Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.24 MB, 90 trang )













LUẬN VĂN:

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm











Lời nói đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :


Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu
đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất,
nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các
HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các
doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị
trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu
thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng
trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông
dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có
mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn.
Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản
xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu
nhập cho người nông dân.
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông
nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông
nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có
chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc
mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động
này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ
trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn



mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường
kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn.

Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín
dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của TDNH đối với
việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao
chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo
& PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn tại, trên cơ sở đó có những
giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên cứu những vấn
đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích tổng hợp, diễn giải, quy
nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn vận dụng vào
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.



Chương I : Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất.

Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện
Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh
tế hộ sản xuất.





Chương I
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với
hộ sản xuất.

I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà
kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình
kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã
đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính
thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời.
1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy
rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xất nông
nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục
phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong
một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người
cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia đình.
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự nghiệp CNH -

HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây dựng một nền kinh tế đa thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp
với chủ trương của Đảng và Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1
kèm theo quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu
như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh,
là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt
động sản xuất của mình". Thành phần chủ yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ
tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên.



Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất
hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng
trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều
ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta
trong thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:
Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị
kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông
thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm
canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã
khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất
để có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ
sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị tích tụ vốn, góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh
tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển

biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt
động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ
gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất
hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết
việc làm ở nông thôn.
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất , lao động là
nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc



gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn
nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13
triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng
chưa được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân
đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử dụng hợp lý nguồn lao
động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra
bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản xuất
hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh
tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải
quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế
nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải
không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số
biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả
kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng

đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn
kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến
khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu
cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị
trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến
lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp
trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương
chính sách về nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát
triển kinh tế nông thôn.



Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán cho nông
nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân
thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác
định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng
sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo
cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng
nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước
quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho
việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở
nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày 2/ 3/ 1992
cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998, luật công ty. thì hộ sản

xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác.
Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 :
"kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế
nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị quyết TW 5,
tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn
được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản
phẩm.



Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo hành lang pháp
lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh
nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông
thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí
quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với
chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH -
HĐH nông nghiệp nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai
trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh
tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ được khuyến khích
phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan
trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ

vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong
nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng
Ngân hàng , tín dụng Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung.
Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín
dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo
nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn
huy động để cấp tín dụng"



"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín
dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền,
vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình
thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản
xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng
với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ
xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có
tài sản thể chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín
dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện
vay vốn Ngân hàng.
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh

tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn
và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/ CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ,
thông tư 01/ TD - NH ngày 26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn
thực hiện nghị định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm
ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng chính phủ,
văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quy định
trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp
sau đó một loạt các thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số
283/ QĐ - NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn
bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban
hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ.
Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng
dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/



2000/ NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT - NHNo &
PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng mới gần đây nhất ngày 18/
1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã giải quyết cơ bản những khó khăn thắc
mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các
văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng.
Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở
rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức
tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị
trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh
doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra
đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân

hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của
nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh
bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo
thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan
trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá
trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá
sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu
hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ
vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị
và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp
của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về
vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài
nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình



thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho
mọi người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu
cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành
một thị trường to lớn của tín dụng Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất
trong dư nợ của NHNo ngày càng tăng.
b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung
sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân
hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh

doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi
nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả,
giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro
tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan
tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc
đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn
cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào
để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống,
ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan
tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền
thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy



được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành
nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người lao động. Từ
đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng
thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh
tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế
trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề này phát triển một cách nhịp
nhàng và đồng bộ.

d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội :
Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện
nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực
xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho
lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được
vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống
văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại
gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội , giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của
Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng
thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo
trở lên khá hơn, hộ khá trở lên giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được
xoá bỏ như : rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên
môn của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng
trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất :



Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các
quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt khác đó còn là chính sách của
Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ
tín dụng này.
- Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông thôn, hình
thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển của kinh tế
hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách

đối với hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính
sách về đầu tư vốn có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh
doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín
dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
- Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu hàng đầu là
đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp,
nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều
trong công việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất. Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ
chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến khối
lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay
vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh
hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay
phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn
hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất
hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực sự đặt quá trình sản xuất
của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế
đó, tìm phương hướng tự sử lý để phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối
với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng :



Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải
là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra
đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục
đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng
là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".

Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản
phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng
đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất
lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát
triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của
khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức
thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm
vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an
toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có lợi nhuận.
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được
xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong quá trình cung ứng sản phẩm
của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan trọng và cần thiết là đánh giá được chất
lượng của sản phẩm cung ứng, cụ thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu
tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các
chỉ tiêu đánh giá chất lượng cụ thể.
2.1. Chỉ tiêu định tính :
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay :
Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân
hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình



kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng
rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay
là một nguyên tắc quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản
cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay

hay không.
Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch.
- Thứ hai : Cho vay có đảm bảo
- Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một khoản cho vay
có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện :
Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay
đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được vay tại NHNo & PTNT
Việt Nam.
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa
bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có
xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất
vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp luật phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi
có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay.



+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản,
quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy hải sản nuôi trồng đã
đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).

Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5 điều kiện cho
vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay.
c. Quá trình thẩm định.
Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng
khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về
khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách
hàng, khả năng trả nợ của khách hàng Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình
quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy
định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một
khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước
của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức
tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc
tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản
cho vay đạt chất lượng.
2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối. Bên cạnh
mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính thì mặt cụ thể của nó có
thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay hộ sản xuất :
Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân
hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm.
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản
xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
D. số cho vay HSX



Tỷ trọng cho vay HSX = x 100 (%)
Tổng D. số cho vay
b. Doanh số thu nợ sản xuất :

Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng
thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ.
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương
đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân
hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
x 100 (%)
Doanh số cho vay hộ sản xuất
c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng
chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán
tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá
hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn HSX
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = x 100 (%)
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng
Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn
kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể
hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan
đến sự sống còn của Ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử dụng chỉ tiêu
tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi



Tỷ lệ khó đòi = x 100 (%)

Tổng nợ quá hạn
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu cho thấy
nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất :
D. số thu nợ HSX
Vòng quay vốn tín dụng HSX =
Dư nợ bình quân HSX
Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính bằng cách lấy
trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét
chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với
số dư nợ luôn tăng chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có
hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
e. Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NHNo hộ sản xuất
là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả
sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất.
f. Một số chỉ tiêu khác.
D. số cho vay HSX
Chỉ tiêu 1 =
Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao
chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất
cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể
hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất
cho vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.



Chỉ tiêu 2:

Tỷ lệ cho vay trung -
dài hạn HSX
=
Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX
x 100 %
Tổng dư nợ HSX

Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn
của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng
dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ
thuộc vào nhu cầu vốn trung dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của
từng Ngân hàng thương mại.
Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển
kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu
tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng Ngân hàng
đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai
đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản
xuất :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất
lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng
tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn
làm tốt điều này, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ
sản xuất.
3.1. Yếu tố môi trường :
Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn
phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn.

- Môi trường kinh tế xã hội :



Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản
xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có
hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng
đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời
hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
- Môi trường chính trị pháp lý :
Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động
tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành
thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên
quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng.
Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng
hộ sản xuất.
- Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của
hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự
nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có
khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản
xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn
biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi thiên tai xảy ra.
Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản
xuất.
3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng :
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì có rất nhiều
yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của
khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng có thể
đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy

nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì
việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng.



- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của
khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục
đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau
khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm
nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng cố ý lừa
đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không,
khoản vay có được hoàn trả lại hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách
hàng.
3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng :
Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có
thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hưởng đến
chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính sách sản phẩm
quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình
thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích
khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực
tiếp tới chất lượng tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng
của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh
giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho
vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của
từng Ngân hàng.

- Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả
năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay,
làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.



- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay.
Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết
định thông qua các chỉ tiêu định tính.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt
được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới chất
lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất
lượng tín dụng giảm sút.
- Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các
thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan
trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi
chưa xảy ra.
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về
mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc lực của Nhà nước , là đòn
bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát
huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông
thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng
Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc
nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với
Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng.






Chương II.
thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm

I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động kinh doanh của NHNo
Huyện Từ Liêm :
Huyện Từ Liêm là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên là 219.214
ha, dân số 2,3 triệu người, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, 80 % dân số sống ở
nông thôn, tổng số khoảng 53 vạn hộ, trong đó hộ nghèo là 12 %. Địa bàn hành chính
gồm 2 thị xã, 12 huyện, 15 xã trong đó 1/ 4 số xã có làng nghề Tiểu thủ công nghiệp với
130 nghìn lao động có tay nghề.
Năm 2000 kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh cụ thể là
:
- Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 1.027.000 tấn tăng 10,3% so với năm 1999.
- Tổng sản phẩm trong tình (GDP) tăng 7,2 % so với năm 1999.
- Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng 4,6 % so với năm 1999.
- Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp 44 %, công nghiệp 31,65 %, dịch vụ 24,35 %.
Đặc điểm kinh tế xã hội có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó khăn đối với
hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm nói chung và hoạt động tín dụng nói
riêng.
a. Thuận lợi :
Huyện Từ Liêm là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về cơ sở hạ
tầng: điện, đường, trường, trạm. Tỉnh có hệ thống đường liên huyện, liên xã, tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỉnh tập trung nhiều làng
nghề với nhiều ngành nghề tiểu thủ công nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển.
Đây là những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách
có hiệu quả.




Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng
tích cực, cơ cấu trong nông nghiệp có su hướng tăng, tỷ trọng ngành chăn nuôi. Công tác
chuyển đổi HTX nông nghiệp theo mô hình kiểu mới thực hiện tốt, đã xây dựng được
494/ 533 HTX nông nghiệp đạt 96 %. Bước đầu thực hiện chuyển đổi kinh tế từ ô thửa
nhỏ sang ô thửa lớn đạt 112/ 315 xã. Đây là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của
Ngân hàng.
Một số ngành có điều kiện phát huy tiềm năng đã mạnh dạnh áp dụng tiến bộ
KHKT vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhận thức của người nông
dân về sự cần thiết đưa các giống mới năng suất cao vào trồng trọt, chăn nuôi ngày càng
cao tạo điều kiện đầu tư vốn có hiệu quả.
Ngành Ngân hàng dần dần hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với thực tế địa bàn
nông thôn, cũng như việc ban hành một số văn bản, chính sách của tỉnh cụ thể hoá các
chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước , từ đó
hoạt động của Ngân hàng được thuận lợi hơn trước.
b. Khó khăn :
Nền kinh tế của cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng phát triển chưa ổn
định gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Công cuộc phục vụ nông nghiệp như cơ khí, chế biến trên địa bàn tỉnh chưa phát
triển đã hạn chế rất lớn đến sức sản xuất của các hộ gia đình. Giá cả sản phẩm nông
nghiệp so với giá hàng công nghiệp, dịch vụ có sự chênh lệch khá lớn theo hướng thiệt
hại cho người nông dân. Vì vậy không khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và
ảnh hưởng lớn đến đời sống các hộ nông dân. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu của tỉnh
chưa tìm lại được hướng đi sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Do đó không tạo được động lực phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp hiệu
quả theo hướng có lợi cho nông dân.
Từ Liêm là một huyện tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, do đó rất nhiều những người
có trình độ KHKT cao sau khi được đào tạo đã ở lại Hà Nội làm việc. Vì vậy, nguồn nhân
lực của Huyện Từ Liêm đã mất đi rất nhiều lợi thế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế -

×