LUẬN VĂN:
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đã từ lâu, ở mọi vùng quê trên đất nước Việt Nam thường diễn ra những ngày lễ
hội gắn với các truyền thuyết và sự tích về các Nữ thần.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian mang sắc thái nguyên thủy và có
chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nó phát triển theo sự phát triển đa dạng của tín ngưỡng
dân gian mà không theo một qui luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua
lễ hội, qua niềm tin và qua đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của
người dân đất Việt.
Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng.
Tuy nhiên, ngay từ khi hình thành, văn hóa Việt Nam đã mang tính thống nhất, nhưng vẫn
có những nét riêng về văn hóa, đánh dấu sự khác biệt giữa tộc người này với tộc người
khác.
Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Mặt khác, chúng ta đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì việc tiếp thu những thành tựu khoa học- kỹ thuật thế giới đang là cơ
hội để chúng ta tiếp thu những thành quả trí tuệ của loài người. Một vấn đề đặt ra là muốn
đa dạng văn hóa thì phải mở rộng giao lưu, hội nhập với các nền văn hóa khác để tiếp thu
những tinh hoa văn hóa của nhân loại.Tuy nhiên, khi giao lưu, hội nhập với các nền văn
hóa khác thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa riêng độc đáo cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia gặp
nhiều khó khăn và trở ngại.
Trong Văn kiện hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa VIII),
đưa ra quan điểm chỉ đạo cơ bản: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ” và “Nền văn hóa mà chúng ta
xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [10, tr.55].
Chúng ta biết rằng, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam là một tín ngưỡng có từ rất
lâu. Nó là một tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc bản địa và bắt nguồn từ nền văn minh
nông nghiệp lúa nước và là một hình thức tôn vinh người phụ nữ làm Quốc Mẫu, Thánh
Mẫu, Vương Mẫu…nhiều nơi những cơ sở thờ Mẫu đã trở thành những trung tâm thờ
Mẫu lớn như Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ, Đền Sòng…
Thờ Mẫu nói chung và thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ là một khái niệm tương đối phức
tạp. Về phương diện điện thần thì thờ Mẫu bước đầu đã hình thành một hệ thống và có
những nghi lễ điển hình như hầu bóng(hầu đồng)… mà các tín ngưỡng dân gian khác
không có. Vì thế, tính phức tạp lại càng tăng lên khi có nhiều quan điểm khác nhau về thờ
Mẫu. Có quan điểm cho rằng thờ Mẫu đã trở thành một tôn giáo sơ khai, nhưng lại có
những quan điểm không đồng tình, chỉ khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian…
Điều này càng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đặc biệt là những
người quan tâm đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.
Công cuộc đổi mới đất nước hai mươi năm qua ở nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng trong các lĩnh vực đời sống xã hội. ở lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng cũng có
những biến đổi căn bản, trên cả phương diện nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của
công tác tôn giáo.
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa đang diễn ra trên toàn thế giới.
Việt Nam cũng đang hòa nhập vào xu thế đó. Tuy nhiên, chúng ta gặp phải một thách thức
không nhỏ, khi mà bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày càng rộng rãi như hiện nay. Vấn đề
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc như thế nào là việc làm cần thiết, có lẽ chúng ta
không cần nhắc lại tác hại của việc đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Điều quan trọng là
phải tìm được những giải pháp giữ gìn và phát huy những yếu tố tích cực của bản sắc văn
hóa dân tộc trong bối cảnh hiện nay.
Tôn giáo, tín ngưỡng là một nhu cầu tâm linh của một bộ phận cư dân trong xã hội.
Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian Việt Nam thì tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín
ngưỡng dân gian khá phổ biến trong xã hội. Theo thống kê của Viện Hán Nôm năm 1991 thì:
“Trong số 1000 di tích được giới thiệu thì đã có 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh
nhân là nữ” [45, tr.24].
Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận của người
phụ nữ Việt Nam … Người ta đến với Mẫu để tìm chỗ dựa về tinh thần, tìm được sự che
chở của người mẹ…dẫu biết rằng khi đến với tín ngưỡng này con người cầu xin từ những
cái vô hình, để hy vọng có thể nhận được những cái hữu hình.
Tôn giáo - tín ngưỡng - mê tín dị đoan, là ba khái niệm rất phức tạp, là vấn đề đang
được sự quan tâm của nhiều người, nhiều ngành khoa học khác nhau. Hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta cho phép phục hồi một số lễ hội truyền thống, trong đó có cả tín ngưỡng thờ
Mẫu. Ngoài ra, nhu cầu trở về cội như một xu thế vừa tự phát lại vừa tự giác đã kéo theo
hiện tượng mà trước kia được liệt vào dạng “mê tín dị đoan”, nhưng nay lại đang diễn ra
khá phổ biến ở nhiều nơi, nhiều di tích và công khai, đó là nghi thức hầu bóng (hầu đồng)
trong thờ Mẫu. Vấn đề đặt ra là cần loại bỏ “mê tín dị đoan” nhưng phải tôn trọng quyền tự
do tín ngưỡng của công dân được pháp luật bảo vệ. Song đối mặt với thực tế cuộc sống đó là
điều hết sức nhạy cảm và phức tạp. Hiện nay, chưa có căn cứ rõ ràng để phân biệt cái gì là văn
hóa, cái gì là phản văn hóa; cái gì là “ mê tín”, cái gì là “dị đoan” trong hình thức sinh hoạt
tín ngưỡng thờ Mẫu.
Trong xã hội hiện nay đang tồn tại một số cá nhân lợi dụng niềm tin của một số
người vào thần thánh, lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta đã
tìm mọi cách “kinh doanh” trên lĩnh vực tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói
riêng nhằm trục lợi cá nhân, gây mất ổn định xã hội … Đây là điều mà các cơ quan quản lý
các ngành, các cấp cần phối hợp làm rõ để mọi người cùng hiểu và tránh xa những hiện tượng
tiêu cực này.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đã tồn tại
trong lịch sử và cả thời đại ngày nay. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết tinh
sống động của đời sống văn hóa tinh thần của con người Việt Nam. “Mẫu ” có sức hấp dẫn
đặc biệt, nhưng cũng đặt ra không ít các vấn đề cho nhiều nhà khoa học, nhiều người
nghiên cứu quan tâm theo nhiều hướng khác nhau trong toàn xã hội.
Đến với “Mẫu” không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng những nhu cầu đời sống tâm
linh, tín ngưỡng thờ Mẫu còn là hiện tượng sinh hoạt văn hóa dân gian phong phú, hấp dẫn
có sức lôi cuốn con người. Người ta đến với “Mẫu ” còn có cả sự đồng cảm về giá trị văn
hóa và góp phần củng cố ý thức cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Với những lý do trên, nên tôi chọn vấn đề: " Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ hiện nay ", làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong phần tình hình nghiên cứu đề tài này, luận văn chỉ xin nêu một số tác phẩm
của một số tác giả trong nước viết về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Theo GS Vũ Ngọc Khánh tính từ thế kỷ XVII đến nay (không kể đến những ý kiến
viện dẫn hoặc phân tích trên các sách báo và các thần tích lưu tại các địa phương và các
phủ điện thờ) sơ bộ đã có 25 công trình với ba ngôn ngữ (Hán nôm, Việt, Pháp) viết về
Chúa Liễu - Mẫu Liễu Hạnh gồm: Sách Hán Nôm (Vân Cát Lê gia ngọc phả; Truyền kỳ
tân phả; Vân Cát thần nữ cổ lục …), sách Quốc ngữ và chữ Pháp (Nam Hải dị nhân của
Phan Kế Bính; Truyện thần nữ Vân Cát của Thiên Đình hay Nam Phong 1930; Sự tích
Liễu Hạnh công chúa của Trọng Hối 1959; Leculte des immortels…Nguyễn Văn Huyên
1944.
Về Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì: “Lê Gia ngọc phả vẫn là tài liệu trước nhất ghi chép
về Liễu Hạnh. Và có thể khẳng định là Đoàn Thị Điểm đã dựa vào truyền thuyết dân gian
để sáng tạo, hư cấu nhiều hơn” [24, tr.35].
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975) cả nước được thống nhất, chúng ta có
nhiều điều kiện tập trung nghiên cứu. Vì thế, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
cuộc hội thảo và các bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam (không kể những bài viết
trong báo và tạp chí) cơ bản đó là:
- “Đạo Mẫu ở Việt Nam” năm 1996 hay cuốn “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman
trong các tộc người ở Việt Nam và Châu á ” năm 2004 của tác giả Ngô Đức Thịnh (chủ
biên). ở đây, tác giả đã đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt
Nam đã trở thành Đạo Mẫu. Quan điểm này hiện nay có nhiều nhà khoa học chưa đồng
tình.
- “Văn hóa tâm linh Nam bộ” của Nguyễn Đăng Duy (1997), tác giả có viết một
chương về tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng là thờ Mẫu ở Nam bộ.
- Cuốn “di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam ”, tác giả Lê
Quang Trứ (2000) có bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu nhưng còn sơ sài, tác giả giới thiệu dàn
đều bốn loại hình tín ngưỡng chủ yếu tại Việt Nam.
- Cuốn “Lịch sử tín ngưỡng Đông Nam á ” xuất bản năm 2000, tái bản năm 2003
của TS Trương Sĩ Hùng (chủ biên), trong đó có bài viết: Thờ Mẫu Việt Nam một tín
ngưỡng điển hình ở Đông Nam á. Tác giả giới thiệu về lễ hội thờ Mẫu và bước đầu đưa ra
kết luận tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam mang sắc thái điển hình ở Đông Nam á.
- Phân viện nghiên cứu văn hóa nghệ thuật thành phố Huế (2001) viết cuốn “Tín
ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung”do Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) lại một lần nữa khẳng
định về tục thờ Mẫu và diễn trình của tục thờ Mẫu, các tác giả đi sâu vào các nữ thần ở
Miền Trung, đặc biệt là Thần Nữ YANA.
- GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả của cuốn sách “ Tín ngưỡng dân gian Việt Nam ”(tái
bản có sửa chữa, bổ sung)(2001), tác giả có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện
nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không
nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng
dân gian mà thôi.
- Cuốn “Lễ hội dân gian ở Nam bộ” (2003) của TS Trương Quốc Thắng có bài viết:
Lễ hội thờ Mẫu - Nữ thần nguyên gốc từ sinh hoạt dân gian Bắc Bộ. Tác giả chủ yếu giới
thiệu con đường đưa tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc vào miền Nam như thế nào?.
- Cũng trong năm 2003, tác giả Nguyễn Chí Bền viết cuốn “Văn hóa dân gian
những phác thảo”. Cuốn sách này tác giả đề cập đến tục thờ Mẫu của người Việt nhưng ở
vùng Nam Bộ.
- Cuốn “Văn hóa Thánh Mẫu ” của Đặng Văn Lung (2004), tác giả đã rất tâm huyết
với vấn đề “Mẫu ” nên đưa ra rất nhiều các tư liệu về các “Mẫu” nhưng lại viết dưới góc
độ văn hóa, văn học và lịch sử chứ chưa xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo.
- Năm 2005, cuốn sách “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam ” do
TS Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề
cập đến khái niệm thờ Mẫu và một số đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào
nguồn gốc, vai trò…của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam.
- Năm 2005, Mai Thanh Hải là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ”. Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ
Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh.
Trên đây chỉ là một số tác phẩm cơ bản của các nhà nghiên cứu trong nước, trong
những năm gần đây về tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả luận văn mà chưa có điều kiện liệt kê
tất cả những danh mục viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam hiện đang có ở nhiều tác
phẩm và bài viết. Và cũng chưa có cơ hội được đọc hết các luận văn nghiên cứu về tín
ngưỡng thờ Mẫu và Mẫu Tam phủ - Tứ phủ của các tác giả Việt Nam dưới các góc độ
khác nhau.
Tác giả luận văn đã tiếp thu, kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu của
các nhà khoa học, các tác giả đi trước, kết hợp với những kiến thức do chính bản thân sưu
tầm, tích lũy chọn lọc trong quá trình học tập, công tác và khảo sát thực tế về tín ngưỡng
thờ Mẫu tại các trung tâm thờ Mẫu, chúng tôi muốn nghiên cứu và làm sáng tỏ thêm về tín
ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá thực trạng, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu, nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phát huy những giá trị tích cực và khắc phục
những hạn chế trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau:
-Làm rõ khái niệm, nguồn gốc, đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng
bằng Bắc bộ.
- Khảo sát, nghiên cứu, đánh giá và rút ra một số nhận xét trong tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
- Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn
chế những ảnh hưởng tiêu cực của tín ngưỡng thờ Mẫu tới đời sống xã hội Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã có từ rất lâu, nó đã bám rễ ăn sâu vào đời sống
tinh thần của người dân từ Bắc vào Nam. Vì thời gian và trình độ hạn chế với đề tài này,
tác giả luận văn xin được giới hạn:
- Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với những đặc
điểm, vai trò của nó.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không nghiên cứu nữ thần và nghi thức thờ cúng, lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu.
+ Không gian: Nghiên cứu thực trạng trung tâm thờ Mẫu Phủ Dầy, Phủ Tây Hồ ở
đồng bằng Bắc bộ và Đền Sòng (Đền Sòng cũng là một trung tâm thờ Mẫu Liễu Hạnh, có
quan hệ mật thiết với Phủ Dầy và Phủ Tây Hồ. Tỉnh Thanh Hóa còn là tỉnh nằm liền kề vùng
đồng bằng Bắc bộ).
+ Thời gian: Kể từ khi có nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ chính trị về tăng cường
công tác tôn giáo trong tình hình mới năm 1990 cho tới nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà Nước về tín ngưỡng, tôn giáo
…làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn quán triệt những nguyên tắc phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử trong nghiên cứu; đồng thời sử dụng những phương pháp khác như:
điều tra khảo sát, thống kê và tổng hợp, phương pháp lôgíc, lịch sử, điền giã…để đạt mục
đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra.
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn tổng hợp, khái quát hóa những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
Dự báo xu hướng biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ trong
những năm tới.
Từ góc độ nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn tác giả luận văn bước đầu đưa ra
những giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm phát huy những giá trị tích cực và hạn chế tiêu
cực đối với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ với đặc
điểm của nó.
Luận văn giúp cho người đọc hiểu thêm về tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
và nét sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc của người Việt
Nam.
Ngoài ra, luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho trường chính trị các tỉnh, các
Học viện khu vực và những người làm công tác quản lý văn hóa, nghiên cứu, giảng dạy về
tín ngưỡng, tôn giáo.
Thông qua nội dung luận văn, giúp cho các nhà quản lý hiểu thêm một phần nào đó
nhằm phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức trong thờ Mẫu. Đồng thời, hạn chế những
mặt tiêu cực của loại hình tín ngưỡng này.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có 3
chương, 9 tiết.
Chương 1
Tín ngưỡng thờ mẫu ở đồng bằng bắc bộ
1.1. Khái niệm, nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ mẫu ở
đồng bằng Bắc bộ
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu
Để tìm hiểu khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu, trước tiên ta phải tìm hiểu sơ qua khái
niệm tín ngưỡng, tôn giáo là như thế nào? bởi vì hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa có
một quan điểm thống nhất xem thờ Mẫu là tín ngưỡng hay tôn giáo.
Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Điều này đã được
Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc của con người” [31, tr.437].
Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh
thần bí, thuộc lĩnh vực "tinh thần" tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức
mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hêghen…
Đối với các nhà thần học như Tômat Đacanh, Etôrotcho… xem tín ngưỡng, tôn giáo
là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có
một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được
hạnh phúc và sự bình yên.
Tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ mật thiết mà ranh giới
để phân biệt chúng chỉ là tương đối.
Tín ngưỡng là một khái niệm rộng hơn khái niệm tôn giáo.Trong giáo trình Chủ
nghĩa xã hội Khoa học có viết:
Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện
tượng, một lực lượng, một điều gì đó và thông thường để chỉ một niềm tin tôn
giáo. Còn tôn giáo thường được hiểu là một trong những hình thức tín ngưỡng
có quan niệm, ý thức, hành vi và các tổ chức tôn giáo [19, tr.449].
Về mặt thuật ngữ tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay trên thế giới được sử dụng như sau:
Tiếng Việt Tiếng Anh Tiếng Pháp
Tín ngưỡng Belief Croyance(niềm tin)
Tôn giáo Religion Religion
Việt Nam từ trước đến hiện nay, vấn đề tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác
nhau.
GS Đặng Nghiệm Vạn, với quan điểm là:
Thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng,
người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung (belief, lelieve, croyance)
hay niềm tin tôn giáo (belief, believe, croyance riligieuse). Nếu hiểu tín ngưỡng là
niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo (belief,
believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse) thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ
yếu nhất cấu thành của tôn giáo [50tr.76].
Các học giả như Toan ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian
với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc
Việt Nam.
Có ý kiến khác thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự
ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu
thực, hư ảo, vô hình” [30, tr.6].
Nguyễn Chính cho tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân
của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên
mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được.
Có một quan điểm khác gần giống như GS. Đặng Nghiêm Vạn. Ông cho rằng: “tín
ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa
là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn
giáo(Croyance religieuse)” [38, tr.50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng ”, nếu xét về
mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà
chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ
của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng
với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay
chữ Whorship của tiếng Anh.
Trong Hán-Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng
mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa.
Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh (niềm
tin thiêng liêng) cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng
dẫn tới tôn giáo” [40, tr.97].
Hay Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và
“một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa
mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo- tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá
trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [46, tr.12].
Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. điều này
thể hiện ngay trong pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo(năm 2004); hay trong Nghị định của
Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2005) …
Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. ChươngI, điều 3 có qui định như sau:
Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng
niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần,
thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian
khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội [3,
tr.10].
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về tín ngưỡng và tôn giáo. Giữa tôn giáo
và tín ngưỡng tuy có điểm giống nhau nhưng vẫn có những sự khác biệt, đó là:
- Tôn giáo được hình thành, tồn tại trên cơ sở lý luận chặt chẽ và có tính hệ thống
cao. Nghi lễ trong tôn giáo được thực hiện mang tính bắt buộc đối với tín đồ, được duy trì
thường xuyên, cùng với những qui định khác. Còn tín ngưỡng được hình thành và tồn tại
dựa trên cơ sở lý luận chưa chặt chẽ, thiếu tính hệ thống. Cho nên tín ngưỡng phần lớn
mang tính dân gian, gần gũi với đời thường và phần nghi lễ được thể hiện đơn giản, không
bắt buộc đối với người theo.
- ở tôn giáo, niềm tin được đặc biệt đề cao, có thể đó là đức tin, nó đòi hỏi có cách
lý giải mang tính lôgic, hệ thống và được xây dựng trên cơ sở thế giới quan, nhân sinh
quan, ý thức, tình cảm Còn tín ngưỡng, niềm tin không trở thành đức tin mà niềm tin ấy
mang tính huyền hoặc, mờ ảo, không rõ ràng mà dựa vào sự cảm nhận của chủ thể tín
ngưỡng. Nói cách khác, xét về mặt nào đó thì tín ngưỡng có nội hàm hẹp hơn tôn giáo, bởi
vì tôn giáo nào cũng có tín ngưỡng, niềm tin, đức tin tôn giáo nhưng không phải mọi hình
thức tín ngưỡng đều là tôn giáo.
- Tôn giáo thường có một số yếu tố như: Đấng sáng tạo, kinh sách, giáo chủ, hệ
thống giáo lý, tổ chức giáo hội rất điển hình, có qui mô lớn và theo một hệ thống chặt chẽ. Vì
vậy, tôn giáo là một thực thể xã hội, nó có tác động lớn tới đời sống xã hội, còn tín ngưỡng thì
thiếu các yếu tố này hoặc chỉ là sự thể hiện mờ nhạt, mang tính sơ khai.
Tuy nhiên, giữa tín ngưỡng và tôn giáo cũng có điểm tương đồng sau:
- Tôn giáo và tín ngưỡng đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của chủ thể con
người vào một thực thể siêu nhiên nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Thánh…và đều bắt
nguồn từ những nguyên nhân xã hội, nhận thức và tâm lý trong quá trình hình thành và tồn
tại. Chủ thể của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là một người, một nhóm người và có
thể là một giai cấp trong xã hội.
- Bản chất của niềm tin trong tín ngưỡng và tôn giáo là khẳng định sự tồn tại và sự
cứu giúp của thần thánh đối với con người. Cho nên, điều cốt lõi của tín ngưỡng và tôn
giáo là niềm tin vào cái siêu thực, đấng thiêng liêng.
- Cả tín ngưỡng và tôn giáo là sự phản ánh hư ảo của ý thức xã hội về tồn tại xã hội,
chịu sự quy định của các tồn tại xã hội, đều có chức năng bù đắp hư ảo, xoa dịu nỗi đau
hiện thực của con người, hướng con người tới sự giải thoát về mặt tinh thần.
Vậy có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức
xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội,
được hình thành bởi quá trình lịch sử-văn hóa, là sự biểu hiện niềm tin dưới dạng tâm lý
xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng
đồng người trong xã hội.
Thuật ngữ tín ngưỡng bao gồm: Tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên theo những nguyên tắc
thực hành tôn giáo nhất định.
Theo GS,TS Phạm Ngọc Quang :
Tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem là một yếu tố, một bộ
phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân gian (folklore) được
hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín
ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính
nhân dân - trước hết là những người lao động -sáng tạo ra trên cơ sở những tri
thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật
của bản thân mình [30, tr.8].
Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và
cả cộng động, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong tục
tập quán, truyền thống.
Khi đề cập đến sự tương đồng và khác nhau giữa tín ngưỡng với tôn giáo cũng cần
làm rõ sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín, mê tín với mê tín dị đoan.
Trong thực tế, việc phân biệt sinh hoạt tín ngưỡng với hoạt động mê tín dị đoan là
không dễ nhưng chúng ta cần cố gắng phân biệt để ứng xử phù hợp.
Từ điển Tiếng Việt năm 1992 của Trung tâm Từ điền Ngôn ngữ- Viện Ngôn ngữ học-
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn,trang 976 thì định nghĩa:
Mê tín =1. Tin một cách mù quáng vào những cái thần bí, vào những chuyện thần
thánh ma quỉ, số mệnh …
Mê tín=2. Ưa chuộng, tin một cách mù quáng không biết suy xét.
Tuy nhiên tôn giáo và tín ngưỡng đều xây dựng trên những điều “thần bí, huyền
hoặc”, vấn đề là “thần bí, huyền hoặc” đến đâu thì được xem là mê tín, di đoan. Khái niệm
này còn phụ thuộc vào cách nhìn nhận của từng người, từng tôn giáo khác nhau.
Ví dụ: Công Giáo cho rằng tất cả những tôn giáo khác ngoài Công giáo là tà đạo, là
mê tín dị đoan. điều này không đúng; ở một số tộc người thiểu số ở Việt Nam vào ngày
mùng 1 và mùng 2 tết họ tổ chức lên đồng để mừng ngày mới, đây cũng không phải là dị
đoan.
Hay trong Từ điển Tôn giáo do Mai Thanh Hải (Chủ biên) - Nhà xuất bản Từ điển
Bách khoa - Hà Nội 2003 có viết: Mê tín là tin nhảm, tin xằng bậy, không thấy, không hiểu
mà nhắm mắt tin theo mù quáng, tin theo một cách mê muội ….làm hại đến đời sống vật
chất và tinh thần của mọi người.
Cần phân biệt và nhận thức đúng vấn đề: Mê tín, dị đoan và mê tín dị đoan.
Thực chất của tín ngưỡng và tôn giáo là mê tín vì đều tin vào những điều không có thực,
nhưng bản chất của tín ngưỡng và tôn giáo là không có dị đoan.
Dị đoan: Là những điều quái lạ huyền hoặc do tin vào những điều nhảm nhí mà có
gọi là dị đoan (dị là khác thường; đoan là lắm mối, nhiều rắc rối, lắm vấn đề).
Tín ngưỡng và mê tín dị đoan có quan hệ chặt chẽ với nhau và giữa chúng là một
ranh giới mỏng manh. Chúng ta nên coi tín ngưỡng chỉ là niềm tin và sự ngưỡng mộ của
một người nào đó vào một hiện tượng, một lực lượng nào đó … mà thông thường được chỉ
một niềm tin tôn giáo. Theo nghĩa rộng, tín ngưỡng bao hàm cả tôn giáo; Theo nghĩa hẹp
tín ngưỡng là đức tin - là một bộ phận cấu thành của tôn giáo.
Dị đoan là hệ quả của mê tín, làm theo những điều quái dị không thật, không hợp lẽ
phải. Dị đoan là mức cao hơn của mê tín. Ví dụ: nghe theo lời “thánh phán” về đốt nhà,
uống nước tàn nhang, nước thải …dẫn đến thiệt hại về tài sản và sức khỏe. Cũng có thể từ
mê tín dị đoan dẫn đến hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo lạ, tà giáo.
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ
mê muội, cuồng tín với những hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa. Mê
tín dị đoan thường gây ra hậu quả tiêu cực đến đời sống xã hội. Hiện tượng mê tín dị đoan
thường gắn liền với các hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong các văn bản của đảng ta thì: Mê tín dị đoan là tin một cách mù quáng mê
muội vào những điều mơ hồ dẫn đến những hành vi gây hậu quả tiêu cực đến sức khỏe,
thời gian, tài sản, tính mạng cho cá nhân, gia đình, xã hội và cộng đồng.
* Tín ngưỡng thờ Mẫu
ở Việt Nam đa phần các nhà nghiên cứu tôn giáo cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là
một loại hình tín ngưỡng dân gian, đã thu hút khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau. Nội hàm của tín ngưỡng thờ Mẫu được dùng để
biểu thị sự tôn vinh, một nhân vật nào đó, hay có thể đồng nhất với việc thờ các vị nữ thần
hiển linh, được tôn phong là Mẫu như: Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu…
Tín ngưỡng thờ Mẫu còn được hiểu theo một nghĩa hẹp hơn đó chỉ là dạng hình
thức tín ngưỡng với tên gọi là Mẫu Tam phủ - Tứ phủ, hình thức thờ cúng những vị Mẫu
cai quản trong vũ trụ.
Vấn đề thờ Mẫu là loại hình gì ? Đã có nhiều câu trả lời khác nhau cho câu hỏi này.
Hiện nay, chưa có cách đánh giá thống nhất về thờ Mẫu nhưng cơ bản có bốn loại ư kiến
đánh giá về thờ Mẫu:
Loại thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Loại thứ hai: Xem thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian.
Loại thứ ba: Xem thờ Mẫu vừa là tín ngưỡng vừa là tập tục truyền thống.
Loại thứ tư: Xem thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách thức.
Sau đây, tác giả luận văn xin nêu ra một số quan niệm của các nhà khoa học và các
học giả trong nước về các quan điểm của bốn loại đánh giá thờ Mẫu đã nêu ở trên:
* Quan điểm thứ nhất: Xem thờ Mẫu đã và đang trở thành một tôn giáo sơ khai.
Có quan điểm cho rằng: “Đạo Mẫu trong quá trình nảy sinh, vận động và biến đổi
đã và đang chuyển hóa từ tín ngưỡng nguyên thủy để trở thành một tôn giáo sơ khai” [29,
tr.88].
Và nên khẳng định Đạo Mẫu: “Đã là một tôn giáo chứ không còn là một tín
ngưỡng, kiểu như thờ cúng tổ tiên trong gia đình hay thờ cúng anh hùng dân tộc tại một số
đền riêng lẻ. Đạo Mẫu đã có những hoạt động mang tính đặc trưng tôn giáo” [28, tr.502].
Hoặc: Nếu nhìn tục thờ Mẫu trong cội nguồn và quá trình phát triển có tác giả cho
rằng: “Về phương diện điện thần của Đạo Mẫu ta thấy bước đầu đã được hệ thống hóa,
tiến từ đa thần của tín ngưỡng nguyên thủy đến thần điện của tôn giáo, mà Mẫu giữ vị trí
trung tâm như Đức Phật hay chúa Jêsu” [42,tr.22].
Có lý do để có quan điểm như vậy, bởi vì thờ Mẫu đã từng hình thành một cộng
đồng các tín đồ với các thứ bậc khác nhau. Từ trước những năm 1975 ở Miền Nam đã từng
hình thành một cộng đồng mang tính giáo hội, mang tên Tiên Thiên Thánh Mẫu Giáo, tập
hợp các tín đồ toàn Miền Nam (nhưng sau năm 1975 tổ chức này không còn nữa). Còn ở
Miền Bắc, tuy hình thức thờ Mẫu có từ rất sớm nhưng cũng chỉ hạn chế trong phạm vi các đền,
phủ (Phủ Dầy, Đền Sòng, Phủ Tây Hồ) dù những nơi đó đã trở thành trung tâm thờ Mẫu.
* Quan điểm thứ hai: Xem thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian.
Có ý kiến cho rằng tín ngưỡng Mẫu ở nước ta là một tín ngưỡng và tác giả này viết:
“Về mặt tâm linh, cũng như quy mô tín đồ nó đầy đủ yếu tố một tôn giáo, nhưng nó lại
thiếu hẳn một triết thuyết để đủ sức trở thành một tôn giáo hoàn chỉnh [16, tr.276].
Khác với những quan điểm cho rằng thờ Mẫu có thể trở thành một tôn giáo sơ khai,
tác giả Nguyễn Hữu Thông lại có ý kiến là: Tín ngưỡng thờ Mẫu tuy là sản phẩm bản địa
chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình tôn giáo chính thống như Nho, Phật, Lão nhưng
các tôn giáo này đều đã bị dân gian hóa rồi mới bồi đắp vào tòa điện Mẫu. Và tác giả viết:
“ Hình tượng Mẫu hoàn toàn là sản phẩm của loại hình tín ngưỡng dân gian chứ không
phải là một tôn giáo chính thống. Xu thế biến Mẫu thành Tôn giáo chính thống như hiện
nay của một số cá nhân là việc làm trái qui luật, không đúng với tiến trình phát triển…"
[46, tr.53-54].
GS Đinh Gia Khánh cho rằng: “Thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc dân gian,
một tín ngưỡng bản địa, khác với các tôn giáo phổ quát” [22, tr.8].
* Quan điểm thứ ba: Xem thờ Mẫu là tín ngưỡng, là tập tục truyền thống.
Theo TS Trương Sĩ Hùng thì: “ Trường hợp tục thờ Mẫu ở Việt Nam biểu hiện rất rõ,
phát triển đến mức gần như một tôn giáo của người Kinh” [22, tr.78].
Tác giả Mai Thanh Hải với quan niệm thờ Mẫu là tục lệ. Tác giả viết: “Tục thờ
Mẫu có sức lan truyền mạnh tới mức nhiều nơi đã lan tỏa mạnh mẽ…” [15, tr.151].
* Quan điểm thứ tư: Coi thờ Mẫu là một Đạo nhưng “Đạo” là con đường, cách
thức chứ không theo nghĩa tôn giáo:
Nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đăng Duy khẳng định thờ Mẫu là một tín ngưỡng
và ông cho rằng: “ở đây cũng vẫn hiểu đạo thờ mẫu chưa phải là tôn giáo vì nó không có
tín điều giáo lý, giáo chủ, đạo là con đường, là cách theo” [7, tr.141].
Một số nhà nghiên cứu khác thì gọi là đạo Mẫu. “đạo” ở đây không có nghĩa là một
tôn giáo như đạo Kitô, đạo Phật, đạo Ixlam, mà phải hiểu như là đạo làm con, đạo làm
người, đạo hiếu…. Trong cuốn “tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” tác giả
Ngô Đức Thịnh viết: “trong công trình này, đây đó chúng tôi sử dụng thuật ngữ “đạo” như
đạo Mẫu, đạo tổ tiên… khái niệm đạo ở đây theo ý nghĩa là “con đường”, “cách thức” đưa
con người đạt tới niềm tin vào cái thiêng liêng, siêu nhiên” [44, tr.17].
Theo quan điểm của tác giả và quan niệm truyền thống, khá phổ biến thì thờ Mẫu vẫn
được coi là một tín ngưỡng dân gian với những lý do cơ bản sau:
Một là, thờ Mẫu được hình thành trong chế độ mẫu hệ, nó bắt nguồn từ thờ nữ thần.
Hai là, thờ Mẫu thiếu những tiêu chí cơ bản để cấu thành một tôn giáo như sáng thế
luận, giáo luật, giáo lý, giáo hội, hệ thống tổ chức….theo nghĩa đầy đủ của nó.
Ba là, trong thờ Mẫu yếu tố niềm tin còn dựa vào sự cảm nhận của chủ thể, chưa
mang tính hệ thống.
Bốn là, trong các văn bản pháp luật của Nhà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chỉ thừa nhận có 6 tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là: Phật giáo, Công giáo, Hồi giáo,
đạo Tin Lành, đạo Hòa Hảo, đạo Cao đài.
Với bốn lý do trên, trong luận văn này tác giả xin sử dụng thuật ngữ “tín ngưỡng
thờ Mẫu”.
“Mẫu” là xuất phát từ Hán-Việt, còn thuần Việt là Mẹ, Mụ. Nghĩa ban đầu Mẫu
(mẹ) đều chỉ người phụ nữ sinh ra con. Mẫu (mẹ) còn có ý nghĩa tôn vinh, tôn xưng như
Mẫu nghi thiên hạ, Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn…
Vậy có thể hiểu: Tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ nữ thần(nhưng không phải tất cả nữ thần đều là Mẫu),là một bộ phận của ý thức
xã hội, được hình thành từ chế độ thị tộc mẫu hệ, để tôn vinh những người phụ nữ có công với
nước, với cộng đồng tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hoá, đạo đức xã hội
làm Thánh mẫu, Vương mẫu… và qua đó người ta gửi gắm niềm tin vào sự che chở, giúp đỡ
của các lực lượng siêu nhiên thuộc nữ thần.
1.1.2. Nguồn gốc hình thành và các loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng
Bắc bộ
1.1.2.1. Nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ
Tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu nói riêng cũng ra đời từ
nguồn gốc kinh tế-xã hội, nhận thức và tâm lý tình cảm.
Theo quan điểm Mác-xít thì tín ngưỡng, tôn giáo là một hiện tượng lịch sử xã hội,
là một bộ phận của ý thức xã hội. Cho nên, nó có quy luật hình thành, tồn tại và phát triển
riêng, được nảy sinh trên cơ sở kinh tế-xã hội nhất định, chịu sự quy định của tồn tại xã
hội.
Chúng ta đã biết cho đến thời trung kỳ đồ đá cũ mới bắt đầu xuất hiện nghi lễ mai
táng người chết của người Neandectan và lúc này mầm mống của tôn giáo cũng xuất hiện
và nó chỉ xuất hiện khi con người bắt đầu biết quan sát. Thời kỳ này, ý thức về tổ tiên là
một yếu tố của ý thức công xã nguyên thủy, phản ánh sự bất lực của con người trước sức
mạnh của tự nhiên. “Từ đó nảy sinh ra hàng loạt các hình thái đặc biệt của tôn giáo nguyên
thủy như sùng bái tự nhiên, ma thuật, chủ nghĩa tô tem” [4, tr.8].
Trong xã hội nguyên thủy, con người cũng biết tạc tượng bằng nhiều chất liệu khác
nhau như sừng, ngà voi… chủ đề của tượng cũng rất đa dạng từ những con vật thân thuộc
hàng ngày đến con người và “đặc biệt là tượng phụ nữ-tượng trưng cho sự bảo tồn và phát
triển của thị tộc và của giống nòi” [4, tr.10].
ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con người về thế giới khách
quan là có giới hạn. Song ở thời kỳ lịch sử cụ thể thì khoảng cách giữa “biết” và “chưa
biết” vẫn tồn tại. Nhận thức là một quá trình phức tạp và đầy mâu thuẫn. Theo Lênin :
“Nhận thức phát triển theo đường xoắn trôn ốc, đường ngoằn nghèo. Bất cứ một sự xơ
cứng phiến diện, thẳng tuột nào cũng có thể dẫn đến chủ nghĩa duy tâm [32, tr.57].
Sự phát triển của trình độ nhận thức, trình độ tư duy của người nguyên thủy nên con
người mới có ý thức về thế giới xung quanh. Chúng ta biết rằng, không phải ngay khi con
người xuất hiện thì tín ngưỡng cũng xuất hiện, ngược lại tín ngưỡng chỉ ra đời trong một
hoàn cảnh lịch sử nhất định, khi mà khả năng trừu tượng hóa của con người đạt đến một
trình độ nhất định, trình độ sản xuất đạt tới mức nào đó và khái niệm “Sợ”có từ khi con
người biết sấm, sét, lũ lụt, hạn hán…
Sự thờ cúng của thị tộc mẫu hệ ở các bộ lạc Bắc Mỹ còn thể hiện ở bộ lạc người
Xerin theo Tôcarev: “Với chế độ mẫu quyền thể hiện rất rõ nét, có thể thấy được một vài
yếu tố của sự thờ cúng các phụ nữ đã chết, nói cho đúng hơn là sự sợ hãi trước các phụ nữ
đã chết đó ” [47, tr.297].
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng được sinh ra trong một thời kỳ hết sức nguyên thủy,
nó bắt nguồn từ trong thị tộc mẫu hệ và là sản phẩm của sự kết hợp giữa: ý niệm về linh
hồn người chết, thần che chở cho gia đình và thị tộc (đặc biệt là hình ảnh phụ nữ) và tổ tiên
tôtem.
Ngoài ra, tâm lý và tình cảm của con người cũng là một trong những nguyên nhân
cho sự ra đời hình thức tín ngưỡng. Xét dưới góc độ triết học thì tâm lý, tình cảm là một bộ
phận của ý thức xã hội; tín ngưỡng, tôn giáo được hình thành trên cơ sở của tâm lý, tình
cảm con người và cộng đồng người trong xã hội. Con người luôn tự hỏi về nguồn gốc của
mọi sự vật, hiện tượng cũng như số phận của con người. Về những vấn đề này thì đôi khi
những giải đáp khoa học hay triết học chưa đủ thỏa mãn, trong tình hình đó thì tín ngưỡng,
tôn giáo lại có thể đem lại cho con người một lời giải thích không chính xác, nhưng có sức
hấp dẫn, thuyết phục bởi nó có tính huyền bí, tính lôgíc của nó.
Tín ngưỡng, tôn giáo hình thành trên cơ sở niềm tin vào những sức mạnh siêu
nhiên, sự che chở…của các thần, thánh…. Xét về mặt tư duy lôgíc của lý trí thì niềm tin ấy
là phi lý, song lại có lý vì nó bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng của con người.
Con người có nhu cầu là được tâm sự, giải tỏa những bức xúc trong đời sống tinh
thần và luôn có nhu cầu vươn tới một cuộc sống tốt đẹp. Vì thế, họ cần rất nhiều thứ ngoài
vật chất, lý trí, đạo lý truyền thống…đó là sự thiêng liêng, “bù đắp hư ảo”. Điều đó chỉ có
ở tín ngưỡng, tôn giáo.
Chúng ta phải nghiên cứu đến một khía cạnh tâm lý khác của con người đó là lòng
biết ơn đến công sinh thành, sự kính trọng, tình yêu thương… đó chính là điều mà chế độ
mẫu hệ tồn tại dai dẳng trong đời sống các dân tộc, hay bắt nguồn từ hình tượng tôn thờ
giới nữ, phản ánh vai trò của người mẹ, người mẹ là biểu tượng cho sự bảo tồn sinh sôi
giống nòi.
Trên đây là một số nguyên nhân để dẫn đến sự ra đời của một hình thức tín ngưỡng
nói chung, còn tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc bộ thì ra đời trong một hoàn cảnh,
điều kiện mang đặc thù riêng.
Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa và: “ có thể là tín
ngưỡng sớm nhất của con người Việt trước khi du nhập tam giáo Phật, Nho và Đạo” [15,
tr.145].
Cho tới nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta chưa biết chính xác có từ khi nào,
nhưng có ý kiến cho rằng: “ Người ta tin mẹ thần linh này đã xuất hiện từ buổi hồng hoang
hay ít nhất là từ lúc người Việt khai thác đồng bằng Bắc bộ [40, tr.100].
Có thể nhận định tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt xuất hiện vào khoảng thế kỷ
thứ III hoặc thứ II trước công nguyên. Bởi vì Phật giáo là tôn giáo nước ngoài đưa vào
Việt Nam sớm nhất, có tác giả đã viết: “có tài liệu nói đạo Phật vào ta khoảng thế kỷ thứ
III trước công nguyên, dưới thời vua A-Dục” [14, tr.141].
Ngoài ra, theo TS. Trần Đăng Sinh thì: “Đến thế kỷ thứ III, II trước công nguyên
đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng (vùng Đông Anh- Hà Nội và Từ Sơn - Bắc Ninh) đã là
địa bàn chung sống của người Âu Việt và Lạc Việt ” [36, tr.63].
Tín ngưỡng thờ Mẫu ra đời ở Việt Nam còn xuất phát từ nền văn minh nông
nghiệp lúa nước điển hình, thờ Mẫu nảy nở trên một miền đất nhiều đời trồng cây lúa
nước. Đối với dân cư nông nghiệp thì hình ảnh người mẹ từ việc hái lượm đã tìm ra hạt lúa
để từ đó trở thành hồn lúa như một tác giả đã nhận xét: “Trong các loại cây trồng, lúa là
cây duy nhất trong thời kỳ làm đòng được các tộc người ở Đông Dương gọi là có chửa
(Việt) = bun(cơ ho) = mtian(Giarai) như người mẹ; là cây duy nhất được coi có hồn (Việt)
= soan(Cơho)…” [13, tr.196].
Cuộc sống nông nghiệp luôn coi trọng yếu tố Đất(Mẹ) - yếu tố âm và đối lập với
yếu tố Trời (Cha)- yếu tố dương. Vì thế, trong tâm thức tín ngưỡng của người dân vai trò
bà mẹ- yếu tố nữ đã tạo nên ấn tượng sâu nặng trong nhân dân. Cũng chính từ đây, nữ thần
Mẹ Lúa là tín ngưỡng chung của hầu hết dân cư các tộc người trồng lúa nước mà ngày nay
vẫn còn thấy tồn tại ở nhiều tộc người thiểu số miền núi nước ta.
Người và vạn vật sinh sôi nảy nở thì khái niệm Trời - Đất, Âm - Dương được hình
thành trong tư duy nguyên thủy thô sơ. ở Việt Nam cũng biểu hiện khá rõ niềm tin “Vạn
vật hữu linh” của chính họ. Vì vậy, “ Các thần trời, thần núi, thần sông…xuất hiện khá
sớm và ngự trị trong đời sống tâm linh của hầu hết các tộc người” [21, tr.77].
Việt Nam là một quốc gia nằm ở vùng Đông Nam á, có đồi núi, đồng bằng, có sông
có biển, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm… Vì vậy có điều kiện để nông nghiệp lúa
nước được phát triển, khái niệm Đất, Nước được định hướng và gắn chặt với nữ thần (mẹ),
với tộc người, với quê hương xứ sở.
Tín ngưỡng thờ “mẹ” bắt nguồn từ thời kỳ Mẫu hệ, nhưng ở Việt Nam nói chung và
ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng, người phụ nữ có vị trí đặc biệt hơn so với các nơi khác.
Người phụ nữ đảm nhận hầu hết những công việc từ nội trợ, chăm lo việc cấy hái trong
công việc đồng áng lại kiêm luôn là người tiểu thương chạy chợ lo cung -tiêu cho gia
đình… Cũng chính từ nơi này, để khai thác triệt để tính đa dạng của địa hình và môi
trường sinh thái, người dân ở vùng đồng bằng Bắc bộ ngoài việc sản xuất nông nghiệp là
chính, còn biết làm những ngành nghề kinh tế khác. Từ rất sớm, ở đồng bằng Bắc bộ đã ra
đời những làng nghề truyền thống và cũng chính nhờ đó xuất hiện các mẹ là tổ sư các
ngành nghề.
đồng bằng Bắc bộ là một trong những vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc trong sự
phong phú và đa dạng của nền văn hóa Việt Nam. Nó được kiến tạo bởi hệ thống sông
Hồng và sông Thái Bình bao gồm phần bằng, phần trũng của các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải
Dương, Hà Tây, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Ninh Bình, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Quảng Ninh và Vĩnh phúc.
Người Việt xưa kia sống nhờ vào thiên nhiên rất nhiều, nhưng cũng phải chống
chọi nhiều với thiên nhiên. Do đó, con người luôn cầu mong sự phù hộ, giúp đỡ của các
“Mẹ” thiên nhiên và các Mẫu có nguồn gốc nhiên thần cũng lần lượt ra đời.
Với Mẫu Thoải (mẹ của lực lượng sáng tạo ra mọi sông nước) có rất nhiều dị bản
huyền tích về Mẫu Thoải khác nhau. Nhưng tựu chung đó là “Mẫu” trị vì sông nước, xuất
thân từ dòng dõi Long Vương - Thần Long.
Các huyền thoại, sự tích về Mẫu Thoải đến nay chưa được rõ ràng vì mỗi nơi hiểu
theo một cách. Tuy nhiên, lại có những điểm chung cơ bản. Mẫu Thoải có nguồn gốc thủy
thần, ít nhiều gắn với Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương, Kinh Xuyên là những nhân vật
nửa huyền thoại, nửa lịch sử là thủy tổ tộc người Việt chúng ta. Hiện nay, tại Tuyên Quang
người dân đã: “Suy tôn bà là Mẫu Thoải (Mẹ nước), lập đền thờ ở Tuyên Quang gọi là đền
Giùm, nay thuộc Yên Sơn, trên hữu ngạn sông Lô” [35, tr.122].
Mẫu Thượng Ngàn cũng có nhiều dị bản và truyền thuyết khác nhau, nhưng tựu
chung lại thì Mẫu Thượng Ngàn là con hay cháu Vua Hùng và đã được hiển thánh làm vị
thần bảo hộ cho núi rừng, bản làng. Mẫu Thượng Ngàn là hóa thân của Thánh Mẫu trông
coi miền rừng núi, địa bàn chính sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, đền thờ Mẫu
Thượng Ngàn có ở khắp nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là suối Mỡ (Bắc Giang) và
Bắc Lệ (Lạng Sơn).
Như vậy, các Mẫu được nhập vào một số nhân vật ít nhiều gắn bó với các nhân vật
nửa lịch sử, nửa huyền thoại của lịch sử dân tộc buổi đầu dựng nước và giữ nước, để các
Mẫu có tiểu sử. Mẫu Thượng Thiên-cai quản lực lượng sáng tạo ra miền trời, chủ của mọi
vòng quay thời gian, thời tiết và khí hậu theo mùa và ở trên tận trời xanh nên ít được nhắc
đến. Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải thì được lịch sử hóa, truyền thuyết hóa với nhiều dị
bản khác nhau và “Các quan niệm xô bồ lẫn lộn trong dân gian là bình thường, không lấy
gì làm lạ [23, tr. 89].
Xuất phát từ những truyền thuyết trên thì Mẫu Thoải ra đời sớm hơn Mẫu Thượng
Ngàn. Bởi vì, Mẫu Thượng Ngàn gắn với thời Hùng Vương(là con trai của Lạc Long Quân
và là cháu của Kinh Dương Vương), còn Mẫu Thoải thì gắn với thời Kinh Dương Vương,
Lạc Long Quân.
Đại Việt sử ký toàn thư có viết: “ Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình
Quân tên là Thần Long, sinh ra Lạc Long Quân” [12, tr.62].
Có một tài liệu viết về ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất nước ta là:
Ngôi đền cổ nhất nước ta phải chăng là đền thờ Mẫu, thường gọi là đền
Tiên ở ngã ba Hạc, nơi hợp lưu ba dòng sông Hồng - Lô - Đà, theo truyền thuyết
là nơi Kinh Dương Vương lập nước Hùng, chọn xây Tiên Cát Cung cho Thứ phi
Ngọc Nương ở. Khi bà hóa, biến thành đền thờ “ Thủy tổ Quốc mẫu Thần Long
Hồng Đăng ”, tự là Thanh Minh, húy là Ngàn, hiệu là Từ Phú, mẫu là hoàng hậu
nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ vua Lạc Long Quân, hàng năm
giỗ ngày 10 tháng 10 [15, tr.155-156].
Ngôi đền có thể là ngôi đền thờ Mẫu cổ nhất, được tác giả Mai Thanh Hải tìm hiểu
và ghi nhận là: “Năm 1949, đền bị súng đạn quân Pháp tàn phá; năm 1965-1966, bom Mỹ
lại hủy nốt móng nền di tích. Cho đến nay đã cơ bản dựng lại đền ở ngã ba sông Hồng đón
sông Lô chảy xuôi…” [15, tr.156].
Dựa vào các tài liệu trên, mặc dù tác giả luận văn chưa có điều kiện đi khảo sát thực tế
ngôi đền, nhưng có thể tạm đưa ra một nhận xét là: Rất có thể ngôi đền cổ nhất mà nhà nghiên
cứu Mai Thanh Hải viết trên là đền thờ Mẫu Thoải.
Có thể nói rằng, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn là khởi nguồn cho tín ngưỡng
thờ Mẫu sau này, gắn với con người từ khi còn cư trú ở vùng rừng núi. Tác giả Nguyễn
Đăng Duy cho rằng: “Những ngôi đền, miếu thờ mẫu này thường ở ngã ba sông hoặc dọc
ven sông, trên con đường di chuyển dần xuống trung du đồng bằng” [7, tr.133].
Mẫu Địa ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, có những quan điểm và cách giải thích khác
nhau. Nhưng theo quan niệm trong dân gian, quan điểm của một số nhà nghiên cứu và tác
giả luận văn thì: Mẫu Địa - Mẫu Đệ tứ, “do quyền năng của Mẫu địa cực kỳ to lớn bao
trùm, bàng bạc khắp tất cả núi rừng sông biển, nên sự tồn tại của cõi Thượng Ngàn, Thủy
Phủ thì đã hàm chứa luôn cả phủ địa” [46, tr.111].
Mẫu Địa có những quyền năng to lớn. Đất là nguồn sinh nở bất tận, nó gắn liền với
nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Đối với con người từ xa xưa cho đến tận ngày nay,
đất sản xuất ra các hình thái sinh sống và cũng chính đất là nơi gửi người chết vào khi an
nghỉ …Chính vì thế Mẫu Địa đương nhiên tồn tại trong vũ trụ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh thường được đồng nhất với Mẫu địa- địa Tiên Thánh Mẫu vì
cốt lõi ban đầu, những yếu tố cơ bản của địa Tiên Thánh Mẫu là người trần lấy vợ tiên.
Trong tâm thức người dân Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là:
“Mẫu Thượng Thiên” - Mẹ ở trên trời giáng xuống,
“ Mẫu nghi thiên hạ” - Mẹ của muôn dân,
“Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian (Mẫu Liễu Hạnh, Phù Đổng Thiên Vương,
Chử Đổng Tử và Thánh Tản Viên).
Khi Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, không rõ từ khi nào đã trở thành một vị thần chủ đạo
của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ. “Phủ” trong tín ngưỡng thờ Mẫu mang ý nghĩa rộng và
bao quát, nó ứng với các miền khác nhau trong vũ trụ. Tuy là ra đời sau nhưng Mẫu Liễu
Hạnh lại thường được đặt vào vị trí trang trọng nhất trên ban thờ Mẫu Tứ phủ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện đã có nhiều truyền thuyết khác nhau, bà có thể vừa
là Thiên thần (Tiên) vừa là Nhân thần đối với đời sống trần gian, với cha mẹ, chồng con,
chu du khắp nơi, trừ ác, ban lộc…Mẫu Liễu Hạnh có thể biến thành Mẫu Thiên, có lúc lại
đồng nhất với Mẫu Địa và Mẫu Thoải.
Có nhiều truyền thuyết khác nhau về Mẫu Liễu Hạnh nhưng đa phần cho rằng: Mẫu
Liễu Hạnh vốn là công chúa Quỳnh Hoa bị phạm lỗi do đánh vỡ chén ngọc của Ngọc
Hoàng Thượng Đế, và bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian và đầu thai vào nhà vợ chồng
Lê Thái Công ở Làng An Thái, xã Vân Cát huyện Thiên Bản (nay là Vụ Bản) Nam Định.
Tác giả Nguyễn Duy Hinh với tư cách là nhà nghiên cứu về Đạo Giáo khi nghiên cứu
về Mẫu Liễu Hạnh, Ông cho rằng Mẫu Liễu Hạnh: “ Không phải giáng tiên, không phải trích
tiên, không phải thi tiên mà là Mẫu chăn dắt đàn con” [20, tr.738].
Theo dấu ấn của Đạo giáo thì du tiên và giáng tiên không phải là đầu thai mang xác
người nên không nằm trong Đạo giáo mà chỉ có trích tiên nằm trong dấu ấn của Đạo giáo.
Hiện nay, ở đồng bằng Bắc bộ Mẫu Liễu Hạnh (Vân Cát thần nữ) là nhân vật linh
thiêng, phổ biến của tín ngưỡng thờ Mẫu. Nhiều khi được xếp đứng đầu và là biến thể cao
nhất trong tín ngưỡng “Tam phủ - Tứ phủ”
Mẫu Liễu Hạnh ra đời là sản phẩm của xã hội lịch sử Việt nam, cụ thể hơn đó là
giai đoạn phong kiến Việt Nam thời Lê. Thực tế lịch sử của đất nước khi Mẫu Liễu Hạnh
được sinh ra là: ở đất Vụ Bản giữa không gian các thế lực phong kiến thời Lê (Thanh
Hóa), Trần (Nam Định) mà Mẫu đầu thai sinh vào nhà họ Lê lấy chồng họ Trần, phải
chăng đó là tập hợp sức mạnh oai hùng Trần thắng Nguyên, Lê thắng Minh, mà cũng là
Phật giáo thời nhà Trần còn Nho giáo thời nhà Lê. Tại sao Mẫu Liễu Hạnh lại xuất hiện
trong bối cảnh có lúc xã hội thanh bình có khi loạn lạc, các thế lực phong kiến Lê-Mạc,
Trịnh-Nguyễn phân tranh…
Có thể nói Mẫu Liễu Hạnh ra đời đã làm hoàn chỉnh hệ thống thờ Tam phủ - Tứ
phủ và thể hiện đầy đủ triết lý thờ Mẫu, triết lý theo vũ trụ quan phương Đông.