Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

LUẬN VĂN:CÁC CƠ CHẾ ĐỊNH TUYẾN QoS VÀ THUẬT TOÁN MỞ ĐƯỜNG NGẮN NHẤT ĐẦU TIÊN (OSPF) MỞ RỘNG docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.33 MB, 85 trang )


i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ

NGUYỄN THỊ NGÂN

CÁC CƠ CHẾ ĐỊNH TUYẾN QoS VÀ THUẬT TOÁN

MỞ ĐƯỜNG NGẮN NHẤT ĐẦU TIÊN (OSPF) MỞ RỘN



LUẬN VĂN THẠC SĨ








Hà Nội – 2011


ii

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1


CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ ĐỊNH TUYẾN QoS 3
1.1. Giới thiệu định tuyến dựa trên QoS 3
1.1.1. Định tuyến 3
1.1.2. Định tuyến dựa trên QoS 5
1.1.3. Mục đích của định tuyến dựa trên QoS 7
1.2. Các vấn đề cơ bản của định tuyến dựa trên QoS 8
1.2.1. Metric và sự tính toán đường đi 8
1.2.2. Lan truyền và duy trì thông tin 9
1.2.3. Mô hình thông tin trạng thái không chính xác 10
1.2.4. Điều khiển của quản trị mạng 11
1.2.5. Vấn đề thuật toán trong định tuyến dựa trên QoS. 11
1.2.6. Vấn đề động trong định tuyến dựa trên QoS 15
1.3. Kỹ thuật OSPF và vấn đề mở rộng OSPF cho định tuyến QoS 17
1.3.1. Kỹ thuật OSPF 17
1.3.2. Độ tin cậy trong định tuyến dựa trên QoS 21
1.3.3. Đặt vấn đề nghiên cứu thuật toán OSPF mở rộng 22
CHƯƠNG 2 – CƠ BẢN VỀ CÁC CƠ CHẾ ĐỊNH TUYẾN QoS [2] 25
2.1. Định tuyến QoS nội miền 25
2.1.1. Vấn đề thuật toán lựa chọn đường đi 26
2.1.2. Định tuyến đa đích 31
2.1.3. Định tuyến liên kết riêng biệt 33
2.1.4. Phương pháp định tuyến dựa trên dự đoán 34
2.2. Định tuyến QoS liên miền[14] 36

iii

2.2.1. Các mở rộng QoS và kỹ thuật lưu lượng sử dụng BGP 37
2.2.2. Các phương pháp che phủ 37
2.2.3. Multihoming 39
2.3. Bảng định tuyến 42

2.3.1. Cơ chế trao đổi thông tin để xây dựng bảng định tuyến 44
2.3.2. Các chính sách cập nhật 44
2.3.3. Cơ chế chuyển tiếp 46
2.3.4. Chuyển tiếp hai mức giới hạn 49
CHƯƠNG 3 - OSPF MỞ RỘNG CHO ĐỊNH TUYẾN QoS 51
3.1. Mở rộng đảm bảo chất lượng dịch vụ cho OSPF [7]- [12] 51
3.1.1. Các khả năng tùy chọn QoS 51
3.1.2. Mã hóa tài nguyên khi TOS mở rộng 52
3.1.3. Mã hóa băng thông 53
3.1.4. Mã hóa trễ 55
3.2. Các cơ chế thực hiện mở rộng QoS cho OSPF 55
3.2.1. Các thuật toán và thông tin lựa chọn đường dẫn 55
3.2.2. Thông báo thông tin trạng thái liên kết 63
3.3. Khảo sát cơ chế chuyển tiếp trong định tuyến OSPF mở rộng cho QoS 66
3.3.1. Hiệu suất của các phiên bản không giới hạn 68
3.3.2. Hiệu suất của các phiên bản giới hạn 72
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO 76


iv


THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

ARPANET Advanced Research Projects
Agency Network
Mạng lưới cơ quan với các đề
án nghiên cứu tiên tiến
AS Autonomous System Hệ thống tự trị

ASid Autonomous System
Identifier
Số nhận dạng hệ thống tự trị
BGP Border Gateway Protocol Giao thức cổng biên
BRP Bandwidth Restricted Path Tuyến bị giới hạn băng thông
CLM Connectionless Multicast Đa điểm không kết nối
COS Class of Service Lớp dịch vụ
DIMCRA Link-Disjoint Multiple
Constraints Routing
Algorithm
Thuật toán định tuyến đa
rằng buộc liên kết rời rạc
DVMRP Distance Vector Multicast
Routing Protocol
Giao thức định tuyến đa điểm
theo véc-tơ khoảng cách
FTP File Transfer Protocol Giao thức truyền tệp
IETE Internet Engineering Task
Force
Nhóm đặc trách kỹ thuật
internet
IP Internet Protocol Giao thức Internet
ISP Internet Service Provider Nhà cung cấp dịch vụ
Internet
ITU International
Telecommunication Union
Hiệp hội viễn thông quốc tế
LSA Link State Advertisement Thông báo trạng thái liên kết

v


MAMCRA Multicast Adaptive Multiple
Constraints Routing
Algorithm
Thuật toán định tuyến đa
ràng buộc thích ứng đa điểm
MCOP Multi-Constrained Optimal
Path
Tuyến tối ưu đa ràng buộc
MCP Multi-Constrained Path Tuyến đa ràng buộc
MOSPF Multicast Open Shortest Path
First
Mở đường ngắn nhất đầu tiên
đa điểm
MP-BGP Multi-Protocol BGP BGP đa giao thức
MPLS Multiprotocol Label
Switching
Chuyển mạch nhẵn đa giao
thức
NP Non-Polynomial Không đa thức
OSPF Open Shortest Path First Mở đường ngắn nhất đầu tiên
PBR Prediction-based routing
approach
Phương pháp định tuyến dựa
trên dự đoán
PIM Protocol Independent
Multicast
Chế độ đa điểm không phụ
thuộc giao thức
PNNI Private Network – Network

Interface
Giao diện mạng - mạng cá
nhân
QoS Quality of Service Chất lượng dịch vụ
QoSR QoS-based Routing Định tuyến dựa trên Chất
lượng dịch vụ
RIS Routing Information Service Dịch vụ thông tin định tuyến
RSVP Reservation Protocol Giao thức giữ chỗ
SAMCRA Self-Adaptive Multiple
Constraints Routing
Algorithm
Thuật toán định tuyến đa
ràng buộc tự thích ứng

vi

SLA Service Level Agreement Thỏa thuận mức độ dịch vụ
TOS Types of Service Kiểu dịch vụ
UMTS Universal Mobile
Telecommunications Systems
Hệ thống viễn thông di động
toàn cầu
VPN Virtual Private Network Mạng riêng ảo
WIFI Wireless Fidelity Thông tin không dây trung
thực



vii


DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Định tuyến 3
Hình 1.2. Ví dụ về phương pháp định tuyến dựa trên QoS 6
Hình 1.3. Mối quan hệ giữa ba kiểu định tuyến 6
Hình 1.4. Cấu trúc định tuyến phân cấp 13
Hình 1.5. Ví dụ về bảng định tuyến phân cấp (của A1) 13
Hình 1.6. Đường dẫn ngắn nhất trong một sơ đồ có hướng 15
Hình 1.7. Ví dụ mạng 18
Hình 1.8. Bắt đầu từ router A và các LSA của nó 18
Hình 1.9. Lựa chọn router B, và thêm các LSA của nó 18
Hình 1.10. Lựa chọn router E, tuyến đường không tốt hơn tới router C 19
Hình 1.11. Lựa chọn router C, và thêm các LSA của nó 19
Hình 1.12. Lựa chọn router F, và thêm các LSA của nó 19
Hình 1.13. Lựa chọn router G, và thêm các LSA của nó 20
Tuyến đường tốt hơn tới router D được tìm thấy 20
Hình 1.14. Lựa chọn router D 20
Hình 1.15. Định tuyến nội miền so với định tuyến liên miền 23
Hình 2.1. Ví dụ về việc dự đoán với 2 lộ trình 35
Hình 2.2. Cơ chế chuyển tiếp gói tin tại một nút 47
Hình 3.1. Một ví dụ mạng 67
Hình 3.2. MESH-I 68
Hình 3.3. ISP 68
Hình 3.4. Flooding không giới hạn: Quá tải trên MESH-I 69
Hình 3.5. Flooding không giới hạn: băng thông nhận vào trong MESH-I 70
Hình 3.6. Flooding không giới hạn: Quá tải trên ISP 71

viii

Hình 3.7. Flooding không giới hạn: băng thông nhận vào trên ISP 71
Hình 3.8. Giới hạn (L): Quá tải trên MESH-I 72

Hình 3.9. Giới hạn (L): Băng thông nhận vào trên MESH-I 73
Hình 3.10. Giới hạn (L): Quá tải trên ISP 74
Hình 3.11. Giới hạn (L): Băng thông nhận vào trên ISP 74

1

MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi công nghệ viễn thông đang phát triển mạnh mẽ trên toàn
thế giới thì vấn đề QoS là mối quan tâm lớn nhất không chỉ của các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông mà của cả những khách hàng sử dụng dịch vụ. Nhằm
mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của mạng thì một trong những giải
pháp được quan tâm là định tuyến đảm bảo chất lượng dịch vụ (định tuyến QoS-
QoSR). QoSR không những có vai trò làm tăng chất lượng dịch vụ mà còn có ý
nghĩa quan trọng trong việc giảm chi phí vận hành mạng, đem lại hiệu quả kinh
doanh và ý nghĩa kinh tế to lớn trên đà phát triển của mạng viễn thông.
Vấn đề định tuyến trên mạng Internet hiện nay tập trung chủ yếu vào việc
cung cấp kết nối và thường chỉ hỗ trợ dịch vụ dữ liệu “cố gắng tối đa”, với các
giao thức định tuyến dùng phương pháp định tuyến tìm đường ngắn nhất OSPF,
việc định tuyến được tối ưu dựa trên các số đo tĩnh như là số lượng các chặng và
các trọng số mang tính quản trị. Dịch vụ được cung cấp bởi những giao thức này
chỉ thích hợp cho các ứng dụng dữ liệu truyền thống mà không thích hợp cho
nhiều ứng dụng yêu cầu sự đảm bảo chặt chẽ về độ trễ và băng thông. Hơn nữa,
với sự phát triển bùng nổ của lưu lượng Internet, việc duy trì định tuyến tìm
đường ngắn nhất của Internet hiện thời dẫn đến sự phân bố mất cân đối của lưu
lượng.
Các giao thức định tuyến hiện nay được sử dụng trong các mạng IP,
không có bất kỳ nhận thức nào về nguồn tài nguyên sẵn có và yêu cầu. Điều này
có nghĩa là luồng lưu lượng thường được định tuyến qua các tuyến đường không
có khả năng hỗ trợ các yêu cầu của chúng, trong khi các tuyến đường kế tiếp
nhau với đủ các nguồn tài nguyên có sẵn. Điều này có thể dẫn đến suy giảm

đáng kể về hiệu suất. Mục tiêu của định tuyến đảm bảo QoS là cung cấp các
thuật toán định tuyến có khả năng nhận biết đường dẫn để đáp ứng số lượng tối
đa có thể có của các luồng lưu lượng với các yêu cầu QoS. Theo đó, định tuyến
đảm bảo QoS trong bối cảnh của Internet ngày nay đã nhận được sự quan tâm
ngày càng lớn.
Xuất phát từ thực tế trên, đề tài nghiên cứu: “Các cơ chế định tuyến QoS
và thuật toán mở đường ngắn nhất đầu tiên (OSPF) mở rộng” được lựa
chọn. Thay vì tìm hiểu các vấn đề chung khá rộng lớn của định tuyến QoS, ở
đây chỉ tập trung vào một vấn đề cụ thể, dựa trên một giao thức định tuyến hiện
có. Cụ thể là, mô tả một tập hợp các đề xuất bổ sung cho giao thức định tuyến
OSPF để hỗ trợ cho việc định tuyến đảm bảo chất lượng của dịch vụ (QoS)

2

trong IP. Tập trung vào các luồng lưu lượng đơn điểm, chú trọng tới các metric
cần thiết để hỗ trợ QoS, các cơ chế thông báo liên kết kết hợp, thuật toán lựa
chọn đường dẫn, cũng như các khía cạnh của việc thiết lập tuyến đường đảm bảo
QoS. Mục tiêu là định rõ một cách tiếp cận, trong khi đạt được các mục tiêu cải
thiện hiệu suất cho các luồng lưu lượng QoS, làm như vậy với các tác động ít
nhất có thể trên giao thức OSPF hiện có.
Nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về định tuyến đảm bảo QoS
Nội dung chính của chương này là giới thiệu các khái niệm, các vấn đề
liên quan cần nghiên cứu về định tuyến đảm bảo QoS và đặt vấn đề cho các mở
rộng sang OSPF.
Chương 2: Các cơ chế định tuyến QoS
Nội dung chính là trình bày về định tuyến QoS trong mạng phân cấp và
các cơ chế định tuyến đảm bảo QoS.
Chương 3: OSPF mở rộng cho định tuyến đảm bảo chất lượng
Nội dung tập trung vào các mở rộng của OSPF cho định tuyến QoS.


3

CHƯƠNG 1 - TỔNG QUAN VỀ ĐỊNH TUYẾN QoS
1.1. Giới thiệu định tuyến dựa trên QoS
1.1.1. Định tuyến
Định tuyến là sự lựa chọn đường đi để truyền một đơn vị dữ liệu từ trạm
nguồn đến trạm đích trong một liên mạng theo tiêu chí nhất định. Chức năng
định tuyến được thực hiện ở tầng mạng, cho phép router đánh giá các đường đi
sẵn có tới đích và chọn đường đi thích hợp (Hình 1.1). Để đánh giá đường đi,
định tuyến sử dụng các thông tin topo mạng, các thông tin này có thể do người
quản trị thiết lập hoặc được thu lượm thông qua các giao thức định tuyến.

Hình 1.1. Định tuyến
Tầng mạng hỗ trợ chuyển gói từ đầu cuối tới đầu cuối cố gắng tối đa
(best-effort) qua các mạng được kết nối với nhau, sử dụng bảng định tuyến để
gửi các gói từ mạng nguồn đến mạng đích. Sau khi đã quyết định sử dụng đường
đi nào, router tiến hành việc chuyển gói. Nó lấy một gói nhận được ở giao diện
vào và chuyển tiếp gói này tới giao diện ra tương ứng (giao diện thể hiện đường
đi tốt nhất tới đích cho gói).
Mục tiêu cơ bản của các phương pháp định tuyến là nhằm sử dụng tối đa
tài nguyên mạng, và tối thiểu hoá giá thành mạng. Để đạt được điều này kỹ thuật
định tuyến phải tối ưu được các tham số mạng và người sử dụng như: xác suất
tắc nghẽn, băng thông, độ trễ, độ tin cậy, giá thành,v.v Vì vậy, một kỹ thuật
định tuyến phải thực hiện tốt hai chức năng chính sau đây:
 Quyết định chọn đường theo những tiêu chuẩn tối ưu nào đó.
 Cập nhật thông tin định tuyến
Tuỳ thuộc vào kiến trúc, hạ tầng cơ sở mạng mà các kỹ thuật định tuyến
Chọn đường?



4

khác nhau được áp dụng. Các tiêu chuẩn tối ưu khi chọn đường dẫn từ trạm
nguồn tới trạm đích có thể phụ thuộc vào yêu cầu người sử dụng dịch vụ mạng.
Giữa mạng và người sử dụng có thể có các thoả thuận ràng buộc về chất lượng
dịch vụ cung cấp hay một số yêu cầu khác, điều đó có thể dẫn tới khả năng chọn
đường của mạng chỉ là cận tối ưu đối với một loại hình dịch vụ cụ thể, hoặc với
một số nhóm người sử dụng dịch vụ cụ thể. Chức năng cập nhật thông tin định
tuyến là chức năng quan trọng nhất mà các giao thức định tuyến phải thừa hành,
các giải pháp cập nhật thông tin định tuyến đưa ra hiện nay tập trung vào giải
quyết bài toán cân đối lưu lượng báo hiệu và định tuyến trên mạng với tính đầy
đủ và sự nhanh chóng của thông tin định tuyến.
Có nhiều cách để phân loại giao thức định tuyến, trong đó cách phân loại
phổ biến nhất là phân định tuyến thành định tuyến theo véc-tơ khoảng cách và
định tuyến theo trạng thái kết nối.
 Định tuyến theo trạng thái kết nối: các nút mạng quảng bá thông tin định
tuyến tới tất cả các nút trong liên mạng. Tuy nhiên, mỗi router chỉ gửi một
phần bảng định tuyến (phần mô tả trạng thái kết nối của router) và xây
dựng một bức tranh về toàn bộ mạng trong bảng topo. Mỗi khi topo trạng
thái kết nối thay đổi, các router đầu tiên biết được sự thay đổi này sẽ gửi
một thông báo trạng thái kết nối LSA (Link State Advertisement) mới tới
các router khác hoặc tới một router chỉ định (nơi các router khác có thể sử
dụng để cập nhật). LSA này sẽ được tràn ngập (flooding) tới tất cả các
router trên liên mạng.
 Định tuyến theo véc-tơ khoảng cách: là một thuật toán thích nghi nhằm
tính toán con đường ngắn nhất giữa các cặp nút trong mạng, dựa trên
phương pháp tập trung được biết đến như là thuật toán Bellman-Ford. Các
nút mạng thực hiện quá trình trao đổi thông tin trên cơ sở của địa chỉ đích,
nút kế tiếp và con đường ngắn nhất tới đích.

Khi tính toán đường đi ngắn nhất sử dụng định tuyến theo trạng thái kết
nối và định tuyến theo véc-tơ khoảng cách, thông tin trạng thái của mạng thể
hiện qua các số đo (Metric) thông qua giá (cost), các bộ định tuyến phải được
cập nhật giá trên tuyến kết nối. Khi có sự thay đổi topo mạng hoặc lưu lượng,
các nút mạng phải khởi tạo và tính toán lại tuyến đường đi ngắn nhất, tuỳ
theo giao thức được sử dụng trong mạng.
Các bảng định tuyến chứa thông tin được sử dụng bởi phần mềm chuyển
mạch để chọn tuyến tốt nhất. Các thuật toán phức tạp có thể chọn tuyến dựa trên

5

nhiều metric bằng cách kết hợp chúng thành một metric phức hợp. Các metric
được sử dụng phổ biến gồm: chiều dài đường đi, độ tin cậy, độ trễ, băng thông,
tải và giá truyền thông. Chúng ta có thể so sánh định tuyến véc-tơ khoảng cách
với định tuyến trạng thái kết nối theo một số tiêu chí như trong Bảng 1.1:
Bảng 1.1. So sánh định tuyến trạng thái kết nối và véc-tơ khoảng cách.
Véc-tơ khoảng cách Trạng thái kết nối
Nhận thức về topo mạng từ các
router kế cận.
Có được cái nhìn toàn cảnh về liên
mạng.
Cộng vào véc-tơ khoảng cách từ
router này tới router khác.
Tính toán đường đi ngắn nhất tới tất cả
các router.
Cập nhật định kỳ, hội tụ chậm. Cập nhật ngay khi thay đổi, hội tụ nhanh.

Chuyển bản sao của bảng định
tuyến tới các router kế cận.
Chuyển cập nhật định tuyến trạng thái

kết nối tới tất cả các router.
Định tuyến véc-tơ khoảng cách lấy dữ liệu topo từ thông tin bảng định
tuyến của các router kế cận. Định tuyến trạng thái kết nối có được một cái
nhìn toàn cảnh về topo của liên mạng bằng cách tích luỹ tất cả các LSA cần
thiết.
Định tuyến véc-tơ khoảng cách xác định đường đi tốt nhất bằng cách cộng
thêm vào giá trị metric mà nó nhận được khi thông tin định tuyến được gửi từ
router này tới router khác. Đối với định tuyến trạng thái kết nối, mỗi router làm
việc độc lập trong việc tính toán đường đi ngắn nhất tới các mạng đích.
Trong hầu hết các giao thức định tuyến véc-tơ khoảng cách, cập nhật định
tuyến về thay đổi topo mạng được gửi định kỳ. Các cập nhật được gửi từ router
này tới router khác, dẫn đến mạng hội tụ chậm. Với các giao thức định tuyến
trạng thái kết nối, cập nhật được gửi ngay khi topo mạng thay đổi. Các gói thông
báo trạng thái kết nối LSA có kích thước tương đối nhỏ được chuyển tới tất cả
các router, do đó thời gian hội tụ sẽ nhanh hơn khi topo mạng thay đổi.
1.1.2. Định tuyến dựa trên QoS
Định tuyến dựa trên QoS là cơ chế định tuyến theo đó đường đi cho các
luồng được xác định dựa trên một số hiểu biết về sự sẵn sàng của tài nguyên

6

trong mạng cũng như nhu cầu QoS của luồng [3]. Hay nói cách khác, đó là “một
giao thức định tuyến động có mở rộng tiêu chí chọn đường của nó bao gồm các
tham số QoS như băng thông sẵn có, hiệu quả sử dụng đường đầu cuối và kết
nối, mức tiêu thụ tài nguyên nút, trễ và trượt, biến động trễ”. Nói một cách ngắn
gọn là định tuyến động có tính đến QoS.
Hình 1.2 là ví dụ đơn giản về định tuyến dựa trên QoS. Giả sử có luồng
lưu lượng từ nút A tới nút C yêu cầu băng thông 4Mbps, mặc dù đường A-B-C
ngắn hơn, nhưng nó sẽ không được chọn vì không có đủ băng thông. Thay vào
đó đường A-D-E-C được chọn.


Hình 1.2. Ví dụ về phương pháp định tuyến dựa trên QoS
Bên cạnh đó, còn có hai khái niệm liên quan là định tuyến dựa trên
chính sách và định tuyến ràng buộc. Mối quan hệ giữa ba kiểu định tuyến
được thể hiện trong hình 1.3.





Hình 1.3. Mối quan hệ giữa ba kiểu định tuyến
Đ

nh tuy
ế
n ràng bu

c

Đ

nh tuy
ế
n
theo QoS

Định tuyến theo
ch
ính
s

ách


7

Định tuyến dựa trên chính sách là quyết định định tuyến không dựa
trên hiểu biết về topo mạng và các số đo mà dựa theo các chính sách quản
trị. Định tuyến theo chính sách thường được cấu hình tĩnh.
Định tuyến ràng buộc là một quan niệm phát triển từ định tuyến dựa trên
QoS nhưng có ý nghĩa rộng hơn. Nó tính đường đi để thoả mãn một số ràng
buộc, bao gồm cả các ràng buộc về QoS (yêu cầu QoS và sự sẵn sàng của tài
nguyên) và các ràng buộc theo chính sách.
1.1.3. Mục đích của định tuyến dựa trên QoS
Các giao thức định tuyến Internet hiện nay được gọi là giao thức định
tuyến “cố gắng tối đa”. Các giao thức này chỉ sử dụng “đường ngắn nhất” tới
đích, chúng thường dùng các thuật toán tối ưu với mục tiêu đơn, theo đó chỉ xem
xét một số đo (băng thông, số chặng, giá). Như vậy, toàn bộ lưu lượng được
định tuyến vào “đường ngắn nhất”, ngay cả khi tồn tại đường cạnh tranh khác,
chúng không được sử dụng chừng nào chúng chưa trở thành đường ngắn nhất.
Điều này có thể dẫn tới tắc nghẽn của một vài kết nối, trong khi các kết nối khác
không được dùng hết.
Định tuyến “cố gắng tối đa” sẽ chuyển lưu lượng từ một đường tới đường
“tốt hơn” mỗi khi nó tìm được. Việc này xảy ra ngay cả khi đường đang dùng
đáp ứng được các yêu cầu dịch vụ của lưu lượng. Kiểu chuyển đổi này là không
mong muốn vì nó dẫn tới sự dao động định tuyến, lưu lượng sẽ bị định tuyến
qua lại giữa các đường cạnh tranh. Thậm chí còn tồi tệ hơn vì kiểu dao động này
có thể làm tăng biến động trễ và trượt.
Định tuyến dựa trên QoS được cho là giải quyết hoặc tránh các vấn đề đã
nêu trên. Các mục tiêu chính của định tuyến dựa trên QoS là:
 Thứ nhất, là để đáp ứng các yêu cầu QoS của người sử dụng. Định tuyến

dựa trên QoS được giả thiết là để tìm một đường từ nguồn đến đích để
thoả mãn các yêu cầu của người sử dụng về băng thông, trễ đầu cuối, …
Ngoài ra, việc này phải được thực hiện trong chế độ động chứ không phải
là cấu hình tĩnh. Trong trường hợp có một vài tuyến khả thi sẵn có, tuyến
được lựa chọn có thể là cơ sở cho một vài chính sách ràng buộc. Ví dụ:
chúng ta có thể chọn tuyến ít chi phí nhất hoặc theo nhà cung cấp dịch vụ
chỉ định.

8

 Thứ hai, là để tối ưu hoá mức độ sử dụng tài nguyên mạng. Đây là mục
đích theo quan điểm của nhà cung cấp dịch vụ. Tất cả các nhà cung cấp
muốn khai thác tối đa khả năng mạng hiện thời của họ, nhờ thế đạt lợi
nhuận cao nhất. Bên cạnh đó, đây cũng là yêu cầu xuất phát từ góc độ kỹ
thuật xây dựng mạng. Định tuyến dựa trên QoS được trông đợi để quản lý
lưu lượng mạng một cách hiệu quả sao cho thông lượng qua mạng là lớn
nhất. Một lược đồ thông thường là luôn lựa chọn đường ngắn nhất trong
số các đường khả thi, vì đường dài hơn có nghĩa là sử dụng tài nguyên
mạng nhiều hơn.
 Thứ ba, khi mà mạng ở tình trạng tải lớn, khả năng thực thi của mạng
giảm, giống như xảy ra tắc nghẽn, định tuyến dựa trên QoS được mong
đợi là sẽ cho chất lượng tốt hơn (ví dụ: thông lượng tốt hơn) so với định
tuyến cố gắng tối đa, (định tuyến cố gắng tối đa có thể làm giảm thực thi
mạng một cách đột ngột).
1.2. Các vấn đề cơ bản của định tuyến dựa trên QoS
Định tuyến dựa trên QoS thì khó thiết kế và thực thi hơn nhiều so với định
tuyến cố gắng tối đa. Trong hầu hết các trường hợp mục đích không phải là tìm giải
pháp tốt nhất, mà là tìm giải pháp với chi phí có thể chấp nhận được.
1.2.1. Metric và sự tính toán đường đi
Có hai vấn đề cơ bản của phương pháp định tuyến dựa trên QoS: Thứ

nhất, đo và thu thập thông tin trạng thái mạng như thế nào; Thứ hai, tính toán
các lộ trình dựa trên thông tin đã thu được như thế nào. Sự lựa chọn metric là rất
quan trọng theo nghĩa rằng: “các metric phải thể hiện các đặc tính mạng cơ bản
mà ta quan tâm”. Do đó các metric như băng thông sẵn có, trễ, biến động trễ, …
được sử dụng phổ biến; cũng như là các metric xác định kiểu bảo đảm QoS mà
mạng cung cấp. Không có phương pháp hỗ trợ yêu cầu QoS nào mà không thể
biểu diễn bởi tổ hợp nào đó của các metric hiện hữu.
Bên cạnh đó cần xem xét sự phức tạp trong tính toán, nghĩa là việc tính
toán đường đi dựa trên một metric hoặc tổ hợp các metric phải không quá phức
tạp. Tiếc rằng, định tuyến dựa trên QoS thường được thực hiện với nhiều ràng
buộc và việc tính toán đường dựa trên tổ hợp nhất định nào đó của các metric đã
được chứng minh là bài toán NP (No Polynomial) hoàn thiện. Rất nhiều thuật
toán được đề xuất để giải quyết vấn đề này. Một phương pháp chung nhất được

9

gọi là “lọc tuần tự”, nghĩa là “một tổ hợp của các metric được sắp xếp thứ tự
theo một dạng nào đó phản ánh tầm quan trọng của các metric khác nhau”. Các
đường đi dựa trên metric đầu tiên được tính toán trước tiên và tập con của chúng
được loại bỏ dựa trên metric thứ hai và cứ như thế cho đến khi một đường đơn
được tìm thấy. Đây là sự cân bằng giữa sự tối ưu hoá phẩm chất và sự đơn giản
trong tính toán.
Việc tính toán đường đi cũng liên quan chặt chẽ tới việc dành trước tài
nguyên, nghĩa là một khi đường thích hợp đã được chọn thì tài nguyên tương
ứng (băng thông, không gian đệm trong các bộ định tuyến, …) phải được dành
cho dòng lưu lượng, vì vậy không thể dành cho các dòng khác. Hậu quả là,
lượng tài nguyên sẵn có (như băng thông) sau khi dành trước phải được tính
toán lại và thông tin đó phải được phát tán tới các bộ định tuyến khác. Bằng
cách này tất cả các bộ định tuyến có thể tạo quyết định đúng đắn cho các luồng
khác nhau.

1.2.2. Lan truyền và duy trì thông tin
Một vấn đề quan trọng là thông tin định tuyến thường được trao đổi
giữa các bộ định tuyến như thế nào. Định tuyến dựa trên QoS cần trao đổi
nhiều thông tin hơn định tuyến cố gắng tối đa. Thứ nhất, ngoài thông tin định
tuyến cần có giống như định tuyến cố gắng tối đa, cần trao đổi cả những
thông tin QoS, ví dụ như băng thông sẵn có. Thứ hai, các metric được sử dụng
trong định tuyến dựa trên QoS có thể thay đổi rất nhanh (một lần nữa, băng
thông sẵn có là một ví dụ điển hình). Nếu như thông tin định tuyến được trao
đổi mỗi khi có sự thay đổi giá trị metric, nó sẽ gây ra một tải trọng lớn cho
các kết nối mạng và các bộ định tuyến, tiêu thụ băng thông của mạng và các
nhịp CPU của các bộ định tuyến.
Một cách chung nhất là thiết lập một ngưỡng để phân biệt các thay đổi
đáng kể từ các thay đổi nhỏ. Thông tin chỉ được trao đổi khi xảy ra một thay
đổi đáng kể. Làm như thế, có thể đem lại sự ổn định của các tuyến QoS.
Thêm nữa, đây là sự trả giá giữa hiệu quả và sự chính xác của thông tin định
tuyến. Một phương pháp khác là chỉ xem xét các tài nguyên sẵn có sau khi
dành trước thay cho các tài nguyên có thực. Lấy băng thông là ví dụ. Giả sử
một đường kết nối trong mạng có băng thông 4Mbps, trong đó băng thông
3Mbps đã được dành trước bởi một số đường nào đó. Vì vậy băng thông sẵn
có còn lại là 1Mbps. Trong điều kiện là không có một luồng mới nào dành lấy

10

băng thông sẵn có này và không có luồng nào trả lại băng thông hiện đang
giữ, thì băng thông sẵn có được coi là 1Mbps. Nói cách khác, ta không xem
xét lượng băng thông được dành trước nhưng không được sử dụng, mặc dù
băng thông được dùng trong thực tế có thể thay đổi theo thời gian (có thể là
1,5Mbps tại thời điểm này và 2,5Mbps tại thời điểm khác). Hai cách này có
thể được sử dụng cùng với nhau.
Một vấn đề liên quan là duy trì thông tin thu được như thế nào. Nếu ta

giữ thông tin cho từng luồng trong các bộ định tuyến, thì kích thước của bảng
định tuyến sẽ tăng lên rất nhanh. Có một gợi ý là chỉ giữ bảng định tuyến cho
lưu lượng cố gắng tối đa và tính toán các đường đi cho các luồng QoS theo
nhu cầu. Đây là sự hy sinh thời gian tính toán thay cho không gian bộ nhớ.
Một phương pháp khác có thể là nhóm luồng. Thay cho việc ghi nhớ thông tin
về các luồng riêng rẽ ta có thể nhóm các luồng và chỉ duy trì thông tin về các
nhóm luồng, với số lượng rõ ràng ít hơn.
1.2.3. Mô hình thông tin trạng thái không chính xác
Một xu hướng trong thiết kế thuật toán định tuyến dựa trên QoS là ngày
càng có nhiều người tin rằng định tuyến QoS về bản chất là không chính xác.
“Không chính xác” có nghĩa rằng thông tin trạng thái dùng trong định tuyến là
không chính xác. Các nguồn gốc của sự không chính xác là:
 Tính động của mạng: một vài tham số hay metric (cụ thể là băng thông sẵn
có và độ trễ) gắn với nút và kết nối của mạng thay đổi theo thời gian. Sẽ rất
khó (thậm chí là không thể) để gửi cho thông tin thật chính xác.
 Nhóm thông tin định tuyến: như đã đề cập ở phần trước, nhóm định
tuyến là được khuyến khích để giảm sự định tuyến cập nhật tải và sự
định tuyến chứa tải, đặc biệt cho các mạng lớn. Tổng tin của nhóm
thường mang tính đại diện hoặc tính trung bình.
 Thông tin ẩn: đối với việc bảo mật hoặc một vài nguyên nhân khác,
một vài thông tin định tuyến được ẩn đi và do đó không thể nhận ra.
 Các tính toán gần đúng: không có giá trị nào của tham số hay metric
của mạng thực sự là chính xác. Đó chỉ là các giá trị gần đúng của các
giá trị thực, theo thời gian thực

11

1.2.4. Điều khiển của quản trị mạng
Có một số vấn đề điều khiển liên quan tới QoS.
 Thứ nhất là vấn đề ưu tiên và chiếm đoạt: các luồng khác nhau trong

mạng có các yêu cầu QoS khác nhau, vì thế có mức ưu tiên khác nhau.
Các luồng quan trọng có thể được gán mức ưu tiên cao hơn các luồng
khác. Khi tài nguyên (ví dụ như băng thông) không có đủ, các luồng
này có thể chiếm tài nguyên từ các luồng có mức ưu tiên thấp hơn. Ví
dụ luồng thoại hoặc video (với yêu cầu nghiêm ngặt về trễ và băng
thông) có thể được gán mức ưu tiên cao hơn và được phép chiếm băng
thông hoặc bộ đệm của các luồng FTP (File Transfer Protocol - Giao
thức truyền tệp).
 Thứ hai là vấn đề kiểm soát tài nguyên: Trong khung cảnh mạng có
nhiều lớp dịch vụ lưu lượng, tài nguyên phải được phân phối công bằng
giữa các dịch vụ. Như vậy sự thiếu hụt tài nguyên của các lớp dịch vụ
ưu tiên thấp có thể tránh được. Việc bố trí tài nguyên này có thể được
thực hiện ở dạng động. Định tuyến dựa trên QoS cần bao hàm các sơ đồ
điều khiển như trên.
1.2.5. Vấn đề thuật toán trong định tuyến dựa trên QoS.
Về cơ bản có thể chia các thuật toán định tuyến dựa trên QoS thành ba
loại: định tuyến chặng tới chặng (còn gọi là định tuyến phân tán), định tuyến
nguồn và định tuyến phân cấp. Chúng được chia theo cách duy trì thông tin
trạng thái và tìm đường thích hợp để truyền như thế nào.
 Định tuyến nguồn: Mỗi bộ định tuyến đều chứa thông tin trạng thái mạng
toàn cục và đường được chọn một cách cục bộ dựa trên thông tin trạng
thái này. Sau khi đường được xác định, bộ định tuyến nguồn thông báo
cách đưa các lưu lượng tải như thế nào cho các bộ định tuyến khác theo
đường đó. Sau đó luồng sẽ được định tuyến đến đích phù hợp. Định tuyến
nguồn là đơn giản theo nghĩa rằng chỉ bị quyết định bởi nguồn. Các bộ
định tuyến khác theo đường truyền chỉ cần theo đường xác định trước đó
và nó sẽ không gây ra sự định tuyến lòng vòng. Tuy nhiên, nó cũng có
những nhược điểm.
o Thứ nhất, yêu cầu mỗi bộ định tuyến chứa thông tin trạng thái
mạng hoàn chỉnh, mà điều này là khó duy trì, đặc biệt đối với mạng


12

lớn, gây ra nhiều cập nhật thông tin trạng thái, do đó đưa nhiều lưu
lượng tải tới mạng.
o Thứ hai, nếu tổng hợp những cập nhật thông tin trạng thái để làm
giảm sự quá tải lưu lượng, thì độ chính xác của thông tin có thể bị
giảm đi. Do vậy, có thể không tìm được một đường thích hợp hiện
tại.
o Thứ ba, mặc dù các bộ định tuyến khác có thể dễ dàng định hướng
lưu lượng, nhưng việc tính toán tải tại các bộ định tuyến nguồn là
rất lớn. Tóm lại, thuật toán định tuyến nguồn có vấn đề co giãn, do
vậy không tốt cho các mạng lớn.
 Định tuyến phân tán: Trong định tuyến phân tán, mỗi bộ định tuyến chỉ
biết các chặng kế tiếp tới nguồn đích. Do đó khi một gói truyền tới, bộ định
tuyến chỉ chuyển nó tới bộ định tuyến chặng tiếp theo. Theo từng bước như
vậy, gói được đưa đến đích. Phần lớn các giao thức mạng Internet (như
RIP) đều dùng thuật toán này. Định tuyến phân tán được sử dụng cho hầu
hết các giao thức định tuyến “cố gắng tối đa”. Do vậy, dễ dàng để thiết kế
và phù hợp hơn với các giao thức định tuyến hiện thời. Việc tính toán tải
định tuyến được góp bởi tất cả các bộ định tuyến trên đường, từ nút nguồn
tới nút đích. Tuy nhiên, tồn tại vấn đề định tuyến lòng vòng khi thông tin
trạng thái định tuyến trong các bộ định tuyến khác nhau là không phù hợp.
Bên cạnh đó cũng có vấn đề co giãn.
 Định tuyến phân cấp: Định tuyến phân cấp là phù hợp nhất cho mạng
lớn. Cấu trúc của định tuyến bao gồm nhiều cấp. Cấp trung tâm bao gồm
các bộ định tuyến hiện thời. Những bộ định tuyến này được tổ chức
thành các nhóm cục bộ, mà hình thành nên cấp tiếp theo. Mỗi nhóm là
các nút cục bộ trong cấp kế tiếp. Các nhóm có thể được tổ chức lớn hơn
trong các nhóm cấp cao hơn. Quá trình xử lý này có thể đệ quy

(recursively), do đó mỗi cấp không có quá nhiều nút (các bộ định tuyến).
Thông tin định tuyến được tích hợp tại các nút tiếp giáp với mỗi nhóm.
Mỗi nút bao gồm thông tin chi tiết về nhóm của nó và thông tin được
tích hợp về các nhóm khác. PNNI và QOSPF là ví dụ tiêu biểu cho định
tuyến phân cấp. Như thấy trong hình 1.4: A1, A2, A3 tạo thành một nhóm
cục bộ, được tương ứng bằng nút cục bộ A. Tượng tự: B1, B2, B3 tạo
thành một nhóm; C1 và C2 tạo thành một nhóm khác, tương ứng với các

13

nút cục bộ B và C. Các nút cục bộ A, B và C tạo thành một nhóm ở một
cấp khác.

Hình 1.4. Cấu trúc định tuyến phân cấp
Hình 1.5 cho thấy bảng định tuyến của A1 trong cấu trúc hình 1.4, nó
chứa thông tin chi tiết về nhóm của nó (nhóm A), trong khi thông tin về
nhóm B và nhóm C được tích hợp.

Hình 1.5. Ví dụ về bảng định tuyến phân cấp (của A1)
Có thể nói, ưu điểm lớn nhất của định tuyến phân cấp là sự co giãn. Do
vậy phù hợp với các mạng lớn. Thông tin trạng thái định tuyến có thể
được tổng hợp để giảm tải trong bộ nhớ và cập nhật định tuyến. Tuy
nhiên, việc tổng hợp cũng giảm độ chính xác của thông tin trạng thái định
tuyến, do vậy ảnh hưởng đến chất lượng của định tuyến dựa trên QoS. Rõ
ràng, định tuyến phân cấp cho thấy rất nhiều ưu điểm nổi trội, phù hợp
cho việc định tuyến QoS trong các mạng hiện nay. Chúng ta sẽ nghiên
N
út
logic B


N
út
logic C

Nh
óm
logic m

c
2

Nh
óm
logic A

Nh
óm
logic B

Nh
óm
logic C

Nút logic
A

Nút logic B

Nút logic
C



14

cứu sâu hơn về cơ chế và thuật toán trong định tuyến QoS nội miền và
liên miền trong chương 2
Như đã nêu, vấn đề thuật toán trong định tuyến dựa trên QoS, được gọi là
vấn đề chọn đường tối ưu hóa đa ràng buộc MC(O)P (Multi-Constrained
(Optimal) Path) Một vài phương pháp đã đề xuất ra chỉ tiêu đặc biệt cho vấn đề
MC(O)P. Ví dụ, khi băng thông là một trong những ràng buộc phải được thỏa
mãn bởi thuật toán tính toán đường đi, vấn đề MCP được định nghĩa như là vấn
đề đường dẫn có giới hạn băng thông BRP. Một phương pháp đơn giản để giải
quyết vấn đề MCP nói chung là thông qua việc kết hợp các tham số. Bằng việc
kết hợp một tập hợp các phép đo QoS trong một phép đo đơn, nó có thể sử dụng
thuật toán tính toán đa thức thời gian hiện tại như Bellman–Ford hoặc Dijkstra.
Thuật toán Dijkstra cần có thông tin về toàn bộ đồ thị để có thể tìm ra con đường
ngắn nhất từ một đỉnh tới các đỉnh còn lại. Thuật toán Bellman-Ford thì thích
hợp cho việc tính toán phân tán chỉ cần thông tin về các cung từ một đỉnh tới các
đỉnh lân cận. Việc sử dụng các thuật toán này, mỗi nút trong mạng sẽ lưu giữ
một bảng chọn đường, chỉ ra nút tiếp theo trên con đường ngắn nhất tới đích, và
số đo của con đường đó. Khi mạng có sự thay đổi, các thông tin cập nhật được
chuyển qua các nút lân cận hoặc được quảng bá trên toàn mạng. Từ đó, các nút
sẽ tính lại bảng chọn đường của mình. Dựa vào các bảng chọn đường trong mỗi
nút, chúng ta có thể tạo được cây đường ngắn nhất tới mỗi nút. Hình dưới đây
mô tả đường dẫn ngắn nhất trong một sơ đồ hướng theo Dijkstra. Sơ đồ này có 6
nút và 11 cạnh. Đường dẫn ngắn nhất từ nút 1 đến nút 6 là đường đi từ nút 1 đến
nút 5 đến nút 4 rồi đến nút 6.

15



Hình 1.6. Đường dẫn ngắn nhất trong một sơ đồ có hướng
1.2.6. Vấn đề động trong định tuyến dựa trên QoS
Vấn đề khó khăn nhất hiện nay cản trở việc thực hiện QoS trên Internet
liên quan tới giao thức định tuyến dựa trên QoS. Để cho phép định tuyến dựa
trên QoS, cần phải triển khai các giao thức mạng nhận biết được QoS và phụ
thuộc vào trạng thái. Một ví dụ về giao thức PNNI (Private Network – Network
Interface) sử dụng định tuyến trạng thái liên kết, trong đó mỗi nút sẽ cố gắng để
có được bản đồ topo mạng cơ bản và các tài nguyên có thể dùng được thông qua
“flooding” (gửi tin kiểu tràn ngập). Các tài nguyên sẵn có trong một kết nối
được thể hiện bằng các giá trị, được gọi là trọng số kết nối. Mặc dù đơn giản,
đáng tin cậy, nhưng “flooding” kéo theo việc truyền thông không cần thiết và
gây ra việc sử dụng không hiệu quả nguồn tài nguyên. Đặc biệt, định tuyến dựa
trên QoS yêu cầu sự phân bố thường xuyên của các số liệu động và phức tạp.
Giám sát bất kì sự thay đổi nào của internet là việc không đơn giản và thậm chí
là không mong muốn bởi vì không phải tất cả sự thay đổi đều quan trọng. Hai
thay đổi hợp lý được xem xét là:
 Thay đổi thường xuyên do việc tham gia hoặc rời khỏi mạng của các nút.
Trong internet hiện nay, chỉ loại thay đổi topo mới được xét đến. Tính
động của nó tương đối được hiểu rõ

16

 Các thay đổi thường xuyên liên quan đặc thù tới sự tiêu hao các nguồn tài
nguyên hoặc tới sự truyền tải lưu lượng qua mạng.
Việc kết hợp trọng số kết nối với thông tin trạng thái làm phức tạp thêm
“flooding” bởi vì, trái với những thay đổi thường xuyên, thời gian hội tụ
“flooding” có thể lâu hơn tốc độ thay đổi của một vài tham số (như băng thông
khả dụng). Sự nhận dạng các đặc tính QoS và sự mô tả đặc điểm của chúng là
yếu tố quyết định đến khái niệm giao thức định tuyến nhận biết được QoS. Các

đặc tính QoS sử dụng để hỗ trợ các quyết định định tuyến thường bao gồm băng
thông, tỷ lệ mất mát, trễ và jitter. Việc lựa chọn các thông số để mà căn cứ vào
đó đưa ra quyết định định tuyến là một trong những vấn đề chính phải được giải
quyết trong chiến lược định tuyến bởi vì nó quyết định đồng thời các đặc tính để
cung cấp cho lưu lượng và sự phức tạp của thuật toán tính toán đường dẫn. Việc
lựa chọn các tham số phải được thực hiện để tăng nhận thức dịch vụ mạng và tự
nhận thức mạng.
Định nghĩa của các vấn đề liên quan đến các thông số góp phần nâng cao
tự nhận thức và nhận thức dịch vụ thông qua định nghĩa của các quyết định liên
quan đến lựa chọn thông số và các cơ chế cho việc thao tác số liệu. Việc tính
toán các đường dẫn nhận thức QoS yêu cầu các bộ định tuyến có được thông tin
về trạng thái của mạng dưới dạng các số liệu đã được lựa chọn. Trạng thái của
mạng gồm có trạng thái cục bộ của mỗi nút và trạng thái bao trùm đang gắn liền
với đường dẫn hiện tại. Trạng thái bao trùm duy trì bởi mỗi nút có thể nhận
được bởi sự phân bố của các trạng thái cục bộ của các nút.
Một chiến lược cập nhật tối ưu cho những thay đổi không thường xuyên
là mong muốn trong tương lai, các mạng đa phương tiện được đặc trưng bởi sự
biến đổi lớn trong chế độ lưu lượng và yêu cầu QoS. Mặc dù một số nghiên cứu
đã đề cập đến vấn đề này nhưng không có chiến lược cập nhật chi tiết nào cho
các thay đổi không thường xuyên.
Hơn nữa, không phải tất cả các chi tiết của toàn bộ mạng internet toàn cầu
là cần thiết để xác định đường đi từ A tới B. Một mạng con bao gồm A và B có
vẻ như đủ. Về mặt này, các thuộc tính của một topo mạng là rất quan trọng.
Internet cho thấy có một sự phân cấp nhất định, trong khi các mạng Ad-Hoc có
thể thay đổi từ các cấu trúc lưới thành các đồ hình ngẫu nhiên. Từ đó các đường
dẫn phụ thuộc mạnh mẽ vào cấu trúc trọng số kết nối và các thuộc tính của đồ
hình, tính động của mạng sẽ phụ thuộc vào các yếu tố này, thậm chí đến mức mà

17


một số chiến lược điều khiển thành công trong một lớp nào đó của đồ hình có
thể không làm việc đúng trong đồ hình khác.
1.3. Kỹ thuật OSPF và vấn đề mở rộng OSPF cho định tuyến QoS
1.3.1. Kỹ thuật OSPF
OSPF [6] là một giao thức với một phạm vi rộng các metric có thể cấu
hình. Đây là loại giao thức định tuyến yêu cầu mỗi router duy trì ít nhất một bản
đồ một phần của mạng. Khi một router mới gia nhập vào một mạng, nó tìm hiểu
để nhận dạng danh tính của tất cả các router láng giềng của nó. Khi điều này
được thực hiện, mỗi router sẽ xây dựng một thông điệp có chứa các định danh
và các giá của các liên kết gắn với router cụ thể. Các thông điệp này được gọi là
các thông báo trạng thái liên kết (LSA). Bất cứ khi nào trạng thái của một liên
kết thay đổi, thì một LSA được flooding trên toàn mạng. Tất cả các bộ định
tuyến sẽ thông báo sự thay đổi này, và tính toán lại các tuyến đường phù hợp.
Mỗi router sẽ lưu LSA mới nhất từ mọi router trong mạng, bây giờ mỗi bộ định
tuyến biết topo mạng hiện tại và có thể tính toán các tuyến đường ngắn nhất.
Các tuyến đường ngắn nhất tới tất cả các nút khác trong mạng được tính toán
với các thuật toán Dijkstra. Hoạt động cơ bản của thuật toán được minh họa
trong hình sau đây. Bảng 1.2 là bảng chuyển tiếp kết quả cho router A.
Bảng 1.2. Bảng chuyển tiếp cho router A
Đích đến Liên kết Metric
A Local 0
B 1 10
C 1 20
D 1 60
E 2 20
F 1 40
G 1 50

×