Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Thanh hoá potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.7 KB, 70 trang )
















LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm mở rộng cho vay và
nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
của Ngân hàng Công thương Thanh hoá

















Lời mở đầu


Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ mục tiêu đến năm 2020,
tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tập trung xây dựng có chọn lọc
một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất
cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân
dân được nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế nước ta
trong quan hệ quốc tế được nâng cao. Trước yêu cầu đó từ nay đến năm 2020, cần tập
trung phát triển thị trường vốn, thu hút các nguồn vốn trung dài hạn qua ngân hàng và
các tổ chức tài chính đáp ứng cho yêu cầu đầu tư phát triển.
Nhu cầu đầu tư, nhất là từ đổi mới máy móc thiết bị, thay đổi quy trình công nghệ
cho các doanh nghiệp là yêu cầu cấp bách, đòi hỏi ngân hàng phải mở rộng và nâng cao
chất lượng tín dụng trung dài hạn. Ngân hàng công thương Thanh hoá là một trong các
chi nhánh của Ngân hàng công thương Việt Nam , hoạt động của Ngân hàng Công
thương Thanh hoá đã góp phần phục vụ đắc lực và có hiệu quả cao nhất cho phát triển
nền kinh tế đất nước và tỉnh nhà.
Tuy nhiên hoạt động tín dụng trung dài hạn của NHCT Thanh Hoá trong thời gian
qua còn một số vấn đề vướng mắc làm hạn chế quá trình mở rộng và nâng cao chất

lượng, điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm các giải pháp tháo gỡ nhằm thực hiện mục tiêu mở
rộng và nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung dài hạn đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế.



Xuất phát từ những yêu cầu trên, em đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm mở
rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công
thương Thanh hoá" làm đề tài nghiên cứu.
Phạm vi đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng trung dài hạn,
vai trò của tín dụng trung dài hạn, điều kiện để mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
trung dài hạn của ngân hàng trong nền kinh tế, phân tích thực trạng, nguyên nhân kìm
hãm khả năng mở rộng tín dụng trung dài hạn trong quan hệ với việc nâng cao chất
lượng. Trên cơ sở đó kiến nghị một số biện pháp chủ yếu nhằm mở rộng và nâng cao
chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Công thương Thanh Hoá từ đó góp
phần:
- Nâng cao khả năng sinh lời
- Giảm rủi ro
- Đảm bảo thanh khoản
- Nâng cao uy tín Ngân hàng
Tuy nhiên do hạn chế về thời gian cũng như trình độ, khoá luận không tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, em mong nhận đươc ự tham gia , góp ý của thầy cô, các nhà
quản trị ngân hàng và những người quan tâm đến đề tài.
Kết cấu của đề tài
Lời mở đầu
Chương 1
Vai trò, các điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
Chương 2
Thực trạng quá trình, mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung -dài
hạn của NHCT Thanh hoá


Chương 3
Một số biện pháp nhằm mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung -
dài hạn của NHCT Thanh hoá
Kết luận



chương 1

vấn đề mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn của
NHTM
trong nền kinh tế thị trường

1.1. Tín dụng trung dài hạn của NHTM và các đặc điểm cơ bản.
1.1.1. Tín dụng ngân hàng và phân loại tín dụng trung dài hạn.
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, bản chất của tín dụng là quan
hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển
nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi (mang
tính thoả thuận).
Tín dụng ngân hàng cùng mang bản chất của quan hệ tín dụng nói chung, đó là
quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay hoặc đầu tư khác giữa các Ngân hàng,
giữa Ngân hàng với doanh nghiệp và các cá nhân khác, là một nghiệp vụ tài sản có của
Ngân hàng được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả lãi và vốn.
Tín dụng ngân hàng có các hình thức cơ bản sau:
* Nếu phân chia theo thời gian có:
+ Tín dụng ngắn hạn.
+ Tín dụng trung hạn, tín dụng dài hạn.
* Phân chia theo đối tượng đầu tư tín dụng có:
+ Tín dụng vốn lưu động: Ngân hàng cho vay để hình thành vốn lưu động trong

các tổ chức kinh tế và thể nhân.
+ Tín dụng vốn cố định: Ngân hàng cho vay để hình thành vốn cố định trọng các
tổ chức kinh tế và thể nhân.
* Tín dụng trung dài hạn có thể phân loại như sau:
- Căn cứ vào đồng tiền cho vay tín dụng trung dài hạn bằng ngoại tệ, tín dụng
trung dài hạn bằng nội tệ: Tín dụng trung dài hạn bằng ngoại tệ nhằm cung cấp tín dụng
người vay có nhu cầu mua các máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ và một số chi
phí khác có liên quan đến nước ngoài.



- Căn cứ vào tính chất có đảm bảo mà có thể chia thành tín dụng trung dài hạn có
đảm bảo tín dụng trung dài hạn không có đảm bảo.
- Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động của đối tượng xin vay mà có thể phân loại, tín
dụng trung dài hạn đầu tư trong nước và tín dụng trung dài hạn tài trợ xuất nhập khẩu.
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trung dài hạn có 2 loại:
Tín dụng người cung cấp đó là tín dụng trung dài hạn của ngân hàng tài trợ cho
các nhà cung cấp máy móc, thiết bị, công vụ để xuất khẩu.
Tín dụng người mua: Ngân hàng cấp tín dụng cho người mua để nhập khẩu thiết
bị, dây truyền công nghệ.
Ngoài cho vay trung dài hạn, tín dụng trung dài hạn còn có một số hình thức khác.
Tín dụng tuần hoàn: Tín dụng tuần hoàn được coi là tín dụng trung dài hạn khi
thời hạn hợp đồng được kéo dài từ một đến vài năm và người vay rút tiền ra khi cần và
được trả nợ khi có nguồn trong thời gian hợp đồng có hiệu lực.
Tín dụng thuê mua.
Với sự chuyển biến của nền kinh tế thị trường và sự chuyển dịch có cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các hình thức của tín dụng ngân hàng ngày
càng phong phú và hiện đại, vai trò của tín dụng ngân hàng ngày một tăng lên.
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của tín dụng trung dài hạn:
* Đặc điểm và pháp lý:

Vốn cho vay thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, nhưng quyền sử dụng vốn thuộc
doanh nghiệp vay vốn và doanh nghiệp vay vốn được quyết định đoạt, sử dụng số vốn
trên trong thời gian vay. Mặt khác, vốn vay trở thành nguồn hình thành nên tài sản của
doanh nghiệp và doanh nghiệp có đầy đủ quyền năng, sở hữu, sử dụng định đoạt đối với
tài sản này.
* Đặc điểm của đối tượng tài sản đầu tư là cần vốn lớn và thời gian dài nên tín
dụng trung - dài hạn có đặc điểm là khối lượng vốn tín dụng lớn, thời gian thu hồi vốn
chậm.
Nếu như tín dụng ngắn hạn tài trợ chủ yếu cho tài sản lưu động của doanh nghiệp
và được hoàn trả bởi kết quả các khoản tiền thu về tương ứng thì tín dụng trung dài hạn



tài trợ về nhà xưởng, máy móc thiết bị công cụ lao động của doanh nghiệp nên vốn đầu
tư thường lớn, nguồn trả nợ tín dụng trung dài hạn chỉ có thể được thực hiện cơ bản bởi
khấu hao và lợi nhuận trong tương lai.
Xuất phát từ tính phức tạp của hoạt động đầu tư dài hạn, các công cuộc đầu tư
phải trải qua nhiều giai đoạn. Thông thường mỗi dự án đầu tư phải trải qua 3 giai đoạn
đó là: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn tiến hành đầu tư, và giai đoạn vận hành đầu
tư. Mỗi giai đoạn phải tiến hành nhiều bước, để hoàn thành các bước và các giai đoạn đó
cần phải có thời gian. Tổng thời gian để thực hiện các bước vào các giai đoạn đó sẽ làm
cho công cuộc đầu tư phải kéo dài.
Từ những đặc điểm của đối tượng tài sản đầu tư là những dự án lớn, thời gian dài
nên tín dụng trung dài hạn có đặc điểm là khối lượng tín dụng thường lớn và thời gian
thu hồi vốn cũng kéo dài để phù hợp với đối tượng đầu tư. Các ngân hàng thương mại
không thể cho vay ngắn hạn đối với các dự án đầu tư trung - dài hạn, vì như vậy các dự
án mới xây dựng xong đã phải trả nợ. Điều đó sẽ ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của
NHTM.
* Tín dụng trung - dài hạn có đặc điểm là tính rủi ro cao.
Với đặc điểm nêu ta thấy tín dụng trung dài hạn chịu tác động mạnh của sự biến

động thị trường, lãi suất, Tín dụng trung dài hạn có thời gian hoàn vốn dài và phụ thuộc
nhiều vào hiệu quả hoạt động của dự án vay vốn. Hay nói cách khác, tín dụng trung dài
hạn có tính rủi ro cao. Vì vậy, các Ngân hàng thương mại ngoài việc mở rộng cho vay
thì ngày càng phải quan tâm tới chất lượng tín dụng trung dài hạn nhằm giảm thiểu tới
mức thấp nhất rủi ro do tín dụng trung - dài hạn đem lại,
1.2.Vai trò của tín dụng trung dài hạn đối với nền kinh tế.
Bất kỳ một đất nước có nền kinh tế phát triển, đang phát triển thậm chí mới phát
triển thì hoạt động của hệ thống Ngân hàng cũng có tác động to lớn đến hoạt động của
nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng với cơ quan đầu não điều khiển hoạt động của tất cả
các Ngân hàng là Ngân hàng Nhà nước, việc điều hành các chính sách tài chính quốc
gia, các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, các văn bản luật Ngân hàng, luật các tổ
chức tín dụng và các văn bản dưới luật. Quan trọng hơn là quá trình phát triển và ngày
càng lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM). Mục tiêu của NHTM



trước hết là vì mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước và vì mục tiêu của đất nước, các
NHTM cần phải đẩy mạnh cho vay tín dụng trung - dài hạn. Hoạt động cho vay trung
dài hạn thực chất là hoạt động cho vay theo dự án, là quá trình xem xét cấp vốn tín dụng
trên cơ sở những dự án khả thi, vì vậy việc cho vay theo dự án có ý nghĩa lớn đối với
nền kinh tế.
- Vai trò chủ yếu của cho vay trung dài hạn được thể hiện ở chỗ góp phần tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế, thúc đẩy và đảm bảo sự tăng trưởng kinh
tế lâu dài vững chắc, bảo đảm tính độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Trong nền kinh tế
thị trường các doanh nghiệp luôn luôn tìm cách đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng sản xuất
để chiếm lĩnh thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp cũng quan tâm đến việc đổi mới
trang thiết bị công nghệ nâng cao chất lượng, hạ giá thành sảm phẩm tăng cường sức
cạnh tranh trên thị trường trong nước và trên thế giới nhằm thu được lợi nhuận ngày
càng cao.
- Tín dụng trung dài hạn là tiền đề đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo

hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nếu
không có hoặc thiếu vốn đầu tư, đặc biệt là vốn trung dài hạn sẽ khó có thể thực hiện
được. Không có vốn đầu tư sẽ không thể lập được các vùng kinh tế mới, như vậy sẽ
không có sản phẩm có tính cạnh tranh cao, như vậy sẽ không có phân công chuyên sâu,
khó có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế về chưa thể nói đến công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
- Tín dụng trung dài hạn góp phần phát triển hoạt động Ngân hàng: Nhờ có tín
dụng ngân hàng mà các nguồn tài chính nhàn rỗi ngắn hạn và dài hạn trong nền kinh tế
được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Hoạt động của tín dụng ngân hàng là tập trung
vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng nằm phân tán để cho vay các đơn vị, tổ chức kinh tế
nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ. việc mở rộng và nâng cao chất lượng cho
vay trung dài hạn là cần thiết vì: Mở rộng phạm vi kinh doanh của ngân hàng, tăng
trưởng nguồn vốn cho vay của Ngân hàng. Có mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay
trung hạn thì mới tạo điều kiện cho NHTM tăng trưởng cho vay ngắn hạn.
- Trong nền kinh tế hàng hoá, tiền tệ (T) là công cụ kinh tế phụ vụ hoạt động kinh
tế xã hội trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, mọi chu kỳ kinh tế đều bắt đầu từ
T và kết thúc chu kỳ với giá trị T lớn hơn. Vì vậy, việc tăng nhanh vòng quay vốn có ý



nghĩa rất lớn. Để rút ngắn thời gian nhằm tăng nhanh vòng quay vốn, các đơn vị phải
chủ động, cải tiến quy trình công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, hạ giá thành sản phẩm để
thực hiện được việc này đòi hỏi một khối lượng vốn nhất định nhất là vốn cho vay trung
dài hạn.
- Cho vay trung dài hạn tạo ra thị trường sử dụng vốn ngắn hạn, vì cho vay trung
dài hạn đầu tư vào nhà xưởng, máy móc thiết bị, công nghệ làm kích thích, mở rộng
sản xuất. Do sản xuất phát triển, các doanh nghiệp càng cần thêm nhiều vốn lưu động
hơn như vậy thị trường vốn lưu động sẽ được mở rộng theo tốc độ phát triển của sản
xuất.
- Cho vay trung dài hạn nhằm đầu tư theo chiều sâu, đầu tư vào máy móc trang

thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ do có thúc đẩy sản xuất phát triển, cung cấp sản
phẩm với chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh với hàng ngoại, mở rộng thịt trường
xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, đảm bảo ổn định cán cân thanh toán quốc tế.
- Tín dụng trung dài hạn là công cụ hỗ trợ quan trọng cho sự hình thành và phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta: Như chúng ta biết nước ta từ nền sản xuất
nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò vô cùng quan trọng. Mặt khác các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có ưu thế là năng động, dễ hoà nhập với sự đổi thay của cơ chế
thị trường, có khả năng chuyển hướng sản xuất nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Tuy
nhiên doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều hạn chế như nguồn tài chính hạn hẹp, cơ sở
trang thiết bị lạc hậu, thô sơ, trình độ công nghệ thấp, hạn chế trong cạnh tranh song
nhờ có vốn tín dụng trung dài hạn các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện đổi mới
trang thiết bị, thay đổi quy trình công nghệ tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
1.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn là yêu cầu tất yếu của
nền kinh tế và ngân hàng thương mại.
1.3.1 Mở rộng tín dụng dài hạn của NHTM:
Như chúng ta biết, tín dụng trung dài hạn ngân hàng là một khoản mục trong
nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng, khối lượng tín dụng biểu hiện ở hai mặt.
- Mặt tuyết đối biểu hiện ở số dư tuyệt đối của khoản mục này.



- Mặt tương đối biểu hiện ở tỷ trọng số dư của khoản mục này trong tổng số các
khoản mục cho vay, đầu tư trong bảng cân đối kế toán.

Tỷ lệ cho vay (TDH)/ tổng dư nợ cho vay =
Dư nợ cho vay trung - dài hạn
Tổng dư nợ cho vay
Tín dụng trung dài hạn mở rộng dưới hai hình thức:
- Mở rộng tuyệt đối là tăng số dư của các khoản mục này trong bảng cân đối kế

toán so với kỳ trước, điều đó đòi hỏi phải tăng số lượng các dự án đầu tư hay mở rộng
quy mô sản xuất, thay đổi quy trình công nghệ , tăng doanh số cấp tín dụng lớn hơn tăng
số thu hồi tín dụng trung dài hạn.
- Hình thức mở rộng tương đối tượng dụng trung dài hạn là tăng tỷ trọng số dư
cho vay, dư nợ tín dụng trung dài hạn trong tổng số dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân
hàng, làm thay đổi có cấu hoạt động kinh doanh ngân hàng theo hướng tăng hoạt động
tín dụng trung dài hạn.
1.3.2. Chất lượng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM:
Chất lượng tín dụng là khái niệm biểu hiện khả năng đạt mục tiêu của tín dụng.
Tín dụng có chất lượng trước hết là tín dụng cấp ra có khả năng quay trở về ngân hàng
với số lớn hơn, nói cách khác là tín dụng thu hồi được cả gốc và lãi theo đúng kế hoạch,
chất lượng tín dụng trung dài hạn được đánh giá trên hai mặt:
1.3.2.1. Đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn theo định tính:
Tín dụng trung dài hạn có chất lượng khi mục tiêu tín dụng được thực hiện, doanh
nghiệp vay vốn đã sử dụng tiền vay đúng mục đích, quá trình hoạt động đã khai thác tốt
công dụng của tài sản, dự án vay vốn hoạt động có hiệu quả đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp và xã hội, trên cơ sở đó Ngân hàng thu hồi nợ va từ các nguồn đã xác định ban
đầu là khấu hao lợi nhuận và các nguồn vốn khác của doanh nghiệp như đã thoả thuận.
Vì vậy, tín dụng trung dài hạn có chất lượng là tín dụng khi đó đảm bảo đúng các
nguyên tắc của tín dụng: sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả kinh tế và xã hội, thu
hồi được cả gốc và lãi.



Thời hạn của tín dụng trung dài hạn thường trên một năm: Trung hạn từ 1 đến 5
năm, dài hạn trên 5 năm và tuỳ thuộc vào thời gian khấu hao của tài sản đầu tư và lợi
nhuận đem lại của dự án, vì thế các ngân hàng cần phải quan tâm chất lượng tín dụng
trung dài hạn, trong trường hợp này tín dụng trung dài hạn được đánh giá là có chất
lượng khi:
- Mục tiêu đầu tư dự án phù hợp với chiến lược phát triển của nền kinh tế, xã hội

của Đảng và Nhà nước, và xu hướng của thị trường.
- Tính toán được hiệu quả kinh tế trực tiếp căn cứ vào các thông tin chuẩn xác.
- Có biện pháp phòng ngừa, xử lý rủi ro phù hợp với chính sách tín dụng.
- Thủ tục cho vay đơn giản nhưng chặt chẽ về mặt pháp lý.
- Doanh nghiệp được đầu tư có kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh và có khả năng
cạnh tranh cao.
- Trong quá trình cho vay, doanh nghiệp khai thác tốt tài sản và trả nợ ngân hàng
đúng kế hoạch.
Ngoài ra chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM còn phụ thuộc vào các
điều kiện ràng buộc về mặt pháp lý đối với ngân hàng như: phạm vi giới hạn đối với một
khách hàng, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, tỷ lệ đảm bảo khả
năng chi trả, tỷ lệ đoản bảo an toàn vốn vay, phụ thuộc vào việc ban hành các điều kiện
quan hệ tín dụng cụ thể có phù hợp với môi trường kinh tế, pháp lý nhằm đảm bảo được
khả năng thu hồi vốn hay không, hình thức tín dụng có đáp ứng yêu cầu của khách hàng
hay không.
1.3.2.2. Đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn theo định lượng:
Chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại không đơn thuần là
số cộng giản đơn của các món tín dụng cụ thể mà chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn trong tổng dự
nợ vay trung dài hạn, tỷ lệ số phải trả thay trên số dư bảo lãnh trung dài hạn chỉ là chỉ
tiêu đầu tiên đánh giá chất lượng, tín dụng trung dài hạn (TDH)
Chất lượng tín dụng được đánh giá quay vòng vốn tín dụng:
Vòng quay vốn của NH =
Doanh số trả nợ
Dư nợ bình quân



Ngoài ra chất lượng tín dụng còn được đánh giá qua chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn của
NHTM:
Tỷ lệ nợ quá hạn =


Dư nợ quá hạn
Tổng dư nợ cho vay
Trong đó:
Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay (TDH) =
Nợ quá hạn cho vạy (TDH)
Dư nợ cho vay trung dài hạn
Nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng chính là làm cho tín
dụng ngân hàng ngày càng đảm bảo được nguyên tắc và điều kiện của tín dụng trung dài
hạn.
1.3.3. Tính tất yếu của mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài
hạn NHTM.
1.3.3.1. Mở rộng tín dụng trung dài hạn là yêu cầu tất yếu để thực hiện công
nghiệp hoá, diện đại hoá đất nước.
Nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo đà cho việc thực hiện kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010,
mục tiêu tổng quát là tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững, đi đôi với phát
triển mạnh các lĩnh vực văn hoá - xã hội
Để đạt được mục tiêu trên đòi hỏi phải có vốn đầu tư. Trong việc khai thác nguồn
vốn trong nước hiện nay, được thông qua thị trường tài chính, thị trường tài chính nước
ta hiện nay có các kênh dẫn vốn như: Thông qua thị trường tài chính nước ta hiện nay,
được thông qua thị trường ngầm; thông qua thị trường chứng khoán và qua hệ thống
NHTM. Tuy nhiên, hiện nay nước ta thị trường chứng khoán chưa phát triển nên kênh
dẫn vốn chủ yếu vẫn là thông qua hệ thống NHTM ngoài vấn đề thực hiện mục tiêu công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước còn nhằm mục đích.
- Hạn chế sự phát triển của thị trường ngầm:
Thị trường ngầm được hình thành một cách tự phát để đáp ứng các quan hệ cung
cầu về vốn trong nội bộ khu vực dân. thị trường ngầm tồn tại dưới 2 hình thức cơ bản là
cho vay giữa cá nhân với cá nhân hoặc cùng nhau hình thành các quỹ tương hỗ, thường




gọi là chơi họ, chơi hụi. Tuy nhiên, vì không có cơ sở pháp lý đảm bảo nên mức độ rủi
ro của thị trường này rất lớn và lãi xuất cao. NHTM mở rộng cho vay tín trung - dài hạn
sẽ góp phần hạn chế sự phát triển của thị trường nay, tạo sự an tâm đầu cho các doanh
nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Khắc phục hạn chế của thị trường chứng khoán.
Cho tới nay thị trường chứng khoán ở nước ta mới đi vào hoạt động, quy mô thị
trường còn bé, hàng hoá cho thị trường chưa nhiều. Vì vậy chưa đáp ứng được nhu cầu
vốn cho đầu tư của nền kinh tế. Tín dụng trung - dài hạn của NHTM sẽ góp phần khắc
phục hạn chế trong việc thu hút vốn đầu tư của thị trường chứng khoán trong nước.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng là
một bộ phận chủ yếu quan trọng của thị trường tài chính hiện nay ở Việt Nam. Huy động
vốn đầu tư là nhiệm vụ chính của ngành Ngân hàng. Trong điều kiện thị trường tài
chính như vậy vai trò mở rộng tín dụng, nhất là tín dụng trung dài hạn của các Ngân
hàng thương mại càng cần thiết với 2 mục đích.
- Đáp ứng nhu cầu vốn, nhất là vốn trung dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá
đất nước.
- Thu hẹp thị trường ngầm trong nền kinh tế, đảm bảo vai trò quản lý của Nhà
nước đối với các luồng luân chuyển vốn, nâng cao hiệu lực quản lý vĩ mô đối với hoạt
động tiền tệ.
1.3.3.2. Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn là mục tiêu
của ngân hàng thương mại.
Mục tiêu của NHTM là mục tiêu chung của đất nước và vì sự phát triển của chính
bản thân NHTM, đó là vấn đề lợi nhuận và an toàn vốn, điều đó buộc các ngân hàng
thương mại phải tìm biện pháp khả năng cạnh tranh, tăng khả năng sinh lời, hạn chế rủi
ro. Để đạt được mục tiêu, việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn
góp phần không nhỏ vào thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và đáp ứng
mục tiêu lợi nhuận của các NHTM.
Với hệ thống nhiều ngân hàng thương mại như hiện nay, sự cạnh tranh giữa các

ngân hàng là động lực thúc đẩy các ngân hàng thương mại tiên hành đa dạng hoạt động
của mình. Trong đó có đa dạng hoá hoạt động tín dụng trung dài hạn. Việc mở rộng và



nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn ngân hàng vào các thị trường mới, với các
hình thức mới nhằm phân tán rủi ro tín dụng ngân hàng nói chung và tín dụng trung dài
hạn nói riêng.
Sau khi Luật doanh nghiệp ra đời và thực sự được thi hành động bộ, đã tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi hơn, có rất nhiều các doanh nghiệp mới
được thành lập góp phần tạo ra bước chuyển về chất trong hoạt động kinh tế của cả
nước. Hầu hết các doanh nghiệp đều có nhu cầu vốn trung dài hạn để cải tiến kỹ thuật,
đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và tăng khả năng cạnh tranh,trong đó có cả các
doanh nghiệp là khách vay truyền thống, đang có quan hệ tín dụng với các ngân hàng và
các doanh nghiệp mới thành lập việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài
hạn (đặc điểm là khâu thẩm định dự án) là yêu cầu quan trọng để các doanh nghiệp có
điều kiện mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh
tranh và giúp các doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia hội nhập với thị trường trong
khu vực và trên thế giới.
1.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay và nâng cao chất
lượn tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới việc mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng
tín dụng trung- dài hạn của các NHTM . Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố
tới tín dụng trung dài hạn của NHTM là khác nhau. Trong phạm vi khoá luận này nghiên
cứu một số nhân tố sau đây:
1.4.1. Nhân tố khách hàng ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay và nâng cao chất
lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng thương mại.
Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu của
thi trường với mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Với 3 với mục tiêu này, doanh nghiệp
phải lựa chọn sản xuất cái gì, cho ai, khả năng tiêu thụ như thế nào, điều đó quyết định

đến khối lượng, hình thức vốn đầu tư, vì vậy mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
trung dài hạn của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng các điều kiện đầu tư tín dụng trung
dài hạn của doanh nghiệp.
* Động cơ đầu tư của doanh nghiệp là điều kiện để mở rộng tín dụng trung dài
hạn.



Động cơ đầu tư trung dài hạn của doanh nghiệp bắt nguồn từ lợi nhuận, Mục tiêu
đầu tiên và cuối cùng của các doanh nghiệp là lợi nhuận. Lợi nhuận có bù đắp được rủi
ro hay không, lợi nhuận được xác định đầu tư mang lại có rủi ro càng thấp thì nhu cầu
đầu tư càng lớn.
Động cơ đầu tư của doanh nghiệp có được thực hiện hay không còn phụ thuộc vào
vốn đầu tư. Trong khi đó dự án đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn lớn mà chỉ một mình
doanh nghiệp sẽ khó thực hiện được. Điều này đã tạo điều kiện cho các NHTM tham gia
đầu tư vốn vào doanh nghiệp. Như vậy động cơ đầu tư trung dài hạn của các doanh
nghiệp quyết định việc mở rộng cho vay trung dài hạn của ngân hàng. Nhu cầu đầu tư
trung dài hạn của doanh nghiệp càng lớn, các ngân hàng càng có điều kiện mở rộng tín
dụng dài hạn.
* Khả năng đáp ứng các điều kiện vây vốn tín dụng trung dài hạn của các doanh
nghiệp là điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM.
Khả năng đáp ứng các điều kiện vây vốn tín dụng trung dài hạn của các doanh
nghiệp được thể hiện trên các doanh nghiệp được thể hiện trên các mặt.
+ Năng lực pháp lý của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp phải có đầy đủ năng lực pháp luật, có đăng ký kinh doanh mới
có đủ điều kiện để hoạt động sản xuất kinh doanh và ký hợp đồng vay vốn ngân hàng.
+ Năng lực quản lý doanh nghiệp:
Khi quyết định cho vay trung dài hạn với một doanh nghiệp, ngân hàng đã quyết
định gắn bó hoạt động kinh doanh của mình với doanh nghiệp và hy vọng vào sự gắn bó
đó trong tương lai. Vì vậy việc thẩm định khả năng của bộ máy quản lý doanh nghiệp

nhằm đáp giá được những người quản lý này có khả năng xoay xở trong mọi tình huống
hay không là một điều cần thiết để xem xét quyết định cho vay. Sự thành công hay thất
bại của một doanh nghiệp lệ thuộc thiều vào khả năng thích nghi với môi trường kinh
doanh của bộ máy quản lý doanh nghiệp. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải có chiến
lược kinh doanh, tầm nhìn xa trông rộng, phải có chiến lược dài hạn, phải biết mình,
biết người,. Một bộ máy quản lý tồi thì ngân hàng không thể bỏ vốn cho vay trung dài
hạn được, do vậy nghiên cứu từng người cụ thể trong bộ máy quản lý và các mỗi quan



hệ xã hội, quan hệ nội bộ của bộ máy quản lý và công việc cần làm và làm chu đáo khi
quyết định có nên cho vay hay không.
+ Khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
Khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp cho thấy khả năng phát triển
của doanh nghiệp và được biểu hiện ở các mặt.
Khối lượng sản phẩm tiên thụ của doanh nghiệp với các chất lượng sản phẩm, hệ
số thập phân thị trường, sự tiến triển của thị hiếu khách hàng, sự phát triển của kỹ thuật
và các sản phẩm thay thế.
- Vị trí của doanh nghiệp trong ngành kinh tế thế nào? thị trường tiêu thụ trong
nước hay quốc tế. Ngành kinh tế mà doanh nghiệp đang hoạt động có vị trí gì trong nền
kinh tế? có nằm trong định hướng phát triển của Nhà nước không? tương lai phát triển
như thế nào.
- Hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm: các bạn thường xuyên, không thường
xuyên, mạng lưới đại lý, sự lớn mạnh của khách hàng tiêu thụ lớn, sự trung thành của
đại lý và bạn hàng
- Hệ thống cung cấp nguyên vật liệu của doanh nghiệp: Sử dụng nguyên liệu
trong nước hay nhập khẩu? Nguyên liệu thuộc loại khan hiếm hay dồi dào?
Việc nghiên cứu năng lực thị trường của doanh nghiệp cho biết khả năng mở rộng
đầu tư, định hướng đầu tư của doanh nghiệp, kiểm tra sự phù hợp của các dự án hoạt

động với các khả năng sản xuất.
Năng lực thị trường càng cao, nhu cầu đầu tư càng lớn, rủi ro thị trường của
doanh nghiệp càng nhỏ và ngân hàng càng có điều kiện mở rộng khối lượng và nâng cao
chất lượng tín dụng trung dài hạn.
+ Năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Biểu hiện cụ thể, rõ nét nhất về khả năng chiếm lĩnh thị trường và năng lực sản
xuất kinh doanh là doanh nghiệp phải được tổ chức sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi.
Năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn thể hiện khả năng có thể đáp
ứng được yêu cầu của thị trường. Nghiên cứu năng lực sản xuất cho biết quy mô sản



xuất của doanh nghiệp, sự đáp ứng của quy mô ấy đối với thị trường và khả năng mở
rộng đầu tư của doanh nghiệp, tạo điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng
trung - dài hạn của NHTM.
+ Năng lực tài chính của doanh nghiệp:
Khả năng tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khối lượng vốn tự có và tỷ trọng
vốn tự có trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp sử dụng.
Điều kiện tín dụng quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng
nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự
có tham gia dự án vay vốn.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng thanh toán của
doanh nghiệp. Việc đáp ứng các yêu cầu thanh toán còn lệ thuộc khá lớn vào kết cấu tài
sản của doanh nghiệp như khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản. Năng lực tài
chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng càng lớn, càng
làm cho ngân hàng có điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
+ Tài sản bảo đảm tiền vay:
Doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo tiền vay theo quy định. Giá trị bảo đảm
tiền vay phải bảo đảm theo tỷ lệ quy định tại Nghị định số 178/199NĐ-CP ngày
29/12/1999 của chính phủ về bảo đảm tiền vay của các TCTD, TT 07/NHNN/2003.

1.4.2. Nhân tố bản thân NHTM ảnh hưởng đến việc mở rộng và nâng cao chất
lượng tín dụng trung dài hạn.
* Nguồn vốn tín dụng trung dài hạn và vốn tự có của ngân hàng là yếu tố tiền đề
mở rộng cho vay trung - dài hạn của NHTM trong đó:
Vốn huy động:
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu để NHTM cho vay nhưng mỗi loại tiền gửi
có đặc điểm riêng và sự biến động khác nhau. Mức độ nhạy cảm của tiền gửi ảnh hưởng
đến kết cấu tài sản dự trữ, tín dụng ngân hàng, tín dụng trung dài hạn. Trong hoạt động
về vốn chứa đựng 2 loại rủi ro là rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất, vì vậy trong
nguyên tắc quản lý tài chính có nguyên tắc cân bằng về thời hạn giữa nguồn vốn và sử
dụng vốn: Tức là vốn ngắn hạn dùng để cho vay ngắn hạn, vốn trung dài hạn sử dụng
cho vay trung dài hạn và tín dụng thuê mua.



Huy động tiền gửi của NHTM thường là kỳ hạn ngắn do tâm lý người gửi tiền sợ
gặp rủi ro do đồng tiền mất giá. Tuy nhiên, qua khảo sát nhiều năm cho thấy nguồn vốn
huy động của các NHTM luôn tăng trưởng và có một bộ phận luôn ổn định, vì vậy các
Ngân hàng còn có thể sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn theo một tỷ lệ
nhất định.
Vốn tự có của ngân hàng thương mại:
Đối với mỗi ngân hàng thương mại việc mở rộng tín dụng trung dài hạn còn phụ
thuộc vào mức vốn tự có của mỗi ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng quy định các
điều kiện ràng buộc ngân hàng về mặt pháp lý đối với phạm vi giới hạn tín dụng, theo đó
tổng dư nợ cho vay một khách hàng không vượt 15% vốn tự có của NHTM, giao cho
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có với tài sản có. Vì
vậy vốn tự có của Ngân hàng thương mại không những quyết định khối lượng tín dụng
tối đa cho một doanh nghiệp, mà còn quyết định khả năng huy động vốn tối đa của ngân
hàng đó.
Vì vậy mở rộng nguồn vốn trung dài hạn và tăng vốn tự có của ngân hàng cũng là

tiền đề mở rộng tín dụng trung dài hạn.
* Lãi suất tín dụng trung dài hạn tác động trực tiếp đến quá trình mở rộng cho
vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của NHTM.
Lãi suất là giá cả cho vay và lãi suất luôn được coi là biến cố nhạy cảm đối với
đời sống kinh tế xã hội, nó là công cụ tác động tích cực đối với phát triển kinh tế đồng
thời nó cũng sẽ là công cụ làm kìm hãm sự phát triển ấy nếu như ngân hàng không có
chính sách lãi xuất hợp lý. Trên lý thuyết cũng như thực tế, lãi suất là công cụ điều
khiển quan hệ cung cầu vốn tiền tệ. Bởi vậy NHTW các nước thường sử dụng công cụ
lãi suất trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy, lãi suất tín dụng trung
dài hạn. lãi xuất cho vay thấp NHTM có khả năng mở rộng đầu tư hơn và ngược lại
(trong khi các yếu tố khác không đổi).
Hiện nay NHTW điều hành lãi suất tiền vay theo lãi suất cơ bản, qua đó các ngân
hàng thương mại cần có chính lãi suất thích hợp trong từng thời kỳ, thậm chí theo từng
dự án đầu tư. Đối với dự án có tài sản làm đảm bảo tiền vay, có tính khả thi cao, khả



năng rủi ro ít thì NHTM có thể áp dụng lãi suất ưu đãi để tạo điều kiện mở rộng cho vay
trung dài hạn.
* Kỹ thuật thẩm định và quản lý dự án có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng
tín dụng trung dài hạn của NHTM.
Năng lực thẩm định tín dụng trước khi cho vay là yếu tố quyết định đảm bảo chất
lượng tín dụng trung dài hạn. Năng lực thẩm định dự án đầu tư càng cao thì càng hạn
chế rủi ro và loại trừ được khả năng sai lệnh trong cung cấp thông tin của doanh nghiệp,
đánh giá đúng năng lực vay vốn của doanh nghiệp, việc dự đoán tương lai hoạt động,
tương lai khả năng sinh lời và rủi ro càng chính xác, chất lượng tín dụng càng lớn.
Đặc điểm của tín dụng trung dài hạn là vốn vay sử dụng vào các công trình xây
dựng cơ bản, máy móc thiết bị việc thu hồi vốn dần qua nhiều chu kỳ sản xuất, vì vậy,
năng lực thẩm định khách hàng và dự án đầu tư càng có ý nghĩa quan trọng.
Việc quản lý món vay nhằm đảm bảo chất lượng món vay như ban đầu, theo dõi

sát món vay sẽ là biện pháp quan trọng ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi xuất phát từ
bản thân ý thức trả nợ của doanh nghiệp. Khi phát hiện nợ có vấn đề cán bộ theo dõi
món vay phải báo cáo ngay cho lãnh đạo biết để có biện pháp xử lý kịp thời nhằm hạn
chế tối đa chi phí bỏ ra cũng như tổn thất có thể sảy ra cho cả 2 bên. Việc theo dõi
thường xuyên, kịp thời tình trạng của doanh nghiệp là biện pháp nâng cao chất lượng tín
dụng.
* Quy chế về tín dụng trung dài hạn:
Quy chế tín dụng trung dài hạn đưa ra các tiêu chuẩn yêu cầu doanh nghiệp phải
đạt được để thiết lập quan hệ tín dụng tuỳ theo quy mô của quan hệ tín dụng trong giới
hạn an toàn của ngân hàng.
Tiêu chuẩn tín dụng cụ thể hoá điều kiện tín dụng: đó là 1 hệ thống các chỉ tiêu,
các biểu hiện cụ thể của doanh nghiệp cần phải đạt để được vay vốn, đó là các chỉ tiêu
để đánh giá doanh nghiệp trên các mặt.
Năng lực pháp lý, khả năng chiếm lĩnh thị trường, năng lực sản xuất kinh doanh,
khả năng quản lý, khả năng tài chính và khả năng đáp ứng các biện pháp đáp ứng được
các biện pháp đảm bảo tín dụng của doanh nghiệp.



Tiêu chuẩn tín dụng được ngân hàng đưa ra làm mốc hoặc Căn cứ để so sánh,
đánh giá với những mặt, những chỉ tiêu mà doanh nghiệp đạt được trên cơ sở đó, ngân
hàng phân loại doanh nghiệp và thông qua đó thì nhận doanh nghiệp ở khả năng mở
rộng tín dụng hay yêu cầu phải thu hẹp quan hệ tín dụng và có biện pháp phân biệt đối
xử để đảm bảo an toàn tín dụng. Điều kiện tín dụng quyết định khả năng thiết lập quan
hệ tín dụng, tiêu chuẩn tín dụng, quyết định quy mô của quan hệ này.
Khi tiêu chuẩn tín dụng đòi hỏi cao, khả năng mở rộng tín dụng càng hạn chế, khả
năng thu hút khách hàng thấp, nhưng tính an toàn trong tín dụng càng cao. Tiêu chuẩn
tín dụng yêu cầu thấp thì có thể mở rộng được hoạt động tín dụng nhưng không an toàn.
Tiêu chuẩn tín dụng đưa ra lệ thuộc vào các mặt:
- Khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng

- Môi trường kinh tế và pháp luật.
- Hệ thống các khách hàng truyền thống của Ngân hàng.
- Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc đưa ra tiêu chuẩn tín dụng gắn chặt với chiến lược tín dụng, chính sách
khách hàng, cơ chế tín dụng và nó ảnh hưởng rất lớn đến yêu cầu mở rộng hay thu hẹp
tín dụng trung dài hạn, đến việc nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.
Các nhân tố khác:
- Quy mô hoạt động của NHTM cũng ảnh hưởng lớn tới việc mở rộng tín dụng
trung - dài hạn. NHTM có quy mô, địa bàn hoạt động rộng, có danh tiếng và uy tín cao
trên thị trường sẽ thu hút khách hàng gửi và vay tiền, tạo điều kiện cho NHTM đó mở
rộng tín dụng trung - dài hạn.
- Năng lực của cán bộ tín dụng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài
hạn. Cán bộ tín dụng có năng lực trình độ cao, chất lượng thẩm định dự án sẽ cao từ đó
giúp cho NHTM tránh đầu tư những dự án không có hiệu quả.
- Công tác Marketing Ngân hàng cũng có tác động lớn tới việc mở rộng tín dụng
trung dài hạn của NHTM, giúp cho khách hàng hiểu và tin Ngân hàng hơn, từ đó đến với
Ngân hàng ngày càng nhiều hơn.
1.4.3. Sự tác động của môi trường kinh tế xã hội vào việc mở rộng và nâng cao
chất lượng tín dụng trung dài hạn.



+ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào doanh nghiệp.
Một trường kinh tế xã hội có tác động tích cực hoặc tiêu cực vào doanh nghiệp.
Khi môi trường đầu tư thuận lợi các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất kinh
doanh của mình và ngược lại. Khi doanh nghiệp mở rộng và nâng cao chất lượng đầu tư
sẽ làm củng cố và hoàn thiện hơn môi trường đầu tư hơn, đồng thời tạo điều kiện cho
NHTM mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn.
+ Môi trường kinh tế xã hội tác động vào hoạt động ngân hàng.
Môi trường kinh tế xã hội phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho NHTM trong

việc nâng cao chất lượng tín dụng nói chung, tín dụng trung - dài hạn nói riêng.
- Hệ thống pháp luật đồng bộ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong đó có
NHTM hoạt động kinh tế thuận lợi, dễ dàng.
- Các NHTM sẽ thu nhập được thông tin có độ chính xác cao phục vụ cho việc
thẩm định tín dụng, trong đó có việc xác định giá trị doanh nghiệp, tài sản của doanh
nghiệp và tài sản làm đảm bảo tiền vay, khả năng sát giám sát hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Khả năng xử lý tài sản làm đảm bảo cho nợ vay và khả năng thu hồi vốn của
NHTM có khả năng nhanh hơn, rủi ro trong hoạt động Ngân hàng thấp hơn và NHTM có
khả năng thực hiện biện pháp phòng ngừa rủi ro trong đầu tư tín dụng.
Qua nghiên cứu về tín dụng trung - dài hạn cho thấy có rất nhiều nhân tố tác động
đến việc mở rộng cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng
thương mại, Mỗi nhân tố có mức độ tác động khác nhau tuỳ theo tính chất và thời gian
của hoạt động tín dụng dài hạn. Đồng thời, các nhân tố có liên quan với nhau, tạo sự tác
động tổng hợp đến hoạt động tín dụng trung dài hạn. Vấn đề đặt ra là người điều hành
ngân hàng thương mại phải nắm vững và điều khiển sự tác động của các nhân tố đó
trong quá trình mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn.



Chương 2:
Thực trạng tín dụng trung dài hạn của
ngân hàng công thương thanh hoá.

2.1 Khái quát quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng công
thương thanh hoá.
Thanh hoá là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ , có đủ 3 vùng kinh tế, miền núi ,
trung du, đồng bằng và ven biển có chiều dài bờ biển 102 km, có đường sắt Bắc Nam và
quốc lộ 1A chạy qua , rất thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế với các tỉnh trong nước
Thanh hoá có vùng đất rộng thuận lợi cho việc phát triển các khu công nghiệp, đất

đai có một số vùng phì nhiêu màu mỡ, tài nguyên thiên nhiên rừng , biển tương đối
phong phú, điều đó thể hiện vùng biển Thanh hoá nằm trong vùng bể trầm tích chứa dầu
khí, trữ lượng khoảng 100-120 ngàn tấn mới khai thác được 30%. Tài nguyên khoáng
sản giàu nguyên vật liệu xây dựng, phân bón ( đã vôi, phụ gia xi măng )
Là một ngành kinh tế quan trọng, Ngân hàng Thanh hoá nói chung, Ngân hàng
công Thương Hoá nó riêng đã có cống hiến to lớn vào công cuộc xây dựng quê hương
Thanh hoá , góp phần không nhỏ vào thành tựu của cả tỉnh
2.1.1. Sơ lược quá trình ra đời và phát triển của NHCT thanh hoá
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ 3 của BCH TW Đảng Cộng Sản Việt Nam
khoá VI và Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của Hội đồng Bộ Trưởng về việc
chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán kinh tế và kinh doạnh XHCN, hình thành
hệ thống Ngân hàng hai cấp.
Ngân hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động Ngân
hàng và các Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng và
các dich vụ ngân hàng.
Đây là mốc son lịch sử của hệ thống ngân hàng được tách bạch rõ ràng giữa chức
năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh . Đánh dấu sự ra đời của các NHTM
với sự vươn lên và phát triển mạnh mẽ , góp phần xứng đáng vào quá trình hội nhập và
công cuộc đổi mới đất nước.



Trong xu thế thời đại đó ngày 1/7/1988 Ngân hàng Công Thương Việt Nam ra đời
và đi vào hoạt động . Hai tháng sau, ngày 01/9/1988 chi nhánh NHCT Thanh hoá được
thành lập trên cơ sở NH Nhà nước thị xã Thanh hoá cùng với các phòng tín dụng công
nghiệp , tín dụng thương nghiệp của Ngân hàng Nhà nước tỉnh để hợp thành chi nhánh
NHCT Thanh hoá, đơn vị thành viên nằm trong đội hình của NHCT Thanh Hoá.
Quá trình hình thành và tổ chức của bộ máy hoạt động NHCT Thanh Hoá nói
chung và chi nhánh NHCT Thanh hoá có thể chia ra làm 3 giai đoạn :
Giai đoạn thứ nhất : Từ ngày thành lập đến hết năm 1990 , hệ thống NHCT VN

có 32 chi nhánh , tỉnh thành phố với 63 đơn vị trực thuộc được tổ chức hoạt đọng theo
cơ chế NHCT TW chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý chỉ đạo như một liên hiệp xí nghiệp
đặc biệt các chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
Nguồn vốn huy động khi mới thành lập ( 1988) là 13.400 triệu đồng, dư nợ cho
vay nền kinh tế 10.326 triệu , chưa có cho vay ngoại tệ và huy động tiết kiệm ngoại tệ ,
các sản phẩm dịch vụ còn đơn giản , tin học chưa được áp dụng , tổng số CBCNV có
325 người.
Giai đoạn thứ hai. Từ tháng 1/1991 đến hết năm 1995, là giai đoạn hệ thống
NHCT VN được thành lập lại theo quyết định 420/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng . Chi nhánh NHCT Thanh hoá cũng bắt đầu mở rộng hoạt động
.Đến hết năm 1995 chi nhánh Thanh hoá có nguồn vốn huy động đạt 190.420 triệu đồng
trong đó ngoại tệ ( quy VNĐ) đạt 18.030 triệu đồng.
Đầu tư tín dụng đạt 262.976 triệu đồng , trong đó dư nợ cho vay DNNN127.592
triệu , dư nợ cho vay ngoài quốc doanh 135.384 triệu đồng.
Kết quả kinh doanh có lãi 10.053 triệu , là năm đỉnh cao của chi nhánh NHCT
Thanh hoá . Song thời điểm này cũng bắt đầu bộc lộ những tồn tại , yếu kém như: Hiệu
quả hoạt động của các phòng giao dịch thấp, đội ngũ CBCNV không theo kịp với sự
phát triển của nền kinh tế , chất lượng tín dụng bộ lộ nhiều tồn tại , nợ quá hạn bắt đầu
dâng lên.
Giai đoạn thứ ba: Từ năm 1996 đến nay, theo uỷ quyền của Thủ Tướng Chính
phủ , Thống đốc NHNN VN đã ký Quyết định số 285/QĐ-NH5 ngày 21/9/1996 thành
lập lại NHCT Vịêt Nam theo mô hình của Tổng công ty Nhà Nước, theo mô hình này
NHCT VN được quản lý bởi Hội dồng quản trị , điều hành bởi Tổng giám đốc, có các



đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc ( các cấp 1, 2) có các đơn vị thành viên hạch toán
độc lập ( các công ty)
Đối với chi nhánh Thanh hoá hai năm đầu của thời kỳ này ( 1996-1997) là giai
đoạn bộc lộ rõ nét nhất những khó nhăn tồn tại, đó là:

- Nguồn vốn có tăng nhưng rất chậm , đến cuối 1997 dạt 296.403 triệu đồng
- Dư nợ giảm dần , cuối năm 1997 chỉ còn 182.482 triệu đồng.
- Tỷ lệ NQH chiếm 24% ( chưa kể các khoản nợ đã được khoanh, các khoản nợ
trong hạn biết sẽ quá hạn nhưng vì cho vay trung , dài hạn nên chưa đến hạn trả)
- Kết quả kinh doanh năm 1997 chuyển sang lỗ 539 triệu đồng
- Trong những năm 1996-1997 cũng là giai đoạn chuyển giao CB lãnh đạo ở chi
nhánh tỉnh và cả ở 2 chi nhánh . Từ năm 1998, với các biện pháp chấn chỉnh lại hoạt
động của chi nhánh một cách mạnh mẽ, rút kinh nghiệm trong công tác quản lý hoạt
động của toàn chi nhánh đã từng bước lấy lại vị thế.
Đầu tư tín dụng đã bắt đầu tăng trưởng trở lại và đến cuối năm 2002 tổng dư nợ
đạt 846.185 triệu đồng . Huy động vốn đến 31/12/2002 đạt 841 tỷ đồng . NQH ở mức
2% . lợi nhuận đạt 1.508 triệu đồng .Năm 2003 dư nợ đạt 947 tỉ đồng , nguồn vốn đạt
916 tỉ đồng , nợ quá hạn chỉ còn 1.08 % trên tổng dư nợ.
Qua 15 năm hoạt động và đổi mới NHCT Thanh hoá đã không ngừng trưởng
thành và lớn mạnh về cả quy mô, nội dung và chất lượng hoạt động. Thể hiện trên một
số mặt cụ thể:
* Xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức , đào tạo và đào tạo lại cán bộ đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới.
Nếu như năm 1988 chi nhánh Thanh Hoá có 325 cán bộ , chỉ có 59 cán bộ có trình
độ đại học( chiếm 18%), trung cấp 141 người ( chiếm 43%) số còn lại ( 39%) là sơ cấp
và chưa qua đào tạo . Cán bộ có khả năng về ngoại ngữ , tin học , trính trị gần như chưa
có. Đến hết năm 2002 trình độ cán bộ của NHCT Thanh hoá đã nâng lên nhanh chóng ,
cụ thể là: Thạc sỹ có 4 người, chiếm 1,35%; đại học có 108 người , chiếm 36%; cao
đẳng , cao cấp nghiệp vụ ngân hàng 60 người, bằng 20% ; trung cấp 88 người chiếm
30% (trong số này có đến 50% đang học hàm thụ đại học;
Đã có 5 cán bộ là cử nhân chính trị, 4 cán bộ có bằng cử nhân luật. Hầu hết cán
bộ đều sử dụng thành thạo máy vi tính. Chi nhánh đã có đội ngũ Cán bộ thực hiện nhiệm




vụ tài trợ xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế hoàn hảo , giúp các doanh nghiệp XNK
trên địa bàn kinh doanh hiệu quả.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật của chi nhánh NHCT Thanh hoá đã được cải thiện và
nâng cấp rõ rệt, các phương tiện và điều kiện làm việc đáp ứng được nhu cầu đổi mới và
hiện đại hoá. Từ năm 2001 chi nhánh triển khai chương trình tiết kiệm điện tử , trên
70% số điểm giao dịch tiết kiệm thực hiện giao dịch tức thời tên máy vi tính, từ năm
2002 đưa chương trình quản lý tín dụng trên máy vi tính . Trong 2002 chi nhánh đã hoàn
thiện phần mềm chương trình rút tiền tự động , cấp thẻ rút tiền tự động cho khách hàng
có yêu cầu.
* Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, phát triển cân đối các nghiệp vụ kinh doanh
đối nội và đối ngoại , tạo thêm nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới.
Những năm đầu mới thành lập , chỉ có vài hình hức huy động vốn là hình thức tiết
kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn bằng đồng việt Nam. Về đầu tư tín dụng cũng còn khá
đơn giản , trên 99% doanh thu từ hoạt động cho vay vốn , các sản phẩm dịch vụ chưa
phát triển . Ngày nay hoạt động huy động vốn đã mở ra nhiều hình thức phong phú, :
ngoài hình thức huy động tiết kiệm cổ truyền , đã có thêm hình thức huy động bằng kỳ
phiếu có mục đích, trái phiếu có ghi danh, tiết kiệm dự thưởng,nghiệp vụ thị trường liên
ngân hàng
Trong đầu tư tín dụng cũng đã mở ra nhiều chương trình cho vay như: cho vay
xuất khẩu lao động, tạo việc làm,cho vay DN vừa và nhỏ đến cuối năm 2002 chi
nhánh Thanh hoá đã có nguồn vốn ngoại tệ chiếm đến 40% tổng nguồn vốn huy động
của toàn chi nhánh , cho vay ngoại tệ chiếm 25% tổng dư nợ.
Việc thanh toán quốc tế được mở rộng, mỗi năm mở hàng trăm L/C hàng xuất
nhập khẩu.
* Tăng trưởng liên tục , ổn định và vững chắc nguồn vốn dư nợ , lợi nhuận và đời
sống CBCNV.
Về nguồn vốn nếu như 1988 chi nhánh chỉ có 13.400 triệu đồng thì đến cuối năm
2003 đạt 916tỷ đồng . Về dư nợ cho vay Năm 1988 dư nợ của toàn chi nhánh là 10.326
triệu đồng thì cuối năm 2003 có dư nợ 980 tỷ đồng.
2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương

Thanh hoá (NHCT-TH) năm 2004.



Năm 2003, tình hình kinh tế xã hội thế giới, khu vực có nhiều biến động , song ở
nước ta kinh tế vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP 7,2 % cao nhất trong 3 năm trở lại đây.
Trên địa bàn tỉnh Thanh hoá vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình của cả
nước ( 8,7%)
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng tương đối ổn định . Luật bổ sung sửa
đổi luật NHNN được quốc hội thông qua đã mở rộng hoạt động của thị trường mở. Nghị
định 85/NĐ-CP của Chính phủ và thông tư 07/2003 /TT-NHNN hướng dẫn về đảm bảo
tiền vay làm tăng tính chủ động cho các NHTM trong công tác tín dụng. Trong năm qua
chính phủ , NHNN có nhiều quyết sách thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng
thương mại như cấp thêm vốn điều lệ, xử lý các khoản nợ tồn động cũ đẩy nhanh đề án
cơ cấu lại nợ của ác ngân hàng.
Năm 2003 cũng là năm có nhiều sự kiện ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng như:
giá vàng, tỷ giá USD, EURO và các ngoại tệ mạnh khác biến động thất thường , vấn đề
an ninh ngân hàng trở thành vấn đề thời sự sau sự cố ngân hàng á Châu, việc tuân thủ
các chỉ số an toàn vốn là yêu cầu cần phải quan tâm hàng đầu trong điều hành hoạt động
ngânn hàng để đói phó với những rủi ro không thể lường trước được
Công tác xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp nhà nước trong diện được xử lý
theo quyết định 149 của chính phủ , thông tư 74 của Bộ tài chính , thông tư 05 của
NHNN đã được thực hiện
Với sự nỗ lực của tập thể CBCNV chi nhánh NHCT Thanh hoá với quyết tâm
thực hiện mục tiêu kinh doanh đặt ra cho năm 2003 , ngay từ đầu năm Ban Giám Đốc đã
có quan điểm chỉ đạo sâu sát về nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 và đã đưa ra khẩu hiệu
hành động " đổi mới phong cách giao dịch và đièu hành , nâng cao chất lượng và
hiệu quả kinh doanh" . xác định công tác huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm xuyên
suốt năm kế hoạch. Công tác xử lý nợ tồn đọng là nhiệm vụ cấp bách phải xử lý dứt
điểm thu triệt để nợ tồn đọng nội bảng , tránh để NQH mới phát sinh thành nợ khó đòi

đầu tư tín dụng phải được đổi chất , không nới lỏng , hạ thấp các điều kiện cho vay, việc
thẩm định các dự án , các phương án phải độc lập từng thành viên có đưa ra hội đồng
xem xét và quyết định tập thể duy trì họp giao ban hàng tháng , quý , thường xuyên phân
tích các khoản nợ , phân tích tài sản đảm bảo vay để có biện pháp thích hợp nhằm nâng
cao chất lượng tín dụngvà hiệu quả kinh doanh.

×