Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

LUẬN VĂN: Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.77 KB, 101 trang )








LUẬN VĂN:

Nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức trong
học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay







Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quán triệt quan điểm của Đảng, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhằm phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn cách mạng hiện nay và để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của
đất nước, tỉnh Thái Bình đã không ngừng xây dựng và phát triển về mọi mặt. Đặc biệt
chú trọng phát triển giáo dục bởi “đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển”.
Từ xa xưa, Thái Bình vốn là một tỉnh thuần nông không những có truyền thống
thâm canh giỏi mà còn là một trong những tỉnh có nền văn hiến cao, có truyền thống
“hiếu học”.
Hơn nửa thế kỷ qua, tuy còn là một tỉnh rất khó khăn về kinh tế, nhưng Thái Bình
vẫn không ngừng đầu tư cho sự nghiệp “trồng người”, góp phần quan trọng vào sự nghiệp


bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội.
Từ ngày hoà bình lập lại, bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã
hội, sự nghiệp giáo dục của tỉnh Thái Bình được đặc biệt coi trọng, được coi là “chìa khoá”
để mở cửa vào lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật.
Gắn liền với phong trào sản xuất, với khẩu hiệu “lúa xanh tươi, người biết chữ”
Thái Bình đã được tặng thưởng huân chương lao động hạng Nhì.
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra vô cùng ác liệt nhưng sự nghiệp
giáo dục của tỉnh Thái Bình vẫn được duy trì và phát triển.
Hiện nay trong thời kỳ đổi mới, mở cửa và bùng nổ về khoa học công nghệ, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hệ thống các trường chuyên nghiệp, kinh tế kỹ thuật,
trường chính trị, trường dạy nghề đã phát huy tác dụng và góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cũng như nguồn nhân lực cho tỉnh Thái Bình.
Nhiều năm qua, Thái Bình “được mùa” về sự nghiệp “trồng người”. “Đất học” Thái
Bình có nhiều tài năng nở rộ, hàng năm số học sinh trúng tuyển vào các trường đại học, cao
đẳng đạt từ 20% đến 30%. Các làng quê và đô thị của Thái Bình đã nuôi dưỡng nên biết bao
cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ, giáo sư… Họ đã và đang làm giàu cho quê hương, đất nước. Nhiều

người con của Thái Bình đã và đang giữ những cương vị chủ chốt ở các địa phương và
Trung ương [2].
Những năm gần đây, Thái Bình tiến hành đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tiến bộ khoa học
kỹ thuật - công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của Thái Bình. Quê lúa đã dần
đổi màu, những nhà máy, những khu công nghiệp mọc lên ngày càng nhiều.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hoá, của sự mở cửa giao lưu, hội
nhập với thế giới… một mặt, đã tạo nhiều cơ hội học tập và việc làm cho mọi thành viên
trong xã hội. Mặt khác, cũng đem lại những nguy cơ và thách thức cho mỗi cá nhân và cả xã
hội, đặc biệt là giới học sinh, sinh viên.
Truyền thống “đất học” Thái Bình đang có nguy cơ bị đe doạ bởi các hiện tượng
chán học, lười học, bỏ giờ, học đối phó, quay cóp trong thi cử. Thêm vào đó là nạn rượu
chè, cờ bạc, ma tuý… đã và đang xâm nhập vào nhà trường ở Thái Bình gây ảnh hưởng

xấu đến một bộ phận học sinh, sinh viên.
Tất cả những hiện trạng tiêu cực đó đã ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập của
học sinh, sinh viên Thái Bình, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục và đào tạo của tỉnh.
Những hiện tượng trên có rất nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên
nhân quan trọng là chúng ta chưa biết phát huy và nâng cao những mặt mạnh và tích cực của
những sinh viên, và bản thân mỗi sinh viên chưa thực sự cố gắng phát huy hết nội lực của
mình trong quá trình học tập và rèn luyện.
Trước thực trạng như vậy, cùng với yêu cầu đổi mới ở tỉnh Thái Bình và phát huy
truyền thống của quê hương, đất nước, chúng tôi thực sự thấy bức xúc và muốn góp phần nhỏ
bé để có thể giúp các em sinh viên Thái Bình có thể nâng cao vai trò nhận thức của họ trong
quá trình học tập. Chỉ có như vậy thì Thái Bình mới thực sự góp sức mình vào công cuộc phát
triển chung của đất nước.
Nhận thức được vấn đề cần phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập
của sinh viên ở Thái Bình trong thời kỳ đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu của tỉnh, của đất
nước, là cần có một đội ngũ lao động có thể lực, trí lực, có tâm huyết, trung thành với lý
tưởng và nhiệt tình cách mạng. Vì lẽ đó tác giả đã chọn đề tài này với mong muốn có thể
góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp chung của đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề liên quan đến chủ thể nhận thức, khách thể nhận thức đã được một số tác
giả nghiên cứu như: Luận án tiến sỹ của Nguyễn Tiến Thủ “Quan hệ giữa chủ thể và
khách thể nhận thức với việc phát huy vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh
viên Việt Nam hiện nay”, Hà Nội 2001. Luận án tập trung nhiều vào lý luận về chủ thể và
khách thể nhận thức.
Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Đức Hoàn “Phát huy vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên cao đẳng ở Việt Nam hiện nay” (Qua thực thế một số trường cao
đẳng ở tỉnh Hải Dương), Hà Nội 2001. Luận văn tập trung vào đối tượng là sinh viên cao
đẳng khối Kinh tế kỹ thuật ở tỉnh Hải Dương.
Luận văn thạc sỹ của Phùng Minh Hải “Vấn đề phát huy vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của học viên hệ Trung cấp lý luận chính trị ở Cần Thơ hiện nay”, Hà Nội

2003. Luận văn tập trung vào nghiên cứu đối tượng là học viên hệ Trung cấp lý luận
chính trị ở Cần Thơ.
Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác cũng đề cập tới vai trò chủ thể và
khách thể cũng như mối quan hệ biện chứng giưã chủ thể và khách thể như: “Hệ tự tưởng
Đức”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán”, “Bút ký triết học”…
Tác phẩm “Phát huy tinh thần học tập cầu học, cầu tiến bộ” của Chủ tịch Hồ Chí
Minh dã nhấn mạnh tới vai trò chủ thể nhận thức trong học tập.
Trong các Nghị quyết của Đảng ta, đặc biệt là các nghị quyết từ đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI đến đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX luôn đề cập đến vấn đề phát huy
tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao tinh thần tự học…
Vấn đề “Nõng cao vai trũ chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viờn ở tỉnh
Thỏi Bỡnh hiện nay”, với đối tượng sinh viên đại học Y khoa, sinh viên cao đẳng Sư
phạm và sinh viên trường cao đẳng Kinh tế kỹ thuật ở một tỉnh thuần nông nằm trong
vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, một miền quê có những điều kiện tự nhiên, kinh tế,
văn hoá và xã hội rất đặc trưng vẫn là mảng đề tài cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích

Trên cơ sở phân tích thực trạng nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập
của sinh viên ở tỉnh Thái Bình, đề xuất một số phương hướng và giải pháp góp phần nâng
cao tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện
nay.
- Nhiệm vụ
+ Phân tích tính tất yếu khách quan của việc nâng cao vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
+ Khảo sát, điều tra, phân tích thực trạng nâng cao vai trò của chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
+ Đề xuất những phương hướng và giải pháp góp phần nâng cao tính tích cực,
sáng tạo trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay.

- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
+ Khảo sát sinh viên của Đại học Y khoa Thái Bình, sinh viên Cao đẳng Sư phạm
và sinh viên Cao đẳng Kinh tế - kỹ thuật.
+ Phạm vi nghiên cứu tập trung và trực tiếp của luận văn là vấn đề “Nâng cao vai trò của chủ
thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay”.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
- Cơ sở lý luận
+ Luận văn được viết dựa trên những quan điểm triết học Mác - Lê nin về mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể nhận thức, về lý luận nhận thức. Luận văn cũng dựa trên
tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng và sử dụng kết quả nghiên cứu lý luận của
các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.
+ Luận văn được viết dựa trên những nghị quyết, quyết định và thông tri về giáo
dục và đào tạo có liên quan của tỉnh Thái Bình, của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như
của Bộ Y tế.
- Phương pháp nghiên cứu
+ Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
DVBC và CNDVLS.
+ Kết hợp giữa phân tích và tổng hợp, phối hợp với các phương pháp so sánh,
thống kê… để làm rõ vấn đề mà luận văn đề cập.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Góp phần luận chứng cho vấn đề vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh
viên ở Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
Qua điều tra thực tế, tổng kết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn nhằm nâng
cao vai trò của chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình trong giai
đoạn hiện nay.
Đưa ra các phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao vai trò chủ thể nhận thức
trong học tập của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt thực tiễn, luận văn là sự vận dụng, cụ thể hoá một số vấn đề lý luận của

Triết học Mác - Lê nin vào thực tiễn giáo dục, đào tạo ở tỉnh Thái Bình hiện nay.
Vì lẽ đó, những vấn đề mà luận văn đề cập và giải quyết sẽ góp phần thiết thực về
cải tiến và đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở các trường Đại học, Cao đẳng ở
Thái Bình hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Tính tất yếu của việc nâng cao vai trò chủ thể
nhận thức trong học tập của sinh viên
ở tỉnh Thái Bình hiện nay

1.1. vai trò Chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên hiện nay
1.1.1. Vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên
* Đặc điểm tâm - sinh lý, xã hội của sinh viên
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc thù trong tầng lớp thanh niên, họ tồn tại đan xen
trong các mối quan hệ xã hội, giai cấp, dân tộc, đoàn thể.
Sinh viên đang học tập và sinh sống ở tỉnh Thái Bình thường có độ tuổi 17-18 đến
24-25, một số ít sinh viên ở độ tuổi 25-30.

- Về sinh lý: ở độ tuổi 17-25 hình thể đã đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và
phối hợp giữa các chức năng. Thời kỳ đầu của giai đoạn này, con người đạt được 9/10
chiều cao và 2/3 trọng lượng của cơ thể trưởng thành. Bộ não đã đạt được trọng lượng tối
đa (khoảng 14.000gram), số tế bào thần kinh phát triển tương đối đầy đủ. Lứa tuổi này
hoạt động thần kinh cao cấp đã đạt đến mức trưởng thành. Đang trong giai đoạn “dạy
thì” các chức năng sinh sản bắt đầu quá trình hoàn thiện. Giới tính phân biệt rõ và phát
triển đầy đủ ở mỗi giới cả về hình thể đến biểu hiện nội tiết tố.
- Về tâm lý: 17-25 tuổi là thời kỳ phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao
năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ nhất ở khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng lực giải
quyết những nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong

lập luận lô gích, trong lĩnh hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và nghi ngờ. Thời kỳ
này cũng là thời kỳ phát triển khả năng hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán
đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập cao. ở độ tuổi này sinh viên có tính nhạy bén cao, khả
năng giải thích và gắn ý nghĩa cho những ấn tượng cảm tính nhờ vào kinh nghiệm và tri
thức có trước đây.
Sự phát triển nói trên cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng
cho lứa tuổi này biết cách lĩnh hội tối ưu tri thức và đó chính là cơ sở vững chắc cho toàn
bộ quá trình học tập và nghiên cứu khoa học của mỗi một sinh viên.
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của lứa tuổi sinh viên là sự phát triển
tự ý thức. Tự ý thức có chức năng điều chỉnh nhận thức và có thái độ với bản thân, là sự
đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức chính là
điều kiện để phát triển và hoàn thiện nhân cách, hướng nhân cách theo các yêu cầu mà xã
hội đòi hỏi.
- Về mặt xã hội: Lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về đạo đức
và thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là họ có vai trò xã hội
của người lớn. Người sinh viên đã có kế hoạch cho lao động của riêng mình, độc lập
trong phán đoán và hành vi, bắt đầu thể nghiệm mình trong cuộc sống.
Vì ở độ tuổi sau trẻ em và bắt đầu thành người lớn, nên thế giới nội tâm của họ là
vô cùng phức tạp, phát triển nhân cách của sinh viên là một quá trình chuyển từ các yêu

cầu bên ngoài thành nhu cầu của bản thân sinh viên và là quá trình tự vận động và hoạt
động tích cực của chính bản thân họ. Những mâu thuẫn chính là:
+ Mâu thuẫn giữa ước mơ của người sinh viên với khả năng điều kiện và kinh
nghiệm để thực hiện ước mơ đó.
+ Mâu thuẫn giữa mong muốn học tập chuyên sâu những môn ưa thích và yêu cầu
thực hiện toàn bộ chương trình học tập do nhà trường quy định.
+ Mâu thuẫn giữa khối lượng thông tin vô cùng phong phú với khả năng điều kiện
để xử lý thông tin.
Về thái độ học tập của sinh viên thì có rất nhiều kiểu khác nhau. Có sinh viên học
chỉ vì nghề nghiệp mà không hề quan tâm đến các lĩnh vực trí thức cũng như hoạt động

xã hội khác. Họ luôn thực hiện bài tập theo yêu cầu và chỉ cần đạt điểm trung bình. Ngoài
sách bắt buộc phải đọc thì họ chỉ đọc theo ý thích, không liên quan gì đến sự phát triển
nghề nghiệp.
Có sinh viên lại thích các môn học mà họ coi là tri thức về cuộc sống nói chung
trên cơ sở lựa chọn riêng của mình. Họ quan tâm nhiều đến thế giới tư tưởng và sách.
Ngoài giờ học bắt buộc, họ tự nguyện tham gia vào các chuyên đề tự chọn, những giờ
phụ đạo, các buổi hoà nhạc… Họ muốn hiểu biết các lĩnh vực mà họ quan tâm, họ luôn
tham gia vào các tổ chức khoa học và né tránh các tổ chức tập thể, các công việc xã hội
không liên quan trực tiếp đến việc học tập. Với những sinh viên này thì học tập thực sự là
những khát khao tri thức và kinh nghiệm sống.
Cũng có những sinh viên vừa ham thích sách vở và học tập, nhưng vẫn tham gia
các hình thức hoạt động và đời sống tập thể, họ cố gắng đạt điểm cao trong các kỳ thi, coi
hoạt động tập thể, có ảnh hưởng tích cực đến bản thân.
Có những sinh viên luôn chú ý đến các hoạt động xã hội của nhà trường hơn là
bản thân các khoa học. Họ gắn bó với trường và tham gia tích cực vào các hoạt động bề
nổi. Với họ thời sinh viên không có nghĩa chỉ là giảng đường, mà còn có các câu lạc bộ,
các tổ chức sinh viên… Họ cũng cố gắng để có "mảnh bằng", nhưng ít khi vượt quá
ngưỡng tối thiểu.
Ngoài những đặc điểm trên, ở vào tuổi của mình sinh viên còn ít từng trải, thiếu
kinh nghiệm và vốn sống hạn chế cho nên bên cạnh rất nhiều ưu điểm thì sinh viên còn

bộc lộ những hạn chế không tránh khỏi do khí chất của mình như: hấp tấp, vội vàng do
muốn sớm khẳng định mình nhưng lại thiếu kinh nghiệm sống. Tính tự phụ, bồng bột,
chủ quan vì muốn nhập cuộc để tự khẳng định mình nên thiếu kiềm chế, nhẹ dạ, cả tin,
gặp khó khăn là dễ hoang mang, dao động, dễ bị kích thích, thiếu tự chủ do hệ tim mạch
và hệ thần kinh chưa ổn định. Khí chất của thanh niên chưa cân bằng nên dễ bốc đồng và
thường bị lợi dụng. Do đặc điểm về tuổi tác của mình nên sinh viên thường tiếp thu thông
tin ít chọn lọc, hướng tới các giá trị mới hiện đại nhưng lại nhanh quên quá khứ. Vì lẽ đó
mà trong quá trình giảng dạy cho sinh viên, bên cạnh việc giáo dục chuyên môn nghiệp
vụ thì phải giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị và giá trị truyền thống cho sinh viên.

Hiểu được đặc điểm tâm lý, xã hội của sinh viên, bản chất tốt đẹp, khả năng cách
mạng của tuổi trẻ cũng như những hạn chế của họ là một vấn đề rất quan trọng để có nhận
thức đúng, có thái độ đánh giá đúng và có quan điểm giáo dục, vận động, phát triển họ một
cách khoa học, hiệu quả và như vậy sẽ tạo ra những thành quả lớn trong sự nghiệp giáo dục,
đào tạo nguồn nhân lực mới góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đổi mới và phát
triển của đất nước.
Sau 20 năm đổi mới, do những biến đổi trong chính sách kinh tế - xã hội và ngoại
giao, kinh tế chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị
trường nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Chính
sách ngoại giao từ chỗ chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu sang đa
phương hoá, đa dạng hoá dẫn đến sự thay đổi đáng kể trong thang giá trị và định hướng
xã hội của thanh niên - sinh viên. Nhiều đề tài cấp Nhà nước như đề tài KX-04-09
“Những luận cứ khoa học của việc đổi mới chính sách thanh niên hiện nay”. Đề tài KX-
07-10 “ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế thị trường đối với sự phát triển nhân cách
con người Việt Nam”… đều nhận định rằng thang giá trị và sự lựa chọn giá trị trong
thanh niên, sinh viên hiện nay đã có sự thay đổi trên cả 2 khía cạnh.
Thứ nhất: Sự biến đổi của chính các giá trị.
Hiện nay, một số các giá trị truyền thống đã được thay đổi về nội dung như, những
giá trị đề cao tinh thần hy sinh , xả thân vì nước, vì dân trong thời kỳ chiến tranh đã được
thay thế bằng nội dung mới là phải làm tất cả những gì để dân giầu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Các giá trị về ý thức cộng đồng, về truyền thống đoàn kết

không chỉ được quan niệm là hy sinh lợi ích của cá nhân mà còn là sự kết hợp giữa các
lợi ích xã hội tập thể và cá nhân, coi lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp để phát triển
kinh tế - xã hội. Trong lao động sản xuất không chỉ là cần cù, chịu khó mà cần phải lao
động có tri thức khoa học, có lương tâm trách nhiệm, có năng suất, chất lượng và hiệu quả
cao. Trong cơ chế hiện nay, đòi hỏi con người phải không chỉ dám nghĩ, dám làm mà còn
dám chịu trách nhiệm, chấp nhận cạnh tranh, liên doanh liên kết với các cá nhân, các tổ chức
kinh tế dịch vụ trong nước và quốc tế.
Thứ 2: Sự thay đổi trật tự ưu tiên trong hệ thống giá trị.

Qua điều tra 3.000 sinh viên ở 3 trường đại học Y khoa Thái Bình, cao đẳng Kinh
tế kỹ thuật Thái Bình và trường cao đẳng Sư phạm Thái Bình chúng tôi thấy các giá trị
sinh viên Thái Bình quan tâm nhất là:
Bảng 1.1: Sự biến đổi một số giá trị cơ bản của sinh viên ở tỉnh Thái Bình hiện nay
STT

Các giá trị Tỷ lệ (%)
1 Có việc làm và lập nghiệp 99
2 Có học vấn rộng và tư duy sáng tạo 70
3 Có cuộc sống gia đình hạnh phúc 90
4 Có nhu cầu mới, nếp sống văn minh 70
5 Có bản lĩnh, nhân cách công nhân 51
Nguồn: Qua điều tra khảo sát 3.000 snh viên của các trường đại học, cao đẳng ở
tỉnh Thái Bình từ tháng 4 - tháng 5/2005.
So với kết quả điều tra của đề tài: “Sinh viên - nhu cầu, nguyện vọng” do hội
thanh niên thực hiện thì các chỉ số tương ứng là: 83%, 64%, 56,2%, 52,4% và 51,5%.
Như vậy quan niệm của sinh viên ở tỉnh Thái Bình về trật tự ưu tiên các giá trị có những
điểm khác biệt so với sinh viên của cả nước.
Qua điều tra xã hội học, của tác giả Trần Xuân Vinh (1995) “Sự biến đổi một số
giá trị cơ bản và thanh niên hiện nay” [103, tr.40 - 43] thì chỉ có 12,1% sinh viên mong
muốn được tham gia quản lý xã hội, 26,7% xây dựng Đảng, đoàn, 12,9% lựa chọn nghề
nghiệp để được đóng góp sức lực của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Trong khi

đó 81,2% sinh viên lựa chọn cho mình nghề nghiệp có thu nhập cao là quan trọng hàng
đầu.
Như trên đã trình bày thì giá trị không hoàn toàn là cái bất biến, mà nó luôn biến
đổi để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Sự biến đổi ở đây không chỉ về nội
dung mà còn về trật tự ưu tiên và xuất hiện thêm những giá trị mới. Có sự biến đổi đó của
các giá trị là do sự biến đổi của thực tiễn xã hội và nhận thức của con người. Nền kinh tế
- xã hội của chúng ta đang có sự chuyển mình ghê gớm, tất yếu dẫn đến sự thay đổi của

thang giá trị. Từ đó dẫn đến việc chúng ta cần phải nhận thức, đánh giá và định hướng
cho sinh viên biết kết hợp một cách hài hoà giữa các giá trị, nhằm giảm thiểu những lệch
lạc, cực đoan trong việc lựa chọn của các em.
Qua kết quả điều tra xã hội học ở 3 trường đại học Y Thái Bình, cao đẳng Kinh tế
kỹ thuật Thái Bình, cao đẳng Sư phạm Thái Bình và qua một số đề tài nghiên cứu về
thanh niên, sinh viên Việt Nam, chúng tôi thấy thanh niên - sinh viên là những con người
về thể chất đã đạt đến độ hoàn chỉnh, là thời kỳ phát triển đầy đủ các tố chất của con
người Việt Nam hiện đại. Và như vậy thì sinh viên Thái Bình cũng không nằm ngoài xu
hướng chung của sinh viên cả nước trong quan niệm về trật tự ưu tiên các hệ thống giá trị
cho dù họ có một số những quan điểm riêng.
Từ những điểm đã phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rất rõ sinh viên với tư
cách là chủ thể nhận thức trong học tập là những người trẻ, với độ tuổi 18-25 là lứa tuổi
đẹp nhất trong cuộc đời, đầy ước mơ và khát vọng, tuổi của tương lai, với nghị lực tiềm
tàng, tính năng động trong cuộc sống, là một thế hệ hội đủ các tố chất: Yêu nước, thông
minh, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có nghị lực, ham học lập để có việc làm và lập
nghiệp.
* Tính đặc thù của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập
Chúng ta muốn nâng cao chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng thì không thể
không nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên chính ở đây là một
bộ phận quan trọng của quá trình dạy - học.
Trước hết chúng ta phải hiểu quá trình dạy - học là gì ? Từ đó tìm hiểu tính đặc thù
của sinh viên với tư cách là chủ thể nhận thức trong học tập.

Học là một hoạt động với đối tượng, trong đó học sinh, sinh viên là chủ thể, tri
thức khoa học là đối tượng để chiếm lĩnh. Học là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri
thức khoa học dưới sự điều khiển sư phạm của giáo viên. Chiếm lĩnh tri thức khoa học là
mục đích của việc học, quá trình này được thực hiện từng bước như sau:
Trước hết học sinh, sinh viên phải nắm vững nghĩa, đào sâu ý chứa đựng trong các
khái niệm, các tri thức khoa học. Sau đó tái tạo các khái niệm, các tri thức khoa học đó
trong bản thân, và phải thao tác với nó, sử dụng nó giống như một công cụ, một phương

pháp để chiếm lĩnh thêm các khái niệm và tri thức khoa học khác hoặc để mở rộng, đào
sâu, nâng cao thêm chính các khái niệm, tri thức đó ở trình độ lý thuyết cao hơn.
Khi đã chiếm lĩnh được các khái niệm, các tri thức khoa học thì người học sẽ biến
chúng từ trong kho tàng tri thức xã hội thành học vấn của riêng mình. Từ đó hình thành
cho mình một thái độ mới trong việc đánh giá các giá trị tinh thần và vật chất của thế giới
khách quan. Như vậy, khi thực hiện thành công quá trình chiếm lĩnh khái niệm, tri thức
khoa học thì người học sẽ thực hiện được 3 mục đích: Nắm vững khái niệm, tri thức, phát
triển tư duy lý luận và giáo dục đạo đức. Ba mục đích này không tách biệt nhau mà chúng
gắn bó, thâm nhập, tác động, quy định lẫn nhau.
Về cấu trúc của việc học có 2 chức năng thống nhất với nhau. Ngoài việc lĩnh hội,
tiếp thu thông tin dạy của thầy thì quá trình tự điều khiển để chiếm lĩnh khái niệm, tri
thức khoa học của người học sinh, sinh viên (tự giác, tích cực, tự lực) là rất quan trọng.
Nội dung của học chính là nội dung của việc chiếm lĩnh các khái niệm, các tri thức
khoa học. Điều quan trọng của việc chiếm lĩnh nội dung của khoa học, của các tri thức
khoa học là lĩnh hội phương pháp kiến tạo nên các khái niệm từ đó rút ra phương pháp
nhận thức khoa học nói chung.
Ngoài ra việc chiếm lĩnh khái niệm, tri thức khoa học, người học còn phải nắm
vững quá trình phát triển lô gích của khái niệm, của tri thức khoa học. Bởi vì khái niệm
khoa học luôn vận động, biến đổi và phát triển cùng sự vận động, phát triển của thực tiễn.
Tóm lại, nội dung của học là một nguyên lý khái niệm của môn học, cấu trúc lô
gích của môn học đó, các phương pháp đặc trưng của khoa học, ngôn ngữ của khoa học
đó và biết ứng dụng những hiểu biết đã có vào việc học tập và lao động của mình. Từ đó
hình thành khái niệm mới, tri thức mới nhưng là đổi mới đối với bản thân học sinh, sinh

viên đó là phương pháp chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Như vậy, sinh viên học có nghĩa
là nhận thức. Phương pháp học cũng là những phương pháp nhận thức.
Muốn học tốt thì cần phải thống nhất giữa mục đích, nội dung và phương pháp
học. Đó là sự điều khiển tối ưu quá trình chiếm lĩnh khoa học trên cơ sở sự tự điều khiển
và hướng dẫn của người dạy.
Dạy - là quá trình điều khiển, tối ưu hoá quá trình học sinh, sinh viên chiếm lĩnh

khái niệm khoa học, tri thức khoa học nhằm hình thành và phát triển nhân cách cho người
học. Dạy học có mục đích là điều khiển sự học tập của học sinh, sinh viên.
Dạy có 2 chức năng tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau, sinh thành ra nhau,
đó là truyền đạt thông tin và điều khiển hoạt động học của người học.
Sơ đồ 1.1: Quá trình dạy học











Quá trình học tập của sinh viên thực chất là quá trình nhận thức, tức là đi từ “trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn”, chỉ có điều
quá trình đó luôn có sự giúp đỡ, định hướng, hướng dẫn của giáo viên. Đây chính là nét
đặc thù của quá trình nhận thức trong học tập của sinh viên.
Trong quan hệ với người dạy thì sinh viên là khách thể của quá trình giáo dục và
đào tạo, nhưng trong quan hệ với tri thức khoa học và thực tiễn xã hội thì sinh viên lại tồn
tại với tư cách là chủ thể của các quá trình nhận thức và ở góc độ này thì tri thức khoa
Khái ni
ệm khoa học,
tri thức khoa học

Dạy

Truyền đạt


Điều khiển

tác

cộng

Học

Lĩnh hội

Tự điều
khi
ển


học và một phần thực tiễn xã hội lại trở thành khách thể nhận thức của sinh viên - chủ thể
nhận thức.
Như vậy sinh viên luôn tồn tại trong mối quan hệ “kép” vừa là khách thể lại vừa
là chủ thể của quá trình dạy - học. Trong quan hệ với nhà trường, với giáo viên thì họ là
khách thể, đối tượng của quá trình giáo dục nhà trường, với giáo viên thì họ là khách thể, đối
tượng của quá trình giáo dục và đào tạo. Nhưng trong quá trình học tập nghiên cứu khoa học
thì họ là chủ thể nhận thức.
* Vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức trong học tập
Như trên chúng ta đã rõ, trong quá trình học tập thì sinh viên là chủ thể nhận thức
còn các tri thức khoa học và một phần thực tiễn xã hội chính là khách thể nhận thức của
sinh viên. Quá trình sinh viên học tập chính là quá trình nhận thức dưới sự hướng dẫn của
giảng viên, nhưng vai trò của sinh viên với tư cách chủ thể nhận thức là hết sức quan
trọng. Điều này thể hiện ở điểm cơ bản sau:
- Sinh viên đóng vai trò quyết định trong quá trình học tập, chiếm lĩnh tri thức

khoa học và một phần thực tiễn xã hội.
- Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình biến học
tập thành tự học tập.
- Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong việc hình thành tri
thức mới từ những tri thức đã lĩnh hội.
- Sinh viên - chủ thể nhận thức đóng vai trò quyết định trong quá trình vận dụng
các tri thức đã lĩnh hội vào học tập và nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sinh viên - Chủ thể nhận thức trong học
tập
Chất lượng giáo dục, đào tạo có liên quan chặt chẽ với điều kiện kinh tế - xã hội
của đất nước. Muốn cho giáo dục, đào tạo của chúng ta đạt kết quả cao đáp ứng được những
đổi thay to lớn của thời đại (xu thế quốc tế hoá, tin học hoá - hướng tới xã hội thông tin và
nền kinh tế tri thức) Đảng ta cần phải tích cực chuyển nền giáo dục, đào tạo sang hệ thống
học tập suốt đời, tăng cường phát triển các chương trình phù hợp với nền kinh tế - xã hội và
yêu cầu của mỗi cá nhân. Chuyển giáo dục, đào tạo từ một hệ thống đồng nhất sang một hệ
thống giáo dục đa dạng và mềm dẻo, hiện đại hoá các phương pháp dạy học.

Để có thể thực hiện được những yêu cầu trên thì cần phải có một môi trường giáo
dục tốt, phải có một đội ngũ các thầy giáo, cô giáo giỏi cùng các cơ sở vật chất, trang
thiết bị, giáo trình, sách giáo khoa, thư viện… phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu
khoa học. Từ một hệ điều kiện có liên quan và ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, đào
tạo thì có thể nói có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong
học tập như:
- Mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo
- Những vấn đề về quản lý, các quy chế, cách kiểm tra, đánh giá chất lượng.
- Đội ngũ giáo viên và chất lượng, động lực của đội ngũ này.
- Cơ sở vật chất, kỹ thuật và tài chính.
- Chế độ sử dụng và đãi ngộ với người có trình độ đại học, sau đại học.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, chúng tôi chỉ xin được trình bày một
số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập.

* Mục tiêu, cấu trúc và nội dung của chương trình
Mục tiêu của giáo dục đại học, cao đẳng là đào tạo nhân lực có trình độ cao, các
chuyên gia cho tất cả các lĩnh vực phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta chưa
có điều kiện để giáo dục đại học, cao đẳng thực hiện được mục tiêu dân trí, mà trước tiên
là phải tập trung vào việc đào tạo nhân lực, trong đó nhân tài là nhân lực có năng lực đặc
biệt, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để có thể phù hợp ở
thực tế Việt Nam giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như định hướng
đổi mới mục tiêu đào tạo đại học, cao đẳng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986),
hình thức đào tạo ở bậc đại học được cấu trúc lại bao gồm 2 bộ phận.
+ Kiến thức giáo dục đại cương
Bao gồm các học phần gồm 6 lĩnh vực: Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa học
Tự nhiên và Toán học, Ngoại ngữ, giáo dục Quốc phòng và giáo dục Thể chất. Giúp cho
người học có tầm nhìn rộng, có thế giới quan và nhân sinh quan đúng đắn, hiểu biết về tự
nhiên, xã hội và bản thân con người, nắm vững những tư duy khoa học, biết tôn trọng các
di sản văn hoá của dân tộc, nhân loại có đạo đức, nhận thức trách nhiệm công dân, biết
yêu Tổ quốc và có năng lực bảo vệ Tổ quốc, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Các học phần về giáo dục đại cương có thể tồn tại dưới những môn học thích hợp từ một
số ngành khoa học.
+ Kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
Bao gồm 3 nhóm học phần:
Cốt lõi (Kiến thức cơ sở và ngành học chuyên ngành, bao gồm các học phần khoa
học cơ bản phục vụ cho chuyên môn, Ngoại ngữ chuyên ngành và khoa học quân sự
chuyên ngành).
Nhóm học chuyên môn chính và nhóm học phần chuyên môn phụ nhằm củng cố
cho người học những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ban đầu.
Chương trình đào tạo cao đẳng cấu trúc có thể khác ở cấp này, có 2 loại hình chính
là: cao đẳng thực hành như: (cao đẳng Kinh tế kỹ thuật, cao đẳng Nông nghiệp, cao đẳng
Y tế…) và cao đẳng cơ bản như: (cao đẳng Sư phạm và một số cao đẳng Nghiệp vụ…).
Chương trình cao đẳng thực hành chủ định cung cấp cho người học các kiến thức

và kỹ năng hoạt động nghề nghiệp là chủ yếu, do đó trong chương trình đào tạo khối lượng
giáo dục đại cương giới hạn ở mức vừa đủ cho người học tiếp thu được các kiến thức nghề
nghiệp, một bộ phận kiến thức về nghề nghiệp được bố trí dưới dạng các học phần thực
hành (có thể đến 50% hoặc hơn).
Ngược lại, chương trình của các dạng cao đẳng cơ bản có thể xem như một bộ
phận cấu thành của chương trình đại học thuộc ngành tương ứng. Do vậy chương trình
của các dạng cao đẳng này có thể chứa trọn vẹn hoặc chứa một phần khối lượng kiến
thức giáo dục đại cương ở chương trình đại học.
Nội dung giáo dục đại học, cao đẳng phải đảm bảo thực hiện nguyên tắc hiện đại
và phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, hội nhập với trình độ chung trên thế
giới. Nội dung cụ thể và mỗi lĩnh vực đào tạo đã được xác định theo Điều 36, Luật giáo
dục, chú ý sát hợp với yêu cầu của đất nước, và cập nhật trình độ Quốc tế. Mỗi một khoá
học cao đẳng 3 năm, đại học: 4-5 năm, riêng trường đại học Y khoa là 6 năm.
Như vậy, chính mục tiêu, cấu trúc, nội dung của chương trình giáo dục và đào tạo
sẽ quy định sinh viên - chủ thể nhận thức phải lĩnh hội đủ lượng tri thức đại cương, tri
thức chuyên nghiệp ở từng cấp học, ngành học như thế nào.
* Hệ thống giáo trình

Để việc học tập của sinh viên đạt kết quả cao và chất lượng tốt thì ngoài các tài
liệu phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu, hệ thống giáo trình có vai trò đặc biệt quan
trọng. Mỗi giáo trình của một môn học phải đạt được mục tiêu là trang bị một lượng tri
thức khoa học cơ sở của chuyên ngành và chuyên sâu có tính chất chuyên biệt nhưng
không có nghĩa là hoàn toàn độc lập, tách rời với các môn khoa học khác. Mỗi giáo trình
của môn học là một hệ thống cấu trúc toàn vẹn được tạo bởi 2 khối tri thức.
+ Khối tri thức nền tảng: Là một hệ thống tri thức thuộc về cơ sở của khoa học tạo
nên môn đó. Khối nền tảng được xây dựng, thiết kế như một hệ thống toàn vẹn theo lô
gíc chặt chẽ và khoa học, đồng thời phải kết hợp với lô gíc của sư phạm phù hợp với
những đặc điểm tâm, sinh lý của lứa tuổi. Khối tri thức nền tảng giữ vai trò quy định, chủ
đạo của môn học.
+ Khối tri thức hỗ trợ: Là những kỹ năng của khoa học khác mà ta cần huy động

để hỗ trợ cho việc tiếp thu kiến thức nền tảng.
Hai khối kiến thức trên tồn tại trong mối quan hệ biện chứng, tạo sự liên thông
môn học như là một chỉnh thể thống nhất.
Trong hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay có rất nhiều giáo
trình cho các môn học, về cơ bản đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của giáo dục và đào
tạo. Tuy nhiên trên thực tế trong những năm qua cho thấy phần lớn các giáo trình đại học,
cao đẳng ở nước ta còn nặng về lý thuyết, coi trọng tri thức hàn lâm, nhẹ về ứng dụng
thực hành, chất lượng giáo trình còn thấp… Vì vậy Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm
hơn nữa bằng nhiều biện pháp như: Tăng nguồn kinh phí, có chế độ đãi ngộ hợp lý đối
với các tác giả nhằm biên soạn, đổi mới nội dung, chương trình các giáo trình, sách giáo
khoa cho phù hợp với điều kiện hiện nay của tỉnh Thái Bình và của đất nước. Trên cơ sở
hệ thống giáo trình có chất lượng mới có thể phát huy tính chủ động, tích cực của sinh
viên trong học tập.
* Hệ thống các phương pháp
Hệ thống các phương pháp trong quá trình dạy - học là một trong những yếu tố
quan trọng ảnh hưởng tới sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập. Thực chất của
phương pháp giáo dục ở đại học, cao đẳng là khuyến khích sự chủ động học tập, nghiên
cứu khoa học của người học kết hợp với việc giảng dạy, hướng dẫn của người dạy.

Phương pháp phải thể hiện được nguyên lý giáo dục: Lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất. Chấm dứt tình trạng dạy chạy, không có thực hành,
thực tập. Đặc biệt cần sớm chấm dứt tình trạng xa rời cuộc sống và đề phòng khuynh
hướng “phi chính trị” trong các trường. Cụ thể như sau:
+ Người giảng viên phải sử dụng một loạt các phương pháp để có thể bồi dưỡng
năng lực, định hướng trong hoạt động khoa học và đời sống cho sinh viên.
Quá trình này không phải đến giai đoạn này mới bắt đầu, mà thực tế đã được hình
thành từ trong các trường phổ thông. Chẳng hạn ngay từ khi còn ngồi trên ghế trường phổ
thông, tuỳ theo năng khiếu và sở thích của mình mà mỗi học sinh đã xác định hướng đi
và nghề nghiệp cho bản thân bằng cách lựa chọn ngành nghề và các trường đại học, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp phù hợp với khả năng và sở thích của mình.

Tuy đã được định hình một cách cơ bản từ khi còn là học sinh phổ thông. Song
vẫn là cần thiết khi các trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ giúp sinh viên của mình
định hướng và xác định lại, giúp họ tự tin và quyết tâm học tập hơn nữa để có một cơ sở
tốt cho tương lai, nghề nghiệp sau này.
+ Phát triển tư duy trừu tượng, tư duy lý luận
Lượng kiến thức mà mỗi sinh viên cần phải lĩnh hội khi học tập và nghiên cứu tại
các trường đại học, cao đẳng là rất lớn. Vì lẽ đó người giảng viên chỉ có truyền đạt một
số lượng kiến thức cơ bản nhất, việc còn lại là phải dạy cách học cho sinh viên. Bởi có tới
1/3 các khái niệm, phạm trù là sinh viên phải tự học để hiểu. Do đó, dạy phương pháp
cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng chính là rèn luyện tư duy lý luận, tư duy trừu
tượng, rèn luyện ngôn ngữ để nắm được các thuật ngữ mới, sử dụng để diễn đạt, làm bài
kiểm tra, bài thi chuẩn xác và lô gíc.
+ Rèn luyện năng lực vận dụng các tri thức và giải pháp hoạt động trí tuệ để nắm
được các đối tượng và các quá trình mới. Bồi dưỡng năng lực dự báo khoa học.
Đây là một năng lực cần thiết của mỗi sinh viên trong quá trình học tập và nghiên
cứu. Từ những tri thức cơ bản và chuyên ngành đã có, sinh viên có thể dự báo được
những tiến bộ của nó trong tương lai và những ứng dụng của nó trong đời sống xã hội.
+ Bồi dưỡng năng lực tổ chức lao động một cách khoa học.

Trong những năm gần đây ngành giáo dục, đào tạo đã tích cực đổi mới phương
pháp dạy học, nhưng do rất nhiều nguyên nhân mà việc đổi mới phương pháp còn rất
nhiều hạn chế làm cho sinh viên chưa thể chủ động trong học tập và chưa phát huy được
tính sáng tạo của mình.
* Đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng: Giảng viên là một trong những yếu tố
quyết định sự phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo, là nhân tố quan trọng có ảnh
hưởng lớn tới chất lượng học tập và nghiên cứu của sinh viên. Đảng, Nhà nước và nhân
dân luôn đánh giá cao công lao của các thầy giáo, cô giáo, của nhà trường đối với việc
giảng dạy thế hệ trẻ. Trong những năm đổi mới, truyền thống tôn sư trọng đạo (hoặc như
dân gian nói: Không thầy đố mày làm nên) đã được giữ gìn. Từ năm 1984, Chính phủ
quyết định lấy ngày 20/11 hàng năm là “Ngày nhà giáo Việt Nam” trở thành ngày hội

của toàn dân. Nhà nước cũng đã có các danh hiệu cao quý do Chủ tịch nước ký tặng các
nhà giáo như danh hiệu “Nhà giáo ưu tú”, “Nhà giáo nhân dân”. Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo ký tặng các nhà giáo có nhiều thành tích đóng góp nhiều năm cho sự nghiệp
giáo dục và đào tạo. Huy hiệu “Vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Hiện nay đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý giáo dục chiếm phần lớn trong đội ngũ những người ăn lương của
Nhà nước. Trong khi số cán bộ hành chính sự nghiệp của Nhà nước có vài trăm nghìn người,
số cán bộ trong các Viện và cơ sở nghiên cứu có hơn 50.000 người thì tổng số đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý giáo dục tới trên dưới 800.000 người, riêng cán bộ giảng dạy các
trường đại học, cao đẳng 34.117 trong số 34.117 cán bộ giảng dạy có 221 giáo sư, 1.024 phó
giáo sư, trên 3.000 tiến sỹ, 1.459 thạc sỹ. Gần đây (14/10/2004) theo báo cáo của Chính phủ
thì tổng số đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đó lên tới trên 1.000.000 người,
riêng cán bộ giảng dạy đạt trình độ thạc sỹ trở lên chiếm 45%. So với yêu cầu thực tiễn của
giáo dục, đào tạo thì trình độ giảng viên có học vị từ thạc sỹ trở lên còn chiếm tỷ lệ thấp,
trình độ ngoại ngữ, tin học yếu kém, sự hẫng hụt cán bộ có trình độ cao trong đội ngũ giáo
viên, giảng viên vẫn chưa khắc phục được [19].
Hàng năm các trường đều tổ chức hội giảng nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tuy nhiên qua thực tế đã được khảo sát chúng tôi thấy phần lớn giảng viên chưa tích cực
cải tiến phương pháp giảng dạy. Phương pháp giảng dạy chủ yếu vấn là cách dạy áp đặt ,
“giảng viên là trung tâm”, “thầy đọc trò ghi”, giảng viên mỗi người dạy theo 1 cách vì

chưa có giáo trình chuẩn. Đông đảo đội ngũ giảng viên không có cơ hội để được đào tạo
và bồi dưỡng thêm kiến thức nên chưa đáp ứng được những yêu cầu mới của thời đại. Số
cán bộ giảng dạy tham gia nghiên cứu khoa học - một biện pháp để nâng cao trình độ
cũng còn hạn chế, chính sách ưu đãi để khuyến khích giảng viên đi học nâng cao trình độ
chưa hấp dẫn. Vì vậy mà tỷ lệ giảng viên đi học thêm để nâng cao trình độ chưa nhiều.
Những hạn chế về trình độ, năng lực sư phạm, những bất cập về chính sách đãi ngộ đối
với độ ngũ giảng viên, giảng viên… đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, đến
học tập và nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của các sinh viên đại học, cao
đẳng.
* Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng.

Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đại học, cao đẳng cũng là một nhân tố có ảnh
hưởng lớn tới việc học tập và nghiên cứu của sinh viên - chủ thể nhận thức trong học tập.
Vì vậy, việc xây dựng lực lượng cán bộ quản lý và chuyên gia vững vàng trong giáo dục,
đào tạo là hết sức quan trọng. Đội ngũ này phải nắm vững được mục tiêu và quan điểm
giáo dục của Đảng, đồng thời phải quan tâm nghiên cứu về khoa học giáo dục đại học,
cao đẳng. Tổng kết những kinh nghiệm đã có để có thể làm tốt công việc của mình.
* Cơ sở vật chất, điều kiện sống và chính sách đối với sinh viên.
- Cơ sở vật chất.
Quá trình giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên dù được tiến hành dưới
bất kỳ hình thức nào cũng đều được diễn ra trong những điều kiện vật chất nhất định. Vì
lẽ đó, cơ sở vật chất của nhà trường sẽ ảnh hưởng nhất định đến quá trình học tập, nghiên
cứu khoa học của sinh viên. Trong những năm qua chất lượng của sinh viên đại học, cao
đẳng còn thấp, phần lớn sinh viên ra trường về làm việc ở các cơ quan, trường học kiến
thức thực hành còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do cơ sở vật chất dành cho quá trình giáo
dục, đào tạo trong nhà trường còn thiếu thốn và lạc hậu. Sau 20 năm đổi mới, Nhà nước
liên tục gia tăng ngân sách cho giáo dục và đào tạo, vì vậy cơ sở vật chất của các trường
đại học, cao đẳng có sự biến đổi đáng kể. Nhiều trường đại học, cao đẳng đã được xây
mới, được sửa chữa, cải tạo và nâng cấp rất nhiều: giảng đường, ký xá, khu vui chơi giải
trí, trang thiết bị để phục vụ cho giảng dạy và học tập đều được quan tâm.

Tuy vậy, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho dạy - học tại các trường vẫn
còn lạc hậu, thiếu thốn và chưa đồng bộ nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh viên, làm
cho họ không đủ điều kiện để phát huy và nâng cao tính chủ động, tích cực trong học tập.
Muốn có sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
giáo dục, đào tạo, nâng cao vai trò chủ động tích cực của sinh viên trong quá trình học tập và
nghiên cứu thì các cấp chính quyền, địa phương và từng trường phải có sự quan tâm đặc biệt
hơn, tăng cường đầu tư ngân sách cho công tác giáo dục, đào tạo đại học, cao đẳng. Nếu cơ
sở vật chất tốt, đạt chuẩn quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì chắc chắn giáo dục đại
học, cao đẳng của chúng ta được nâng cao hơn. Đồng thời sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp góp

phần nâng cao tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong học tập của sinh viên. Để phát huy và
nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên thì cần tạo môi trường, điều kiện
vật chất tốt nhất cho sinh viên thực tập và nghiên cứu khoa học.
- Điều kiện sống và chính sách đối với sinh viên.
Điều kiện sống và những chính sách đối với sinh viên sẽ là vật cản hoặc động lực
thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập.
Nếu điều kiện sống tốt với chính sách ưu đãi thì sinh viên sẽ có động lực để tích
cực hơn trong quá trình học tập. Ngược lại điều kiện sống còn khó khăn, thiếu thốn thì
sinh viên sẽ bị chi phối thời gian và tâm trí cho việc kiếm sống, kiếm tiền chi phí cho học
tập. Như vậy thời gian học tập sẽ bị rút ngắn và chất lượng học tập giảm sút.
Để sinh viên có động lực, tích cực trong học tập thì cần phải tiếp tục đổi mới chính
sách đối với sinh viên. Đảng, Nhà nước, địa phương và các trường cần phải có đủ chính
sách ưu đãi hơn nữa, tăng học bổng đối với sinh viên học giỏi, có chính sách ưu đãi giúp
đỡ những sinh viên nghèo để họ an tâm học tập, phát triển tài năng. Phải có chế độ ưu đãi
đối với sinh viên tốt nghiệp đạt loại giỏi, đặc biệt là các đối tượng chính sách…
Sự quan tâm, tạo điều kiện về vật chất, tinh thần thiết thực như vậy sẽ động viên
sinh viên tích cực phấn đấu rèn luyện trong học tập.
1.2. Nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của sinh viên - yêu cầu tất yếu của
sự nghiệp đổi mới giáo dục và đào tạo
1.2.1. Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đối với giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực

Có thể khẳng định Việt Nam là một nước rất chú ý phát triển giáo dục, đào tạo và thu
được những thành quả tốt đẹp trong việc thiết lập hệ thống giáo dục quốc gia. Quy mô giáo
dục không ngừng mở rộng, hệ thống giáo dục đa dạng và phong phú các loại hình. Ngay cả
trong thời kỳ chiến tranh ác liệt, giáo dục Việt Nam vẫn được UNESCO đánh giá cao so với
nhiều nước trong khu vực. Tuy nhiên thành tích đó không lâu bền và hiện nay giáo dục Việt
Nam đang nổi cộm nhiều vấn đề cần giải quyết. Mặt khác, trong bối cảnh Quốc tế đang
chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức thì yêu câù của sự nghiệp đổi
mới giáo dục và đào tạo Việt Nam càng trở nên cấp thiết nhằm đào tạo nguồn nhân lực mới
đáp ứng nhu cầu của xã hội. Chính điều này đòi hỏi phải nâng cao vai trò chủ thể nhận thức

trong học tập của sinh viên [43].
Giáo dục nhằm vào định hướng phát triển, trước hết là cung cấp cho xã hội đội
ngũ lao động mới, có trình độ chuyên môn cao năng động và sáng tạo có đội ngũ công
nhân lành nghề để thích nghi với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đó cần phải có
những quan điểm mới về vai trò của giáo dục, đào tạo từ đó huy động mọi nguồn lực đầu
tư cho phát triển giáo dục, đào tạo. Sau đây là những quan điểm có tính chiến lược đã
được chỉ ra trong Nghị quyết 4/BCH TWĐCSVN khoá VII và Nghị quyết 2/
BCHTWĐCSVN khoá VIII, Luật Giáo dục.
Thứ nhất: Giáo dục là quốc sách hàng đầu, cần được các ngành, các cấp nhận
thức một cách đúng đắn và sáng tạo.
Trước hết giáo dục phải mang tính xã hội hoá, là sự nghiệp của toàn dân của các
giáo dục, các tổ chức và cá nhân. Mỗi người phải góp sức phát triển giáo dục đi và quan
tâm đến sự nghiệp đó. Từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho giáo dục, đào tạo.
Thứ hai: Đầu tư cho giáo dục phải được hiểu là đầu tư cho phát triển. Nhà nước
cấp ngân sách cho giáo dục, đào tạo là chủ yếu, ngoài ra cần tạo môi trường thuận lợi hơn
để giáo dục có thể vay vốn từ bên ngoài, tranh thủ sự hỗ trợ từ bên ngoài. Nhưng không
vì thế mà giáo dục được bao cấp hoàn toàn, có nghĩa là người đi học, cơ quan sử dụng lao
động qua đào tạo phải đóng góp kinh phí cho giáo dục, đào tạo.
Thứ hai: Mọi người dân đều có mong muốn được hưởng cơ hội giáo dục cho nên
Nhà nước phải tạo quyền bình đẳng trước các cơ hội được giáo dục và họ để làm giảm
tình trạng bất bình đẳng về mức độ phát triển giữa các vùng. Cần phải ưu tiên phát triển

giáo dục tại vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa… đặc biệt chú ý đến những đối tượng
chính sách.
Từ những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, giáo dục, đào tạo Việt Nam đã
thu được một số thành quả đáng kể.
So với các nước châu á - Thái Bình Dương, mặt bằng dân trí của Việt Nam khá
cao. Số lượng sinh viên ở tất cả các loại hình đào tạo là 1.032.440 tăng so với năm 1998 -
1999 là 35,9% [19]. Như vậy là số sinh viên đại học, cao đẳng tăng rất nhanh chỉ trong
một thời gian không dài.

Giáo dục đại học, cao đẳng cả nước có 214 trường (2003 - 2004) tăng so với năm
1998, 1999 là 75 trường. Từ ngày 12/2/2001 Thủ tướng Chính phủ cho ban hành 2 quyết
định mới được xem như một cuộc “cách mạng trong tổ chức đại học Quốc gia”. Những
quy định mới này trên thực tế tạo cho đại học Quốc gia quyền chủ động, quyền tự quyết
rất cao. Theo cách nói của các nhà khoa học đó là quyết định “Trả lại” cho đại học Quốc
gia đúng thực quyền của nó trong thời kỳ mà thế giới đang đề cập nhiều đến nền kinh tế
tri thức. Ngoài ra để đáp ứng yêu cầu học tập đại học, cao đẳng của các tầng lớp dân cư
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Chính phủ cho phép mở nhiều trường đại học, cao đẳng
bán công, dân lập với sự quy định khung giá hợp lý phù hợp với mức sống của người
dân. Ngân sách giáo dục, đào tạo được chia ra làm 2 cấp Trung ương và địa phương.
Ngân sách Trung ương chịu hầu hết các khoản chi phí cho các trường học chuyên nghiệp
dạy nghề, cao đẳng và đại học. Địa phương chịu ngân sách cho giáo dục phổ thông. Phần
ngân sách Trung ương chủ yếu là để trả lương cho giáo viên, một phần nữa để cấp học
bổng cho sinh viên. Do đó các khoản chi phí cho xây dựng cơ sở vật chất là rất hạn chế.
Kể từ năm 1990 trở đi, ngân sách dành cho ngành giáo dục khoảng 10% tổng ngân
sách tiêu dùng hàng năm. Theo yêu cầu cân đối của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì ngân sách
đó chỉ đáp ứng được 50%. Như vậy ngân sách giáo dục phải ở mức 20% tổng ngân sách
hàng năm của của Nhà nước mới ngang bằng tỷ lệ của các nước trong khu vực những năm
đầu thập kỷ 90. Cho đến năm 2004 ngân sách cho giáo dục Việt Nam đã đạt 17,1% tổng
ngân sách tiêu dùng đây là một dấu hiệu đáng mừng về sự quan tâm phát triển giáo dục và
đào tạo của Đảng và Nhà nước. Tuy vậy nguồn lực tài chính dành cho giáo dục chưa đảm

bảo nhu cầu chi thường xuyên nhất là đối với các tỉnh còn khó khăn thì cơ câú chi ngân
sách giáo dục còn chưa hợp lý.
Để có thể đáp ứng được và đáp ứng ngày một tốt hơn đòi hỏi của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực là sinh viên
của các trường đại học, cao đẳng bên cạnh việc tăng cường cơ sở vật chất cho giáo dục,
đào tạo thì cần phải gắn chất lượng giáo dục, đào tạo với yêu cầu thực tế. Việc đầu tiên là
phải nâng cao chất lượng giáo dục của đội ngũ giảng viên. Người giảng viên không
những đạt chuẩn quy định khi tuyển dụng mà còn phải được bồi dưỡng thường xuyên,

liên tục, được đào tạo lại, được vận dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại vào điều
kiện thực tế của trường, lớp, địa phương và đối tượng sinh viên của mình, được cung cấp
những trang thiết bị dạy học tiên tiến.
Nội dung giảng dạy phảm đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với thực hành, cần
phải cập nhật kịp thời tri thức hiện đại của thế giới và những vấn đề bức xúc của đất
nước, cần chú ý đến yếu tố kỹ năng, kỹ thuật công nghệ và thực nghiệm… để có thể cung
cấp cho xã hội một nguồn nhân lực có chất lượng cao, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu khắt
khe của thời đại mới.
Cần phải khắc phục phương pháp “dạy chay”, “dạy áp đặt” trò trung thành với
những gì thầy cho ghi, khích lệ, khơi gợi để sinh viên chủ động sáng tạo lĩnh hội tri thức,
để họ thực sự là “trung tâm của hoạt động dạy - học”.
Cần phải thay thế quan niệm “Đào tạo theo nhu cầu của người học” bằng “Đào
tạo theo yêu cầu của xã hội”. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo sinh viên cho phù hợp với quá
trình phát triển kinh tế - xã hội, nhanh chóng khắc phục tình trạng mất cân đối trong các
ngành nghề. Trong thời gian qua sự mất cân đối trong các ngành nghề đào tạo diễn ra rất
nghiêm trọng. Trước hết thể hiện ở chỗ: Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng mở rộng trong
khi chuyên nghiệp và học nghề bị thu hẹp. Tiếp đến là sự khác biệt giữa số lượng sinh
viên tham gia các ngành học, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngành kinh tế và
luật chiếm tỷ lệ 42,78% số sinh viên, khoa học cơ bản chiếm tới 15,5%, khoa học kỹ
thuật và công nghệ 15,2%. Nông lâm ngư nghiệp chỉ 3,13%. Tính chất thực dụng của
người học thể hiện rất rõ trong các ngành học. Hiện tượng thừa cử nhân luật và kinh tế,
thiếu kỹ sư các ngành khoa học công nghệ sẽ là vật cản trong quá trình tiếp nhập FDI và

tiếp thu công nghệ mới trong quá trình công nghiệp hoá. Bài học đó đã thấy rất rõ qua
thực tế các nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia nếu thiếu kỹ sư, công nhân lành nghề
thì các nhà đầu tư Nhật Bản, Hàn Quốc sẽ rút vốn. Do thực tế ấy mà một số các quốc gia
đã phải nhập kỹ sư ngành dệt, điện tử, năng lượng từ Trung Quốc, ấn Độ và Philíp pin.
Việt Nam đã từng tự hào là một trung tâm toán học của thế giới và khu vực. Thế mà hơn
20 năm qua rất ít sinh viên theo học toán, do vậy mà sang thế kỷ XXI theo F.Phạm một
nhà toán học Pháp gốc Việt cho là số nhà toán học Việt Nam sẽ là không, thật đau đớn

[98].
Trước tình cảnh đó giáo dục, đào tạo phải ăn nhịp với yêu cầu mới của xã hội, cần
phải đào tạo có quy mô để hình thành một đội ngũ nhân lực có cơ cấu phù hợp với yêu
cầu khắt khe của thị trường lao động. Nghĩa là giáo dục không chỉ trang bị tri thức lý
thuyết suông mà phải chuẩn bị trước những kỹ năng cho người lao động. Muốn vậy thì
phải rút ngắn thời gian và tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật và công
nhân lành nghề, đội ngũ các nhà doanh nghiệp. Kế hoạch hoá giáo dục và đào tạo gắn
liền với chiến lược sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực từ các trường đại
học, cao đẳng.
Muốn vậy phải đổi mới giáo dục, đào tạo toàn diện. Một trong những hướng đó là
phải đổi mới cách dạy, cách học, nâng cao vai trò chủ thể nhận thức trong học tập của
sinh viên để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
1.2.2. Yêu cầu của đổi mới giáo dục đại học, cao đẳng
Trong báo cáo tổng kết với đầu đề “Học tập của cải nội sinh”, ủy ban Quốc tế về
giáo dục thế kỷ XXI của UNESCO đã đưa ra các nguyên tắc để xác định nội dung giáo
dục, đào tạo trong thế kỷ.
Thế kỷ XXI là xã hội học tập, một nền văn minh dựa vào quyền lực của tri thức,
giáo dục vừa phải cung cấp tri thức, vừa phải dạy công nghệ (cách làm) làm sao trong
dòng thông tin ngày càng đầy ắp mà mỗi người, từng cộng đồng vẫn phát triển, đủ sức
định hướng được trong đó. Báo cáo viết: giáo dục như trước đây phải thường xuyên cung
cấp những bản đồ của toàn cục thế giới luôn náo động và phải cung cấp la bàn tìm đường
đi trong thế giới đó. Dạy và học ở trường cả tri thức, kỹ năng và thái độ để sao cho ra đời
vừa làm việc, vừa tiếp tục học suốt đời mới có thể thích nghi với thế giới phong phú, luôn

×