Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (773.34 KB, 96 trang )








LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước đối với hoạt động
du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình









MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Ninh Bình nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ, cách Hà Nội 96 km về phía
Nam. Dãy núi Tam Điệp chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam làm ranh giới tự nhiên
giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa. Phía Đông và Đông Bắc có sông Đáy bao quanh, là
ranh giới tự nhiên với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định, phía Bắc là tỉnh Hòa Bình, phía
Nam là biển Đông.
Ninh Bình có vị trí rất quan trọng, là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa
lưu vực sông Hồng với lưu vực sông Mã, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng núi Tây
Bắc và miền Trung. Trên địa bàn tỉnh có các quốc lộ và tuyến giao thông quan trọng chạy


qua như 1A; 10; 12A; 12B, đường sắt Bắc - Nam. Ninh Bình còn có hệ thống sông ngòi
khá dày đặc như sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, sông Vân. Hệ thống
giao thông thủy, bộ tạo thành mạng lưới giao thông rất thuận tiện cho giao lưu, phát triển
kinh tế của tỉnh.
Tài nguyên du lịch của Ninh Bình tương đối phong phú, đa dạng bao gồm hệ
thống núi đá vôi, rừng, hồ, các di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng, cùng với văn hóa của
cư dân nông nghiệp địa phương. Đây là một lợi thế quan trọng, tạo tiền đề phát triển nhiều
loại hình du lịch phong phú, đa dạng. Tài nguyên du lịch Ninh Bình được phân bố tương
đối tập trung ở một số khu vực chính như Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, Kim Sơn, với khu
du lịch nổi tiếng: Tam Cốc - Bích Động, Tràng An, rừng quốc gia Cúc Phương, khu bảo
tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, suối khoáng nóng Kênh Gà - Vân Trình Nguồn
tài nguyên văn hóa độc đáo của Ninh Bình có những địa danh điển hình như cố đô Hoa Lư,
nhà thờ đá Phát Diệm, phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn, chùa Bái Đính Đây chính là
điều kiện rất tốt cho việc hình thành và phát triển những khu du lịch trọng điểm, có sức
hấp dẫn thu hút du khách trong và ngoài nước.

Phát huy lợi thế đó, trong những năm qua, Ninh Bình đã tập trung đầu tư phát triển
du lịch đồng bộ trên cả ba nội dung: xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển sản phẩm
du lịch và xây dựng hệ thống cơ sở và đội ngũ nhân viên ngành du lịch. Ngày 13-7-2009,
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIX đã ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TU về phát
triển du lịch Ninh Bình đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Với sự quan tâm chỉ đạo
sát sao và đầu tư thích đáng, các hoạt động dịch vụ, du lịch của tỉnh liên tục phát triển, doanh
thu du lịch năm 2010 ước đạt 559 tỷ đồng, tăng 8,8 lần so với năm 2005.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động du lịch đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và
lợi thế của tỉnh. Chất lượng các dịch vụ du lịch chưa cao; doanh số kinh doanh du lịch còn
khiêm tốn, khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế ở lại Ninh Bình với số lượng ít, số ngày
lưu trú ngắn Ninh Bình còn thiếu các khu nghỉ dưỡng, khách sạn, các khu vui chơi giải
trí cao cấp đạt chuẩn quốc tế. Hơn nữa, tỉnh chưa tạo được sản phẩm du lịch độc đáo, đặc
trưng, có sức thu hút khách. Về quản lý nhà nước, còn lúng túng và thực hiện kém hiệu
quả ở tất cả các khâu, đặc biệt là công tác xúc tiến, quảng bá du lịch, quản lý các cơ sở du

lịch đảm bảo chất lượng và uy tín đối với khách hàng.
Quán triệt vai trò của hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh, Nghị quyết số 15-NQ/TU
của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xác định rõ:
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, phát triển du lịch là trách nhiệm của
các cấp, các ngành và của mỗi người dân… Phát triển du lịch bền vững, từng
bước đưa du lịch sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy nhiều ngành, nhiều lĩnh vực cùng phát
triển…[41].
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XX cũng đã thông qua phương hướng, mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của nhiệm kỳ 2010-2015, trong đó có các mục tiêu, giải
pháp về phát triển du lịch: "Đưa kinh tế du lịch vào thời kỳ tăng tốc, để du lịch thực sự trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Mục tiêu đặt ra là phấn đấu khách du lịch đến năm
cuối nhiệm kỳ (2015) đạt 6 triệu lượt khách, khách lưu trú đạt 1 triệu lượt khách" [6].
Để thực hiện các mục tiêu và quan điểm phát triển du lịch nêu trên, ngoài sự nỗ

lực của các cơ sở du lịch của tỉnh, về phía quản lý nhà nước cần có những biện pháp đổi
mới và thực hiện triệt để trong thực tế. Việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
hoạt động du lịch sẽ giúp ngành du lịch Ninh Bình giữ được các chuẩn mực và chất lượng
dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh, về lâu dài sẽ phát triển ổn định và hiệu quả
cao.
Trong điều kiện hiện nay, để đổi mới, hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, cần có những công trình nghiên cứu về cơ sở
lý luận và thực tiễn đổi mới và hoàn thiện công tác này.
Với những lý do nêu trên, đề tài: "Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình" được lựa chọn làm luận văn tốt nghiệp khóa học thạc sĩ của
học viên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài nghiên cứu, đã có một số công trình đã công bố. Sau đây là
những công trình điển hình.
- Nguyễn Minh Đức (2007), "Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du

lịch tỉnh Sơn La trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Luận án tiến sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), "Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang", Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trịnh Đăng Thanh (2004) "Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động
du lịch ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
- Trần Xuân Ảnh (2007), "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường
du lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132.
- Nguyễn Văn Mạnh (2007), "Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
sau khi gia nhập WTO", Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 115.

- Vũ Khoan (2005), "Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm
2010", Tạp chí Du lịch, số 11.
- Trịnh Đăng Thanh (2004), "Một số suy nghĩ về công tác quản lý nhà nước đối
với ngành du lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 98.
- Võ Thị Thắng (2001), "Tăng cường quản lý nhà nước để du lịch Việt Nam phát
huy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7(66).
- Trần Nguyễn Tuyên (2005), "Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 114.
+ Phạm Trung Lương (4/1998), Cơ sở khoa học phát triển du lịch sinh thái ở Việt
Nam, Đề tài khoa học cấp ngành, Hà Nội.
+ Nguyễn Văn Mạnh (2007), Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững
sau khi ra nhập WTO, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội
+ Tạ Minh Phương (2006) "Phát triển du lịch sinh thái trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình thực trạng và giải pháp" Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh.
Các công trình nêu trên là nguồn tư liệu quý để đề tài tham khảo và kế thừa. Tuy
nhiên, Đề tài: "Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình"
là một đề tài không trùng lặp, mang tính đặc thù riêng, chưa có đề tài khoa học nào nghiên

cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng hoạt động du lịch của Ninh Bình, đề xuất
được phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nhằm thúc đẩy ngành du lịch của tỉnh phát triển nhanh và bền
vững, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn xác định có những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trò, chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với hoạt động du lịch trong điều kiện đổi mới hiện nay ở Việt Nam nói chung và ở cấp tỉnh
nói riêng.
- Phân tích thực trạng phát triển hoạt động du lịch của tỉnh Ninh Bình từ năm 2001
đến nay; từ đó đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hoạt động
du lịch ở Ninh Bình, nhằm khai thác có hiệu quả lợi thế tiềm năng du lịch của tỉnh giai
đoạn 2010-2020.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt
động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Luận văn chủ yếu nghiên cứu các quá trình và
hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện bởi chính quyền địa phương tỉnh - huyện -
phường, xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình từ năm 2001 đến nay; phương hướng, giải pháp quản lý và phát triển du lịch Ninh
Bình đến 2020.
Hoạt động du lịch ở đây được hiểu là các hoạt động kinh tế tương tác giữa các chủ
thể tham gia vào các dịch vụ thuộc ngành du lịch diễn ra trên địa bàn khảo sát ở tỉnh Ninh

Bình. Các chủ thể đó bao gồm: các cơ sở kinh doanh dịch vụ nghỉ dưỡng, tham quan, khai
thác tour, nhà hàng, bán đồ lưu niệm…; khách du lịch; các tổ chức hiệp hội về du lịch.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và Nhà nước
về phát triển kinh tế, thể hiện trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng; Các
văn bản pháp luật đã ban hành, đặc biệt là Luật Du lịch, Luật Di sản văn hóa, Luật Bảo
vệ môi trường và các văn bản luật khác.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu đề ra, đề tài sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ thống,
đánh giá, dự báo; phương pháp chuyên gia.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về quản
lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn một tỉnh, lấy Ninh Bình làm điển hình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình giai đoạn từ 2001 đến 2010, làm rõ những điểm tích cực, hạn chế
và nguyên nhân.
- Đề xuất được những giải pháp cơ bản, có khả năng áp dụng trong thực tiễn, góp
phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Ninh
Bình trong thời gian tới.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan và cá nhân
trong việc nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển du lịch nói chung và du lịch Ninh
Bình nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.





Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, CÁC LOẠI HÌNH HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch
1.1.1.1. Khái niệm du lịch
Ngày nay, du lịch đã thực sự trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, cho đến nay quan niệm về du lịch vẫn chưa có sự thống nhất. Do quan điểm
tiếp cận và góc độ nghiên cứu khác nhau, có cách hiểu khác nhau về du lịch. Đúng như một
chuyên gia du lịch đã nhận định, đối với du lịch, có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy
nhiêu định nghĩa.
Ở nước Anh, du lịch xuất phát từ tiếng "To Tour" có nghĩa là cuộc dạo chơi (Tour
round the world-cuộc đi vòng quanh thế giới; to go for tour round the town- cuộc dạo
quanh thành phố; tour of inspection- cuộc kinh lý kiểm tra, …). Tiếng Pháp, từ du lịch bắt
nguồn từ Le Tour có nghĩa là cuộc dạo chơi, dã ngoại,… Theo nhà sử học Trần Quốc
Vượng, du lịch được hiểu như sau: Du có nghĩa là đi chơi, Lịch là lịch lãm, từng trải, hiểu
biết, như vậy du lịch được hiểu là việc đi chơi nhằm tăng thêm kiến thức.
Như vậy, có khá nhiều khái niệm du lịch nhưng tổng hợp lại ta thấy du lịch hàm
chứa các yếu tố cơ bản sau:
* Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội.
* Du lịch là sự di chuyển và tạm thời lưu trú ngoài nơi ở thường xuyên của các cá
nhân hoặc tập thể nhằm thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của họ.
* Du lịch là tập hợp các hoạt động kinh doanh phong phú và đa dạng nhằm phục


vụ cho các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời và các nhu cầu khác của cá nhân hoặc tập thể
khi họ ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ.
* Các cuộc hành trình, lưu trú tạm thời của cá nhân hoặc tập thể đó đều đồng thời
có một số mục đích nhất định, trong đó có mục đích hòa bình.
Năm 1963, với mục đích quốc tế hóa khái niệm du lịch, tại Hội nghị Liên hợp
quốc về du lịch họp ở Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: Du
lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các
cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ
hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc
của họ.
Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn Từ điển Bách Khoa toàn thư Việt
Nam (1966) đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt.
Nghĩa thứ nhất (đứng trên góc độ mục đích của chuyến đi): "Du lịch là một dạng
nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ
ngơi, giải trí, xem danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, công trình văn hóa, nghệ thuật,…"
[18].
Nghĩa thứ hai (đứng trên góc độ kinh tế):
Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều
mặt: nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền thống lịch sử và văn hóa dân tộc,
từ đó góp phần tăng thêm tình yêu đất nước; đối với người nước ngoài là tình
hữu nghị với dân tộc mình; về mặt kinh tế, du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang
lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tại
chỗ [18].
Việc phân định rõ ràng hai nội dung cơ bản của khái niệm có ý nghĩa góp phần
thúc đẩy sự phát triển du lịch. Cho đến nay, không ít người, thậm chí ngay cả các cán bộ,
nhân viên đang làm việc trong ngành du lịch, chỉ cho rằng du lịch là một ngành kinh tế. Do
đó, mục tiêu được quan tâm hàng đầu là mang lại hiệu quả kinh tế. Điều đó cũng có thể

đồng nghĩa với việc tận dụng triệt để mọi nguồn tài nguyên, mọi cơ hội để kinh doanh.
Trong khi đó, du lịch còn là một hiện tượng xã hội, nó góp phần nâng cao dân trí, phục hồi

sức khỏe cộng đồng, giáo dục lòng yêu nước, tính đoàn kết,… Chính vì vậy, toàn xã hội
phải có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ, đầu tư cho du lịch phát triển như đối với giáo dục,
thể thao hoặc một lĩnh vực văn hóa khác.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động du lịch
Nước ta là một nước đang phát triển, nền kinh tế trong những năm gần đây đã có
nhiều bước phát triển so với thời kỳ những năm 80 song so với một số nước trong khu vực
thì nền kinh tế của chúng ta vẫn còn thấp kém bởi nước ta đã phải trải qua hai cuộc chiến
tranh lớn và hậu quả mà chúng để lại là những khó khăn thách thức to lớn. Khi đất nước
bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển du lịch và coi du
lịch như một ngành kinh tế quan trọng.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, bao gồm các hoạt động khá đa dạng từ
dịch vụ phòng nghỉ, ăn uống, mua bán đồ lưu niệm và hàng hóa… các dịch vụ này được
gọi là hoạt động du lịch có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển,
những lợi ích mà hoạt động du lịch đem lại thật là to lớn:
- Hoạt động du lịch giúp phục hồi và tăng cường sức khỏe cho nhân dân, có tác
dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người.
- Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng nhân dân có điều kiện tiếp
xúc với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc. Làm lành mạnh
nền văn hóa địa phương, đổi mới truyền thống cổ xưa, phục hồi ngành nghề truyền thống,
bảo vệ vùng sinh thái. Từ đó hấp thụ những yếu tố văn minh của nhân loại nhằm nâng cao
dân trí, tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp trong nhân dân… Điều này quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách
của mỗi cá nhân trong toàn xã hội.
- Hoạt động du lịch làm tăng khả năng lao động, trở thành nhân tố quan trọng để
đẩy mạnh sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó.

- Hoạt động du lịch góp phần giải quyết vấn đề lao động và việc làm, có nghĩa là
làm giảm tỷ lệ thất nghiệp.
- Các hoạt động du lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là
nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước.

- Hoạt động du lịch đóng vai trò như một nhân tố củng cố hòa bình, đẩy mạnh giao
lưu quốc tế, giúp cho nhân dân các nước hiểu biết thêm về đất nước, con người, lịch sử
truyền thống dân tộc, qua đó tranh thủ sự đoàn kết giúp đỡ của các nước.
- Ngoài ra du lịch còn giúp cho việc khai thác, bảo tồn các di sản văn hóa của dân
tộc có hiệu quả, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên xã hội.
Như vậy, hoạt động du lịch ở đây được tiếp cận bao gồm các dịch vụ trực tiếp và
gián tiếp cho du lịch. Ở một chừng mực nhất định, hoạt động du lịch có thể được coi đồng
nghĩa với khái niệm ngành du lịch.
1.1.2. Đặc điểm của các dịch vụ cấu thành hoạt động du lịch
1.1.2.1. Các chủ thể tham gia hoạt động du lịch và các loại hình kinh doanh du
lịch
- Các chủ thể tham gia hoạt động du lịch bao gồm: khách du lịch; tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch; cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du
lịch.
Các chủ thể tham gia hoạt động du lịch có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại
lẫn nhau, không thể tách rời nhau và là những yếu tố ảnh hưởng quyết định đến sự phát
triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Muốn hoạt động du lịch phát
triển, thì quốc gia đó, địa phương đó phải tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia
cùng phát triển, không xem nhẹ bên nào. Bởi vì, nếu thiếu một trong những bên tham gia
thì hoạt động du lịch sẽ không hiệu quả, thậm chí không tồn tại.
- Du lịch và kinh doanh du lịch có các loại hình sau:
+ Kinh doanh lữ hành nội địa.

+ Kinh doanh lữ hành quốc tế.
+ Kinh doanh lưu trú du lịch.
+ Kinh doanh vận chuyển khách du lịch.
+ Kinh doanh các khu du lịch, điểm du lịch.
+ Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác.
1.1.2.2. Đặc điểm về các dịch vụ du lịch
Có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu của các dịch vụ du lịch như sau:

Thứ nhất: Dịch vụ du lịch mang đầy đủ tính chất của một ngành dịch vụ.
Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ phát
triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, làm gia
tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn minh của con người. Từ đó, hoạt
động du lịch trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển,
tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Du lịch là một ngành dịch vụ.
Sản phẩm và quá trình sản xuất của nó vừa mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa
mang những đặc điểm riêng của dịch vụ du lịch.
Thứ hai: Du lịch là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần
cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch.
Dịch vụ du lịch khác với các ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ thỏa mãn
nhu cầu cho khách du lịch chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi người dân. Dịch vụ du
lịch là nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa đặc thù của du khách trong thời gian lưu trú
bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ về ăn, ở, nghỉ ngơi, đi lại, tham quan, vui chơi giải trí,
thông tin về văn hóa, lịch sử, tập quán và các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại
hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa mãn các nhu cầu cao cấp của con người, làm cho con người
sống ngày càng phong phú hơn. Thực tế hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu
nhập của người dân tăng lên, đủ ăn, đủ mặc thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì ngoài
việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm và lý trí, du lịch còn là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực,

nhằm tái tạo lại sức lao động của con người.
Thứ ba: Việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trong cùng một thời
gian và không gian.
Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến tại
chỗ ) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng. Trong
du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho khách hàng,
mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có dịch vụ, hàng hóa. Chính vì vậy, vai trò
của việc thông tin, xúc tiến quảng bá du lịch là hết sức quan trọng, đồng thời việc quản lý
thị trường du lịch cũng cần có những đặc thù riêng.
Thứ tư: Du lịch mang lại lợi ích thiết thực về chính trị, kinh tế, xã hội cho nước

làm du lịch và người làm du lịch.
Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch không những đem lại lợi ích thiết thực
về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn hóa, xã hội Tuy nhiên, sự chi phối
mạnh nhất đối với ngành du lịch vẫn là lợi ích kinh tế. Vì vậy, ở nhiều nước đã đưa ngành
du lịch phát triển với tốc độ cao và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế
quốc dân, mang lại nguồn thu nhập lớn trong tổng sản phẩm xã hội. Do đó, dịch vụ du lịch
ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch còn phải đảm bảo mang
lại lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho quốc gia làm du lịch và cá nhân, tổ chức
tham gia hoạt động du lịch.
Thứ năm: Du lịch chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định.
Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội. Du lịch chỉ
có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân
tộc. Ngược lại, chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên tình trạng mất an ninh,
đi lại khó khăn, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn hại đến cả môi trường tự nhiên.
Hòa bình là đòn bẩy đẩy mạnh hoạt động du lịch. Ngược lại, du lịch có tác dụng trở lại đến
việc cùng tồn tại hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế con người thể hiện nguyện vọng
nóng bỏng của mình là được sống, lao động trong hòa bình và hữu nghị. Và hơn thế nữa,

không cần phải có chiến tranh mà chỉ cần có những biến động chính trị, xã hội ở một khu
vực, một vùng, một quốc gia, một địa phương với mức độ nhất định cũng làm cho du lịch
bị giảm sút một cách đột ngột và muốn khôi phục phải có thời gian. Ví dụ, vụ khủng bố
ngày 11/9 tại Mỹ, khủng bố tại đảo Bali - Indonêxia, sự kiện ‘‘đảo chính’’ ở Thái Lan đã
làm cho ngành du lịch các nước này lao đao có thể nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác,
tình trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động
đến khách du lịch.
1.1.3. Ý nghĩa của hoạt động du lịch
1.1.3.1. Ý nghĩa về kinh tế
Du lịch phát triển sẽ tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương có hoạt động
du lịch từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp
của các địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh

doanh trên địa bàn.
Du lịch thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Trước hết hoạt động
kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ của nhiều ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành, là
cơ sở cho các ngành khác (giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, công nghiệp, nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ) phát triển. Đối với nền sản xuất xã hội, du lịch còn mở ra
thị trường tiêu thụ hàng hóa. Mặt khác, sự phát triển của du lịch tạo ra các điều kiện để
khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận
dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác.
1.1.3.2. Ý nghĩa về chính trị
Ý nghĩa chính trị của du lịch được thể hiện ở vai trò to lớn của nó như một nhân tố
hòa bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du
lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần
nhau. Mỗi năm, hoạt động du lịch có những chủ đề khác nhau, như "Du lịch là giấy thông
hành của hòa bình" (1967), "Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của
mỗi người" (1983) các chủ đề này đã kêu gọi hàng triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa

và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối
với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
1.1.3.3. Ý nghĩa về văn hóa, xã hội
Du lịch góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế vùng có hoạt động du lịch và giảm quá
trình đô thị hóa. Thông thường tài nguyên du lịch tự nhiên có ở các vùng hẻo lánh, xa xôi,
vùng ven biển Việc khai thác đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phải đầu tư
về mọi mặt giao thông, bưu điện, kinh tế, văn hóa - xã hội Do vậy mà việc phát triển du
lịch sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở những vùng đó, giảm đi sự chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng trong cả nước, đồng thời cũng góp phần
làm giảm đi sự tập trung dân cư ở những trung tâm dân cư.
Du lịch là phương tiện tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả cho đất nước chủ nhà
mà không phải mất tiền.
Về phương diện kinh tế: là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu cho
hàng hóa nội địa ra nước ngoài thông qua du khách. Khách hàng được làm quen tại chỗ với

các mặt hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Một số sản phẩm làm cho du khách hài
lòng, về nước, du khách tuyên truyền cho bạn bè, người thân và nhiều khi bắt đầu tìm
kiếm các mặt hàng đó ở nước mình và nếu không thấy, khách có thể yêu cầu các cơ quan
ngoại thương nhập các mặt hàng đó.
Về phương diện xã hội: là phương tiện tuyên truyền, quảng cáo hữu hiệu về các
thành tựu kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giới thiệu về con người, phong tục, tập quán
nơi họ đã đến.
Thông qua du lịch con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc
mới, thỏa mãn được trí tò mò, đồng thời mở mang kiến thức, đáp ứng lòng ham hiểu biết,
do đó góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong mơ ước sáng tạo, trong kế
hoạch cho tương lai của con người - khách du lịch.
Trong thời gian đi du lịch, khách thường sử dụng các dịch vụ, hàng hóa và thường
tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông qua các cuộc tiếp xúc đó, văn hóa của cả khách và

người bản xứ được trao đổi và nâng cao. Du lịch còn làm phong phú thêm khả năng thẩm
mỹ của con người khi họ được tham quan các kho tàng mỹ thuật của một đất nước.
Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền
thống của dân tộc. Thông qua các chuyến đi tham quan, nghỉ mát, vãn cảnh người dân có
điều kiện làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử và văn hóa dân tộc, qua đó thêm yêu đất nước
mình.
Ngoài ra, việc phát triển du lịch còn có ý nghĩa lớn đối với việc khai thác và bảo
tồn các di sản văn hóa của dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề thủ công
truyền thống, góp phần bảo vệ và phát triển môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội.
1.1.3.4. Ý nghĩa về môi trường sinh thái
Tạo môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác
dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh,
bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và hoạt động của con
người.
Việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng
nhất định đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Lúc này

đòi hỏi con người phải tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng
nguồn tài nguyên một cách hợp lý.
Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một
mặt xã hội đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi
trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của các dòng khách du lịch và việc xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối liên
quan gần gũi với nhau.
1.2. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VÀ PHÂN
CẤP QUẢN LÝ ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH
1.2.1. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trong nền
kinh tế thị trường

1.2.1.1. Quan niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch rất đa dạng và luôn đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước để duy trì
và phát triển. Việc thành công hay thất bại của ngành du lịch phụ thuộc rất lớn vào khung
khổ pháp lý và những chính sách thích hợp với điều kiện và trình độ phát triển của đất
nước. Do vậy, vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch là một vấn đế cần thiết
được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa du lịch ở Việt Nam mới trong giai đoạn đầu phát triển,
còn gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn do vậy rất cần có sự định hướng của Nhà nước
để du lịch phát triển. Có thế kết luận rằng hoạt động du lịch trong nền kinh tế thị trường
cần phải có sự quản lý của Nhà nước bởi vì:
- Một mặt, do những khuyết tật và hạn chế của cơ chế thị trường gây nên. Mặt
khác, do Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thể hiện ở việc định hướng phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, cũng như đối với ngành kinh tế du lịch nói riêng trong
từng thời kỳ. Nhà nước còn điều tiết, can thiệp vào các quan hệ du lịch nhằm đảm bảo sự
ổn định thị trường, giá cả và sự phát triển bền vững của ngành.
- Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch tạo ra sự thống nhất trong tổ chức và phối
hợp các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động du lịch. Đồng thời, chỉ có sự quản
lý thống nhất của Nhà nước về hoạt động du lịch mới giúp cho việc khai thác các thế mạnh của
từng vùng, từng địa phương đạt kết quả, hơn nữa lại phát huy lợi thế so sánh của quốc gia trong

phát triển du lịch quốc tế.
- Ngoài ra, du lịch còn là một ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta. Nó liên quan
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác. Do vậy, cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước
để điều hòa mối quan hệ giữa du lịch với các ngành, các lĩnh vực có liên quan.
1.2.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động du lịch diễn ra trong
nền kinh tế thị trường.
Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh tế thị trường là tính phức tạp, năng động và
nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để

đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy không ai khác chính là Nhà nước - vừa là người
quản lý, vừa là người tổ chức hoạt động du lịch. Để hoàn thành sứ mệnh của mình, Nhà
nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, và sử dụng các
công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động du lịch.
Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển du lịch là cơ sở, là những công cụ để Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt
động du lịch.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động du lịch diễn ra hết sức phức tạp với sự đa
dạng về chủ thể, về hình thức tổ chức và quy mô hoạt động Dù phức tạp thế nào đi chăng
nữa, sự quản lý của Nhà nước cũng phải bảo đảm cho hoạt động du lịch có tính tổ chức
cao, ổn định, công bằng và có tính định hướng rõ rệt. Do đó, Nhà nước phải ban hành pháp
luật, đề ra các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và dùng các
công cụ này tác động vào lĩnh vực du lịch.
Ba là, quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch đòi hỏi phải có một bộ máy Nhà
nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước có trình độ,
năng lực thật sự.
Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch phải tạo được những cân đối chung,
điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho mọi hoạt động du lịch phát triển. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước không thể khác hơn là phải được tổ chức thống

nhất, đồng bộ, có hiệu quả từ trung ương đến địa phương.
Bốn là, quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch còn xuất phát từ chính nhu cầu
khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách, pháp luật trong nền kinh tế thị
trường với tư cách là công cụ quản lý.
Hoạt động du lịch với những quan hệ kinh tế rất đa dạng và năng động đòi hỏi có
một sân chơi an toàn và bình đẳng, đặc biệt khi lượng khách du lịch tăng cao. Trong bối
cảnh đó, phải có một hệ thống chính sách, pháp luật hoàn chỉnh, phù hợp không chỉ với

điều kiện ở trong nước mà còn với thông lệ và luật pháp quốc tế. Đây là sự thách thức lớn
đối với Việt Nam.
1.2.2. Vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch trong nền kinh tế
thị trường
1.2.2.1. Vai trò định hướng
- Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng hoạt động du lịch, bao
gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược, kế hoạch phát triển du lịch, phân tích
và xây dựng các chính sách du lịch, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị
trường, xây dựng hệ thống luật pháp có liên quan tới du lịch. Xác lập các chương trình, dự
án cụ thể hóa chiến lược, đặc biệt là các lộ trình hội nhập khu vực và quốc tế.
- Thiết lập khuôn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật về du lịch, tạo ra môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch.
- Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp du lịch có phương hướng hình
thành phương án chiến lược, kế hoạch kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập môi trường kinh
doanh, vừa cho phép Nhà nước có thể kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và các
chủ thể kinh doanh du lịch trên thị trường.
1.2.2.2. Vai trò tổ chức và phối hợp
- Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về du lịch,
sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch, chính sách, các văn bản quy
phạm pháp luật, đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ máy tổ chức để thực hiện những vấn
đề thuộc về quản lý nhà nước, nhằm đưa chính sách phù hợp về du lịch vào thực tiễn, biến
quy hoạch, kế hoạch thành hiện thực, tạo điều kiện cho du lịch phát triển.

- Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan quản lý nhà nước về du lịch
với các cấp trong hệ thống tổ chức quản lý du lịch của trung ương, tỉnh (thành phố), và
quận (huyện, thị xã).
- Trong lĩnh vực du lịch quốc tế, chức năng này được thể hiện ở sự phối hợp giữa

các quốc gia có quan hệ song phương hoặc trong cùng một khối kinh tế, thương mại du
lịch trong nỗ lực nhằm đa dạng hóa đa phương thức quan hệ hợp tác quốc tế trong du lịch,
đạt tới các mục tiêu và đảm bảo thực hiện các cam kết đã ký kết.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du
lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, bảo vệ tài nguyên du lịch, môi trường, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt động du lịch.
1.2.2.3. Vai trò điều tiết các hoạt động du lịch và can thiệp thị trường
- Nhà nước là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể kinh doanh nói
chung và kinh doanh du lịch nói riêng, khuyến khích và đảm bảo bằng pháp luật cạnh
tranh bình đẳng, chống độc quyền. Để thực hiện chức năng này, một mặt, Nhà nước hướng
dẫn, kích thích các doanh nghiệp du lịch hoạt động theo định hướng đã vạch ra, mặt khác,
Nhà nước phải can thiệp, điều tiết thị trường khi cần thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô. Trong hoạt động kinh doanh du lịch ở nước ta hiện nay, cạnh tranh chưa bình đẳng,
không lành mạnh là một trong những vấn đề gây trở ngại lớn cho quá trình phát triển
ngành. Do vậy, Nhà nước phải có vai trò điều tiết mạnh.
- Nhà nước có thể sử dụng nhiều công cụ, biện pháp khác nhau để điều tiết hoạt động
kinh doanh du lịch, xử lý đúng đắn mâu thuẫn của các quan hệ.
1.2.2.4. Vai trò giám sát
- Nhà nước giám sát hoạt động của mọi chủ thể kinh doanh du lịch cũng như chế
độ quản lý của các chủ thể đó (về các mặt đăng ký kinh doanh, phương án sản phẩm, chất
lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, môi trường ô nhiễm, cơ chế quản lý kinh doanh, nghĩa vụ
nộp thuế ), cấp và thu hồi giấy phép, giấy hoạt động trong hoạt động du lịch.
- Phát hiện những lệch lạc, nguy cơ chệch hướng hoặc vi phạm pháp luật và các
quy định của Nhà nước, từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh thích hợp nhằm tăng cường
hiệu quả của quản lý nhà nước về hoạt động du lịch.

- Nhà nước cũng phải kiểm tra, đánh giá hệ thống tổ chức quản lý du lịch của Nhà
nước cũng như năng lực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về hoạt động du

lịch.
- Tổ chức và quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du
lịch, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, việc bảo vệ tài nguyên du lịch, môi
trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc trong hoạt
động du lịch.
1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch của chính quyền
cấp tỉnh
Thực tế hoạt động du lịch đã chỉ rõ, trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, rất cần sự quản lý điều hành của Nhà nước. Du lịch là hoạt động liên ngành, liên
vùng và xã hội hóa cao, nếu để tự nó phát triển, để thị trường tự phát phát triển, buông
lỏng quản lý của Nhà nước, không có sự thống nhất các yếu tố liên ngành, liên vùng, hoạt
động du lịch sẽ bị chệch hướng, thị trường bị lũng đoạn, tài nguyên du lịch bị khai thác
kiệt quệ, không đảm bảo phát triển du lịch bền vững. Nhiều vấn đề như quy hoạch tổng thể
phát triển du lịch, bảo vệ môi trường sinh thái, trật tự an toàn xã hội, liên kết hội nhập,
những thỏa thuận đa phương hoặc song phương về tạo điều kiện đi lại cho du khách,… nếu
không có vai trò của Nhà nước không thể giải quyết được. Đặc biệt trong xu thế toàn cầu
hóa, khu vực hóa của hoạt động du lịch, việc hợp tác liên kết luôn đi liền với cạnh tranh
đòi hỏi mỗi nước phải có chiến lược tổng thể phát triển du lịch xuất phát từ điều kiện của
mình, vừa phát huy được tính đặc thù, huy động được nội lực để tăng khả năng hấp dẫn
khách du lịch vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, tranh thủ được nguồn lực bên ngoài, để có
điều kiện hội nhập. Đây là vấn đề thuộc quyền nhà nước và cũng là trách nhiệm của Nhà
nước trong phát triển du lịch.
Để thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, đảm bảo các mục tiêu về kinh tế,
văn hóa, xã hội, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường,
quản lý nhà nước về du lịch có các nội dung chủ yếu sau:
Một là, tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật chung của Nhà nước liên
quan đến hoạt động du lịch và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách


phát triển du lịch mang tính đặc thù của địa phương thuộc thẩm quyền.
Hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật đã khó, nhưng cái khó hơn là làm thế
nào để đưa nó đi vào đời sống thực tế. Bản thân chính sách, pháp luật đối với nền kinh tế
của một đất nước nói chung và trong lĩnh vực du lịch nói riêng mới chỉ là những quy định
của Nhà nước, là ý chí của Nhà nước bắt mọi chủ thể khác (trong đó có chính bản thân nhà
nước) phải thực hiện. Vì vậy, để chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống các cơ quan nhà
nước nói chung, chính quyền cấp tỉnh nói riêng phải tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh.
Chính quyền cấp tỉnh phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về du lịch
cho cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân trên địa bàn giúp họ nhận thức đúng đắn, từ
đó có hành động đúng trong hoạt động thực tiễn; đảm bảo sự tuân thủ, thi hành chính sách,
pháp luật về du lịch một cách nghiêm túc. Mặt khác, chính quyền cấp tỉnh phải tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật du lịch trên địa bàn tỉnh,
xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật. Không tùy tiện thay đổi các chính sách của
mình, nhanh chóng xóa bỏ các văn bản cũ trái với các văn bản mới ban hành, giảm tối đa
sự trùng lặp, gây khó khăn cho hoạt động du lịch.
Bên cạnh đó, để phát triển du lịch trên cơ sở khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh
của địa phương, chính quyền cấp tỉnh phải tích cực cải thiện môi trường pháp lý, môi
trường đầu tư và kinh doanh thông qua việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chính sách,
pháp luật chung của Nhà nước về phát triển du lịch phù hợp với điều kiện ở địa phương.
Đồng thời, nghiên cứu và ban hành các cơ chế, chính sách thuộc thẩm quyền mang tính
đặc thù ở địa phương như chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách ưu đãi tiền thuê đất,
thời hạn thuê đất, chính sách ưu đãi tín dụng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi, tạo sự an
tâm, tin tưởng cho các tổ chức, cá nhân (kể cả trong nước và ngoài nước) khi bỏ vốn đầu
tư kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, việc ban hành các cơ chế, chính sách của địa phương
vừa phải bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật và quy định của cơ quan Nhà nước
cấp trên, vừa phải thông thoáng trên cơ sở sử dụng nguồn lực của địa phương để khuyến
khích phát triển, đồng thời cũng phải đảm bảo tính ổn định và bình đẳng, tính nghiêm
minh trong quá trình thực thi. Bên cạnh đó, chính quyền cấp tỉnh cần tiếp tục thực hiện cải
cách hành chính ở địa phương theo hướng chuyên nghiệp và hiệu quả. Tiếp tục thực hiện


mô hình một cửa trong đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh Thực hiện chuẩn hóa các thủ
tục hành chính theo tinh thần triệt để tuân thủ pháp luật, công khai, minh bạch, thuận tiện.
Mặt khác, hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật du lịch là một trong
những điều kiện quan trọng để phát triển du lịch. Vì vậy, chính quyền cấp tỉnh cần có
chính sách ưu tiên, hỗ trợ cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng du lịch tại các khu, điểm du
lịch như: mở đường giao thông, xây dựng hệ thống điện, cung cấp nước sạch, phát triển hệ
thống thông tin liên lạc, hỗ trợ trong việc tôn tạo các di tích văn hóa, lịch sử, các công
trình kiến trúc, cảnh quan du lịch Ngoài ra, chính quyền cấp tỉnh cần phải đảm bảo bình
ổn giá cả tiêu dùng và thị trường du lịch, có chính sách điều tiết thu nhập hợp lý và hướng
các doanh nghiệp du lịch tham gia thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương. Để thực
hiện điều này, chính quyền cấp tỉnh phải sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý nhằm hạn
chế tình trạng nâng giá, độc quyền trong hoạt động kinh doanh du lịch ở địa phương. Du
lịch là khâu đột phá kích thích sự phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực và cũng là lĩnh vực
tạo ra lợi nhuận cao. Vì vậy, phải có chính sách hợp lý để hướng các doanh nghiệp sử dụng
nguồn lợi nhuận thu được tiếp tục đầu tư cho sự phát triển lâu dài và bền vững, khai thác
hợp lý tiềm năng du lịch sẵn có của địa phương, nhất là ở các xã vùng sâu, vùng xa có tiềm
năng phát triển du lịch để góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân
sở tại.
Hai là, xây dựng và công khai quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch ở địa bàn
để giúp các đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch định hướng phát triển.
Xây dựng và công khai các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch là
một trong những nội dung quản lý nhà nước có tính quyết định đối với sự phát triển du lịch
trên địa bàn của chính quyền cấp tỉnh. Nó giúp cho các cá nhân, tổ chức (nhà đầu tư) an
tâm khi quyết định đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực du lịch.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch, mục tiêu cuối cùng của các đơn vị kinh
doanh là lợi nhuận. Do đó, nếu không được định hướng phát triển đúng sẽ gây ra lãng phí,
kém hiệu quả do không phù hợp với nhu cầu thị trường và thực tế phát triển của địa
phương, nhất là các hoạt động đầu tư xây dựng phát triển kết cấu hạ tầng các khu, điểm du


lịch, hoặc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật như các nhà hàng, khách sạn, nhà
nghỉ Vì thế, chính quyền cấp tỉnh phải hết sức quan tâm đến việc xây dựng và công khai
kịp thời các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch của địa phương. Các mục
tiêu, chỉ tiêu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch phải phù hợp với
chiến lược, quy hoạch phát triển chung của cả nước. Đáp ứng những yêu cầu của quá trình
hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới gắn với tiến trình đẩy mạnh thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có như vậy, mỗi đơn vị hoạt động kinh
doanh trong lĩnh vực du lịch mới có thể xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển riêng phù
hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển chung của địa phương.
Ba là, thực hiện sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong
lĩnh vực du lịch do địa phương quản lý.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, vai trò của
kinh tế nhà nước nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng trong việc chi phối hoạt
động của thị trường, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đã được thực tế khẳng định và nó
càng trở nên quan trọng. Cùng với việc sử dụng và phát huy khả năng điều tiết, chi phối
của kinh tế nhà nước, chính quyền cấp tỉnh cần phải quan tâm đến chất lượng và hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn. Trước hết phải hoàn thành lộ trình
đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch do địa
phương quản lý, theo hướng từng bước trở thành các doanh nghiệp kinh doanh hiện đại, có
sự liên kết với mạng lưới các hộ kinh doanh cá thể, có khả năng mở rộng các hoạt động du
lịch liên vùng, khu vực và kinh doanh lữ hành quốc tế. Mặt khác, cần có chương trình hỗ
trợ cho các doanh nghiệp du lịch nhà nước với nhiều hình thức như đầu tư vốn thông qua
góp vốn cổ phần của các công ty nhà nước, tăng cường cán bộ có năng lực, hỗ trợ một
phần kinh phí quảng bá thương hiệu, xúc tiến đầu tư, quảng bá du lịch và đào các bộ quản
lý,
Bốn là, tạo lập sự gắn kết liên ngành, liên vùng, liên quốc gia trong hoạt động
du lịch; giữa địa phương và trung ương trong quản lý nhà nước về du lịch.
Nâng cao tính liên kết là một điều kiện tất yếu để phát triển bền vững ngành du

×