LUẬN VĂN:
Internet với đời sống văn hóa của
nhân dân Thủ đô
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong những năm gần đây, đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội Việt Nam
ngày càng được phát triển một cách toàn diện. Đặc biệt, sự phát triển đó gắn chặt với sự
phát triển của ngành Bưu chính - Viễn thông, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò
then chốt. Sự phát triển mạnh mẽ của mạng điện thoại (PSTN), điện thoại di động
(GSM), mạng truyền số liệu (DATA), mạng internet không chỉ góp phần xây dựng nền
kinh tế đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng mà còn là hạ tầng kinh tế kỹ thuật để góp
phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của
công nghệ thông tin đối với đời sống văn hóa là vô cùng quan trọng. Trong đời sống văn
hóa, thông tin đóng vai trò như một động lực thúc đẩy sự phát triển ở cả hai lĩnh vực: Vật
chất và tinh thần bởi tính ứng dụng của nó. Điều này càng được nhìn nhận rõ hơn trong
bối cảnh có sự phát triển kinh tế đối ngoại, xu thế quốc tế hóa kinh tế và toàn cầu hóa.
Xét như vậy, muốn đánh giá sự phát triển văn hóa của một quốc gia hiện nay thì
không thể không nhìn nhận nó trong và dưới sự tác động của công nghệ thông tin trong
đó quan trọng hơn cả là thông tin trên internet bởi tính nhanh nhạy, tính toàn cầu cùng
với những ứng dụng tiện lợi và kho tàng tri thức kỳ diệu mà dịch vụ internet mang đến
cho người sử dụng.
1.2. Tại Việt Nam, việc phổ cập internet đến từng người dân đang là mục tiêu của
chính phủ. Năm 2003, Bộ Bưu chính - Viễn thông đã quyết tâm lấy internet kích cầu
công nghệ thông tin. Tổng công ty Bưu chính - Viễn thông Việt Nam đã xây dựng dự án
"internet cộng đồng" nhằm đưa internet đến hơn 10.000 điểm Bưu điện - văn hóa xã hoặc
các cơ sở tương đương, hơn 600 Trung tâm văn hóa quận huyện, tỉnh, hơn 800 trường
Đại học, Cao đẳng, Trung học và phổ thông, 130 bệnh viện lớn và trọng điểm nhằm
xây dựng một cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
1.3. Như vậy, vấn đề đặt ra cho những người làm quản lý văn hóa là sẽ phải xác
định được vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam. Trực tiếp đối
mặt với những ảnh hưởng của sự phát triển internet ở Việt Nam. Kinh tế nào thì văn hóa
ấy, song một khi kinh tế phát triển nhanh đi trước quá xa so với văn hóa thì sẽ gặp phải
những bất cập. Vậy sự nhận thức của người Việt Nam sử dụng internet như thế nào, cần
điều chỉnh, giáo dục hướng dẫn những gì khi internet - một sản phẩm văn minh của nhân
loại còn là một dịch vụ mới mẻ đối với người Việt Nam. Đây là những vấn đề được
Chính phủ và các nhà cung cấp đang quan tâm, đặc biệt với những nhà văn hóa thì đây
cũng là một thách thức trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Việc nghiên cứu những ảnh hưởng của internet đối với đời sống văn hóa của
người Việt Nam sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn khách quan hơn sự phát triển của văn
hóa nước nhà trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
1.4. Theo con số thống kê chính thức của Bộ Bưu chính - Viễn thông thì 86% số
người truy cập internet hàng ngày ở Việt Nam tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, Hà Nội là một trong hai địa bàn chính có số người
truy nhập internet cao hiện nay và là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của cả nước
nên người viết mạnh dạn chọn đề tài: "Internet với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ
đô" làm luận văn Thạc sĩ khoa học, chuyên ngành Văn hóa học cho mình.
Đề tài này tập trung nghiên cứu về sự ảnh hưởng của internet với đời sống văn
hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tầng lớp học sinh,
sinh viên, các cán bộ nghiên cứu, những nhà quản lý. Ngoài ra, đề tài cũng phân tích
những hệ quả của sự phát triển mạng internet ở Việt Nam nhằm giúp cho người sử dụng
dịch vụ internet có cách đánh giá và tiếp thu nền văn hóa, văn minh của nhân loại một
cách có chọn lọc trước những thông tin mà dịch vụ này mang lại.
2. Tình hình nghiên cứu và sưu tầm
2.1. Về nghiên cứu
Dịch vụ internet là sản phẩm văn minh của thời đại, mới được chính thức sử dụng
ở Việt Nam từ năm 1997. Tuy vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, các
nhà khoa học viết về lĩnh vực này, tuy nhiên đó chỉ là những công trình khoa học đi sâu
nghiên cứu về kỹ thuật và học thuật, về cấu trúc mạng hay công nghệ công cụ xây dựng,
hướng dẫn cách truy cập, khai thác Đứng trên quan điểm xã hội học đã có một vài công
trình của các tác giả là giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả
Trần Hữu Quang trong cuốn sách "Chân dung công chúng truyền thông" cũng đi sâu phân
tích mối quan hệ đa chiều giữa truyền thông đại chúng và những người tiếp nhận nhưng
tác giả chưa đề cập gì đến internet - một loại truyền thông mới. Viết về internet, tác giả
Phạm Thị Thanh Tâm đưa ra cái nhìn thực tế hơn về những khó khăn mà chúng ta thực
sự phải đối đầu khi bước vào xa lộ thông tin với internet. Đó chính là vấn đề mới mẻ đòi
hỏi các nhà quản lý cần quan tâm giải quyết. Một số khảo sát của sinh viên khoa Xã hội
học - Phân viện Báo chí và Tuyên truyền về "Mức độ hài lòng về việc truy cập internet
trong sinh viên" cũng cho thấy được nhu cầu của lớp tri thức trẻ về internet. Năm 2001
một cuộc hội thảo quốc tế mang chủ đề "Trẻ em trên mạng internet" (Kid - on line) được tổ
chức tại Hà Nội, báo cáo dự hội nghị là những nghiên cứu về tình hình sử dụng internet
của trẻ em cùng những vấn đề có liên quan ở các nước châu á. Tham dự hội thảo này,
Việt Nam có hai báo cáo xã hội học, đó là "Một nghiên cứu thử nghiệm về trẻ em và các
trò chơi điện tử ở Việt Nam" (An exploratory study of children and electronic games in
Vietnam) của Nguyễn Quý Thanh và Nguyễn Quý Nghi; "Nghiên cứu ảnh hưởng của
internet đến trẻ em, trường hợp Hà Nội" (Stealing access - a case study in Hanoi). Các
nghiên cứu trên mới là những nghiên cứu thực địa cho chúng ta thấy tình hình sử dụng
internet rất hiếm hoi của trẻ em lúc bấy giờ, khi mà internet chưa phổ biến và thực sự
"bùng phát". Tháng 3 năm 2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông
tin và IDG World expo đã tổ chức hội thảo quốc tế về công nghệ thông tin và truyền
thông trong giáo dục ở Việt Nam. Bên cạnh các chủ đề mang tính bao quát như: Đề án
mạng giáo dục Edunet, giải pháp học qua mạng thế hệ tiếp theo, đào tạo qua mạng, E-
learning- đào tạo trực tuyến hội thảo còn là nơi trao đổi những vấn đề cụ thể liên quan
đến các phòng ban, sở giáo dục và các giáo viên tuy nhiên, hội thảo chưa hề đề cập đến
những mặt trái của internet khi đưa vào giáo dục.
Trong cái nhìn tổng quan về nhu cầu giải trí của thanh niên Việt Nam hiện nay,
cuốn "Nhu cầu giải trí của thanh niên" xuất bản năm 2003 của tác giả Đinh Thị Vân Chi
đã phân tích khá tỷ mỷ và nêu ra một số ảnh hưởng của internet đối với thanh niên ở một số
thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Tác giả đã đề cập đến một số mặt tích cực và mặt trái
của internet. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo rất bổ ích cho người thực hiện đề tài này.
1.2. Về sưu tầm
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
* Những văn bản, quyết định của chính phủ về việc chính thức kết nối internet tại
Việt Nam, bao gồm:
- Hướng dẫn kết nối, sử dụng internet tại Việt Nam.
- Quyết định số 136/TTg ngày 5 tháng 3 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam - Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về một số chính sách, biện pháp khuyến khích, đầu tư và phát triển công
nghệ phần mềm.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt kế hoạch phát triển internet
Việt Nam giai đoạn 2001- 2005 về quản lý, cung cấp và sử dụng internet.
- Nghị định 55/2001/NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet tại
Việt Nam.
* Những văn bản, quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện về phát triển
internet ở Việt Nam. Các tạp chí của ngành Bưu chính - Viễn thông các số từ năm 1996
đến tháng 8/2004.
* Tổng hợp "Tin nhanh" của Trung tâm Thông tin Bưu điện - Tổng công ty Bưu
chính - Viễn thông Việt Nam (tài liệu lưu hành nội bộ phát hành hàng tuần vào sáng thứ
sáu).
* Tham khảo các tài liệu về internet, thương mại điện tử của Học viện Công nghệ
Bưu chính - Viễn thông.
* Tham khảo các phóng sự, bài viết về internet trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Trực tiếp khảo sát trên internet và những người sử dụng internet tại một số cơ
quan và các điểm dịch vụ công cộng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa và thực trạng sử dụng
internet, những ảnh hưởng của việc sử dụng internet tới đời sống văn hóa của người dân
Thủ đô. Đề tài đưa ra một số dự báo, xu hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của việc sử dụng internet trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm văn hóa, đời sống văn hóa, internet, những ứng dụng của
internet trong đời sống xã hội.
- Phân tích thực trạng của internet và vai trò và ảnh hưởng của internet trong đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
- Dự báo xu hướng và những định hướng lớn về sự phát triển của internet ở Hà
Nội.
- Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần phát huy những mặt tích cực
của công nghệ thông tin nói chung và dịch vụ internet nói riêng vào việc nâng cao đời
sống văn hóa của người dân Thủ đô Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sự hình thành và phát triển của mạng internet ở Việt Nam;
- Vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt Nam;
- Thực trạng tình hình sử dụng internet ở Thủ đô Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa trong khai thác mạng internet ở Thủ đô Hà Nội. Đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu vào bốn nhóm xã hội chính, gồm học sinh sinh viên, cán bộ làm công tác nghiên
cứu và giảng dạy, cán bộ làm công tác quản lý và nhóm cán bộ, công nhân, viên chức trong
thời gian gần đây (từ 1998 đến nay).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Trên quan điểm duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nắm vững các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển khoa học kỹ thuật mà trong đó công nghệ
thông tin là một ngành then chốt.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành; văn hóa học - xã hội học.
- Phương pháp xã hội học và điền dã để tìm hiểu, thống kê thực trạng truy cập
internet ở Hà Nội.
- Trực tiếp khai thác, khảo sát trực tuyến trên mạng nhằm so sánh, tổng hợp và
tìm hiểu các vấn đề đã được xác định trên cơ sở các nguồn tư liệu đã thu thập để thực
hiện mục tiêu đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của internet trong đời sống văn hóa của người Việt
Nam nói chung và nhân dân Thủ đô nói riêng.
- Phân tích tương đối có hệ thống những ảnh hưởng của sự phát triển mạng
internet đối với đời sống văn hóa của nhân dân Thủ đô Hà Nội.
- Đưa ra một số dự báo, kiến nghị và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Là tài liệu tham khảo đối với các nhà hoạch định chính sách, từ đó có thể đưa ra
những phương hướng để có thể khai thác triệt để những mặt tích cực, giảm thiểu những
tiêu cực do một số phần tử phản động lạm dụng mạng internet để tuyên truyền.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Internet - một nhân tố mới trong đời sống văn hóa hiện nay
Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng internet ở Hà Nội
Chương 3: Dự báo xu hướng và một số giải pháp nhằm góp phần phát huy hiệu
quả của việc sử dụng internet trong đời sống văn hóa của người dân Thủ đô.
Chương 1
internet - một nhân tố mới
trong đời sống văn hóa hiện nay
1.1. một số khái niệm then chốt
1.1.1. Văn hóa
Khái niệm "văn hóa" từ lâu đã được giới nghiên cứu quan tâm xác định nội hàm
từ nhiều phương diện khác nhau. Xét một cách tổng quát, văn hóa thể hiện bản chất năng
lực của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và với chính bản thân
mình, văn hóa gắn liền với hoạt động sống của cá nhân và của cộng đồng. Văn hóa là dấu
hiệu phân biệt đặc trưng và trình độ của loài người, như vậy, văn hóa phản ánh các mặt
trong hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Từ sinh hoạt, ăn, mặc, ở, đi lại đến các hoạt
động chính trị, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, lối sống, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng ở đâu có hoạt động sống của con người là ở đó có sự can thiệp và định hướng
của nhân tố văn hóa.
Theo W. Ostawald thì: Chúng ta gọi những gì phân biệt con người với động vật
là "văn hóa" [6].
Theo Abrraham Moles, một nhà văn hóa học Pháp thì: Văn hóa là chiều cạnh trí
tuệ của môi trường nhân đạo do con người xây dựng nên trong tiến trình đời sống xã hội
của mình [6].
Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng: Văn hóa là hệ thống ứng xử của con người với
thiên nhiên và xã hội, trong hoạt động sinh tồn và phát triển của mình. Nói khác đi, văn
hóa là sản phẩm hoạt động của con người trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và
xã hội diễn ra trong không gian, thời gian và hoàn cảnh nhất định [6].
Năm 1988, khi phát động thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa, Tổng Giám đốc
UNESCO - Federico Mayro, đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: Văn hóa là tổng thể sống
động của các hoạt động trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc [8].
Khái niệm "văn hóa" được đề cập đến trong luận văn này mang một ngoại diên
rất rộng, nghĩa là bất cứ cái gì do con người làm ra đều hàm chứa thuộc tính văn hóa, nó
gồm tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm phục vụ cho
sự tiến bộ của con người mà sản phẩm sáng tạo cụ thể đó chính là internet - sản phẩm của
thời đại văn minh công nghiệp, của công nghệ thông tin. Bản chất đặc trưng của văn hóa
chính là sự sáng tạo vươn tới giá trị nhân văn, khẳng định chất lượng của đời sống, trong
đó là chất lượng sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Internet được nghiên cứu trong
luận văn này với ý nghĩa vừa là một sản phẩm văn minh công nghiệp, vừa là một giá trị
văn hóa đánh dấu sự sáng tạo của nhân loại.
1.1.2. Đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là toàn bộ những giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
được tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo hiện thực của con người [10].
Khái niệm đời sống văn hóa là một khái niệm rộng để chỉ toàn bộ các thành tựu có ý
nghĩa văn hóa do con người sáng tạo ra cùng các phương thức, cách thức mà con người
sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. Đời sống văn hóa của cá nhân và cộng đồng
gắn liền với sự sống của họ thể hiện trong các hoạt động như: ăn, ở, đi lại, sản xuất, giao
tiếp xã hội, thể hiện các giá trị chuẩn mực định hướng trong lối sống, phong tục tập quán,
tín ngưỡng tôn giáo, trong các hoạt động giáo dục, khoa học, nghệ thuật, trong tổ chức,
quản lý đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội, trong các hoạt động văn hóa dân
gian như: tang ma cưới hỏi, trong lễ hội và trong các quan hệ ứng xử khác. Như vậy, nói
đến đời sống văn hóa tức là nói đến tất cả các nhân tố của đời sống sinh hoạt văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
1.1.3. Internet
Các phương tiện truyền thông cá nhân và đại chúng ra đời rất sớm trong lịch sử
loài người, trước cả ngôn ngữ và chữ viết. Khi mà động tác, cử chỉ là những phương tiện
ít ỏi để con người có thể hiểu và giao tiếp với nhau. Từ thế kỷ XX trở lại đây, các phương
tiện truyền thông mới bùng phát cả về nội dung và hình thức nhờ sự hỗ trợ của khoa học,
kỹ thuật. Chính truyền thông là một trong những lĩnh vực thừa hưởng nhiều thành quả
nhất của cuộc cách mạng khoa học lần thứ tư và cuộc cách mạng công nghệ lần thứ năm.
Những thành tựu của hai cuộc cách mạng trên đã đưa truyền thông vượt mọi rào cản về
khoảng cách địa lý, không gian và thời gian, đó là sự ra đời của phát thanh, truyền hình,
cùng với điện thoại vô tuyến
Tóm lại, truyền thông là toàn bộ những phương tiện lan truyền thông tin như: sách
báo, truyền hình, phát thanh Truyền thông phân làm ba loại chính: Truyền thông đại
chúng, truyền thông nhóm và truyền thông cá nhân với những nội dung và hình thức khác
nhau.
Truyền thông đại chúng là cách thức truyền đạt thông tin thông qua các phương
tiện kỹ thuật (đài, báo, phát thanh, truyền hình, ấn phẩm, phim ảnh, băng đĩa, mạng )
đến đám đông công chúng nhằm mục đích củng cố hoặc thay đổi nhận thức, quan điểm,
hành vi của họ đối với các vấn đề khác nhau trong xã hội. Với cách định nghĩa như thế về
truyền thông thì ngày nay ta có thể coi internet như một phương tiện truyền thông đại
chúng mới, với tất cả các thuộc tính của truyền thông đại chúng như: Tính chất đại chúng,
tính gián tiếp, tính tập thể và vô nhân xưng. Tuy nhiên, do khả năng kỹ thuật ưu trội mà
internet cũng có thể được coi như phương tiện truyền thông nhóm trong các dịch vụ tin
tức nhóm (new group); giáo dục điện tử (E- learning) hay thậm chí nó cũng vừa là
phương tiện truyền thông cá nhân trong trường hợp: email, chat, điện thoại internet
Chúng ta có thể hình dung internet là một môi trường truyền thông mới với ý
nghĩa là sự kết nối của các máy tính đầu cuối, bao gồm cả máy tính cá nhân, của hộ gia
đình, của các cơ quan, tổ chức Tạo điều kiện cho tất cả các loại hình truyền thông khác
hoạt động được [21]. Các tờ báo, đài truyền hình, các hãng thông tấn, cơ quan báo chí,
các cơ quan giáo dục cũng như các tổ chức và cá nhân đều có cơ hội ngang bằng là thiết
lập website riêng để cung cấp thông tin đến đông đảo công chúng (công chúng ở đây là
tất cả những người sử dụng internet). Ngược lại, người sử dụng internet cũng có thể khai
thác các tiện ích của internet cho mỗi loại mục đích của mình.
Một cách tổng quát, internet là một mạng diện rộng (WAN) là tập hợp hàng ngàn
các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống viễn thông. Sự phát triển nhanh
chóng của internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là "siêu lộ thông tin"
(Information Super Highway). Ngoài ra, nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà
nghiên cứu, các nhà giáo dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư , internet đã trở
thành một công cụ thiết yếu cho mọi cá nhân đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu
và thực tế là mọi hoạt động liên quan đến việc thu thập thông tin.
Sau đây là định nghĩa về internet được nhiều nhà khoa học và cá nhân sử dụng
phổ biến hiện nay:
Internet là hệ thống thông tin toàn cầu mà:
- Được nối với nhau hợp lý bằng một không gian địa chỉ độc đáo dựa trên giao
thức mạng (IP).
- Có thể tạo điều kiện cho các máy tính giao tiếp với nhau thông qua bộ giao
thức (TCP/IP).
- Công khai hoặc bí mật cung cấp, cho phép sử dụng, cho phép truy cập các dịch
vụ cao cấp được xếp trên các mục giao tiếp và cơ sở liên quan.
- Không thể có được sơ đồ cụ thể của mạng internet vì các máy tính và các mạng
máy tính liên tục đăng ký thêm vào mạng internet cũng như các thông tin trên mạng liên
tục thay đổi, cập nhật.
- Internet mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (on line).
- Internet là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi khi thâm
nhập vào liên mạng toàn cầu [16].
Internet (được viết hoa chữ cái đầu tiên) ám chỉ tới tập hợp các mạng và các
cổng nối (gateway) trên toàn cầu, sử dụng bộ giao thức TCP/IP, đây chính là nghĩa được
nhiều người biết tới nhất. Tuy nhiên, khi gặp từ internet (không viết hoa chữ cái đầu) ta
phải hiểu rằng đây là chữ viết tắt của từ internetwork, có nghĩa là liên mạng, một tập hợp
các mạng máy tính bất kỳ, có thể khác nhau và được nối với nhau thông qua các cổng
nối. "Trên thế giới chỉ có duy nhất một Internet nhưng có rất nhiều internet. Sự nhầm
lẫn trong cách sử dụng thuật ngữ này có thể bắt gặp trên một số báo chí của nước ta,
thậm chí cả trên một tạp chí chuyên ngành có uy tín" [18].
1.2. Sự hình thành và phát triển của internet
Lịch sử hình thành và phát triển của Internet có thể xem như bắt đầu từ năm 1969
với dự án mạng ARPANET của Bộ Quốc phòng Mỹ với mục đích hoàn toàn mang tính
quân sự nhằm tạo khả năng truyền số liệu, thông tin một cách an toàn, bí mật giữa các
mạng máy tính của Bộ Quốc phòng Mỹ. Trải qua một giai đoạn nghiên cứu và phát triển
khá lâu dài, đến tháng 1/1983, giao thức TCP/IP đã chính thức được chấp nhận trên cơ sở
mạng diện rộng ARPANET. Điều này mở ra khả năng ứng dụng to lớn cho mạng máy
tính của Bộ Quốc phòng Mỹ, sau đó, vốn tính thực dụng, mô hình ARPANET nhanh chóng
được người Mỹ nhân rộng ra các lĩnh vực khác với quy mô ngày càng lớn. Và khi có sự
liên kết các mạng máy tính thuộc lĩnh vực khác, các khu vực và các quốc gia khác nhau thì
mạng xuất hiện các trình duyệt của dịch vụ tra cứu thông tin siêu văn bản (WWW- World
Wide Web).
Hình 1.1: Quá trình phát triển của Internet
Tốc độ phát triển của internet:
- 1977: 111 máy chủ
- 1981: 213 máy chủ
- 1983: 562 máy chủ
- 1984:1.000 máy chủ
-
1986: 5.000 máy ch
ủ
Thương
mại
điện tử
E - Com
1995
Trình duyệt
Web
1993
WWW
1989
Tên gọi
Internet
TCP/IP
1984
TCP/IP
1972
ARPANET
1969
.
Ngoài ra, còn phải kể đến mạng:
Intranet: Là mạng riêng sử dụng công nghệ của internet như là phần cơ sở. Thực
chất internet và intranet không khác nhau, do mục đích sử dụng của intranet nhằm vào
các cơ quan, doanh nghiệp, phục vụ các hoạt động tác nghiệp. Do đó, mạng intranet phải
luôn chính xác, tin cậy, hiệu quả, thông suốt. Đặc biệt phải đảm bảo an ninh, an toàn
trong mọi tình huống. Mạng này cho phép nhiều người cộng tác làm các dự án, chia sẻ
thông tin, tổ chức hội thảo và thiết lập các thủ tục an toàn trong tổ chức sản xuất. Mục
đích của mạng này là làm cho những người lao động của công ty gắn kết với mọi tin tức
của công ty đó, nhằm tăng năng suất qua luồng thông tin hiệu quả được phổ biến trên
intranet.
Extranet: Mạng chia sẻ mở rộng, mạng này công ty chỉ cho phép một nhóm
người được lựa chọn để truy nhập.
Thực chất internet không thuộc quyền quản lý của bất kỳ ai. Nó không có ban
giám đốc, cũng không có ban quản trị, người dùng có thể tham gia hoặc không tham gia
Số liệu Telcordia - Nestizer.com (1/2001)
Hơn 115 triệu máy chủ, hơn 407 triệu người sử dụng (số liệu tháng
11/2000).
31 triệu tên miền.
Theo dữ liệu đo bằng Byte (1994) người ta truy nhập Internet cho mục đích:
32% cho truyền file, 13% khám phá, tìm hiểu thông tin, 11% đọc tin, 10% dữ liệu
overhead, 6% email, 5% điều khiển từ xa.
vào internet, đó là quyền của mỗi thành viên. Mỗi mạng thành phần sẽ có một giám đốc
hay chủ tịch, một cơ quan chính phủ hay một hãng điều hành, nhưng không có một tổ
chức nào chịu trách nhiệm toàn bộ về internet.
Hiệp hội internet (Internet Socity - ISOC) là một hiệp hội tự nguyện có mục đích
phát triển khả năng trao đổi thông tin dựa vào công nghệ internet. Hiệp hội bầu ra
Internet Architecture Board - IAB, ban này có trách nhiệm đưa ra hướng dẫn về kỹ thuật
cũng như phương hướng để phát triển internet.
Mọi người trên internet thể hiện nguyện vọng của mình thông qua ủy ban kỹ
thuật internet (Internet Engineering Task Force IETF). IETF cũng là một chức tự nguyện,
có mục đích thảo luận về các kỹ thuật và sự hoạt động của internet. Nếu một vấn đề được
coi trọng, IETF lập một nhóm kỹ thuật để nghiên cứu vấn đề này. Nhóm đặc trách nghiên
cứu phát triển công nghệ Internet (IRTF- Internet Reasearch Task Force).
Trung tâm thông tin mạng (Networrk Infomation Center - NIC) gồm có nhiều
trung tâm khu vực như APNIC - khu vực châu á - Thái Bình Dương. NIC chịu trách
nhiệm phân tên và địa chỉ cho các mạng máy tính vào internet.
Không cần nhìn đâu xa, chỉ tính riêng châu á cũng có thể thấy rõ những ứng dụng
của internet đã làm thay đổi cuộc sống ở châu á như thế nào. Theo số liệu do Công ty
nghiên cứu thị trường eMarketer mới đây cho thấy tỷ lệ sử dụng internet ở châu á - Thái
Bình Dương đang tăng với tốc độ chóng mặt, đặc biệt là ở Trung Quốc, kèm theo đó là
những tác động rộng lớn về mặt thương mại và văn hóa đối với cuộc sống của người dân
khu vực. Nghiên cứu này có tên là "Asia Pacific - online" dựa trên các dự báo của các cơ
quan thống kê quốc gia và quốc tế cùng hàng chục công ty nghiên cứu khác, như Morgan
Stanley, Garner, Poin Topic, IDC, Yankee Group
Theo eMarketer cho biết thì trong năm 2003 số người sử dụng internet ở Trung
Quốc đã tăng gấp đôi đến 114 triệu người, trong hai năm tới dự kiến sẽ có 250 triệu
người Trung Quốc truy cập internet. Tại Hàn Quốc, tính đến cuối năm 2003 đã có gần
59% dân số lên mạng. Tại ấn Độ, mỗi tháng lại có thêm 120.000 khách thuê bao internet
mới, đưa tổng số người tham gia mạng toàn cầu của nước này vượt con số 3 triệu vào
tháng 6/2003. Về mật độ sử dụng internet nhanh chóng đuổi kịp và vượt phần còn lại của
thế giới. Trong tháng 1/2003 Mỹ đã bị gạt khỏi danh sách 10 nước có mật độ dân sử dụng
internet cao nhất thế giới. Trong khi đó Hàn Quốc đã nhảy lên chiếm vị trí thứ tư, Hồng
Kông đứng thứ bảy và Đài Loan đứng thứ chín. Điều đặc biệt gây ấn tượng là tốc độ gia
tăng sử dụng băng tần rộng để truy cập internet ở các nước châu á - Thái Bình Dương.
Tính đến cuối tháng 11/2003 số người sử dụng băng tần rộng trong khu vực đã tăng 25%
lên 18 triệu thuê bao, đặc biệt tại Hàn Quốc tỷ lệ sử dụng băng tần rộng đã lên tới 94%.
Chính sự phổ biến của internet ở châu á - Thái Bình Dương đang tạo ra những tác
động sâu sắc đến kết cấu và nội dung các trang Web. Internet phát triển góp phần thúc
đẩy doanh thu của các Công ty chế tạo phần cứng máy tính. Đã có tới 5,1 triệu máy tính
được bán ra trong khu vực trong năm 2002, tăng 100% so với năm 2001. Hoạt động
thương mại trực tuyến cũng đang gia tăng nhanh chóng trong đó có rất nhiều nước có tốc
độ tăng vượt mức trung bình của thế giới. Ước tính sẽ có sự bùng nổ internet để đặt vé
máy bay, phòng khách, khách sạn hoặc ô tô. Giải trí trên mạng cũng là một lĩnh vực có tiềm
năng to lớn, ngày càng có nhiều người mua vé xem phim, ca nhạc qua mạng. Riêng ở
Hàn Quốc chỉ trong những năm đầu khi internet mới phát triển, 98% thông tin được giao
dịch qua mạng internet.
Ước tính đến năm 2005 sẽ có 33 triệu người dân Hàn Quốc sử dụng dịch vụ
internet, chiếm 2/3 dân số.
Trước sự phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên mọi lĩnh vực và mang tính toàn cầu
như vậy, internet vừa là cơ may, vừa là thách thức với các quốc gia. Đảng và Nhà nước
Việt Nam chủ trương phát triển và mở rộng việc cung cấp và sử dụng dịch vụ internet
nhưng phải đi đôi và tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ.
Để phục vụ các hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của xã hội, từ những năm
1993 ngành Bưu điện đã xây dựng mạng truyền số liệu chuyển mạch gói gọi là
VIETPAC. Tuy phủ rộng 64 tỉnh thành trong cả nước nhưng việc xây dựng mạng
VIETPAC không đáp ứng được mọi nhu cầu liên quan đến việc truyền số liệu.
Do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và sự ra đời của nhiều loại hình dịch
vụ trên mạng, trong đó có sự phát triển nhanh chóng của internet cùng với các dịch trên
mạng này. Ngày 5 tháng 3 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 21/CP
ban hành quy chế tạm thời về quản lý, thiết lập, sử dụng mạng internet Việt Nam và ký
quyết định số 136/TTg thành lập Ban điều phối quốc gia mạng internet ở Việt Nam.
Ban điều phối quốc gia mạng internet, Tổng cục Bưu điện cùng các cơ quan nhà
nước có liên quan đã ban hành nhiều văn bản quản lý các hoạt động cung cấp và sử dụng
internet, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để Việt Nam chính thức tham gia mạng Internet
toàn cầu. Ngày 14/11/1997 Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện đã ra Quyết định số
679/1997/QĐ-TCBĐ ban hành thể lệ dịch vụ internet nhằm quy định việc quản lý nhà
nước đối với mọi hoạt động kết nối, truy nhập, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet.
Ngày 19 tháng 11 năm 1997, Việt Nam đã chính thức khai trương dịch vụ
internet; người dân Việt Nam có thể nhận, gửi và sử dụng thông tin trên internet. Để đáp
ứng nhu cầu bức xúc về internet VNPT đã xây dựng một mạng trục trong toàn quốc với
tên gọi là VietnamNet (VNN) và kết nối với mạng internet nhằm kết nối những mạng đơn
lẻ của các cơ quan khác nhau và cung cấp dịch vụ internet một cách hiệu quả. Internet
Việt Nam hoạt động với bốn nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP) chính thức do Tổng cục
Bưu điện cấp giấy phép là: VNN, Công ty FPT, mạng NetNam của Viện Công nghệ
Thông tin và Công ty cổ phần dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (Saigon Postel).
Trên internet Việt Nam thời điểm đó còn có các nhà cung cấp thông tin (ICP), đó là mạng
CINET của Bộ Văn hóa Thông tin, mạng Phương Nam của Trung tâm Hội chợ triển lãm
Việt Nam, Công ty Pacrim, FPT, VNN, Thông tấn xã Việt Nam, Tổng cục Du lịch, báo
Nhân Dân và Trung tâm thông tin Bưu điện trực thuộc VNPT
Với vai trò tổ chức và quản lý toàn bộ mạng trục internet quốc gia, Công ty điện
toán và truyền số liệu (VDC) thuộc VNPT có nhiệm vụ cung cấp khả năng truy cập vào
các mạng riêng, các ISP khác, đồng thời VNN cũng là nhà cung cấp dịch vụ internet đến
người dùng.
Từ năm 1998 internet Việt Nam đã bước đầu phát triển kết nối trong nước và ra
quốc tế như Mỹ, Hồng Kông, úc
Ngày 23 tháng 8 năm 2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định 55/2001/NĐ-CP
về quản lý, cung cấp và sử dụng internet, có thể đánh giá đây là một sự kiện đánh dấu
bước ngoặt về phát triển internet ở Việt Nam. Cụ thể là nghị định này đã điều chỉnh việc
quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ internet tại Việt Nam gồm 11 điều quy định chung. Nghị
định có 16 điều quy định về thiết lập hệ thống thiết bị, cung cấp và sử dụng internet. Trong
chương ba và bốn của nghị định, mọi điều khoản về quản lý, khiếu nại, thanh tra, kiểm tra và
xử lý vi phạm đều được cụ thể hóa trong các điều (xem phụ lục 3).
Sau hai năm ban hành nghị định (23/8/2001-23/8/2003), thị trường internet Việt
Nam đã trở nên sôi động với nhiều nhà cung cấp và nhiều loại hình dịch vụ internet. Đến
tháng 9 năm 2003 đã có 13 ISP được phép cung cấp dịch vụ, 5 IXP (cổng kết nối quốc tế)
và 10 OSP (nhà cung cấp các dịch vụ ứng dụng trên internet). Chính Nghị định 55 đã cho
phép nhiều thành phần doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực internet, điều này
đã tạo động lực cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải năng động hơn trong cuộc chạy
đua chiếm lĩnh thị trường. Nghị định 55 ra đời cũng khởi nguồn cho một thời kỳ xã hội
hóa internet một cách sâu rộng, thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia, phát huy
vào nội lực sẵn có tham gia vào thị trường internet với hàng ngàn đại lý internet. Điều
này không chỉ góp phần làm tăng lượng người sử dụng internet 1,5 triệu người so với con
số 300.000 người năm 2000, mà còn giúp một số lượng người có thêm công ăn việc làm,
thêm thu nhập. Cũng từ đó, người dân có cơ hội tiếp cận với các công nghệ tiên tiến
thông qua internet. Đặc biệt nghị định 55 còn là tiền đề thúc đẩy việc ứng dụng internet
trong môi trường làm việc của hệ thống các cơ quan chính phủ, các ngành các cấp từ
Trung ương đến địa phương. Một số các chính sách quản lý nhà nước cũng đã được phổ
biến qua internet. Đó cũng là bước đệm để triển khai Chính phủ điện tử tại Việt Nam.
Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) hàng năm đều đưa ra đánh giá, xếp hạng
cho nền CNTT của 196 nước. Đánh giá dựa trên các thông số: Số lượng và mật độ điện
thoại, số điện thoại di động, số máy tính và số người dùng internet. Điều đáng mừng là
lần đầu tiên Việt Nam đã được đưa vào danh sách 53 nước, được xếp hạng sau ấn Độ,
Trung Quốc và Inđônêsia. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia CNTT, thời gian qua
CNTT nước ta phát triển khá nhanh nhưng chưa có chiến lược cụ thể, chính vì vậy, trong
năm 2003 Bộ Bưu chính Viễn thông (MPT) đã dốc sức để hình thành một phác thảo
chiến lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020 và trình Chính phủ trong quý 1/2004. Đối với dịch vụ viễn thông internet, Việt
Nam sẽ phát triển nhanh, đa dạng hóa các dịch vụ viễn thông và internet trên cơ sở hạ
tầng mạng lưới thông tin quốc gia tiên tiến. Tại Việt Nam, theo dự báo công nghệ thông
tin của các chuyên gia CNTT nhận định: Năm 2004 sẽ là năm bứt phá của ngành này
nhằm tiến kịp các nước phát triển, số lượng doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sử dụng
internet, xây dựng web side để trao đổi thông tin và ứng dụng các phần mềm ngày càng
tăng.
81054
1037510
1666160
1952460
2109700
4415851
09-11-00 01-01-01 01-07-02 25/12/02 05-09-03 30/4/04
Thêi ®iÓm
Sè ngêi sö dông internet
Biểu đồ 1.1: Số người sử dụng internet ở Việt Nam
Nguồn: Số liệu thống kê từ Trung tâm internet Việt Nam tháng 4/2004.
1.3. Những ứng dụng cơ bản của internet
Từ khi internet xuất hiện với tư cách là một phương tiện truyền thông thì nó đã tạo
ra một cuộc cách mạng thực sự, hệ thống truyền thông này đã và đang làm thay đổi toàn
diện và sâu sắc cách thức mà con người thực hiện trong giao tiếp, giải trí, làm việc, học
tập, nghiên cứu khoa học hay xử lý thông tin Có thể nói, tiện ích của internet còn lớn
hơn cả điện thoại, báo viết và báo hình.
Sở dĩ internet đạt được những tiện ích lớn lao như chúng ta biết là do tập hợp hơn
100 giao thức được sử dụng để kết nối các máy tính vào mạng trong đó hai giao thức chính
là giao thức điều khiển truyền dẫn (Transmission control protocol) và giao thức Internet IP
(Internet Protocol). Sự bùng nổ trong sử dụng internet giữa hàng triệu người trên thế giới
có lẽ là nhờ một phần của cái gọi là dịch vụ tra cứu siêu văn bản, dịch vụ thông tin đa
phương tiện toàn cầu (WWW) hoặc chỉ đơn giản là WEB, đồ họa âm thanh trên một loạt
các văn kiện hiển thị bằng máy tính gọi là các trang web (Web pages), gắn liền với các
trang web là các tài liệu siêu văn bản hoặc siêu phương tiện (hypertex or hypermedia).
Việc thám hiểm World Wide Web phải sử dụng một chương trình gọi là slient (máy
khách) phần mềm slient cung cấp giao thức truyền thông để phối ghép với các máy tính
chủ trên mạng, nó được cài đặt trong máy tính dùng để truy nhập. Máy chủ (server) cung
cấp các tài liệu mà máy khách yêu cầu, các máy chủ được kết nối với các máy khách và
máy chủ khác trên mạng cho nên mối quan hệ slient/ server tồn tại giữa người dùng, máy
khách và kết nối tới Web (tức máy chủ). Server internet mà khách hàng kết nối được tới
gọi là ISP (nhà cung cấp dịch vụ internet). Các ISP cung cấp truy nhập cho người dùng
tới internet và web theo cước phí hàng tháng hoặc hàng giờ. Một số các hệ thống bảng tin
BBS (Bulleti Board System) lớn hơn, thường được gọi là các dịch vụ thương mại trực
tuyến cũng cung cấp internet đầy đủ qua kết nối modem của khách hàng.
Các ứng dụng khách hàng/ máy chủ trên Internet
Thư điện tử (E-mail)
Truyền tệp (file transfer)
Chat (đàm thoại)
Dịch vụ nhóm tin (Use Net Newsgroup)
Web (World Wide Web)
Tiện ích trên mạng toàn cầu này là rất lớn:
"INTERNET mang đến cho bạn hạ tầng kỹ thuật để giao dịch trên mạng (on
line). INTERNET là cấu trúc kỹ thuật giúp cho mọi người trên thế giới thu lợi khi thâm
nhập vào liên mạng toàn cầu" [16].
Người dùng trên khắp thế giới đều có thể truy nhập mạng này. Với giao thức liên
lạc chuẩn, nó cho phép truy cập đối với bất kỳ một loại máy tính nào, hệ điều hành gì,
kích cỡ máy ra sao, người dùng mạng này có thể trao đổi thư điện tử với một người khác
ở bất cứ đâu trên thế giới, và thư sẽ được chuyển đi ngay lập tức. Nó trợ giúp truyền
thông thời gian trực tuyến (real- time multimedia) cho phép mọi thành viên truy cập có
thể thực hiện hoạt động giao tiếp, kinh doanh hay học tập, quản lý một cách trực tiếp và
tức thời. Rõ ràng là các hoạt động trên internet rất phong phú và đa dạng, nó đã tạo nên
những bước nhảy vọt chưa từng có trên thế giới, tác động đến mọi lĩnh vực trong đời
sống kinh tế - văn hóa - xã hội.
Một cách tổng quát: Với đặc thù là một mạng diện rộng (WAN) tập hợp hàng
ngàn các mạng máy tính trải khắp thế giới thông qua hệ thống viễn thông. Sự phát triển
nhanh chóng của internet đã khiến cho nó còn có thêm một khái niệm là "siêu lộ thông
tin", ngoài ra nó còn là nguồn tài nguyên vô giá cho các nhà nghiên cứu, các nhà giáo
dục, các quan chức chính phủ và các thủ thư internet đã trở thành một công cụ thiết yếu
cho mọi cá thể đang sử dụng thư điện tử, đang nghiên cứu là mọi việc liên quan đến đến
hoạt động thông tin.
Internet thâm nhập sâu vào tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống, nó cho phép truy
nhập và khai thác các cơ sở dữ liệu thuộc nhiều lĩnh vực xã hội, các ngành nghề khác
nhau như: các thông tin về khoa học kỹ thuật, giáo dục và đào tạo, kết quả nghiên cứu
khoa học, thông tin thương mại, thị trường giá cả, dự báo thời tiết Tùy theo ngành nghề
khác nhau sẽ tìm thấy những lợi ích khác nhau từ việc sử dụng internet.
Sau gần bảy năm triển khai dịch vụ internet ở Việt Nam, đến nay theo tin từ
Trung tâm Thông tin Bưu điện - VNPT có hơn 1.122.000 thuê bao internet đã quy đổi
của 7/15 nhà cung cấp dịch vụ đã bắt đầu có thị phần là VNPT, NetNam, Vietel, SPT, Ha
Noi Telecom, OCI và như vậy với con số ước tính khoảng gần 4,5 triệu người thường
xuyên sử dụng internet, vượt mức thời điểm tháng 6 năm 2003 (cùng kỳ năm trước) hơn
2,3 lần đồng thời cũng cao hơn mức thời điểm tháng 6/2003 của khu vực 4,82% và rút
ngắn được khoảng cách với thế giới 9,37%. Nếu như thời gian đầu ở Đông Nam á nhiều
người quan niệm chỉ có giới trí thức hay doanh thương mới có nhu cầu và khả năng sử
dụng dịch vụ này, thì giờ đây, cùng với sự tăng cường đầu tư mở rộng mạng lưới, nâng
cao khả năng phục vụ cho người dùng internet của VNPT thông qua những chính sách và
nhất là ảnh hưởng tích cực của Nghị định 55 của Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức
đã biết khai thác lợi thế của internet. Do vậy mà có thêm nguồn thông tin, tăng cường
thương mại, mở mang đối tác, giao lưu văn hóa, xóa mờ khoảng cách địa lý. internet đã
có những ảnh hưởng tích cực sâu sắc đến đời sống xã hội của Việt Nam nói chung và đặc
biệt là nhân dân Thủ đô.
Có thể thấy rất rõ là cùng với sự hỗ trợ của internet, tại Hà Nội, nhiều đề tài
nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ vào cuộc sống đã thành công và
thiết thực hơn. Nhiều sinh viên học sinh ham học hỏi đã thu lượm được nhiều kiến thức
bổ ích, tìm kiếm học bổng
Đến nay đã có 100% các trường phổ thông trung học, cao đẳng, đại học và nhiều
trường tiểu học, trung học cơ sở lắp đặt, sử dụng và đưa chương trình internet vào giảng
dạy. Cùng với hàng chục ngàn các đại lý và các điểm phục vụ internet trên cả nước, kể cả
nơi hải đảo, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực tế sử dụng internet thời gian qua cho
thấy, internet ở Việt Nam còn có thể phát triển nhanh và mạnh hơn nữa, ảnh hưởng trực
tiếp và đóng góp to lớn vào phát triển kinh tế - văn hóa - chính trị của Việt Nam.
Chương 2
Thực trạng của việc sử dụng internet
ở Thủ đô Hà Nội
2.1. Tình hình chung
Theo báo cáo mới nhất của ITU về kết quả nghiên cứu tình hình sử dụng internet
trên toàn thế giới thì các nước Bắc âu dẫn đầu về truy cập internet. Thụy Điển đứng ở vị trí
thứ nhất, tiếp sau là Đan Mạch và Băng Đảo, Na Uy đứng thứ năm. Hàn Quốc là nước đứng
đầu thế giới về truy nhập băng rộng tốc độ cao và được xếp thứ tư về tỷ lệ người dùng
inetrnet. Vào nhóm 10 nước dẫn đầu còn có Hà Lan, Hồng Kông, Phần Lan, Đài Loan và
Canađa. Mỹ đứng thứ 11. Thực tế diễn biến cho thấy trong những năm gần đây (từ 1998
trở lại đây) châu á đã vượt lên trước và bỏ xa các nước nói tiếng anh. Cụ thể là Hàn Quốc
tăng nhanh nhất, đã tăng 20 bậc từ 1998 đến 2002.
Tình hình phát triển của internet của khu vực châu á - Thái Bình Dương và thế
giới đã ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam.
Tính đến tháng 4 năm 2004 Việt Nam đã có 4.415.851 người sử dụng internet và
1.121.808 thuê bao internet, trong khi cùng kỳ năm trước con số này là 1.9 triệu người,
khoảng 445.710 thuê bao. Tỷ lệ số dân sử dụng internet ở nước ta hiện nay là 5,42%.
Một sự kiện lớn nhất về CNTT diễn ra tại Việt nam tháng sáu vừa qua là diễn đàn
CNTT Việt Nam 2004 và Việt Nam Computer World Expo (VITF & VCW) diễn ra từ
ngày 5 đến ngày 10-7-2004 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây TS. Lê Trường Tùng -
Chủ tịch Hội tin học Thành phố Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố "Toàn cảnh CNTT
Việt Nam 2004". Trong báo cáo này ông đã đặc biệt nhấn mạnh "ấn tượng nhất là sự
vươn lên mạnh mẽ của hai tờ báo điện tử Tuổi trẻ và Thanh niên" - hai trong số năm
website tiếng Việt lọt vào danh sách top 10.000 website toàn cầu, tỷ lệ người dùng
internet Việt Nam trên dân số đã gần đuổi kịp tỷ lệ trung bình của châu á. Điều đó nói lên
rằng, chúng ta đang chứng kiến sự phát triển đột phá của internet Việt Nam, cũng có
nghĩa là đây cũng là thời điểm gay cấn nhất của những nhà quản lý văn hóa trước sự tấn
công ồ ạt của thông tin vào đời sống xã hội.
Tuy nhiên, để Việt Nam có thể bước vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn khoảng cách
phát triển giữa Việt Nam và các nước, mục tiêu của Chính phủ từ nay đến 2010 là: Phổ
cập tri thức số, đạt tỷ lệ người dân sử dụng internet là 10%. Đây là con số mà chúng ta
đang phấn đấu, nỗ lực và quyết tâm đó được cụ thể hóa trong nhiều hoạt động. Mới đây
nhất, tháng 7/2004, chương trình "Máy tính Thánh Gióng" đã được khởi động, đây là một
chương trình phổ cập tin học, nối mạng tri thức cho thanh niên Việt Nam. Chương trình
sẽ chính thức tiến hành vào năm 2005. Chính phủ dự kiến sẽ giao cho Bộ Văn hóa Thông
tin, Bộ Bưu chính Viễn thông và Trung ương Đoàn thanh niên thực hiện. Mục tiêu của
chương trình là giúp cho thanh niên Việt Nam xóa mù tin học, nối mạng tri thức.
Thủ đô Hà Nội sẽ là một địa chỉ lớn nhất cung cấp những cán bộ, kỹ sư, tình
nguyện viên tin học tham gia chương trình này.
Hiện nay, trên địa bàn Thủ đô chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những điểm truy cập
internet công cộng ngay trong ngõ nhỏ, đến từng khu tập thể, ký túc xá (xem Phụ lục 4).
Nếu chỉ tính riêng tại địa bàn Thủ đô Hà Nội thì tỷ lệ người dân truy cập internet khoảng
35%. Vượt xa con số 10% trung bình trên cả nước mà chúng ta đang phấn đấu cho năm
2010. Điều đó nói lên rằng, Hà Nội là một địa bàn nóng bỏng đối với nhu cầu truy cập
internet và là một địa bàn được tiếp cận sớm nhất với loại dịch vụ này. Chính đặc điểm là
trung tâm kinh tế, văn hóa chính trị của cả nước nên Hà Nội cũng là địa bàn nhạy cảm
nhất đối với những ảnh hưởng của dịch vụ này mang lại.
2.2. Thực trạng việc sử dụng internet của một số nhóm xã hội
2.2.1. Vài nét khái quát về địa bàn nghiên cứu
Người viết đề tài đặc biệt quan tâm và lấy địa bàn ba quận: Thanh Xuân, Đống
Đa và Cầu Giấy làm khu vực khảo sát bởi tính tập trung và phong phú của khu vực. Địa
bàn ba quận này tập trung khá nhiều trường Đại học và các cơ quan Trung ương, ở đây
tập trung nhiều trường Đại học gồm: Đại học Quốc gia, Đại học Kiến trúc, Đại học Sư
phạm, Đại học Ngoại ngữ, Phân viện Báo chí tuyên truyền, Đại học Luật, Đại học Giao
thông vận tải, Đại học Ngoại thương, Học viện Quan hệ quốc tế, Học viện Quốc phòng,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Việt nam, Học viện Công
nghệ Bưu chính Viễn thông, Trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương1…
Đặc trưng lớn nhất của địa bàn là tính tập trung theo cụm của các cửa hàng dịch
vụ internet, các trường đại học, các cơ quan, trường học
Cụm 1: Bao gồm 8 cửa hàng liền nhau nằm ngay trên mặt phố Nghĩa Tân thuộc
dẫy nhà A11, A14 và nhà C1, 3 cửa hàng nằm trên đường Nguyễn Phong Sắc.
Cụm 2: Gồm 5 cửa hàng nằm trên đường Xuân Thủy số 185; 187; 203; 205 (nằm
ngay trước cổng trường Nguyễn Tất Thành và Đại học Sư phạm Hà Nội) và 2 cửa hàng
cũng nằm trên đường Xuân Thủy (số 4 và số 8).
Cụm 3: Gồm 6 cửa hàng nằm trong khuôn viên của trường Đại học Quốc gia gần
khu ký túc xá sinh viên và trường phổ thông trung học chuyên ngữ thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội theo địa chỉ số 1/A1; 3/A2; 6A2; 1A6; 1A8.
Cụm 4: Gồm 11 cửa hàng nằm trên đường Nguyễn Trãi và khu vực xung quanh
trường Đại học Kiến trúc và Đại học Ngoại ngữ thuộc địa bàn quận Thanh Xuân.
Cụm 5: Dành cho các đối tượng là CBCNVC thuộc các doanh nghiệp quốc
doanh. Các đối tượng khảo sát gồm CBCNV của Công ty Viễn thông quốc tế thuộc
VNPT và một số cán bộ nghiên cứu thuộc Viện Khoa học tự nhiên, Học viện Công nghệ
Bưu chính Viễn thông là những đối tượng thường xuyên truy cập internet. Một số khác là
cán bộ quản lý cấp vụ viện đang thường trú tại khu tập thể Nghĩa Tân.
Đối tượng mà người viết đề tài chọn khảo sát và trực tiếp phỏng vấn gồm năm
nhóm chính gồm đại diện cho những người thường xuyên truy cập internet, họ là những
HSSV, là các CBCNVC nhà nước, là các nhà quản lý, nhà khoa học, nhà giáo…
Qua thực tế khảo sát tại địa bàn ba quận, đặc biệt chú ý tới các tuyến phố tập
trung nhiều quán cafeinternet, điểm truy cập internet công cộng như phố Nghĩa Tân, phố
Tô Hiệu, đường Xuân Thủy (thuộc địa bàn quận Cầu Giấy), khu vực xung quanh trường