LUẬN VĂN:
Nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần
kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp
nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
Lời mở đầu
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta đã xác định phát
triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó đã
được thể hiện rất rõ qua nhiều kỳ đại hội của Đảng cộng sản Việt Nam. Tại đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục "khẳng định" thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nền kinh
tế vận hành theo định hướng kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo và cùng với
kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau.
Khi nói tới kinh tế nhà nước là nối đến những của cải tài sản thuộc sở hữu nhà nước,
còn khi nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói đến quan hệ sản xuất tiêu biểu
cho chế độ đương thời. Trong điều kiện hiện nay thì đó là hệ thống doanh nghiệp nhà
nước. Thành phần kinh tế nhà nước, thực chất là hệ thống các doanh nghiệp nhà nước
với quy mô, cấu trúc sức mạnh riêng.
Trong hơn mười năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. Trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và nền kinh tế, còn nhiều khó khăn gay
gắt, doanh nghiệp Nhà nước đã vượt qua nhiều thử thách, đứng vững, không ngừng
phát triển, góp phần quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát
triển đất nước, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, chuyển sang thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN.
Nhưng bên cạnh đó, DNNN cũng còn những mặt hạn chế yếu kém, có mặt rất
nghiêm trọng như: quy mô còn nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý chưa tập trung vào
những ngành, lĩnh vực then chốt, nhìn chung trình độ công nghệ còn lạc hậu, quản lý
còn yếu kém, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với các nguồn lực: tài
nguyên thiên nhiên, nguồn lao động cũng như chưa tương xứng với sự hỗ trợ của nhà
nước.
Những hạn chế yếu kém của doanh nghiệp Nhà nước có những nguyên nhân
khách quan. Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan; chưa có sự thống nhất
trong nhận thức về vai trò vị trí của kinh tế nhà nước và DNNN, về cơ chế chính sách
còn chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Công tác cải cách hành chính chậm, công tác quản lý, công tác đào tạo
cán bộ và đội ngũ người lao động trong các DNNN vẫn còn nhiều bất cập, lãng phí
Từ thực tại trên đòi hỏi không ngừng đổi mới, nâng cao vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước - cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế
quốc dân, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận của vấn đề nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà
nước.
I.1. Các thành phần kinh tế - Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần
kinh tế
Trong tác phẩm " Bàn về thuế lương thực", Lê Nin đã viết " Danh từ quá độ có
nghĩa là gì ? vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có
những thành phần, những bộ phận, những mảng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã
hội không ? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có".
Luận điểm trên của Lê Nin cho thấy rằng: trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội tất yếu phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
*Cơ sở lý luận
Sự tồn tại của các thành phần kinh tế hay của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ ở nước ta, trước hết bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sản xuất muốn
phát triển thì nhất định phải có sự phù hợp đó. Nếu như tồn tại lực lượng sản xuất khác
nhau về tư liệu sản xuất và do đó tồn tại nhiều quan hệ sản xuất khác nhau về tư liệu
sản xuất và do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trong đó luôn có những
quan hệ sở hữu, thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế thống nhất. ở
nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, điểm xuất phát về lực lượng
sản xuất, phân công lao động xã hội còn thấp và không đều giữa các xí nghiệp, giữa
các ngành, vùng, trình độ lao động, năng suất cũng khác nhau. Do đó tất yếu tồn tại
nhiều cách thức kết hợp lực lượng sản xuất với sức lao động, nhưng quy mô, trình độ
sản xuất khác nhau, nhiều quan hệ sản xuất khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác
nhau.
Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần còn được bắt nguồn từ yêu cầu
của các quy luật kinh tế của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Để thúc đẩy sản xuất hàng
hoá phát triển, trước hết phải khôi phục cơ sở tồn tại của nó. Đó là các hình thức sở
hữu khác nhau về TLSX. Điều đó có nghĩa là phải khuyến khích, duy trì, phát triển các
thành phần kinh tế
*Cơ sở thực tiễn
Khi tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta có
thêm những thành phần kinh tế mới như kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Các
thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại đan xen nhau, tạo nên đặc điểm của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, hầu như không một nước
nào có một nền kinh tế thuần nhất, tức chỉ tồn tại duy nhất một kiểu quan hệ sản xuất
về tư liệu sản xuất và do đó có một thành phần kinh tế.
ở nước ta trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh
tế đã đem lại những kết quả đáng kể nó góp phần khai thác được mọi tiềm năng của
từng thành phần kinh tế. Đó là những tiềm năng về vốn, kỹ thuật, sức lao động, kinh
nghiệm tổ chức, quản lý Ngoài ra nó còn góp phần tận dụng được sức mạnh kinh tế
quốc tế, khắc phục tình trạng biệt lập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới
bằng cách thông qua đầu tư nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua đầu
tư và hợp tác quốc tế. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để nước ta có thể tiếp
cận được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của thế giới.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất
yếu khách quan xét cả mặt lý luận và thực tiễn chính vì vậy. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI đã chỉ ra phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nước với sự điều tiết và quản lý của Nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài ở
nước ta.
Đại hội Đảng lần IX tháng 4 - 2001, đã khẳng định thêm nữa tư tưởng trên.
Hiện nay nền kinh tế nước ta gồm 6 thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế ta bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế có mối liên hệ chặt chẽ qua lại lẫn
nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
I.2. Khái niệm về thành phần kinh tế Nhà nước
I.2.1. Kinh tế Nhà nước - Thành phần kinh tế Nhà nước
Kinh tế Nhà nước là thuật ngữ bao hàm nội dung khá rộng, được xác định theo
ý nghĩa khác nhau tuỳ góc độ nghiên cứu theo cách hiểu chung nhất thì kinh tế Nhà
nước là phần tài sản do nhà nước làm chủ sở hữu. Hay nói cách khác, kinh tế Nhà
nước là bộ phận của nền kinh tế quốc dân thuộc sở hữu Nhà nước.
Với cách hiểu đó, ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam ta bao gồm: Tài nguyên
khoáng sản và phần đất đai thuộc sở hữu nhà nước; Ngân hàng nhà nước, kho bạc nhà
nước, ngân sách nhà nước, Tài chính nhà nước, hệ thống dự trữ quốc gia bảo hiểm
quốc gia. Các dịch vụ công cộng do Nhà nước đảm nhiệm. Các doanh nghiệp Nhà
nước. Ngày nay cũng có quan điểm cho rằng kinh tế nhà nước còn bao gồm cả nguồn
nhân lực, hệ thống các chính sách, công cụ, quản lý nhà nước.
Kinh tế nhà nước hình thành và phát triển từ khi Nhà nước xuất hiện. Trong quá
trình phát triển lịch sử, khu vực kinh tế này ngày càng được củng cố và phát triển
nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên quy
mô chức năng vai trò của kinh tế nhà nước có sự khác nhau ở từng quốc gia và từng
thời điểm nhất định.
Kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước là hai phạm trù khác nhau.
Khi nói tới kinh tế nhà nước là nói tới những của cải, tài sản thuộc sở hữu Nhà nước;
còn nói tới thành phần kinh tế nhà nước là muốn nói tới quan hệ sản xuất tiêu biểu cho
chế độ Lê Nin đã viết: " Vô luận thế nào chúng ta cũng không được quên cái mà chúng
ta thường nhìn thấy: quan hệ xã hội chủ nghĩa của công nhân trong các công xưởng
quốc doanh, nơi mà công nhân cố gắng phân phối đúng đắn các sản phẩm công nghiệp
cho nông dân,chuyển vận các thứ ấy đến tận nơi bằng các phương tiện giao thông. Đó
chính là chủ nghĩa xã hội"
1
từ đó, thành phần kinh tế nhà nước chỉ bao hàm các nguồn
lực do Nhà nước sở hữu, đưa vào và biến thành tài sản được dùng trong quá trình sản
xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân. Cũng giống như các
thành phần kinh tế khác chúng chỉ phản ánh quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất ở các
1
I.V Lênin toàn tập. NXB Tiến Bộ Matxcơva - 1978 trang 188 - Tập 43
chủ thể sản xuất chứ không phải toàn bộ nguồn lực của chúng. Như vậy, thành phần
kinh tế nhà nước về thực chất là không phải toàn bộ nguồn nhân lực của chúng. Như
vậy, thành phần kinh tế nhà nước về thực chất là phản ánh quy mô, cấu trúc sức mạnh
của hệ thống doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tế nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Phân biệt
được hai phạm trù này và nhận thức đầy đủ hơn về vai trò kinh tế nhà nước là một
bước phát triển về nhận thức thực tiễn nền kinh tế nước ta trong quá trình đổi mới.
I.2.2. Quan niệm mới về doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Như ta đã biết, thành phần kinh tế nhà nước thực chất là phản ánh quy mô, cấu
trúc, sức mạnh của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước đã đạt được những kết quả khả
quan. Tuy nhiên cho đến nay, trong sự phát triển phong phú và đa dạng của kinh tế thị
trường, xung quanh khái niệm DNNN, xác định phạm vi DNNN vẫn còn những ý kiến
khác nhau. Hiểu được quan niệm mới về DNNN sẽ góp phần vào nhận thức thực tiễn,
đưa ra những giải pháp để ngày càng nâng cao vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN.
Tại điều 1, luận Doanh nghiệp Nhà nước (ký ngày - 20 - 4 - 1995) quy định:
"DNNN là một tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý
hoạt động kinh doanh hoặc hoật động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế -
xã hội do Nhà nước giao. DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự,
tự chịu trách nhiệm và toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh
nghiệp quản lý ". Tuy nhiên có đến nay khái niệm DNNN do luật doanh nghiệp Nhà
nước hiện hành quy định đã tỏ ra không phù hợp với nền kinh tế nước ta đang trong
quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường và từng bước hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới. Sự không phù hợp đó thể hiện ở những điểm sau.
Một trong những khuyết tật của DNNN là không xác định chủ sở hữu đích thực.
Dù luật DNNN đã xác định chủ sở hữu DNNN là thủ trưởng các tổ, cá nhân được
Chính phủ uỷ quyền, nhưng trên thực tế không có một cơ chế nào cho phép xác định
chủ sở hữu đích thực của các DNNN. Thực tế đó dẫn đến tình trạng DNNN. Hiện nay
dưới thủ tướng Chính phủ có nhiều chủ, ai cũng có quyền điều hành, nhưng chẳng ai
có quyền lực để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, trắc chở của doanh nghiệp.
Hậu quả là doanh nghiệp kém năng động, khả năng cạnh tranh yếu.
Luật DNNN quy định DNNN làm tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý. Điều này mặc nhiên dẫn tới được hiểu rằng DNNN là tổ
chức đơn (sở hữu Nhà nước). Nó cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước phải đầu tư
100% để thành lập DNNN. Đây thực sự là ngánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
* Quan điểm mới về DNNN trong kinh tế thị trường
Tiêu trí để xác định DNNN không chỉ dựa vào mức độ khống chế chi phối chủ
Nhà nước đối với doanh nghiệp. Vì vậy DNNN không chỉ bao gồm loại doanh nghiệp
100% vốn Nhà nước mà còn bao gồm các doanh nghiệp do Nhà nước chi phối, quản lý
và kiểm soát. Quan niệm như thế là vừa phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đáp ứng
được xu thế đẩy mạnh cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu hiện nay. Mặt khác, lâu dài
DNNN có 100% vốn Nhà nước sẽ thu hẹp dần. Những DNNN sẽ tham gia liên kết với
các thành phần kinh tế khác sẽ tăng lên và trở thành phổ biến. Đây là xu hướng khách
quan, quy luật phát triển của kinh tế thị trường.
Vì vậy khái niệm DNNN phải được hiểu như sau: DNNN là tổ chức kinh tế do
Nhà nước đầu tư 100% vốn hoặc giữ cổ phần chi phối hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình trong số tài sản
của doanh nghiệp.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta và xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới, về lâu dài, khái niệm này cũng cần tiếp tục nghiên cứu hoàn
thiện.
I.3. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và tính tất yếu khách quan
nâng cao vai trò chủ đạo đó trong nền kinh tế thị trường.
I.3.1. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước
Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, thành phần kinh tế Nhà nước
(DNNN) đã chi phối được các ngành lĩnh vực then chốt là sản phẩm thiết yếu của nền
kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định
và phát triển kinh tế -xã hội tăng thế và lực của đất nước. Kinh tế Nhà nước mà chủ
yếu là các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân thể hiện chủ yếu trên
các mặt: đi đầu và nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhờ đó mà thúc đẩy
tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân. Bằng nhiều hình thức hỗ trợ
các thành phần kinh tế khác nhau cùng phát triển theo định hướng XHCN tăng cường
sức mạnh vật chất tinh thần làm chỗ dựa để Nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng
điều tiết, quản lỹ vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN, cùng với kinh tế tập thể
(mà lòng cốt là các hợp tác xã) dẫn trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân và chế
độ xã hội mới.
Tuy nhiên hiện nay, DNNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chỉ đạo
của nó đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các nền kinh tế ngoài quốc
doanh, việc cải tạo đổi mới DNNN phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng
kết để rút ra những bài học kinh nghiệm, bổ sung những chi thức "cập nhất" nhằm thực
hiện cho kỳ được vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh
tế này.
I.3.2. Tính tất yếu khách quan nâng cao vai trò chủ đạo thành phần kinh tế Nhà
nước (DNNN) trong nền kinh tế thị trường
Đại hội Đảng lần IX tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội. Mô hình kinh tế thị trường khá
ưu việt về nhiều mặt đặc biệt trong việc giải phóng sức sản xuất xã hội, phát huy tiền
năng sức sáng tạo của các cá nhân, không ngừng nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật tăng năng suất lao động, sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn, chất lượng
ngày càng tốt, giá thành ngày càng hạ. Tuy nhiên bên cạnh những mặt mạnh những ưu
thế vốn có, nền kinh tế thị trường bộc lộ những khuyết tật cố hữu như tính tự phát, mù
quáng vì lợi nhuận, phân hoá giàu nghèo, tàn phá các nguồn tài nguyên thiên nhiên,
huỷ hoại môi trường. Làm phát sinh các tệ nạn xã hội Chính sự phát triển của nền
kinh tế thị trường là do các tổ chức cá nhân hành động về lợi ích riêng của mình dẫn
đến việc đi không đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu phát triển kinh tế vĩ
mô của nền kinh tế.
Trước tình hình đó, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có thể vì lợi
nhuận, mục đích riêng của thành phần kinh tế mình mà phát triển lệch lạc ảnh hưởng
tới kinh tế - xã hội của đất nước ta, tới con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta đã lựa chọn. Do đó vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước và vấn đề này
càng nâng cao vai trò chủ đạo của nó đang là một vấn để cấp bách tất yếu trong thời kỳ
hiện nay.
Mặt khác để thành phần kinh tế Nhà nước (DNNN) đã phát huy vai trò chủ đạo
trong hơn 15 năm đổi mới Nhà nước đã thực hiện đổi mới sắp xếp lại các doanh
nghiệp để tăng cường sức mạnh nội lực của nó. Đó cũng tất yếu khách quan.
Hiện nay, DNNN nước ta đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt:
số doanh nghiệp Nhà nước thực sự có hiện quả chỉ có 40%, số DNNN bị lỗ liên tục
chiếm khoảng 20% còn 40% DNNN không có hiệu quả khi lỗ khi lãi; số nợ DNNN
phải trả quá lớn thường xuyên vượt mức vốn hiện có của doanh nghiệp (116% - 1997;
113% - 1998; 130% - 1999)
2
; hệ thống DNNN vốn qua manh mún chồng chéo quy mô
nhỏ: số doanh nghiệp vốn dưới 5 tỷ chiếm 65,45%, trình độ công nghệ lao động thấp.
Từ thực trạng trên đây để tiếp tục tồn tại và phát triển có hiệu quả, nâng cao vai trò chủ
đạo, DNNN không có con đường nào khác là phải đổi mới một cách triệt để và toàn
diện. Tuy nhiên, đổi mới DNNN không đơn thuần tích nhật doanh nghiệp hoặc tăng
giảm số lượng các doanh nghiệp mà là đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế quản lý
doanh nghiệp Nhà nước kết hợp với điều chỉnh cơ cấu hợp với trong quan hệ ngành,
vùng, lãnh thổ và các thành phần kinh tế. Vì vậy đối với DNNN phải nhằm tăng cường
hệ thống doanh nghiệp Nhà nước làm cho DNNN thực sự lớn mạnh về quy mô, hiệu
quả và phát huy được vai trò nòng cốt góp phần dẫn dắt các thành phần kinh tế khác
cùng phát triển theo định hướng XHCN là trách nhiệm lịch sử của DNNN ở nước ta.
2
Tạp chí Tài chính tháng 7 /2001
II- Thực trạng thành phần kinh tế nhà nước và quá trình nâng cao vai trò chủ
đạo của thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta hiện nay
II.1. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhà nước (thành phần kinh tế Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong hơn 10 năm qua, Đảng và nhà nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương,
biện pháp tích cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi phức tạp và nền kinh tế còn nhiều khó khăn gay
gắt, DNNN đã vượt nhiều thử thách, đứng vững và không ngừng phát triển, góp phần
quan trọng vào thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, đưa
nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo đinh hướng XHCN.
Mặc dầu đạt được những kết quả nhất định nhưng hiện nay DNNN đang đứng
trức thực trạng yếu kém về nhiều mặt, sức cạnh tranh còn quá yếu kém, quy mô quá
nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi vay ngân
hàng, hiệu quả sút kém.
* Hiệu quả hoạt động kinh doanh
Những năm 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN là 11,7%
gấp 1,5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Năm 1997 tốc độ tăng
trưởng của DNNN là 9,67% (nền kinh tế: 8,15%). Tuy nhiên đến năm 1998 tì ngược
lại thấp hơn. tốc độ tăng trưởng của DNNN là 5,48% trong đó tốc độ tăng trưởng nền
kinh tế nói chung là 5,80%.
Mức đóng góp cho ngân sách còn thấp so với nguồn lực bỏ ra, mức nộp của
từng doanh nghiệp chênh lệch lớn, thậm chí có nhiều DNNN mức nộp ngân sách thấp
nhiều so với mức được ngân sách hỗ trợ. Ta lấy DNNN của Hà Nội làm ví dụ. Năm
1997 so với năm 1995 doanh thu của DNNN tăng 12,56% nhưng tổng lãi thực hiện
bằng 78% của năm 1995, tổng nộp ngân sách bằng 92,76% của năm 1995, trong 3 năm
(1995 - 1997) mức vốn ngân sách cấp cho doanh nghiệp địa phương tăng 43,64%
nhưng mức đóng góp của DNNN có lỗ kỹ kế đến 01/01/2000 chiếm 30,8% số doanh
nghiệp (5.079 tỷ đồng). Ngoài ra, nếu hạch toán đủ chi phí như chi phí khấu hao tài
sản cố định, nợ khó đòi, vật tư thành phần ứ đọng, kém, mất phẩm chất thì số lỗ thật
còn cao hơn. Số các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ tập trung ở các doanh nghiệp địa
phương như: Nan Định 46%, Thái Bình 35%, Hà Nam 33%, Hải Phòng 21%
* Cơ cấu tổ chức bộ máy sản xuất kinh doanh
Hiện tại, cơ cấu bộ máy tổ chức sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp
cũng như toàn bộ hệ thống DNNN còn rất lỏng lẻo. Trong từng doanh nghiệp thì bộ
máy cồng kềnh, vận hành nặng nề kém hiệu quả. Bất hợp lý trong khâu tổ chức dựa
trên phí tổn sản xuất cao. Một số doanh nghiệp có khả năng tổ chức lại tốt hơn nhưng
lại vấp phải vấn đề giải quyết lao động dư. Bản thân giữa các doanh nghiệp thành viên
trong một tổng công ty cũng không đủ sự kết dính cần thiết. Mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp lớn với các doanh nghiệp nhỏ như cũng trong tình trạng này.
Nhiều doanh nghiệp Nhà nước cùng hoạt động trong tình trang chồng chéo về
ngành nghề kinh doanh, cấp quản lý và trên cùng địa bàn tạo ra sự cạnh tranh thếu lành
mạnh trong chính khu vực DNNN với nhau hầu hết tỉnh nào cũng có 3-5 công ty tư
vấn khảo sát thiết kế chuyên ngành xây dựng công nghiệp thuỷ lợi, giao thông, lâm
nghiệp.
* Vốn kinh doanh
Tuy chiếm tới hơn 80% tổng nguồn vốn của nền kinh tế song sẽ là khập khiễng
nếu đem quy mô lớn bình quân của DNNN so với mức vốn của một doanh nghiệp
quốc tế có khả năng cạnh tranh trung bình. Nếu so sánh quy mô của DNNN và doanh
nghiệp ngoài quốc doanh thì thấy DNNN có lợi thế, song phép tính này sẽ chẳng có ý
nghĩa gì khi coi vốn như một chỉ tiêu tiêu đề cho khả năng cạnh tranh trong hội nhập
kinh tế thế giới.
Tính đến cuối 1999, tổng số DNNN là 5.450 với 1.733 doanh nghiệp trung
ương, 3717 doanh nghiệp địa phương, trong đó có gần 100 tổng công ty (17 tổng công
ty 91và gần 80 tổng công ty 90) tổng số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp mới là
112.000 tỷ đồng. Năm 1998 vẫn còn 72,5% số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng, trong đó
có gần 26% số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng, qua đó đủ thấy số vốn của DNNN
nước ta nhỏ đến mức nào.
Số vốn của DNNN Việt Nam lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi
đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu về tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đủ ít công
nợ lại nhiều, số nợ phải trả của DNNN thường cao hơn rất nhiều số vốn của doanh
nghiệp. Liệu có bình thường không khi vốn thực có không bù đắp nổi số vốn gấp 6 lần
vốn thực có, tổng công ty gốm sứ thuỷ tinh: 3,5 lần,tổng công ty dệt may 2,5 lần tính
riêng ở các DNNN thuộc bộ giao thông vận tải, tổng công nợ phải thu toàn ngành lên
tới 6.067 tỷ đồng (xấp xỉ bằng nguồn vốn chủ sở hữu) trong đó nợ khó đòi là 92,8 tỷ
đồng, riêng các đơn vị khối xây dựng cơ bản số phải thu chiếm tới 2.932 tỷ đồng, chủ
yếu là nợ khối lượng các dự án đã hoàn thành nhưng chịu được các chủ đầu tư thanh
toán. Tổng nợ phải trả là 12.155 tỷ đồng (gần gấp đôi vốn chủ sở hữu). Xin đơn cử vài
trường hợp cụ thể: Tổng công ty Hàng Hải nợ đến hạ và quá hạn là 94,3 tỷ đồng, công
ty Traximexco 19,4 tỷ đồng, Cục Đường Bộ 7,7 tỷ đồng
Mặt khác tình trạng thiếu vốn của các DNNN là phổ biến và nghiêm trọng. Có
tới hơn 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/CP.
Vốn thực tế hoạt động chỉ đạt 80% riêng vốn lưu động chỉ có 50% được huy đọng vào
kinh doanh, còn lại nằm ở tài sản, vật tư mất mát, kém phẩm chất, công nợ không thu
hồi được, lỗ chưa được bù đắp.
Trong tổng công ty Nhà nước tuy được ưu tiên các điều kiện vật chất nguồn
lực, để phát triển nhưng tình trạng cũng không sáng sủa hơn. Năm 1998 vốn Nhà nước
bình quân của Tổng công ty 91 là 3661 tỷ đồng. Nhưng trong 17 tổng công ty 91 có tới
14 tổng công ty (82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân, trong đó có 6
tổng công ty (35%) có mức vốn dưới 100 tỷ đồng. Đối với tổng công ty 90 tình hình
vốn còn đáng buồn hơn. Hơn 20%số tổng công ty 90 vốn nhà nước chỉ có dưới 100 tỷ
đồng, trong đó có 13 tổng công ty, vốn ngân sách cấp cho chỉ được dưới 40 tỷ đồng
* Trình độ máy móc thiết bị, công nghệ
Nhìn một cách khái quát, tài sản cố định của DNNN hiện nay quá lạc hậu về kỹ
thuật, manh mún và không đồng bộ. Theo báo cáo của Bộ khoa học công nghệ và môi
trường thì công nghệ nước ta lạc hậu so với thế giới từ 10 - 20 năm. Mức độ hao mòn
hữu hình từ 30 - 50% hiệu suất sử dụng thấp chỉ 25 - 30%, kết quả yếu kéo theo là
mức tiêu hao nhiên liệu cho đơn vị sản phẩm rất cao, ngược lại, chất lượng sản phẩm
thấp, năng suất lao động không ổn định, mẫu mã đơn điệu.
* Năng lực đội ngũ cán bộ
Ai cũng thừa nhận đây klà nhân tố có tính cạnh tranh của doanh nghiệp Việt
Nam song chỉ dưới dạng tiềm năng. Việc 67% giám đốc doanh nghiệp không đọc được
báo cáo tài chính sự thiếu hụt lao động có kỹ thuật tay nghề cao cho các công nghiệp,
khu chế xuất thời gian qua đã chứng tỏ chúng ta cũng chưa có khả năng cạnh tranh về
nhân lực, khâu yếu là đào tạo lao động lại là yếu tố quyết định tiền năng dồi dào về
nguồn nhân lực thành hiện thực.
Tình hình DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt, hiệu quả
sút kém là do những nguyên nhân sau:
Một là, vai trò tích cực của động lực đổi mới theo nguyên tố dỡ bỏ cản trở, xoá
bao cấp, khuyến khích tự hạch toán lỗ lãi đã cạn dần trong sự tiếp sức cho động lực
mới ở DNNN vẫn chưa hình thành đồng bộ, cơ chế quảnlý tài chính còn quá cứng
nhắc, sửa đổi chấp vá một cách bị động, thiếu quan điểm hệ thống. Quyền và trách
nhiệm đại diện sở hữu chưa được xác lập cụ thể. Chính sách đối với kết quả tự tích lỹ
của DNNN quá bất hợp lý đã hạn chế khả năng tự mở rộng quy mô phát triển của
DNNN vai trò của giám đốc có ý nghĩa quyết định sự thành bại của doanh nghiệp
nhưng cơ chế tuyển chọn chậm được đổi mới. Nếu không vi phạm kỷ luật thì dù doanh
nghiệp hoạt động không hiệu quả vẫn phải chờ khi giám đốc về hưu mới thay thế
người khác được. Mặt khác cơ chế hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, kiểm soát của các cơ
quan nhà nước đối với DNNN vẫn còn nhiều mặt chưa hợp lý. Hoặc là buông lỏng dẫn
đến tình trạng tuỳ tiện, làm thất thoát tài sản Nhà nước. Hoặc là can thiệp tiếp vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp gây ra quan liêu và trách nhiệm không rõ ràng.
Hai là: Nhà nước cần tập trung vốn cho yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và xã hội, còn DNNN cần rất nhiều vốn cho yêu cầu đổi mới công nghệ và mở
rộng sản xuất nhưng các kênh huy động vốn đều trắc trở.
- Nguồn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn quá hạn hẹp. Nguồn tín
dụng thương mại qua nhiều năm chỉ cho vay ngắn hạn gần đây mới bắt đầu mở rộng tỷ
lệ tín dụng hạn, chưa có khả năng cho vay dài hạn. Do đó không ít DNNN đứng trước
tình thế có hạn chế bớt rủi ro nhưng không đổi mới triệt để công nghệ quá lạc hậu và
bị đối sức trong cạnh tranh, hoặc liều lĩnh vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn dẫn đến
nguy cơ vỡ nợ.
- Phương thức liên doanh tuy giải quyết thêm được việc làm nhưng do thiếu
vốn và thiếu kinh nghiệm trong quá trình hình thành dự án và tham gia quản lý nên
trong thực tế rất ít DNNN chia được lợi nhuận từ nguồn này sang nguồn khác bổ sung
quỹ phát triển sản xuất.
- Cổ phần hoá là phương thức huy động vốn xã hội vì tạo động lực cho DNNN
hoạt động có hiệu quả nhưng hiểu khái quá chậm.
II.2. Kết quả và những mặt hạn chế của quá trình nâng cao vai trò chủ đạo của
doanh nghiệp nhà nước (thành phần kinh tế nhà nước) sau hơn mười năm đổi
mới.
Từ đầu thập kỷ 90, Nhà nước đã có nhiều chủ trương quan trọng đẩy mạnh
công cuộc đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức - sắp xếp lại hệ thống DNNN nhằm thích
ứng với thời kỳ mới mà nội dung cốt lõi là triển khai chiến lược công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Việc đổi mới, tổ chức sắp xếp lại DNNN nhằm khơi dậy nội lực của các
doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng định hướng của thành
phần kinh tế khác cùng phát triển lên CNXH. Từ 1990 hiện nay, công cuộc đổi mới có
nhiều nội dung đem lại nhiều điều kiện cho hoạt động của DNNN nhưng bên cạnh đó
vẫn còn những nhược điểm.
II.2.1. Những đổi mới có liên quan tới tư cách pháp nhân của DNNN:
Những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về DNNN đã ban hành ở thời kỳ
này như sau:
Sau cuộc tổng kiểm kê đánh giá tài sản DNNN ngày 1- 1 -1990 đã tiến hành
chỉnh đốn, sắp xếp và đăng ký lại DNNN vào các năm 1992 - 1993 theo nghị định
388/HĐBT ngày 20 - 11- 1991
- Đã ban hành các văn bản giải thể những DNNN và sắp xếp lại lao động, áp
dụng chính sách trợ cấp đối với lực lượng lao động dôi dư và ban đầu ban hành luật
phá sản doanh nghiệp.
- Đã tổ chức lại 250 liên hiệp xí nghiệp quốc doanh và công ty để hình thành
các tổng công ty Nhà nước theo các quyết định 90/TTg và 91/TTg.
- Đã banhành luật doanh nghiệp quốc doanh, và các văn bản dưới luật về điều lệ
mẫu Tổng công ty Nhà nước, và các văn bản pháp quy khác về tổ chức, hoạt động của
DNNN.
Sau khi ban hành luật doanh nghiệp Nhà nước, đây là một bước tiến quan trọng
trong việc thực thi Nhà nước pháp quyền, thực sự tiến tới bình đẳng trước pháp luật
giữa các thành phần kinh tế, khởi đầu việc thành lập hoạt động, tổ chức lại giải thể và
phá sản theo đúng trình tự pháp luật.
Từ khi có nghị định 388/HĐBT đã cơ bản chấm dứt tình trạng tự phát tuỳ tiện
thành lập và giải thể DNNN và khi ban hành luật phá sản cũng có nghĩa là bắt đầu
công nhận và thực thi các nghĩa vụ pháp luật dân sự đối với quan hệ kinh tế của
DNNN khi nó phá sản theo trình tự pháp luật.
Kết quả là đã giảm khoảng 50% số lượng DNNN, loại bỏ được các doanh
nghiệp quá yếu kém, thiếu điều kiện tối thiểu để tồn tại, và hoạt động như một pháp
nhân kinh tế đủ tư cách, mà điều quan trọng đã làm cho các DNNN còn lại, được đăng
ký kinh doanh, có quy mô vốn liếng khá lớn, có thị trường tiêu thụ ổn định hơn sơ với
trước. Đặc biệt chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại DNNN được sử lý
tương đối ổn thoả một phần do nguồn tài chính của ngân sách nhà nước bảo đảm khá
tốt, mặt khác đã áp dụng phương thức sắp xếp bằng cách nhập nhiều hơn là giải thể
nên gánh nặng trợ cấp lao động giảm.
II.2.2. Những đổi mới về mô hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh theo hướng
thúc đẩy tập trung hoá, tích tụ hoá trong các DNNN
Trong giai đoạn sau Đại hội VI một lần nữa có chủ trương tổ chức lại loại
DNNN lớn trong các ngành. Điều lệ mới về liên hiệp xí nghiệp quốc doanh chủ trương
áp dụng đồng thời hai hình thức được goị tắt là " liên hiệp mềm" và "liên hiệp cứng"
loại "mềm" được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện của doanh nghiệp và toàn bộ
loại cắt phần lĩnh vực xuất phát sự quan điểm cho rằng liên hiệp lại sẽ có hiệu quả hơn.
Loại "cứng" được tổ chức ở một số ngành kinh tế kỹ thuật cao về trình độ tập trung
hoá (điện lực, hàng không) có đỏi hỏi điều hành tập trung từ một trung tâm.
Đến đầu năm 1994 khi việc xắp xếpvà củng cố các DNNN theo từng đơn vị cơ
sở đã cơ bản kết thúc, đạt yêu cầu đặt ra trong thời kỳ đó chính phủ chủ trương củng
cố, tổ chức lại các hình thức tổ chức liên hiệp tổng công ty theo hướng hình thành và
tập đoàn kinh doanh mạnh thuộc sở hữu " Nhà nước". Những nội dung chính sách chủ
yếu về tổng công ty Nhà nước là tăng thực lực, khả năng tích tụ, khả năng cạnh tranh
của DNNN trên các lĩnh vực quan trọng.
- Tổng công ty trong các ngành quan trọng nhất, điều kiện chín muồi nhất do
chính phủ quyết định thành lập chỉ định các doanh nghiệp thành viên và nhân sự, hoạt
động trên phạm vi cả nước (Tổng công ty 91).
+ Tổng công ty thành lập ở cấp bộ, địa phương gồm các thành viên tự nguyên
gia nhập, thường hoạt động theo các khu vực (Tổng côngt y 90) hiện nay tồn tại những
hạn chế kìm hãm sự phát triển của các tổng công ty như: số lượng các tổng công ty quá
nhiều, chưa có sự liên kết kinh tế gắn bó lợi ích, hỗ trợ về thị trường giữa tổng công
ty với các đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên khác nhau:
II.2.3. Các chính sách đa dạng hoá sở hữu DNNN
Sau đại hội VI của Đảng, quá trình đổi mới DNNN có thêm một nội dung mới.
Đó là trong việc sắp xếp tổ chức lại DNNN có thêm yêu cầu, đa dạng hoá sở hữu đối
với hệ thống doanh nghiệp này. Theo chủ trương hiện hành, các hình thức đa dạng hoá
sở hữu sau đâu đã được ban hành, ở các mức độ khác nhau đã được thể chế hoá với
bước đầu được thực thi. Hình thức cao nhất là bán toàn bộ DNNN cho cấ nhân và tập
thể, chuyển thành công ty cổ phần trong đó Nhà nước không tham gia mua cồ phần,
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn sở hữu tư nhân hoặc thành công ty tư nhân, hình
thức tiếp theo là các DNNN được đánh giá lại tài sản hiện có và sử dụng đất đai để
cùng góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh với chủ sở hữu nước ngoài theo luật đầu
tư nước ngoài. Hình thức được đánh giá là quan trọng nhất đã và đang thực hiện là cổ
phần hoá một bộ phận DNNN.
Hình thức hiện cổ phần hoá bao gồm: Bán một phần giá trị doanh nghiệp thuộc
sở hữu Nhà nước tại DNNN, Nhà nước giữ lại cổ phần có thể đạt mức cổ phần chi
phối hoặc cổ phần đặc biệt theo luật định, tuỳ theo nhu cầu công ty cổ phần sau này,
bán cổ phần một đơn vị thành viên.
Xét một cách toàn diện thì cổ phần hoá DNNN đã đem lại lợi ích rõ rệt cho
người lao động, cổ đông, Nhà nước và xã hội. Thông qua việc cổ phần hoá, vốn Nhà
nước không những được đảm bảo mà còn được tăng thêm. DNNN được hình thành từ
cổ phần hoá có nhiều cơ hội huy động vốn trong xã hội để phụcvụ cho quá trình sản
xuất kinh doanh. Trong 370 DNNN đã cổ phần hoá có số vốn Nhà nước là 854 tỷ đồng
đã thu hút gần 1432 tỷ đồng ngoài xã hội, đồng thời Nhà nước thu được 714 tỷ đồng từ
việc Nhà nước rút bớt phần vốn ở các DNNN này. Theo báo cáo của ban đổi mới
DNNN thì 40 công ty cổ phần đã hoạt động từ 1 năm trở lên có chuyển biến tích cực
trong hoạt động kinh doanh, với hiệu quả khả quan. Doanh thu tăng gấp 2 lần so với
46 tỷ đồng trước cổ phần hoá. Số lượng lao động chẳng những không giảm mà còn
tăng 20%. Ví dụ công ty chế biến hàng xuất khẩu long an từ 900 đến 1200 lao động,
công ty cơ điện lạnh từ 244 lao động đến 806 lao động. Thu nhập của người lao động
tăng bình quân 20% /năm điển hình là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển bộ
giao thông vận tải có thu nhập lợi nhuận tằng từ 2- 3 lần, nộp Ngân sách tăng 2 - 25
lần, vốn điều lệ tăng 2,5 lần. Lãi cổ tức đã cao hơn lãi tiết kiệm, bình quân từ 1 - 2%
tháng, có một số công ty đạt 2,5%. Tuy nhiên số DNNN được cổ phần hoá trong thời
gian qua là quá ít so với kế hoạch đề ra. Năm 1998 đạt 55% năm 1999 đạt 63% năm
2000 đạt 36%.
II.2.4. Ban hành và thực hiện hệ thống luật liên quan đến DNNN.
Cùng với nhiều chính sách vĩ mô đã thay đổi, nhà nước cũng đã từng bước ban
hành hệ thống luật liên quan đến DNNN. Trong đó có hai bộ luật được hình thành
tương đối sớm là luật phá sản doanh nghiệp và luật doanh nghiệp Nhà nước (năm
1995).
- Đối với luật phá sản, đây là bước đi mạnh dạn đồng thời đáp ứng tình hình
thực tế đã và đang xuất hiện rõ lượng không ít DNNN lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, nhưng nếu dựa vào các văn bản pháp quy trước đó thì không thể xử lý
được.
Luật doanh nghiệp Nhà nước, là một bước ngoặt về chất lượng quan trọng trong
tiến trình xây dựng, củng cố và quản lý Nhà nước đối với hệ thống DNNN - hệ thống
quan trọng vào bậc nhất trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
Luật doanh nghiệp ra đời 4/1999 là tín hiệu mới cho các doanh nghiệp nói
chung, DNNN nói riêng. Nó thay đổi cách tư duy xây dựng luật pháp của chúng ta từ
trước tới nay, là chỉ chú trọng phần trước hoạt động của doanh nghiệp, còn quá trình
hoạt động, sau hoạt động ra sao thì không cần để ý tới.
II.2.5. Những đổi mới về chính sách kinh tế vĩ mô có liên quan đến các DNNN.
Ngay cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90 đã có những cải cách chính sách kinh tế vĩ
mô theo hướng kinh tế thị trường khắc phục một bước khá căn bản cơ chế cũ trong
chính sách này. Đó là cuộc cải cách thuế giai đoạn 1989 -1990 chuyển hình thức "thu
quốc doanh" qua áp dụng thuế doanh thu, chuyển hình thức trích nộp lợi nhuận qua áp
dụng thuế lợi tức.
Sự ra đơi của pháp lệnh của ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân sách
thương mại, các tổ chức tín dụng là đã mới rất cơ bản và đúng hướng cho các DNNN
chuyển qua hoạt động heo cơ chế thị trường ở nấc thang cao hơn.
Như vậy cho đến nay phần lớn chính sách kinh tế vĩ mô đã chuyển mạnh sang
cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước. Song cần thấy những chính sách đó còn nhiều
bất cập. Nổi bật là lĩnh vực ngân hàng và thị trường vốn trung, dài hạn còn nhiều tồn
tại, nếu chậm sửa đổi sẽ là trở ngại cho tiến trình cải cách hiện nay. Nhiều chính sách,
cơ chế kinh tế vĩ mô còn giữa những quy định phân biệt đối xử không cần thiết, có chỗ
phi lý giữa DNNN và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.
II.3. Những thách thức của DNNN trước xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới.
Văn kiện Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ "thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu
mà không một quốc gia nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương
chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ lợi ích dân tộc, giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân
tộc, giữ vững an ninh quốc gia, bản sắc vănhoá dân tộc, bảo vệ môi trường". Thực vậy,
sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới mở cửa và hội nhập quốc tế, Việt Nam
đã đạt được những cải thiện đáng kể trong quan hệ thương mại quốc tế nỏi riêng, hợp
tác kinh tế quốc tế nói chung. Với việc mỹ tuyên bố xoá bỏ cấm vận đầu năm 1993,
Việt Nam được kết nạp vào ASEAN năm 1995 đồng thời ký CEPT gia nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) Việt nam trở thành thành viên của APEC năm 1997
và đặc biệt ngày 13/7/2000 vừa qua, tại Oasinhtơn, Hiệp định thương mại Việt Mỹ đã
được ký kết bở bộ trưởng Thương Mại Việt Nam và Đại diện Thương mại của Tổng
thống mỹ.
Tổng kết thực tiễn cho thấy các nước có tốc độ phát triển cao trong nhiều năm
và có sự tích luỹ hiệu quả về công nghệ thì đều có thị trường xuấ khẩu sang Mỹ khá
lớn, chiếm tới trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, của Việt Nam hiện mới là 4,3%.
3
Việc Việt Nam đã kỹ hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và hưởng quy chế tối huệ quốc
có ý nghĩa tiêu đề quan trọng việc thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư hướng vào
xuất khẩu. Liệu các DNNN Việt Nam, đặc biệt là các Tổng công ty có phá vỡ được tư
tưởng hiện tại là chỉ nhằm ổn định sản xuất lấy mục tiêu đáp ứng nhu cầu sản phẩm
thay thế nhập khẩu trước mắt để chuyển sang lấy cạnh tranh quốc tế làm chuẩn mực
cho sự phát triển hướng vào xuất khẩu.
Trong một nền kinh tế thế giới toàn cầu hoá thì việc một quốc gia có hội nhập
vào nền kinh tế thế giới hay không và hội nhập đến mức độ nào sẽ cơ bản phụ thuộc
vào khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp sở tại. Nhìn vào nền kinh tế Việt Nam
có thể thấy rất rõ, dù chỉ chiếm chưa tới 20% tổng số 35.000 doanh nghiệp của cả
nước, các DNNN vẫn nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản của xã hội và giữ vai trò
3
Tạp chí Tài chính tháng 8/2000 trang 27
đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế. Tuy nhiên chưa nói gì đến các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, khả năng cạnh tranh của bản thân các DNNN còn yếu về nhiều mặt
như: vốn kinh doanh, trình độ máy móc thiết bị công nghệ, năng lực đội ngũ cán bộ,
cơ cấu bộ máy tổ chức sản xuất.
Toàn cầu hoá đồng nghĩa với nhiều nguy cơ, thách thức đối với doanh nghiệp
đặc biệt là DNNN cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Việt Nam đi sau rất nhiều
nước và khoảng cách này lại đang ngày càng doãng ra. Chiến lược đuổi vượt của nền
kinh tế Việt Nam trông đợi vào khả năng cạnh tranh và hội nhập của các DNNN nội
địa. Ta thấy sức cạnh tranh của các Tổng công ty có vai trò quyết định đối với khả
năng cạnh tranh của cả nền kinh tế. Việt Nam chỉ có thể hội nhập nhanh và hội nhập
hiệu quả nếu các tổng công ty thực sự trở thành các tập đoàn kinh tế vững mạnh, có
mối quan hệ liên kết bên trong theo chiều dọc bền vững và có mối quan hệ chặt chẽ
với các loại hình doanh nghiệp khác. các doanh nghiệp thành viên trong một chừng
mực nào đó phải cạnh tranh với nhau, nâng khả năng cạnh tranh của cả Tổng công ty
để cả Tổng công ty có đủ sức mạnh cạnh tranh trong một nền kinh tế hội nhập với các
công ty quốc tế vốn đang rất hùng mạnh.
Không còn cách nào khác các doanh nghiệp nhà nước phải tiến hành cải cách,
đổi mới triệt để nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh để từ đó hội nhập với nền kinh tế thế
giới mở ra tiềm năng phát triển của kinh tế Việt Nam.
III- nghiên cứu đánh giá quá trình đổi mới cải cách của thế giới làm bài học cho
vấn đề nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước (doanh nghiệp
nhà nước) ở nước ta.
III.1 Việc đổi mới, cải cách DNNN ở các nước XHCN mà Trung Quốc là đại diện
tiêu biểu
III.1.1 Doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc từ 1949-1996
ở Trung Quốc, khi mới xây dựng nước Trung Hoa mới 1949 Chính phủ không
chỉ tiếp quản 913 xí nghiệp các loại cuả các nước đế quốc, mà còn tịch thu của chính
phủ cũ và của tư sản mại bản 2858 xí nghiệp công nghiệp, 2446 ngân hàng, 10 công ty
thương mại lớn. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Trung Quốc đã tập trung nhân
lực, vật lực, tài lực xây dựng 156 công trình loại lớn như gang thép, than, điện lực, cơ
khí, dầu mỏ, hoá chất mở ra một chương trình mới trong việc phát triển khu vực
kinh tế nhà nước. Thực vậy, sau kế hoạch 5 năm lần I công cuộc cải tạo XHCN ở
Trung Quốc đã củng cố cơ sở chế độ công hữu, hìnht hành các ngành kinh tế chủ yếu
của nền kinh tế quốc dân do doanh nghiệp Nhà nướ đóng vai trò chủ đạo. Cùng với
việc kinh tế quốc dân (DNNN) chiếm vị trí chủ đạo, nền kinh tế kế hoạch hoá, căn bản
đã hình thành thay thế kinh tế hàng hoá sự điều phối theo kế hoạch trực tiếp của nhà
nươcs dần thay thế sự trao đổi theo cơ chế thị trường.
Cùng với thời gian, các khuyết tật của cơ chế kế hoạch hoá tập trung ngày càng
bộc lộ rõ nét và càng thể hiện tính không thực hiện. Năm 1978 Trung quốc thực hiện
công cuộc cải cách mở cưa đề ra xây dựng thể chế thị trường XHCN nhằm khắc phục
những khuyết tật của thể chế kinh tế kế hoạch hoá trước đây đặt cải cách DNNN là
khâu trọng tâm trong cải cách thể chế của cả nền kinh tế. Công cuộc cải cách DNNN
tính đến nay đã gần 20 năm bao gồm các giai đoạn:
- Từ 1978 đến năm 1983. Trọng tâm là mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho
các DNNN, điều chỉnh quan hệ phân phối giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
- Từ năm 1983 đến năm 1987: trong giai đoạn này, thực hiện thí điểm biệm
pháp " thuế thay lợi nhuận" để điều chỉnh lợi ích giữa xí nghiệp và nhà nước.
- Từ năm 1987 đến năm 1992: thực hiện phổ biến chế độ khoán trách nhiệm
kinh doanh với nhiều hình thức
- Từ năm 1992 đến năm 1996: trọng điểm của giai đoạn này là chuyển đổi cơ
chế kinh doanh của DNNN, không phải chỉ là điều chỉnh quyền hạn và lợi ích giữa nhà
nước và doanh nghiệp trong thể chế quyền hạn và lợi ích giữa nhà nước và doanh
nghiệp trong thể chế cũ mà hình thành thể chế mới trong đó DNNN là người sản xuất
và kinh doanh hàng hoá độc lập.
Qua gần 20 năm thực hiện cải cách, hệ thống DNNN Trung Quốc đã có những
biến đổi to lớn. Thể chế kinh doanh đổi mới mạnh mẽ. Hàng loạt xí nghiệp đã lớn
mạnh và đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
III.1.2. Chính sách cải cách DNNN mới nhất của Trung Quốc do thủ tướng Chu
Dung Cơ đề xuất (1998 - 2000)
Tính đến cuối 1997, diện các DNNN làm ăn thua lỗ lên tới 45%. Hàng loạt các
doanh nghiệp đứng trước nguy cơ đóng cửa. Trong thời gian đó. Khủng hoảng khu vực
lại lan rộng và gây ảnh hưởng mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu và hoạt động sản xuất
kinh doanh của các DNNN áp lực hội nhập quốc tế ngày càng gay gắt, đẩy các doanh
nghiệp tới trước sự lựa chọn hoặc là phải cải cách triệt để, hoặc là bị phá sản, giải thể.
Trong bối cảnh đó, thủ tướng Chu Dung Cơ đã chọn con đường cải cách triệt để
DNNN với mục tiêu đưa ra là: trong vòng 3 năm (1998 - 2000) đưa các DNNN cơ bản
thoát khoải khó khăn, tiến tới xây dựng chế độ doanh nghiệp hiện đại. Các giải pháp
cơ bản:
* Phân loại và cơ cấu lại các DNNN
Để có những giải pháp cải cách hợp lý, 380.000 DNNN ở Trung quốc được
chia thành 3 loại: loại I gồm hơn 1000 DNNN lớn thuộc các ngành then chốt như:
quốc phòng, giao thông vận tải thông tin viễn thông loại II gồm 13.000 DNNN vừa,
loại III gồm hơn 300.000 DNNN nhỏ. Đối với từng loại DNNN mà Trung Quốc có
những giải pháp xử lý khác nhau.
- Đối với các DNNN lớn: trong số 1000 DNNN lớn. Trung quốc chỉ nắm 512
doanh nghiệp then chốt các doanh nghiệp còn lại sẽ áp dụng chế độ công ty cổ phần
trong đó nhà nước nắm cổ phần khống chế (51%). Hiện nay ở Trung Quốc có 3 mô
hình công ty nhà nước nắm giữ cổ phần khống chế.
+Mô hình thứ nhất: Công ty cổ phần do Nhà nướ nắm cổ phần khống chế đơn
thuần. Theo môhình này, Nhà nước chỉ đầu tư cổ phần mà không tham gia vào hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Mô hình thứ hai: Cong ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế hỗn
hợp. Theo mô hình này Nhà nước vừa đầu tư cổ phần trực tiếp tham gia hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
+ Mô hình thứ ba: Công ty cổ phần do Nhà nước nắm cổ phần khống chế mang
tính chiến lược, Nhà nước có quyền về nhân sự, quyền đưa ra quyết sách đầu tư.
- Đối với các DNNN vừa và nhỏ: thực tế cho thấy bên cạnh bán giải thể, cho
phá sản cổ phần hoá và sát nhập là 2 biện pháp được áp dụng chủ yếu để cơ cấu lại
chế độ sở hữu của các DNNN vừa và nhỏ. Hiện nay Trung quốc cho phép bán cổ phần
cho các nhà đầu tư nước ngoài với mức khống chế 30% - 50% cổ phần của công ty và
với chính sách 3 đồng " đồng loại, đồng giá, đồng lợi ích". Nghĩa là cổ phiếu bán ra
cho các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước cùng một giá.
* Xử lý mối quan hệ giữa doanh nghiệp và ngân hàng
Trước 1998 có tới 70% DNNN ở Trung Quốc là con nợ của ngân hàng với số
nợ 500 tỷ NDT (Tạp chí Tài chính 8/2000) một trong những giải pháp được áp dụng là
chuyển nợ thành cổ phần thông qua việc thành lập các công ty quản lý tài sản.
Sử lý thất nghiệp.
Nhìn chung, mặc dù có những tiến triển khả quan, song xét tổng thể các DNNN
Trung quốc vẫn chưa thoát được khó khăn: hiệu quả kinh tế chưa cao, các khoản nợ
tuy đã được giải quyết song mới mang tính thí điểm thất nghiệp cao. Chương trình cải
cách của thủ tướng Chu Dung Cơ sẽ phải tiếp tục đối phó với việc Trung quốc gia
nhập WTO. Để có đủ sức cạnh tranh và hội nhập, các DNNN Trung quốc phải vượt cả
một chựng đường dài đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa DNNN - ngân
hàng - chính phủ Trung quốc.
III.2. Việc đổi mới cải cách DNNN ở các nước TBCN
III.2.1. Chuyển đổi các DNNN - quản lý sự thay đổi triệt để tính chất trong môi
trường phi điều tiết ở Auslralia và Newzeland:
III.2.1.1. New zreland
DNNN ở New zraland được cải cách theo 2 hướng: Công ty hoá tư nhân hoá,
Qua hơn 10 năm thực hiện, chương trình cải cách thu đượckết quả tốt, kinh tế tăng
trưởng nhanh đời sống cao, Hiện nay New zraland còn 16 DNNN. Giá trị sản xuất
bằng 5% GDP. Tất cả DN này đều đã được công ty hoá. Còn đối với hầu hết các
DNNN thực hiện tư nhân hoá thì Nhà nước không còn cổ phần trong doanh nghiệp.
Hoạt động DNNN của New zreland được điều chỉnh bởi luật DNNN luật công
ty, hợp đồng định hướng kinh doanh hàng năm. bản hợp đồng nên tóm tắt kế hoạch
kinh doanh của doanh nghiệp, đây là căn cứ quan trọng nhất để giám sát hoạt động của
DNNN.
DNNN được quyền tự chủ các doanh nghiệp tư nhân, nhà nước không can thiệp
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài thuế doanh nghiệp phải nộp cổ tức
cho Nhà nước.
III.2.1.2. Australia
DNNN của Australia gồm 2 loại: loại do liên bang quản lý và loại do bang quản
lý. Số lượng DNNN của Australia không nhiều liên Bang có 13 doanh nghiệp, ở các
bang Newsorth Waler và Victoria mỗi bang rất nhiều. DNNN ở đây được gọi là doanh
nghiệp thương mại, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Những đơn vị nhà nước hoạt
động không tạo ra lợi nhuận thì không được gọi là DNNN được điều chỉnh bởi luật
công ty, luật thương mại. Luật cạnh tranh chống độc quyền, một số bang có luật
DNNN các DNNN ở Australia đều được công ty hoá.
Sau khi thực hiện công ty hoá. DNNN hoạt động bình đẳng như các doanh
nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp chỉ thực hiện chức năng kinh doanh. Các chức năng xã
hội trả lại cho Nhà nước. Nếu Nhà nước yêu cầu các DNNN thực hiện chức năng xã
hội hay một số dự án không thu được lợi nhuận thì Nhà nước phải thanh toán tiền. Một
số DNNN hoạt động trong lĩnh vực độc quyền, điện, đường sắt chịu sự quản lý giá
của Nhà nước để đảm bảo hài hoà quyền lợi của cộng đồng với quyền lợi của DNNN
và nhà nước.
III.2.1.3. Những nhận xét đánh giá chung
Nghiên cứu phương thức quản lý DNNN của Australia và Newzraland chúng ta
rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Phải tách phải tách chức năng quản lý Nhà nước, chủ sở hữu Nhà nước với
chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chủ sở hữu cần được xác định rõ không phân tán, mơ hồ