Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Một số biến đổi các hoạt động giải trí văn hoá của nông dân đồng bằng bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.95 KB, 16 trang )

Một số biến đổi các hoạt động giải trí văn hoá
của nông dân đồng bằng Bắc Bộ

Nguyễn Thị Huyền

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Xã hội học; Mã số: 60 31 30
Người hướng dẫn: TS. Trương Xuân Trường
Năm bảo vệ: 2012

Abstract: Nghiên cứu sự biến đổi trong việc tham gia các hoạt động giải trí văn hoá
của người dân hiện nay, khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội đối với hoạt động giải
trí của người dân. Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những biến đổi này và đưa ra
khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động giải trí văn hoá cho người
dân nâng cao dân trí góp phần tích cực vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.

Keywords: Xã hội học; Nhóm xã hội; Hoạt động văn hóa; Nông dân; Đồng bằng Bắc
Bộ

Content
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Giải trí văn hoá là nhu cầu thực tế của con người. Ở các nước phương Tây, xã hội càng
phát triển, thời gian lao động càng rút ngắn lại do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, máy
móc hiện đại, áp dụng tự động hóa vào sản xuất vì vậy thời gian rỗi nhiều hơn và cơ hội để
con người tham gia các hoạt động giải trí càng cao hơn. Theo Marx thời gian rỗi là thuộc về
sự phát triển của xã hội. Khi con người có những nhu cầu sinh tồn toàn diện, thì nhu cầu giải
trí văn hóa là một trong những nhu cầu thiết yếu. Thực chất giải trí văn hoá là một bộ phận
quan trọng trong cơ cấu hoạt động sống của cá nhân, là một hình thức thay đổi tính chất lao


động của con người nhằm giải toả những mệt mỏi ức chế và phục hồi sức khoẻ đưa cơ thể trở
lại trạng thái khoẻ mạnh toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Giải trí văn hoá là một hình
thức nghỉ ngơi tích cực tác động chủ yếu vào tinh thần của con người, giúp con người xoá đi
những căng thẳng, khắc phục những ức chế tâm lý do công việc gây ra. Hoạt động giải trí văn
hoá cũng là một dạng hoạt động để tái sản xuất sức lao động, gắn kết các cá nhân lại với
nhau, tăng cường mối quan hệ xã hội, cố kết cộng đồng. Giải trí văn hoá cũng là yêu cầu điều
kiện để con người hiện đại sử dụng thời gian rỗi một cách có lợi, góp phần tạo diện mạo văn

2
hoá cá nhân và là một trong những thước đo lối sống của con người. Nhưng hiện nay ở nước
ta, thời gian rỗi được sử dụng như thế nào? Vào những hoạt động gì? Đó là một câu hỏi lớn.
Từ tháng 10/1999, Việt Nam đã chuyển sang chế độ làm việc 40 giờ/tuần, các công chức có 2
ngày nghỉ. Nhưng việc sử dụng số thời gian rỗi trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay một cách hiệu quả, tích cực và lành mạnh không phải là
vấn đề đơn giản.
Thực tế cho thấy trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trong quá trình diễn ra công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đang diễn ra mạnh mẽ. Bên cạnh đó
đã xuất hiện những biểu hiện của sự phát triển các hoạt động văn hoá tinh thần một cách tự
phát, thậm chí còn có cả những hoạt động không phù hợp với điều kiện thực tế và văn hoá
của địa phương, nhiều người gần như không có hoạt động giải trí, hoặc không có nhu cầu
tham gia vào các hoạt động giải trí. Điều này là hệ quả tất yếu của của sự phát triển. Ở các
vùng nông thôn Việt Nam hiện nay do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường nên đã cuốn hút
người dân nơi đây vào hoạt động lao động sản xuất vật chất, vào những công việc sản xuất
kinh doanh tăng thu nhập để ổn định cuộc sống, vì vậy thời gian rỗi giành cho hoạt động giải
trí của họ không nhiều. Điều đó là dễ lý giải khi với những biến đôi mạnh mẽ kinh tế- xã hội
trong thời gian qua, nhất là xu hướng phân tầng xã hội, làm khoảng cách giàu nghèo nới rộng
ở nông thôn nên người nông dân càng tìm mọi cách để tăng thu nhập, làm giàu và thăng tiến
xã hội.
Mặt khác, trong thời kì hội nhập, có rất nhiều loại hình giải trí được du nhập vào Việt
Nam. Do đó, người nông dân có thể đa dạng hoá được sự lựa chọn hoạt động giải trí tinh thần

trong thời gian nhàn rỗi. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những loại hình giải trí không phù hợp
với thuần phong mỹ tục, với điều kiện sống của người dân tại các vùng quê nước ta. Hoạt
động giải trí đã, đang và tiếp tục là nhu cầu tất yếu của con người. Đặc biệt hoạt động giải trí
văn hóa còn là yếu tố quan trọng xây dựng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội đất nước thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Do đó việc tìm hiểu xem trong thời gian nhàn rỗi, người nông dân có những hoạt động giải trí
văn hoá tinh thần như thế nào là điều cần thiết và nhất là trong thời kì hội nhập hiện nay. Đây
cũng là vấn đề thách thức của hiện thực xã hội đối với chúng ta mà nguyên nhân sâu xa chính
là những nhu cầu khách quan không được đáp ứng của con người và là ý tưởng gợi nên trong
tôi hướng đề tài nghiên cứu “Tìm hiểu một số biến đổi các hoạt động giải trí văn hoá của
nông dân đồng bằng Bắc bộ hiện nay”. Do giới hạn của luận văn tốt nghiệp, tác giả đã lựa
chọn địa bàn nông thôn của thành phố Hải Phòng làm nghiên cứu trường hợp.

3
2. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài góp phần làm cho tác giả hiểu sâu và kỹ hơn về hệ thống lý thuyết của xã hội
học hiện đại như: lý thuyết hành động xã hội, lý thuyết biến đổi xã hội, lý thuyết lựa
chọn hợp lý.
- Đề tài góp phần cung cấp dữ liệu cụ thể nhằm phác thảo bức tranh tương đối tổng
quát ở vùng nông thôn được khảo sát về hoạt động giải trí văn hoá của người nông
dân: những hoạt động họ thường tham gia, họ yêu thích.
- Giúp người dân nhận thức phân biệt được hoạt động giải trí với một số hoạt động tuy
cùng diễn ra trong thời gian nhàn rỗi và giống với hoạt động giải trí về mặt nhận thức
nhưng có nội dung và mục đích khác nhau.
- Góp phần giúp chính quyền địa phương và những người làm quản lý văn hoá trong
việc hoạch định chính sách phát triển văn hoá tinh thần cho người dân cũng như có
thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu giải trí của họ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này hướng tới làm sáng tỏ sự biến đổi trong việc tham gia các hoạt động giải trí

văn hoá của người nông dân. Tìm hiểu những nhân tố tạo nên sự biến đồi đó. Từ đó tác giả
đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động giải trí
văn hoá cho người dân nâng cao dân trí góp phần tích cực vào thời kì công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu sự biến đổi trong việc tham gia các hoạt động giải trí văn hoá của người dân
hiện nay, khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội đối với hoạt động giải trí của người
dân.
- Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những biến đổi này và đưa ra khuyến nghị góp phần
nâng cao hiệu quả của các hoạt động giải trí văn hoá cho người dân nâng cao dân trí
góp phần tích cực vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.3. Câu hỏi nghiên cứu:
i. Điều kiện kinh tế - xã hội của người nông dân thay đổi ra sao trong thời kỳ hội
nhập?

4
ii. Sự tham gia và biến đổi việc sử dụng thời gian rảnh rỗi của nông dân hiện nay như
thế nào? Những hoạt động nào biến đổi, những hoạt động nào chưa biến đổi?
iii. Những yếu tố nào tác động đến sự biến đổi của sự tham gia các hoạt động giải trí?
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu một số biến đổi các hoạt động giải trí văn hoá của nông dân đồng bằng Bắc bộ
hiện nay
4.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là những người nông dân, những người cán bộ hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa tại hai xã Lê Thiện và Hồng Thái, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu tiến hành thu thập thông tin định tính 2010
- Không gian: Đề tài sử dụng số liệu định lượng của nghiên cứu đề tài cấp bộ tại thành phố
Hải Phòng.

5. Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp phân tích số liệu thứ cấp: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu của đề tài cấp
Bộ “Nghiên cứu dư luận xã hội của người nông dân vùng đồng bằng Bắc bộ về gia nhập
WTO” phần “Thông tin chung và Các hoạt động văn hóa tinh thần” (phụ lục kèm theo) do
TS. Trương Xuân Trường làm chủ nhiệm và tác giả luận văn là một thành viên tham gia khảo
sát đề tài. Do giới hạn của luận văn tốt nghiệp, tác giả chỉ sử dụng phần số liệu của riêng của
thành phố Hải Phòng để phân tích.
Cơ cấu mẫu khảo sát của cuộc nghiên cứu này như sau:
Mẫu khảo sát định lượng: khảo sát bảng hỏi 198 người nông dân trong độ tuổi lao động tại 2
xã nông thôn Hải Phòng.
Về giới tính: Nam giới chiếm (45%) và nữ giới chiếm (55%)
Về độ tuổi:
Độ tuổi
Tỷ lệ %
18 – 29
11,3
30 – 39
17,5

5
40 – 49
22,8
50- 59
48,3
Về học vấn:
Trình độ học vấn
Tỷ lệ %
Biết đọc, biết viết
2,9
Tiểu học

15,2
THCS
57,3
THPT
17
Cao đẳng trở lên
7

Về nghề nghiệp:
Nghề nghiệp
Tỷ lệ %
Nông nghiệp kết hợp cán bộ địa phương
(cán bộ xã, thôn):
7,7%
Thuần nông
60,9%
Nông nghiệp + buôn bán/dịch vụ
16%
Nông nghiệp + tiểu thủ công nghiệp
13,8%
Nông nghiệp + nghề khác
1,65%
Về tôn giáo:
 Phật giáo: 23,6%
 Thiên chúa giáo: 17,3%
 Không tôn giáo: 58,5%
 Phương pháp phỏng vân sâu: Học viên đã trực tiếp phỏng vấn sâu 20 đối tượng thuộc 2 xã,
trong đó mỗi xã phỏng vấn 5 trường hợp là cán bộ xã, thôn và 10 trường hợp là người nông
dân, nông dân kết hợp với các ngành nghề khác có mức sống khác nhau.


6
 Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: Tác giả thu thập những tư liệu có sẵn, những
nghiên cứu những bài viết liên quan đến hoạt động văn hóa của người dân nông thôn trong
suốt thời gian qua.
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
6.1. Giả thuyết nghiên cứu
- Hoạt động giải trí văn hoá của người nông dân hiện nay đa dạng và phong phú hơn trước
với nhiều hình thức giải trí văn hoá mới, có sự biến đổi trong việc tham gia vào các hoạt
động giải trí nhưng chủ yếu là những hoạt động giải trí tại nhà, mất ít chi phí về mặt vật
chất.
- Có sự khác biệt trong sự tham gia các hoạt động giải trí của người nông dân theo giới
tính, độ tuổi, học vấn, nghề nghiệp và mức sống, tôn giáo khác nhau.
- Khả năng đáp ứng của xã hội đối với nhu cầu giải trí văn hoá của người nông dân còn hạn
chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
6.2. Khung lý thuyết
PHẦN II. NỘI DUNG CHÍNH
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn
1.1 Cơ sở lý luận, phương pháp luận.
1.1.1 Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đóng vai trò nền tảng,
là cơ sở phương pháp luận cho toàn bộ quá trình nghiên cứu.
1.1.2 Các lý thuyết áp dụng
1.1.2.1 Lý thuyết nhu cầu: Lý thuyết nhu cầu của tác giả MASLOW là lý thuyết được áp
dụng sâu rộng trong các nghiên cứu của khoa học xã hội. MASLOW phân chia các nhu cầu
của con người làm 5 mức, xếp theo thứ tự từ thấp đến cao, thường được biểu diễn dưới dạng
tháp. Nhưng nhu cầu sinh lý là căn bản nhất, gồm nhu cầu thức ăn và đồ uống, nhà ở, quần
áo, thư giãn. Chúng được ưu tiên thỏa mãn trước khi con người nghĩ đến mức nhu cầu tiếp
theo. Hầu hết mọi người có mong muốn về an ninh và an toàn, không gặp phải những điều
bất ngờ. Khi mọi người tham gia vào những hoạt động giải trí, nhất là trong thời gian rảnh rỗi
thì thể hiện được sự hợp lý trong việc sắp xếp cuộc sống của họ. Họ cũng cần nghe hát, cần


7
xem phim, cần chơi thể thao, cần được giao lưu học hỏi… trong xã hội hiện nay, thời gian
rảnh không có nhiều trong điều kiện ở nông thôn Việt Nam nhưng người dân vẫn phải có sự
bố trí, sắp xếp công việc để ít nhất có thể có những hoạt động giải trí phù hợp với quỹ thời
gian phù với điều kiện kinh tế, sức khỏe. Như vậy, áp dụng lý thuyết nhu cầu chúng ta phân
tích được tình hình biến đổi trong việc tham gia vào các hoạt động giải trí văn hóa của nông
dân một cách rõ nét.
1.1.2.2 Lý thuyết lựa chọn hợp lý: Thuyết lựa chọn hợp lý (hay còn gọi là thuyết lựa chọn
duy lý) trong xã hội học có nguồn gốc từ triết học, kinh tế học và nhân học vào thế kỷ VIII,
XIX. Một số nhà triết học đã cho rằng bản chất con người là vị kỷ, luôn tìm đến sự hài lòng,
sự thoả mãn và lảng tránh nỗi khổ đau. Một số nhà kinh tế học cổ điển thì từng nhấn mạnh
vai trò động lực cơ bản của động cơ kinh tế, lợi nhuận khi con người phải đưa ra quyết định
lựa chọn hành động. Đặc trưng thứ nhất có tính chất xuất phát điểm của sự lựa chọn duy lý
chính là các cá nhân lựa chọn hành động.
1.1.2.3 Lý thuyết biến đổi xã hội: Biến đổi xã hội (tiếng Anh: Social change) là một quá
trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã
hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian.
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định của xã hội chỉ là sự ổn
định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội
nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng
luôn biến đổi; sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này cho
thấy rõ hơn là sự biến đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở thành chuyện thường ngày.
Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khác, không ngừng vận động và
thay đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục

8
1. 2 Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Những nghiên cứu đầu tiên về giải trí xuất hiện rất lâu trong lịch sử loài người, những
tác phẩm của Aristote, Platon và các tác giả khác bàn về bản chất, chức năng của giải trí trong
đời sống của con người. Nhưng phải đến cuối thế kỉ 19 giải trí và những vấn đề liên quan

(thời gian nhàn rỗi…) mới được thực sự quan tâm. Hiện nay đã hình thành khoa học về nhàn
rỗi với tư cách là khoa học liên ngành, trong số các khoa học về giải trí có mặt của xã hội học
về giải trí, một chuyên ngành có đối tượng nghiên cứu là thời gian rỗi trong mối tương tác với
quỹ thời gian, đặc biệt là thời gian lao động và trong mối quan hệ với các thiết chế xã hội, cơ
cấu văn hoá, văn hoá và các quá trình xã hội. Sự biến đổi về khoa học kỹ thuật, kinh tế kéo
theo hàng loạt những biến đổi về xã hội, văn hóa …Chúng ta thấy có rất nhiều tác giả trong
ngành khoa học xã hội nói chung và xã hội học, văn hóa học nói riêng đã có những công trình
nghiên cứu, những bài viết, bình luận, nhận xét về vấn đề này:
Nghiên cứu về biến đổi kinh tế - xã hội ở Việt Nam nói chung không phải là một đề tài mới
mẻ, tuy nhiên không phải trong công trình nghiên cứu nào về biến đổi xã hội cũng đề cập đến
sự biến đổi về việc tham gia các hoạt động giải trí văn hóa của người dân. Hầu hết các nghiên
cứu đều chỉ tập trung vào phân tích sự biến đổi xã hội ở các khía cạnh: điều kiện kinh tế, y tế,
giáo dục, văn hóa nói chung hoặc nghiên cứu sự tham gia của một nhóm xã hội vào các hoạt
động cộng đồng xã hội. Vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu một số biến đổi các
hoạt động giải trí văn hoá của nông dân đồng bằng Bắc bộ hiện nay” nghiên cứu trường hợp
thành phố Hải Phòng làm đề tài luận văn thạc sỹ với mong muốn đóng góp làm phong phú
những các cứ liệu vào hệ thống nghiên cứu về biến đổi xã hội nói chung.
1.3 Các khái niệm công cụ
1.3.1 Người nông dân
1.3.2 Khái niệm nhu cầu giải trí
1.3.3 Khái niệm giải trí văn hóa
1.3.4 Khái niệm thời gian rỗi

9
1.3.5 Biến đổi xã hội
1.4 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của địa bàn nghiên cứu

Chương 2: Một số biến đổi trong các hoạt động giải trí văn hoá của nông dân đồng
bằng Bắc Bộ
2.1 . Thực trạng những biến đổi kinh tế, văn hoá của người nông dân thời kì đổi mới.

2.1.1. Biến đổi trong hoạt động kinh tế
Gắn với thời kì đổi mới, từ năm 1986, Đảng và Nhà Nước ta có nhiều quyết sách đúng đắn về
công nghiệp, nông thôn, nhiều chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được ban
hành như: Nghị Quyết 5 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng (khóa 7) ngày 10 tháng 6 năm
1993; Nghị quyết 6 của bộ chính trị ngày 10 tháng 11 năm 1998, Nghị quyết hội nghị Trung
Ương 5 khóa IX của Ban chấp hành Trung Uơng Đảng, tháng 3 năm 2002. Đặc biệt, từ năm
2001 đến 2006, cả nước đã triển khai Đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã
theo hướng CNH - HĐH, hợp tác hóa, dân chủ hóa, do Ban kinh tế Trung Ương và Bộ Nông
nghiệp và Phát Triển nông thôn chỉ đạo. Đề án đã được đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm.
Hiện nay, theo quyết định 2614/QĐ/BNN-HTX ngày 8-9-2006 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn, trên cả nước đang triển khai mô hình làng nông thôn mới ở
trên 200 làng ở các địa phương
2.1.2. Biến đổi của cảnh quan nông thôn
Có thể nói bắt đầu từ thập niên 1990, làng quê Việt Nam, nhất là ở khu vực châu thổ sông
Hồng đã có sự chuyển động. Đó là từ khi người nông dân có những mùa vụ bội thu theo cơ
chế khoán, gia đình được xác định là đơn vị tự chủ trong sản xuất - kinh doanh và cơ chế kinh
tế thị trường bắt đầu lan toả với mức độ khác nhau ở mỗi miền quê. Trong hơn chục năm qua
người ta đã từng bàn đến sự phát triển của thị trường lao động nông nghiệp, những thay đổi về
phân công lao động trong gia đình, những thay đổi về phạm vi làng xã, những thay đổi về các
quan hệ cộng đồng ở những miền quê có tính di động cao và bàn cả về những hậu quả của
những thay đổi. Dù sao thì sự thay đổi cũng đã diễn ra. Tuy nhiên đó là những chuyển đổi đầy
khó khăn và nghiệt ngã. Ở trong phạm vi ảnh hưởng của những va chạm các giá trị văn hoá
ngược chiều, mọi sự lựa chọn đều phải trả giá thích ứng.

10

2.1.3. Biến đổi các thiết chế văn hoá nông thôn
Hiện nay nước ta vẫn tỷ lệ lớn dân số sống ở nông thôn, nước ta vẫn là nước nông nghiệp với
các thiết chế văn hoá nông thôn. Xây dựng nông thôn mới, trong đó có phát triển văn hoá
nông thôn là chủ trương đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước. Để cụ thể hoá chủ trương,

việc đưa ra bộ tiêu chí với các chỉ tiêu về nhiều mặt đời sống nông thôn là rất cần thiết. Đó là
các tiêu chí đã được nghiên cứu kỹ căn cứ từ thực tiễn. Tuy nhiên, xây dựng nông thôn mới
phải làm rõ được chủ thể xây dựng nông thôn mới chính là người nông dân và họ là đối tượng
thụ hưởng. Các tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp cùng với nông dân xây dựng nông thôn
mới…là điều không phải dễ. Lâu nay, việc thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ người dân
không phải lúc nào cũng thành công như mong muốn. Bởi người dân tuy là đối tượng thụ
hưởng nhưng lại hoàn toàn nằm ở thế bị động.
2.2 Những biến đổi trong hoạt động giải trí văn hoá của người nông dân
2.2.1. Thời gian rỗi của người nông dân thời kì hội nhập
Trong thời kì hội nhập, thời gian rảnh rỗi của người nông dân không có nhiều. Họ tận dụng
thời gian để tăng gia sản xuất, để tìm mọi nguồn lao động tăng thu nhập. Trước đây họ chỉ có
thể sản xuất trên những mảnh ruộng của mình, chăn nuôi gia súc gia cầm. Tuy nhiên giờ đây là
họ có thể mở những hoạt động dịch vụ, họ có thể đi làm ăn xa. Một năm có hai vụ chính là hè
thu và đông xuân, ngoài thời gian đó ra đó là thời gian nông nhàn của nông dân.
Đối tượng chính trong nghiên cứu này là nông dân, tuy nhiên ở nông thôn trong thời kì hội
nhập thì rất khó để tìm ra những người chỉ làm riêng nông nghiệp thôi. Thường chúng ta sẽ
thấy sự kết hợp như sau: Cán bộ địa phương (trưởng thôn trở lên), nông nghiệp (chỉ có nghề
làm ruộng, nông nghiệp kết hợp buôn bán/ dịch vụ, nông nghiệp kết hợp nghề thủ công nghiệp,
nông nghiệp và nghề khác. Tất cả họ đều đóng nhiều vai, vừa lao động nông nghiệp vừa tham
gia hoạt động khác mục đích là tăng thu nhập.
Như vậy, thời gian rảnh rỗi của nông dân trong thời kỳ hiện nay không có nhiều thời gian,
tất nhiên là họ có những khuôn giờ nhất định để có thể tham gia các hoạt động giải trí văn hóa.
2.2.2 Sự biến đổi các hoạt động tham gia giải trí văn hoá trong thời gian rỗi
Kết quả khảo sát đã cho thấy thời kì đổi mới và hội nhập vừa qua, người nông dân vùng
đồng bằng Bắc Bộ đã có bước cải thiện vượt bậc về đời sống vật chất và tinh thần qua những
chỉ báo về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu nhập, sự cải thiện điều kiện nhà ở, phương tiện
sinh hoạt và tiêu dùng văn hóa. Người nông dân tự chủ hơn, năng động hơn trong thời kì mới
của kinh tế thị trường. Không gian và điều kiện sống mở rộng tạo điều kiện cho người nông

11

dân mở rộng giao lưu, tiếp xúc xã hội, tiếp nhận và trao đổi thông tin. Đó cũng là môi trường
và điều cơ bản để hình thành dư luận xã hội trong thời kì đổi mới và hội nhập. Tìm hiểu về
những hoạt động sống trong thời gian rỗi của người nông dân là khía cạnh đáng chú ý về khía
cạnh này.
2.2.3. Các hoạt động văn hoá đặc trưng: hội hè, đình đám
Hàng năm, có lẽ không có làng quê Việt Nam nào lại không mở hội làng, nhỏ thì một ngày,
lớn thì nhiều ngày, nhất là những năm được mùa thì hội làng vui không kể xiết. Hội làng ở
các làng quê nước ta thường được tổ chức vào mùa xuân, khi đất trời giao hòa, thiên nhiên
tươi tốt, lòng người hân hoan. Có thể nói, trên cái nền hết sức phong phú và đa dạng của hội
hè, đình đám ở nông thôn Việt Nam, hội làng được coi là thời điểm cuốn hút nhất, tưng bừng
nhất với những nghi thức tôn nghiêm và thuần Việt nối đời: tế lễ, rước, trò vui và hát xướng
Thành phố Hải Phòng – nơi có đầy đủ những lễ hội đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc bộ thì
bên cạnh đó Hải phòng còn có những lễ hội đặc trưng như Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, Lễ hội
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lễ hội Núi Voi
2.3. Các nhân tố tạo nên sự khác biệt trong việc tham gia các hoạt động giải trí văn hóa
của người dân
Thông qua các yếu tố thuộc đặc điểm cá nhân NTL (tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân) và các yếu tố thuộc đặc điểm hộ gia đình (điều kiện kinh tế, tôn giáo ), học
viên tìm hiểu các nhân tố tạo nên sự khác biệt trong việc tham gia các hoạt động giải trí văn
hóa trong thời kỳ hiện nay.
2.3.1. Các yếu tố nhân khẩu học
2.3.1.1 Trình độ học vấn
Trong xã hội hiện đại, học vấn là chìa khóa của sự phát triển và là một trong những yếu
tố quan trọng quyết định vị thế và sự thăng tiến trong xã hội của mỗi cá nhân. Trình độ học
vấn cũng được coi là thước đo đánh giá trình độ nhận thức và trình độ văn hóa của mỗi cá
nhân.
2. 3.1.2. Tuổi và giới tính
Số liệu khảo sát cho thấy yếu tố tuổi và giới tính của người trả lời có liên quan đến việc
tham gia các hoạt động giải trí văn hóa, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng không giống nhau.
Nam giới ở hầu hết các chỉ số đều cao hơn hẳn phụ nữ. Cụ thể các chỉ số so sánh nam đến

họ hàng/ thân thích: 71,7% (so với nữ; 58%), đến nhà bạn bè họ hàng 72,5% (nữ 58,9%), đến
nơi công cộng: 33% (nữ 14,8%), đọc sách báo: 35,5% (nữ 20,7%), xem ti vi: 80,8% nữ
76,6%, chơi thể thao: 15,9% 9 nữ 3,3%, sinh hoạt câu lạc bộ 30,4% (nữ 20,4%). Có duy nhất

12
hoạt động đi nhà thờ, đền chùa thì tỷ lệ nữ tham gia nhiều hơn nam nhưng không đáng kể.
Qua đây chúng ta thấy rằng việc ở nông thôn đàn ông có nhiều thời gian rảnh hơn phụ nữ và
họ tham gia vào các hoạt động giải trí hơn. Phần lớn nữ giới ngoài các công việc đi làm đồng,
buôn bán, công tác… thì họ phải đảm nhiệm các công việc nhà nhiều hơn, thời gian chăm sóc
con cái cũng nhiều hơn nên họ không có nhiều thời gian giành cho việc giải trí của bản thân.
Điều này thể hiện rõ được sự bất bình đẳng giới ở địa bàn nông thôn nước ta.
2.3.1.3 Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một trong số những yếu tố quan trọng trong cuộc đời mỗi cá nhân, nó cho
biết người đó làm gì, và chiếm vị thế ra sao trong xã hội, đồng thời nghề nghiệp cũng là nhân
tố giúp duy trì cuộc sống của mỗi cá nhân. Trong chu trình sống của mình, các cá nhân có thể
có một hoặc thậm chí chiếm lĩnh nhiều nghề nghiệp khác nhau cùng lúc để tạo ra nguồn thu
nhập cho gia đình. Và trong khoảng thời gian đó, các cá nhân cũng có sự thay đổi nghề
nghiệp theo từng thời kỳ khác nhau, sự thay đổi này khá đa dạng, nó có thể gắn liền với sự
thay đổi nơi sinh sống, độ tuổi, thời gian và sức lực.
2.3.1.4 Tôn giáo
Tại địa bàn khảo sát, có hai tôn giáo chính mà người dân tham gia đó là phật giáo và thiên
chúa giáo. Tỷ lệ như sau: Phật giáo: 23,6%, Thiên chúa giáo: 17,3%, Không tôn giáo: 58,5%.
Nửa số người trả lời không theo tôn giáo nào, gần ¼ theo phất giáo còn lại là họ theo Thiên
chúa giáo. Tôn giáo cũng là yếu tố chi phối đến việc lựa chọn tham gia các hoạt động giải trí
của người dân.
2.3.3 Các chính sách về phát triển văn hóa nông thôn của chính quyền địa phương.
Chính quyền địa phương đưa ra những chính sách phát triển văn hóa có phù hợp với tình
hình thực tế là điều rất cần thiết. Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế để thúc đẩy sản
xuất, tăng thu nhập cho các gia đình thì các chính sách về phát triển văn hóa xã hội cũng đóng
vai trò then chốt. Người dân muốn tham gia vào những hoạt động giải trí văn hóa thì trước tiên

họ phải có điều kiện để tham gia.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Mức sống dân cư là biểu hiện cho sự phát triển của một khu vực, một quốc gia. Mức sống
của đại bộ phận dân cư không ngừng được cải thiện và nâng lên rõ rệt kể từ sau chính sách
Đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Dưới tác động của công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước, cùng với đó là sự chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp sang hướng nâng cao dần tỷ

13
trọng công nghiệp, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp, cuộc sống của người dân đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực cả về đời sống
tinh thần và đời sống vật chất.
“Phú quý sinh lễ nghĩa”, khi cuộc sống trở nên no đủ hơn thì người dân bắt đầu chú ý
nhiều tới các hoạt động giải trí văn hóa, bởi những hoạt động này giúp cho đời sống tinh thần
của họ trở nên phong phú hơn. Kết quả khảo sát cho thấy có sự biến động trong việc người
dân tham gia các hoạt động giải trí văn hóa trong thời gian qua và cũng cho thấy dự báo xu
hướng biến đổi của hoạt động này. Những hoạt động này được khảo sát trong nghiên cứu bao
gồm xem tivi, đọc báo, sinh hoạt câu lạc bộ, đi chơi nơi công cộng, chơi thể thao, đi nhà thờ
nhà chùa, đến họ hàng thân thích, đến bạn bè hàng xóm, đánh bài.
Đối với các hoạt động như: tham gia thăm hỏi họ hàng, đi đền chùa, lễ hội, đến các điểm
vui chơi giải trí cũng thu hút được sự tham gia của người dân nhiều hơn ở mọi thời điểm. Đây
là dịp để mọi người trong gia đình, bạn bè thân hữu có điều kiện gặp gỡ thăm hỏi nhau nên đa
phần người trả lời đều cho biết hiện nay họ tham gia tích cực hơn so với thời điểm trước.
Trong việc tham gia các hoạt động này cũng cho thấy có một số khác biệt giữa nam và nữ,
mức sống, tôn giáo khác nhau, giữa độ tuổi khác nhau, điều quan trọng là người đó có phải là
chủ hộ hay không.
Các nhân tố như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, điều kiện kinh tế
gia đình, nghề nghiệp, được xem như những yếu tố tạo nên sự khác biệt trong việc tham gia
các hoạt động giải trí văn hóa của người dân. Trong mọi thời điểm, nam giới tham gia nhiều
hơn phụ nữ ở mọi hoạt động, ngoại trừ hoạt động đi nhà thờ, chùa chiền. Những người có

trình độ học vấn cao tham gia tích cực hơn người có trình độ học vấn thấp hơn. Những gia
đình có mức sống khá giả cũng chi tiêu nhiều hơn cho các hoạt động giải trí văn hóa, và các
thành viên trong gia đình này cũng tham gia tích cực hơn.
Trong giới hạn luận văn này tác giả mới khảo cứu được thực trạng sự biến đổi và các
nhân tố tạo nên sự khác biệt trong việc tham gia các hoạt động giải trí văn hóa văn hóa của
nông dân tại thành phố Hải Phòng. Các kết quả nghiên cứu này góp phần làm phong phú thêm
kho tài liệu về biến đổi xã hội nói chung.
2. Khuyến nghị
Trên cơ sở những kết luận được rút ra từ quá trình nghiên cứu về biến đổi trong hoạt
động giải trí văn hóa trong thời kỳ đổi mới, tác giả xin đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc
đẩy sự tham gia của người dân vào các hoạt động này.
Kinh tế được xem là chìa khóa để mở ra một cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại bộ phận dân
cư. “Có thực mới vực được đạo”, có nghĩa muốn người dân tích cực tham gia các hoạt động

14
giải trí văn hóa thì trước tiên phải tạo điều kiện cho họ phát triển kinh tế gia đình. Cần thực
hiện một cách nhất quán và triệt để các chính sách xóa đói giảm nghèo, tạo hành lang pháp lý
và môi trường kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế hộ. Giúp các hộ dân chuyển đổi
ngành nghề theo hướng phi nông nghiệp, hoặc nếu là nông nghiệp phải là nông nghiệp bền
vững.
Trong mọi hoạt động, người làm cán địa phương, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân. Cán bộ cấp thôn, xã cần trau dồi kiến thức, kỹ năng về tổ chức, quản lý văn hóa để có thể
thu hút được sự tham gia của người dân. Nói như một cán bộ làm công tác văn hóa thông tin
thì: “Nếu như tại các cuộc họp thôn xóm, phần thuyết giảng, mệnh lệnh được thay bằng các
tiết mục ca hát, đóng kịch tuyên truyền thì sự tiếp thu của người dân chắc chắn sẽ tự nhiên và
hiệu quả hơn nhiều. Nhiều người dân đi họp thì nhác, nhưng đi xem văn nghệ thì người ta rất
thích, nhất là những người quanh năm đầu tắt mặt tối, đi làm về đã mệt, người ta luôn muốn
được thoải mái, thư giãn…”. Đó được xem như là một cách làm để thu hút sự tham gia của
người dân vào các hoạt động văn hóa tinh thần.
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường với một nền kinh tế trên đà

phát triển, lối sống của dân cư ở đâu đó đã thay đổi theo hướng thương mại hóa. Đối với các
lễ hội truyền thống cần thay đổi nội dung chương trình sao cho phù hợp với đông đảo dân cư,
đặc biệt với những người trẻ, bởi hiện nay các lễ hội này chưa thu hút được sự quan tâm của
đại bộ phận giới trẻ. Một trong những nguyên nhân là do các cơ quan văn hóa, ban tổ chức lễ
hội còn mang nặng tính chất hình thức mà chưa chú trọng đến phần “hội”, không có sân chơi
cho giới trẻ. Các lễ hội dân gian được biết đến qua phần lễ rình rang, phô diễn hình thức còn
phần hội thì sơ sài, nhàm chán
Bản thân mỗi người dân cần nâng cao nhận thức trong việc tham gia các hoạt động giải trí
văn hóa. Bởi việc tham gia các hoạt động giải trí văn hóa là cách mỗi người thể hiện được sự
quan tâm đến đời sống tinh thần và nâng cao chất lượng cuộc sống của mình. Con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội, do đó nên mỗi người dân phải tự ý thức về vai trò và trách nhiệm
của mình. Các cá nhân cần chủ động nắm bắt các chính sách phát triển văn hóa – xã hội, tham
gia góp ý kiến cùng với chính quyền địa phương. Có ý thức giữ gìn, bảo tồn những giá trị văn
hóa của các lễ hội truyền thống.

References
1. Trần Thị Vân Anh - Nguyễn Hữu Minh, (chủ biên), (2008), Bình đẳng giới ở Việt
Nam, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội

15
2. Nguyễn Văn Bích, (2007): Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi
mới: quá khứ và hiện tại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội
3. Đinh Thị Vân Chi, (2001), Mấy nhận xét về sự biến đổi nhu cầu giải trí của thanh niên
Hà Nội hiện nay, tạp chí Xã hội học số 2, năm 2001.
4. Học viện Báo chí và tuyên truyền (2008) “Biến đổi cơ cấu – xã hội sau đổi mới và dự
báo xu hướng biến đổi”.
5. Nguyễn Từ Chi, (1996) Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người. Nhà xuất bản
văn hóa thông tin, Hà Nội
6. Tống Văn Chung, (2001). Xã hội học nông thôn. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà
Nội

7. Nguyễn Văn Dân với bài viết “Đời sống văn hóa của người Việt Nam sau hai mươi
năm đổi mới”, tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 9 năm 2008
8. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
9. Bùi Quang Dũng, (2007), Xã hội học nông thôn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Mai Văn Hai, (2009), Xã hội học văn hóa, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
11. Mai Văn Hai và TS Phạm Việt Dũng, “Xu hướng biến đổi trong văn hóa và lối sống ở
Việt Nam”, tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 2 năm 2010
12. Trần Ngọc Hiên, “Nguồn gốc của những biến đổi xã hội nông thôn Việt Nam và
phương hướng phát triển”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số 3 năm 2007
13. Hà Thị Minh Khương, (2007), Việc sử dụng thời gian rỗi của phụ nữ và nam giới, tạp
chí nghiên cứu gia đình và giới, số 1 năm 2007.
14. Trịnh Duy Luân - Helle Rydstrom - Wil Burghoorn (chủ biên), (2008), Gia đình nông
thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Nguyễn Tuấn Minh, (2008), “Thực trạng sử dụng thời gian rỗi của người dân nông
thôn đồng bằng Bắc bộ”, tạp chí xã hội học số 4 năm 2009
16. Lâm Thị Ánh Quyên (2006), Xã hội học lối sống, Lưu hành nội bộ- Trường Đại học
mở - bán công TP. HCM.
17. Nguyễn Đình Tấn “Biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới”, Tạp

16
chí thông tin khoa học xã hội số 3 năm 2010
18. Trương Xuân Trường, (2009), Bài giảng Xã hội học Nông thôn, Viện Xã hội học,
Viện Khoa học xã hội Việt Nam
19. Trương Xuân Trường, (2010) “Dư luận xã hội của người nông dân Đồng Bằng Bắc
Bộ về hội nhập WTO”, nghiên cứu đề tài cấp bộ, Viện xã hội hoc Viện khoa học xã hội Việt
Nam.
20. Trương Xuân Trường, (2006), “Một số biến đổi kinh tế - xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc
bộ trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Xã hội học số 2 năm 2006
21. Trương Xuân Trường, (2005),“Tìm hiểu mức độ tiếp cận thông tin trên các phương

tiện thông tin đại chúng của người nông dân châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới” Tạp
chí Xã hội học số 2 năm 2005
22. Bùi Quang Thắng, (2009), Bài giảng Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa nghệ thuật
Việt Nam
23. Tạp chí văn hóa nghệ thuật, (08/11/2010), vài nét về văn hóa nông thôn hiện nay
24.
25. Tập thể tác giả, 1984, Tập bài dịch về vấn đề lối sống Xã hội chủ nghĩa, Viện Xã hội
học, Hà Nội.
26. Trần Từ (1984), Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ. Nhà xuát
bản Khoa học xã hội, Hà Nội
27. UBND huyện An Dương, Báo cáo Kết quả phong trào xây dựng đời sống văn hóa
năm 2009, phương hướng nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa năm 2010

×