử: càng tham, càng muốn, càng được lại càng tham. Con
người tham sống, tham sướng, tham mạnh v.v Nguyên nhân của lòng tham là vô minh,
nghĩa là không sáng suốt, không nhận thức được thế giới, không thấy mọi sự vật đều là ảo
giả, mà cứ cho là thực; không nhận thức được ngay chính bản thân mình, cả thế giới
khách quan lẫn bản thể chủ quan đều chỉ là vô thường vô ngã trong vòng luân hồi trôi
chảy bất tận, chính cái này dẫn đến lòng tham sống ở trong con người. Phật giáo nói đến
đau khổ chủ yếu là chỉ tinh thần bức bách.
Trong 12 nguyên nhân đưa ra thì Đức Phật cho rằng, vô minh và ái dục là hai
nguyên nhân chủ yếu đưa đến đau khổ cho con người. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh
xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà phật gọi là tam độc: tham, sân, si.
Tham: Biểu hiện sự tham lam của con người làm xúi dục con người hành động
để thỏa mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con người không có giới hạn, đây là
nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con người như chém giết, xâm hại lẫn nhau.
Sân: Sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con người không hài lòng về điều gì đó,
làm cho con người không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn); như
thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con người. Sách Phật ghi rằng, một
đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì
trăm ngàn, cửa nghiệp chướng mở.
Si: Sự si mê, lú lẫn, làm cho con người không phân biệt điều hay dở; điều đó gây
bao tội lỗi, đau khổ cho mọi người. Nếu tham sân nổi lên mà có trí sáng suốt sẽ ngăn
chặn được tham, sân.
Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhân của 12 nỗi khổ (Thập nhị nhân
duyên).
Duyên hành: là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của tâm, có mầm
mống của nghiệp.
Duyên thức: Tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần dần mất cân bằng, tùy
theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời khác.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần ;với các loài hữu
tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh, hương,
vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp xúc với
lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
Duyên xúc: Là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là quả của
lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
Duyên thụ: Là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra
yêu,ghét,buồn, vui.
Duyên ái: Là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: Có ái thì có thủ, đã yêu thì muốn chiếm lấy, giữ lấy cho mình
Duyên hữu: Tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ có
nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: Đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu là tu sinh
ra ở thế giới để làm người, hay súc sinh.
Duyên lão tử: Đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh - lão - bệnh - tử là kết thúc
một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vòng luân
hồi mới. Cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.
Diệt đế
Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt được, chấm dứt được luân hồi.
Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: "Này các Thầy xa môn
đến đạo diệt khổ, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục tìm thích thú ở chỗ
này chỗ khác nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ
khỏi khổ".
Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu dưỡng thân tâm, đoạn trừ "vô minh", để cho Phật
tính bừng sáng, nó sẽ là ngọn đèn pha dẫn bước chúng sinh đến cõi Niết bàn. Muốn diệt
trừ "vô minh" phải có trí tuệ vì: "Có trí tuệ thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò
xét, không để lầm lỗi có thể có được, trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn nhất vượt
bể sinh, lão, bệnh, tử. Là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh là búa sắt chặt cây
phiền não" [27. tr 36-37]
Diệt đế nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau.
Đạo đế
Sau khi chỉ ra các nỗi khổ ở cuộc đời con người cũng như nguyên nhân gây nên
các nỗi khổ ấy. Đức Phật khẳng định, có thể tiêu diệt được khổ, tiêu diệt nỗi khổ nhân
sinh bằng trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn tuyệt đối tịch tịnh sung
sướng, an lạc và tốt đẹp nhất. Cuối cùng ngài đưa ra con đường để thoát khổ thực chất là
diệt trừ vô minh, con đường đó là bát chính đạo. Đây là con đường tương đối phổ biến, là
môn pháp chính được đề cập đến nhiều nhất đến nỗi có người lầm tưởng đạo đế và bát
chính đạo là một, đồng nhất.
Chính kiến: Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về tứ diệu đế, hiểu đúng sự
vật khách quan. Người có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động,
tâm trí sáng suốt.
Chính tư duy: Sự suy nghĩ phán xét đúng với lẽ phải. Người tu hành theo chính
tư duy biết suy xét vô minh là nguyên nhân của khổ đau, tìm ra phương pháp tu luyện để
thoát khổ cho mình và mọi người; đó là diệt trừ vô minh, tam độc.
Chính ngữ: Lời nói ngay thẳng, là đưa chính tư duy vào thực hành trong lời nói
cụ thể: không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi người, không nói lời ác dữ,
không thừa lời vô ích. Người tu hành trước khi nói năng phải suy nghĩ người nghe, nói
lời đoàn kết dịu hiền.
Chính nghiệp: Đức Phật dạy chúng sinh rằng:
Nếu là tà nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, thì phải cải tạo, cải tà quy chính,
làm điều thiện tránh điều ác. Còn nếu là chính nghiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho
mọi người thì phải giữ gìn. Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Thân nghiệp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.
Khẩu nghiệp: Không nói dối, không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói thêu
dệt.
ý nghiệp: Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến.
Chính mệnh: Lối sống trong sạch, lương thiện, ngay thẳng của con người; không
tham lam gian ác, ăn bám kẻ khác, không gian dối bất chính; sống chân chính bằng nghề
nghiệp chính đáng. Có thể nói đây là phong cách sinh hoạt lành mạnh giúp cho con người
luôn thoải mái nhẹ nhàng; như thế giúp cho sức khỏe - vốn là cái quí giá nhất ở con
người để họ làm việc có hiệu quả.
Chính tinh tiến: Đức Phật dạy con người cố gắng làm điều thiện, tránh điều ác;
không quên lý tưởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải chủ động
tích cực trong việc tìm kiếm truyền bá chân lý nhà Phật.
Chính niệm: Trong đầu con người luôn có ý niệm trong sạch ngay thẳng, ghi nhớ
những đạo lý chân chính, điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thường xuyên niệm Phật.
Chính định: Sự tập trung tư tưởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh
lặng suy tư về tứ diệu đế của vô ngã vô thường về nỗi khổ của con người, là cơ sở cho
chính kiến, chính tư duy ở trình độ cao.
Với việc tu tập theo bát chính đạo mà Đức Phật đã chỉ ra, con người sẽ thu được
lợi ích thiết thực cho cả mình và xã hội; họ sẽ tự ý thức, sửa mình từ bỏ mọi tội lỗi, tu
thân tích đức như thế con người sẽ đạt tới sự hoàn thiện. Đây có thể coi là cơ sở, động lực
để tạo ra sự yên bình, hạnh phúc không những trong xã hội hiện tại mà cả xã hội tương
lai, bởi nhân nào quả ấy. Một lần nữa cho thấy, những giá trị nhân sinh sâu sắc của Phật
giáo được khẳng định. Đức Phật đã rung động trước nỗi khổ của chúng sinh, nói như thế
không phải Đức Phật tỏ ra bi quan trách đời mà phải thấy rằng Đức Phật đã dũng cảm chỉ
ra thực tế, đoán định thế gian là chỉ có đau khổ. Từ đó mà đi tìm phương thuốc cứu giúp
cho chúng sinh, tìm ra lối đi của sự tự do tuyệt đích, của hạnh phúc yên bình chính là con
đường diệt khổ.
Đức Phật lấy việc giải thoát đau khổ làm trọng tâm tư tưởng trong giáo lý của
mình. Đức Phật thuyết giảng: "Đạo của ta đây chỉ có một vị là giải thoát như nước ngoài
khơi chỉ có một vị mặn". Tinh thần triết lý nhân sinh mà Đức Phật dạy chúng sinh đòi hỏi
trách nhiệm về đạo đức làm người, không được làm ngơ trước những nỗi khổ của người
khác, phải toàn tâm toàn ý cứu khổ cho mọi người Đó cũng là yêu cầu đối với chính
mình, mình có thực hiện tốt thì mới hy vọng thoát khổ. Đức Phật tự nhận: "Thường trong
bể khổ sinh tử, làm chiếc thuyền lớn cứu vớt chúng sinh". (Kinh Tâm Địa Quán).
Phật giáo không lấy giáo lý làm trọng, mà chỉ coi đó là phương tiện để đạt đến
chân lý cuối cùng. Cái cốt tủy của nó là sự thực hành của mỗi cá nhân đạt đến sự giác
ngộ, tu thành đạo quả, chứ không phải nghe, giảng để hiểu đạo.
Phật giáo là một tôn giáo rất quan tâm đến con người và cuộc đời con người. Các
tôn giáo khác cũng có cách nhìn nhận về con người. Song sự khác biệt căn bản của giáo
lý Phật giáo với các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Đạo giáo, Nho giáo là ở chỗ,
Phật giáo đã chỉ ra cho chúng sinh con đường thoát khỏi khổ đau, thoát khỏi bể khổ trầm
luân để đạt đến cõi Niết bàn. Đó là con đường tu học, trau dồi trí tuệ, phá vỡ vô minh.
Đức Phật dạy rằng: "Giáo lý của chúng ta như chiếc bè để qua sông, như ngón tay chỉ
mặt trăng, đừng lấy ngón tay làm mặt trăng, các bậc Như Lai chỉ làm cái việc là chỉ
đường thôi, mỗi người phải tự mình đi đến chứ không ai đi thế cho ai cả" (Pháp cú -
Phamnopada).
Còn trong kinh Trường Ahàm, Phật dạy: "Hãy xem ta là người chỉ đường và hãy
tự thắp đuốc lên mà đi, thắp với ngọn đuốc của chính mình đừng thắp ngọn đuốc của
người khác" [24, tr. 31].
Triết học Mác - Lênin cũng nghiên cứu con người, lấy đó làm điểm xuất phát
đồng thời cũng là mục đích cuối cùng để phục vụ đời sống con người. Nhưng con người
trong triết học Mác là con người hiện thực sống trong một xã hội nhất định, với các quan
hệ xã hội cụ thể. Còn con người trong Phật giáo là con người nô lệ của các sở cầu tham
vọng của mình. Tuy vậy nó vẫn thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc - đó cũng là giá trị lớn
nhất trong triết học Phật giáo. Mục đích của triết học mácxít là xây dựng con người phát
triển toàn diện về đức, trí, thể, mĩ; còn Phật giáo với mục đích giải thoát cứu vớt con
người khỏi bể khổ trở về với Phật tính của mình. Phật cho rằng, mọi chúng sinh đều có
thể giác ngộ và giải thoát vì Phật và chúng sinh đều có Phật tính. Đức Phật tuyên bố: "Ta
là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành" [25, tr. 21].
1.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con
người Việt Nam
1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh
thần của con người Việt Nam
Phật giáo ra đời ở xã hội ấn độ cổ đại cách đây hơn 2500 năm và được truyền bá
ra nhiều nước trên thế giới. ở mỗi nước, khi được du nhập vào, Phật giáo lại có sự cải
biến cho phù hợp với tập tục của từng địa phương, từng dân tộc và mang những sắc thái
khác nhau. Với tính cách là một trong những hình thái ý thức xã hội, ý thức tôn giáo
trong đó có Phật giáo phụ thuộc vào tồn tại xã hội. ở ấn độ hiện nay Phật giáo tuy không
còn chiếm số đông, nhưng những người có kiến thức đều tự hào về giáo lý nhà phật chính
là ở tính triết lý sâu sắc. Trên thế giới cũng vậy, khi đã nói đến lý thuyết sâu sắc của xã
hội ấn độ thì người ta không thể không nói đến Phật giáo.
ở Việt Nam hơn 2000 năm nay, Phật giáo tuy có lúc thịnh suy, nhưng trên thực
tế đã luôn gắn bó với truyền thống dân tộc. Phật giáo phát triển qua các thời kỳ Đinh, Lê,
hưng thịnh và đạt đến đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã góp phần ổn định, bảo vệ chế độ
phong kiến tập quyền và đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam. Nhân
sinh quan Phật giáo, nhất là đức từ - bi - hỷ - xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tâm
linh, hướng con người vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức. Hiện nay, tuy
không còn là quốc giáo, song Phật giáo vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến sống tinh thần của
người Việt Nam.
"Phật giáo đến Việt Nam, gặp bối cảnh khác, nên suy tư và vận dụng giáo lý của
thiền sư cũng khác. Nếu không biết đổi khác, chỉ sống y khuôn với giáo lý nguyên thủy,
chắc chắn chúng ta sẽ không có những trang sử đẹp được mệnh danh là thời kỳ vàng son
của Phật giáo Lý Trần " [28, tr. 138].
Trong các tôn giáo được du nhập vào Việt Nam thì Phật giáo được truyền bá vào rất
sớm sau Nho giáo. Ngay từ năm đầu công nguyên - thế kỷ I người Giao Châu đã tiếp xúc
với Phật giáo từ Tây Vực truyền sang - thời kỳ này nước ta đang nằm dưới ách thống trị
của nhà Hán. Các nhà nghiên cứu đều có chung ý kiến thống nhất cho rằng, Phật giáo
được truyền vào Việt Nam bằng hai con đường. Thứ nhất, từ ấn Độ sang theo đường
biển; thứ hai, từ Trung Quốc vào bằng đường bộ. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy, thế kỷ
thứ II cuối triều Hán Linh Đế (168 - 188) xuất hiện hai vị tăng ấn Độ sang Việt Nam
truyền đạo là Ma Ha Kỳ Vực và Khưu Đà La, hình thành trung tâm Phật giáo đầu tiên
của nước ta - Trung tâm Phật giáo Luy Lâu (ngày nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh
Bắc Ninh). Cũng trong thế kỷ này, Mâu Tử là người Trung Quốc đến Việt Nam viết sách
về Phật giáo Việt Nam "Lý hoặc luận". ở Giao Châu có nhiều người tu Phật và hình
thành tầng lớp tăng sĩ trong xã hội. Một số tăng sĩ Việt Nam dịch kinh Phật từ tiếng ấn
Độ sang tiếng Hán. Phật giáo Việt Nam phát triển chủ yếu dưới sự ảnh hưởng của Phật
giáo ấn Độ. Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu từ phía Bắc mang tư tưởng Đại thừa sau đó
lan ra cả nước hay còn gọi Phật giáo Đại thừa, Phật giáo Bắc tông. Phật giáo được truyền
từ phương Nam mang tư tưởng Tiểu thừa còn gọi là Phật giáo Tiểu thừa hay phật giáo
Nam tông.
Việt Nam giáp với biển Đông có đường biển dài nằm trên con đường thủy thông
thương giữa Đông và Tây, giữa Bắc và Nam, giữa hai cái nôi của nền văn minh lớn ở
phương Đông là Trung Hoa và ấn Độ, là nơi xuất phát về phía Nam của nhiều nhà buôn
sứ giả Trung Hoa. Vị trí thuận lợi ấy khiến Phật giáo du nhập vào Việt Nam sớm. Nhà
nghiên cứu Phật học -Minh Chi cho rằng, Việt Nam ngay từ thời rất xưa đã được các cao
tăng ấn Độ đến truyền giáo trực tiếp và thời điểm đó có thể là xưa hơn thời điểm Phật
giáo vào miền Nam Trung Hoa khá nhiều. Trung tâm Phật giáo quan trọng đó là Luy
Lâu. Đó là nơi có nhiều đường thủy, đường bộ quan trọng của Việt Nam lúc bấy giờ. Với
vị trí giao thông thuận lợi như vậy, đã khiến Luy Lâu trở thành trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa sầm uất. Luy Lâu trở thành nơi hội tụ các luồng văn hóa và rất thuận lợi cho
việc truyền bá đạo Phật vào Việt Nam. Tuy nhiên, Phật giáo Luy Lâu không giống hoàn
toàn với Phật giáo ấn Độ. Phật giáo Luy Lâu đã có nhiều biến đổi nhằm thích nghi với
phong tục tập quán, cũng như điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam vào lúc bấy giờ.
Trước hết, đó là sự kết hợp hai dòng tín ngưỡng: Tín ngưỡng bản địa và tín ngưỡng Phật
giáo ấn Độ.
Từ thế kỷ thứ VI, ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Việt Nam dần
dần chiếm ưu thế, trong khi đó ảnh hưởng của Phật giáo ấn Độ có xu hướng giảm dần.
Trong đó, đáng chú ý là có một số dòng thiền Trung Quốc du nhập vào Việt Nam. Dòng
thiền thứ nhất do Tỳ Ni Đa Lưu Chi - tổ thứ ba của phái Thiền tông Trung Quốc đã sang
Việt Nam cuối thế kỷ VI (580), tu tại chùa Pháp Vân (Bắc Ninh), trở thành vị sư tổ của
phái thiền mang tên ông ở Việt Nam. Dòng thiền này truyền được cả thảy 19 thế hệ. Pháp
Hiền là người nối pháp của Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Người cuối cùng của dòng Thiền này là
Thiền sư Y Sơn. Lưu Chi đã góp phần đào tạo nên các thế hệ nhà sư Việt Nam có quan
niệm mới về đạo Phật cùng phương pháp tu tập cũng có khác trước. Đặc trưng nổi bật
của dòng thiền này là quan niệm mới về tâm Phật là cái không có trong thực tế, khó hình
dung trong tư duy, khó nắm bắt trong nhận thức, một cái gì đó gần với cảnh giới Niết
bàn. Phật giáo đã vắng bóng thần linh. Phương pháp tu tập cũng có những nét mới như
chủ trương nghiêng về tu tập thiền định làm cho trí tuệ bừng sáng để đạt đến cảnh giới
giác ngộ.
Năm 820, một phái Thiền khác do thiền sư Vô Ngôn Thông (Bất Ngữ Thông)
truyền bá vào nước ta. Dòng Thiền này tồn tại và phát triển cho đến thời Trần. Tư tưởng
chủ yếu của phái này là không dựa vào văn tự, thuyết giáo, gạt bỏ sự tu khổ hạnh lâu
ngày v.v theo truyền thống "Bất lập văn tự; Giáo ngoại biệt truyền; Trực chỉ nhân tâm;
Kiến tính thành Phật" của Thiền tông Trung Quốc.
Dưới thời kỳ Bắc thuộc, hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông
cùng tồn tại và phát triển song song và về cơ bản vẫn là hai phái thiền riêng biệt, chưa chịu
ảnh hưởng lẫn nhau như các thời kỳ sau này.
Phái thiền thứ ba được truyền vào nước ta là Thảo Đường. Lý Thánh Tông là sư
tổ thứ hai của phái thiền này. Đây là dòng thiền riêng của đời Lý và có ảnh hưởng lớn ở
Việt Nam đến đầu thế kỷ XIII.
Đến thời Lý (1010 - 1225) - Trần (1225 - 1400), Phật giáo Thiền Tông phát triển
hưng thịnh, đạt đến đỉnh cao rực rỡ và trở thành quốc giáo, chiếm ưu thế trong đời sống
tinh thần của người Việt Nam.
Lý, Trần trong khoảng hai đời.
Nhà nhà niệm Phật, người người tụng kinh.
Sang đời Lê, vai trò tư tưởng Phật giáo dần suy giảm để nhường chỗ cho tư
tưởng chiếm vị trí chủ đạo của Nho giáo.