Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.64 KB, 12 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG
DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA ĐÌNH ĐỐI VỚI
CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BA
ĐÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trong những năm qua ngân hàng đã đạt được những thành tựu đáng kể, song
còn một số những tồn tại không đáng có, vì vậy ngân hàng đề ra những phương
hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới như sau:
- Về công tác huy động vốn:
Ngân hàng phải xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và hết
sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định hoạt động của ngân hàng. Phải có nhiều hình
thức, biện pháp phù hợp để huy động vốn cả nội tệ và ngoại tệ, vốn ngắn hạn, trung
dài hạn *** chi phí đầu vào thống nhất. Chủ động đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn
để mở rộng tín dụng và đầu tư, đảm bảo các tỷ lệ dự trữ bắt buộc, duy trì khả năng
thanh toán an toàn, nhằm thoả mãn nhu cầu vốn của các doanh nghiệp - nhất là các
dự án phương án có hiệu quả kinh tế, có tính khả thi, khả năng trả nợ đầy đủ, đúng
hạn.
- Tiếp tục mở rộng đầu tư tín dụng đi đôi với việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư
theo hướng góp phần giải phóng một năng lực sản xuất, phát huy tiềm năng của mọi
thành phần kinh tế, đảm bảo cho doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chủ lực,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung vốn cho các chương trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển kinh tế.
- Về công tác kinh doanh:
Tăng cường khai thác xử lý có hiệu quả tài sản thế chấp xiết nợ theo phương
án cụ thể của từng đơn vị.
Tiếp tục thực hiện chiến lược khách hàng của ngân hàng, đẩy mạnh công tác
tiếp thị, để mở rộng và phát triển khách hàng tốt, tìm kiếm các dự án có hiệu quả.
Tăng khối lượng và tỷ trọng cho vay trung - dài hạn. Tập trung vốn cho các ngành
hàng quan trọng, các dự án theo chỉ định của Chính phủ, các dự án theo chương
trình đồng tài trợ không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và chất lượng thẩm
định dự án cho vay, tuân thủ và tôn trọng các thể lệ chế độ tín dụng hiện hành.


Tập trung vốn trung dài hạn để đầu tư cho các doanh nghiệp mua sắm máy
móc, thiết bị, đổi mới công nghệ cho chương trình phát triển công nghệ sau quy
hoạch, chương trình sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu.
Tích cực, chủ động phối hợp với các cấp, các ngành có liên quan để xây
dựng các phương án, các giải pháp nhằm nhanh chóng xử lý có hiệu quả các khoản
nợ gốc, nợ lãi tồn đọng.
Để phấn đấu được như vậy cụ thể là chi nhánh tiếp tục phấn đấu tăng huy
động vốn lên 20% dư nợ bình quân tăng 20% và giảm nợ quá hạn xuống 2,5%
đồng thời tăng thêm 5% lợi nhuận hạch toán so với năm 2001 những vẫn đảm bảo
không quên phưong châm kinh doanh hàng đầu đó là "ổn định, an toàn, hiệu quả
và phát triển".
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1. Về phía ngân hàng công thương Ba Đình.
* Ngân hàng cần có các hình thức huy động vốn trung dài hạn thích hợp và
đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta dần dần đi vào ổn định, hoạt
động tín dụng trung - dài hạn tại Ngân hàng Công thương Ba Đình đã được cải
thiện đáng kể để phù hợp với sự đổi mới theo hướng công nghệ hoá, hiện đại hoá
của đất nước. Đó là việc thay đổi cơ cấu đầu tư theo hướng nâng cao dần tỷ trọng
cho vay trung - dài hạn. Nguồn vốn cho vay trung dài hạn của ngân hàng do vậy
phải được tăng cường bởi lẽ để đáp ứng cho các loại hình doanh nghiệp đặc biệt là
đối với doanh nghiệp Nhà nước với loại hình tín dụng này thì nguồn vốn vẫn còn
nhỏ bé.
Do đó ngân hàng cần đa dạng hoá hình thức huy động vốn, hoàn thiện các
nghiệp vụ tiền gửi tiết kiệm truyền thống, xây dựng thêm các hình thức huy động
vốn mới như: phát hành trái phiếu có thời hạn 1 năm trở lên để vay vốn trong và
ngoài nước (nếu NHNN cho phép) hoặc huy động tiết kiệm dài hạn với mức lãi
suất cao hơn lãi suất ngắn hạn. Các công cụ đó có hữu danh hoặc vô danh để có thể
chuyển nhượng tự do mua bán trên thị trường. Ngân hàng có thể phát hành trái

phiếu mệnh giá lớn, người mua ban đầu chỉ phải bỏ ra một số tiền ít hơn mệnh giá
của trái phiếu nhưng đến hạn thì được trả đủ theo mệnh giá. Ngoài ra ngân hàng
cần thực hiện nghiệp vụ chiết khấu các kỳ phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh
toán, bên cạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để thu hút vốn trung dài hạn trong
và ngoài địa bàn. Đồng thời ngân hàng cũng cần phải chuyển hoá năng động, hợp
lý các nguồn vốn ngắn hạn vừa đảm bảo nhu cầu vừa có khả năng thanh toán cao.
Hiện nay, để thực hiện cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, theo quy định
các ngân hàng đã trích đến 20% - 30% vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn. Ngân
hàng Công thương Ba Đình cũng đã làm như vậy nhưng điều này chưa phải là giải
pháp hữu hiệu vì thị trường vốn ngắn hạn và thị trường chứng khoán ở nước ta
chưa phát triển.
* Đơn giản hoá thủ tục cho vay.
Ngân hàng nên đơn giản hoá các thủ tục xin vay vốn, đẩy mạnh quá trình
điều tra xét duyệt cho vay đối với dự án có hiệu quả. Nhìn chung, khách hàng đi
vay vốn bao giờ cũng ngại thủ tục xét duyệt cho vay quá rườm rà. Trong bộ hồ sơ
xin vay vốn trung dài hạn có rất nhiều các thủ tục xin vay: Đơn xin vay, luận chứng
kinh tế kỹ thuật, dự án công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt, bản tính toán
hiệu quả kinh tế của dự án, hạch toán vay, trả nợ, các hợp đồng cung ứng thiết bị,
nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Các văn bản pháp lý và tài sản thế chấp, giấy
bảo lãnh vốn vay, báo cáo thực trạng tài chính của doanh nghiệp, báo cáo quyết
toán của doanh nghiệp kế tiếp hai năm về trước, các tài liệu khác có liên quan đến
dự án và doanh nghiệp.
Trong các khách hàng vay vốn trung dài hạn của ngân hàng thì chủ yếu là
khách hàng truyền thống và khách hàng lâu dài từ trước đã tham gia vay vốn ngắn
hạn của ngân hàng. Vì vậy giữa bộ hồ sơ vay vốn trung dài hạn với hồ sơ vay vốn
ngắn hạn có 2 điểm trùng nhau đó là: Báo cáo thực trạng tài chính của doanh
nghiệp, Báo cáo quyết toán của doanh nghiệp 2 năm kế tiếp trước đó. Do đó ngân
hàng có thể đơn giản hai thủ tục này khi mà doanh nghiệp chưa có đủ thì hoàn toàn
có thể áp dụng dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn. Vì trong nghiệp vụ vay vốn
ngắn hạn, cán bộ tín dụng vẫn phải thường xuyên kiểm tra tình hình tài chính

doanh nghiệp. Tuy nhiên việc dựa vào bộ hồ sơ vay vốn ngắn hạn chỉ ứng dụng
cho các đơn vị có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, còn các đơn vị vay lần đầu
thì cần phaỉ đẩy đủ thủ tục. Việc đơn giản thủ tục như vậy sẽ làm cho khách hàng
không ngại ngần khi đặt quan hệ với ngân hàng. Việc các thủ tục xét duyệt đơn
giản cũng sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng điều tra có trọng điểm, không mất thời
gian tìm hiẻu hiểu quá lâu. Đơn giản không có nghĩa là qua loa hời hợt, đó là
nguyên tắc của ngân hàng trong điều tra cho vay.
* Nâng cao hơn nữa việc kiểm tra thẩm định hiệu quả kinh tế củ khoản vay và
dự án vay.
Thẩm định dự án là khâu đầu tiên và then chốt trong công tác tín dụng.
Thẩm định dự án nhằm kiểm tra khẳng định lại những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của
dự án đầu tư như: quy mô đầu tư, thiết bị công nghệ năng lực công suất máy móc,
khối lượng và chất lượng sản phẩm, thị trường tiêu thụ, trên cơ sở đó để đi đến đầu
tư.
Ngân hàng Công thương Ba Đình trong việc thẩm định đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Nhưng để hoàn thiện hơn thì ngân hàng cần chú ý, ngoài việc
kiểm tra tính đầy đủ, tính hợp pháp của các văn bản hồ sơ pháp lý về kinh doanh
dự án vay. Quan trọng là việc thẩm định các căn cứ dùng làm cơ sở để tính toán dự
án vay, thẩm định tính hiện thực, tính khả thi của các cơ sở, tiền đề từ đó có dự báo
về hiệu quả và khả năng vay trả.
Thông thường khi vay vốn người đi vay đã luận ý, đã tính toán hiệu quảkt,
tính toán nguồn vốn và khả năng vay trả của dự án. Với giác độ là người cho vay
vốn ngân hàng phải thẩm định kiểm tra lại các cơ sở lập luận và cơ sở tính toán của
người vay để làm sáng tỏ mọi khía cạnh trong dự án. Hiệu quả kinh tế cao hay thấp
của dự án vay có quan hệ hữu cơ khăng khít và thường quyết định khả năng vay trả
tốt hay xấu cảu dự án vay. Nhưng nếu ngân hàng chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu hiệu
quả của khoản vay thì chưa đủ, mà điều quan trọng là: trả nợ bằng nguồn vốn nào,
nguồn trả nợ có đảm bảo không, trả nợ trong bao lâu, lịch trả nợ cụ thể như thế
nào.
Vì vậy ngoài việc thẩm định lại hiệu quả kinh tế của dự án vay, ngân hàng

cần phải chú trọng kiểm tra các nguồn vốn để trả nợ, trả lãi, thời hạn trả nợ hiện thực
khả thi, lịch trả nợ, trả lãi cụ thể. Do vậy ngân hàng cần có một đội ngũ thẩm định có
chuyên môn vững vàng, có nhiệt tình cao nghiêm khắc và mềm mỏng trong các
trường hợp khác nhau có thể xảy ra trong công việc.
* Đẩy mạnh nâng cao chất lượng quản lý trong quá tình cho vay theo dõi đôn
đốc thu nợ và thu lãi.
Nếu thẩm định dự án là khâu đầu tiên và lâu khâu quyết định chung đối với
dự án thì quá trình đưa vốn ra, theo dõi đôn đốc thu nợ cũng là khâu không kém
phần quan trọng. Khi một dự án đầu tư trung - dài hạn được cho vay theo đúng
mục đích, đúng lúc, đúng thời điểm, đúng số vốn theo lịch vay vốn ghi trong hợp
đồng tín dụng thì công việc quản lý vay vốn ở đây là theo dõi kiểm tra số vốn và
doanh nghiệp rút ra lần trước có sử dụng đúng mục đích không. Việc kiểm tra này
thông qua các chứng từ hoá đơn, hợp đồng giá cả. Nếu doanh nghiệp sử dụng đúng
mục đích ghi trong hợp đồng tín dụng thì đó là cơ sở cho việc phát vốn lần sau.
Những trường hợp nếu sử dụng sai mục đích thì phải sử lý ngay theo chế độ tín
dụng. Ngoài ra phải theo dõi, bám sát mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
để đánh giá chính xác những diễn biến trong mỗi quan hệ giữa doanh nghiệp với
khách hàng của doanh nghiệp từ đó có các thông tin chính xác, phát hiện kịp thời
khả năng có thể phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi, từ đó có biện pháp xử lý ngay.
Việc đôn đốc thu nợ, thu lãi đúng kỳ hạn và đủ là trách nhiệm là kỷ luật cán
bộ tín dụng. Lịch trả nợ gốc và lãi đã cam kết trong hợp đồng tín dụng phải theo
dõi hàng ngày. Ngân hàng đồng thời phải gửi giấy báo cho doanh nghiệp chuẩn bị
nguồn trả vào trước kỳ hạn. Việc thu nợ, lãi đúng kỳ hạn sẽ không có nợ quá hạn,
thể hiện sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Khi một dự án vay mà đã hết hạn trả nhưng doanh nghiệp chưa có nguồn
vốn để nợ thì việc xem xét được gia hạn, trả nợ gốc phải đúng thẩm quyền được uỷ
nhiệm và các chế độ tín dụng quy định, không tuỳ tiện gia hạn, nếu trong các dự án
cho vay mà có nợ quá hạn, thì cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi mọi
diễn biến để kịp thời thu hồi, tránh để nợ.
Để xử lý nợ quá hạn thì ngân hàng có biện pháp thích hợp để giúp đỡ doanh

nghiệp tháo gỡ mọi khó khăn trong sản xuất kinh doanh, Ngân hàng giúp doanh
nghiệp vịêc tư vấn trong sản xuất để giảm nợ quá hạn. Tuyệt đối không cho vay
mới khi chưa hết nợ cũ, không lấy nợ, nuôi nợ.
* Luôn luôn dự báo các rủi ro tiềm ẩn trong tín dụng trung và dài hạn và có
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
Rủi ro thanh toán, rủi ro lãi suất luôn đe doạ các ngân hàng khi họ chiếm
lĩnh thị trường trung và dài hạn bởi cấp độ rủi ro của khoản cho vay trung dài hạn
lớn hơn đáng kể so với khoản cho vay ngắn hạn. Sự quan tâm đến vấn đề phòng
ngừa rủi ro đối khoản vay trung dài hạn không chỉ đòi hỏi đối với ngân hàng kinh
doanh mà còn đặc biệt đối với cơ quan quản lý tiền tệ. Bởi vì mức độ của khoản
vay trung, dài hạn là rất lớn gây đột biến và kéo dài cho cả bên vay, ngân hàng tài
trợ và các bên có liên quan. Chính vì vậy biện pháp xác định dự báo rủi ro tiềm ẩn
trong thế chấp và bảo lãnh vay vốn là hết sức cần thiết đối với ngân hàng. Việc dự
báo các rủi ro tiềm ẩn càng đầy đủ, các biện pháp phòng ngừa càng cẩn trọng thì
hiệu quả sử dụng tín dụng ngay từ khâu phán quyết càng cao. Đương nhiên việc
phát hiện và dự báo các rủi ro tiềm ẩn để đề ra các giải pháp phòng ngừa phải là
việc làm liên tục, thường xuyên không chỉ trước khi phán quyết mà ngay cả trong
suốt quá trình đưa vốn cho đến khi thu xếp hết nợ gốc và lãi vay.
Vì vậy khi tính toán nguồn trả nợ, thời hạn trả nợ, người ta phải tính cả
phương án : phương án lạc quan nhất, phương án xấu nhất phương án trung bình
nhất. Để an toàn và phòng ngừa các rủi ro tiềm ẩn có một cách thường dùng là lấy
phương án xấu nhất để xem xét.
Nếu phương án này vẫn trả được nợ và lãi vay ngân hàng trong giới hạn cho
phép, thì chắc chắn ngay từ khi phán quyết đã có thể yên tâm về khoản vay được
duyệt.
Thế chấp và bảo lãnh cho việc vay vốn là chìa khoá an toàn cuối cùng cho
việc vay vốn. Trong điều kiện hiện nay, ngân hàng phải hết sức nhạy cảm, bảo đảm
nguyên tắc và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của Nhà nước, áp dụng một cách
linh hoạt, sáng tạo nhưng không tuỳ tiện. Thực hiện việc thế chấp bảo lãnh đúng
quy định và cho vay phải dựa trên những cơ sở thực sự từ phía doanh nghiệp

không chỉ dựa vào duy nhất tài sản thế chấp.
* Ngân hàng cho vay đầy đủ, kịp thời đối với các dự án đầu tư
Ngân hàng cần đầu tư tiến hành dứt điểm cho từng dự án, từng công trình,
tránh tình trạng cho vay tràn lan, kéo dài. Sau khi công trình đã được duyệt cho
vay, ngân hàng cần phát triển tiền vay theo đúng kế hoạch tiến độ thi công của
công trình hay d ự án kinh doanh đã đề ra.

×