Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.9 KB, 79 trang )

















LUẬN VĂN:

Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả
xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân
hàng Công Thương Hoàn Kiếm







Lời mỡ đầu

Sau hơn 10 năm đổi mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang nến kinh tế thị trường ,


nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên con đường hội nhập với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Cùng với đà phát triển của nền kinh tế là sự đổi
mới và phát triển của hệ thống Ngân hàng Thương mại. Có thể nói hệ thống Ngân hàng
Thương mại đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thông
qua các hoạt động nghiệp vụ của mình.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, chuyên hoạt động trên
thị trường tiền tệ . Đây là một lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro khó lường. Các rủi
ro này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau đã gây cho ngân hàng những tổn thất làm
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Một trong những rủi ro mà ngân
hàng thường hay gặp phải là những khoản nợ khó đòi hay còn gọi là những khoản nợ
xấu.
Mặc dù các Ngân hàng Thương mại đã áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để
khắc phục những khoản nợ xấu này, nhưng dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan
cũng như chủ quan mà các biện pháp này chưa đạt được những hiệu quả như ý muốn.
Xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp hữu hiệu để thu hồi các khoản nợ này. Tuy
nhiên, việc xử lý các tài sản đảm bảo hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn bất cập. Điều
này gây nhiều khó khăn cho các Ngân hàng Thương mại .
Để các Ngân hàng Thương mại phát triển theo hướng ổn định, an toàn và giảm
bớt những khó khăn đối với các khoản nợ không thu hồi được thì việc lựa chọn giải
pháp xử lý tài sản đảm bảo cho vay là hết sức quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , nhận thấy tính
cấp thiết của vấn đề, được sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo hướng dẫn, sự quan tâm




giúp đỡ của cán bộ, nhân viên Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm , đặc biệt là cán bộ
Phòng Kinh doanh tín dụng , em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài :
“ Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại
Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ”


Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại
Chương II: Thực trạng xử lý tài sản đảm bảo cho vay tại Ngân hàng Công
Thương Hoàn Kiếm
Chương III: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả xử lý tài sản đảm bảo
cho vay tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm












Chương I:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

I. chức năng và vai trò của hệ thống NHtm trong nền kinh tế :
1. Chức năng trung gian tài chính :
Đây là chức năng đặc trưngvà cơ bản nhất của Ngân hàng Thương mại và có ý
nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển .Trung gian tài chính là hoạt
động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể
vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người muốn dùng nó vì mục
đích sinh lợi .
Thực hiện chức năng này , một mặt , Ngân hàng Thương mại huy động và tập

trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rổi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình
thành nguồn vốn cho vay; mặt khác , trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho
vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất , kinh doanh , tiêu dùng của các chủ kinh tế , góp
phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội , thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế . Như vậy , Ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay , hay nói cách
khác , nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại là đi vay để cho vay.
Để mở rộng sản xuất , đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong
những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra . Các doanh nghiệp không chỉ trông chờ vào
vốn tự có , mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã hội . Ngân
hàng Thương mại với tư cách là nơi tập trung nguồn vốn nhàn rổi trong xã hội , sẽ là
trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển . Như vậy , tín dụng ngân
hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn nhanh chống cho
đầu tư mỡ rộng sản xuất , vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho
nền kinh tế .




Chức năng trung gian tài chính của các Ngân hàng Thương mại được hình thành
rất sớm , ngay từ lúc hình thành các Ngân hàng Thương mại . Ngày nay , thông qua chức
năng trung gian tín dụng , Ngân hàng Thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã
hội của mình , làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên , vốn đầu tư được mỡ rộng và từ
đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế , cải thiện đời sống của nhân dân.

2. Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán :
Chức năng này là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ quỹ của
các doanh nghiệp , tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả theo
lệnh của chủ tài khoản .Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng , họ sẽ được đảm bảo an
toàn trong cất giữ và thực hiện thu chi một cách nhanh chóng , tiện lợi , nhất là đối với
những khoản thanh toán có giá trị lớn , mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém , khó

khăn và không an toàn . Nếu như mọi khoản thanh toán được thực hiện không qua ngân
hàng , thì sẽ có những bất tiện và tốn kém , như : những chi phí cho lưu thông tiền
mặtvà những chi phí có liên quan đến người trả và người nhận. Khi ngân hàng thương
mại ra đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá , dịch vụ
giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện , việc thanh toán
trở nên thuận lợi , tiết kiệm được nhiềuchi phí , mọi quan hệ thanh toán được thực
hiệnbằng cách các chủ thể kinh tế mở tài khoản tại ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực
hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm cho ngân hàng thực hiệnviệc thu nhận các khoản
tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán , ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông
tín dụngvà độc quyền quản lý các công cụ đó (sec, giấy chuyển ngân , thẻ thanh toán )
đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độluân chuyển vốn
, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá.




Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến tầm
mức đa dạng, không chỉ là trung tâm thanh toán truyền thống như trước, mà còn quản lý
các phương tiện thanh toán . Đây là vai trò ngày càng chiếm vị trí rất quan trọng, phù
hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ. 3.Chức năng tạo ra tiền ngân hàng
trong hệ thống ngân hàng hai cấp : Quá trình tạo tiền của Ngân hàng Thương
mại được thực hiện thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong hệ thống ngân
hàng , trong mối liên hệ chặt chẻ với hệ thống Ngân hàng Trung ương mổi nước .Tiền “
bút tệ “ do các Ngân hàng Thương mại tạo ra bằng cách nào? Để hiểu vấn đề này chúng
ta giả định rằng tất cả các Ngân hàng Thương mại đều không giữ lại tiền dự trữ quá mức
quy định , các tờ séc không chuyển thành tiền mặt và các yếu tố phức tạp được bỏ qua ,
thì quá trình tạo tiền “ bút tệ “ như sau :
Đó là khả năng biến mức tiền gửi ban đầu tại một ngân hàng đầu tiên nhận
tiền gửi thành một khoản tiền lớn hơn gấp nhiều lần khi thực hiện các nghiệp vụ

tín dụng thanh toán qua nhiều ngân hàng . Một ngân hàng này cho vay xong là hết
vốn , thì số vốn đó lại chuyển sang ngân hàng khác trở thành vốn tiền gửi và làm
tăng thêm vốn tiền gửi của ngân hàng khác . Bây giờ chúng ta quan sát quá trình
tạo ra tiền của ngân hàng khi nó bắt đầu cho vay . Người đến vay tiền của ngân
hàng đem về sẽ chi tiêu theo các mục đích đã định của ông ta . Không ai vay tiền
của ngân hàng để đem về nhà cất mà chịu lãi . Số tiền ông ta chit tiêu qua tay một
người thứ hai . Người này có thể quyết định rằng nên gửi số tiền vừa nhận được
vào ngân hàng để có lãi mỗi ngày, hơn là giữ nó ở nhà không tạo được một lợi ích
nào khác
Như thế , đến đây ngân hàng đã tạo ra hai đợt tiền ngân hàng : số tiền
người gửi thứ nhất cầm trên tay và số tiền do người thứ hai cầm , Tổng cộng hai
số tiền ngân hàng tạo ra chỉ từ số tiền người gửi đầu tiên , và nghiệp vụ cho vay
của nó




II. Khái quát về tín dụng của ngân hàng thương mại và hình thức đảm bảo tiền
vay:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi
nhuận . Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp được chi phí tiền gửi , chi phí
dự trữ , chi phí kinh doanhvà quản lý , chi phí vốn trôi nổi , chi phí thuế các loại và chi
phí rủi ro đầu tư.

1.Khái quát về tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
1.1. khái niệm:
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế hết sức phức tạp, như : bán
chịu hàng hoá , cho vay , chiết khấu ,bão lãnh , ký thác , phát hành giấy bạc
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói , chúng ta thấy hai bên cam kết với nhau
như sau:

- Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc
- Còn bên kia thì cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của số tài hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nhất định
1.2.Tính chất pháp lý của các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng :
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý . Các hành vi ngân
hàng có cùng một lôgích kinh tế : hứng chịu rủi ro cho một người mà ngân hàng đã tin
tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch về pháp lý , mà nhiều
loại ( cho vay, bão lãnh, bảo chứng , )
Xét theo tính chất pháp lý, các nghiệp vụ ngân hàng về cơ bản có thể chia thành
ba loại :




- Cho vay ứng trước
- Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền
- Cho vay qua chữ ký ( cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký )
1.2.1. Cho vay tiền:
Cho vay tiền là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho
người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả sau một thời gian nhất
định. Giá trị hoàn trả lớn hơ giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lã cho vay
Loại cho vay dựa trên ba nguyên tắc cơ bản :
1) Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Đây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu vì đại bộ phận vốn của ngân hàng là vốn
huy động của khách hàng .Đó là một bộ phận tài sản của các sở chủ mà ngân hàng tạm
thời quản lý và sử dụng, ngân hàng cũng có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách
hàng khi họ yêu cầu . Nếu các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng , thì nhất định
sẽ ảnh hưởng đến khả nănghoàn trả của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này , mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn trả
nợ rõ ràng . Khi đến kỳ hạn nợ, người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng , nếu

không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của đi vay để thu nợ . Nếu tài khoản
tiền gửi không đủ số dư thì ngân hàng chuyển sang nợ quá hạn . Sau một thời gian nếu
khách hàng vẫn không trả nợ , ngân hàng sẽ phát mãi tài sản đảm bảo . Nguyên tắc này
hạn chế rủi ro về thanh khoản .
2) Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích :
Tín dụng cung ứng cho nền kinh tế phải hướng đến mục tiêu và yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ phát triển . Đối với các đơn vị kinh tế , tín dụng




phải đáp ứng mục đích cụ thể trong quá trình hoạt đốngản xuất kinh doanh để thúc đẩy
đơn vị hoàn thành nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của mình.
Tín dụng đúng mục đích không những là nguyên tắc mà còn là phương châm
hoạt động của ngân hàng .
Để thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử
dụng tiền đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay , bởi vì mục đích đó đã được ngân
hàng thẩm định . Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này , ngân hàng được
quyền thu hồi nợ trước hạn , nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn .
3) Vốn vay phải có tài sản tương ứng đảm bảo :
Trong quá trình cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền
kinh tế , không kể thực hiện dưới hình thức nào , đều làm tăng sức mua của xã hội , làm
tăng khối lượng tiền tệ của nền kinh tế , làm tăng lượng hàng hoá trên thị trường . Ngoài
ra , tính chất vận động của vốn tín dụng là gắn liền với sự vận động vật tư hàng hoá ,
gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị . Do đó cần thực hiện nguyên tắc
đảm bảo bằng vật tư hàng hoá tương đương cho những khoản tín dụng đang thực hiện
Tài sản đảm bảo có thể tồn tại dưới nhiều hình thức:
- Tài sản đảm bảo hình thành từ vốn vay
- Tài sản đảm bảo là tài sản của người đi vay
- Tài sản đảm bảo còn có thể là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.

Đảm bảo tín dụng là một phương tiện cho người chủ ngân hàng có thêm môt
nguồn vốn khác để thu nợ nếu mục đích cho vay bị phá sản .
1.2.2.Cho vay dựa trên việc chuyển nhương trái quyền:




Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền chủ yếu dựa trên cơ sở mua
bán các công cụ tài chính ( hối phiếu , lệnh phiếu, ký hoá phiếu, ), tạo ra nghiệp vụ
chiết khấu thươngphiếu của ngân hàng , tức là mua nợ tính trên khoảng thời gian còn lại
cho đến lúc đáo hạn của thương phiếu .
Trong loại tín dụng này , về phương diện pháp lý , ngân hàng không phải cho
vay mà là được mua một trái quyền . ở đây , ngân hàng ứng trước trị giá của một thương
phiếu chưa đến hạn và đổi lại ngân hàng nắm quyền sở hữu trái quyền của thương phiếu
đó .
Trong hình thức tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền này , khách
hàng là chủ một trái quyền có kỳ hạn, nhưng muốn có vốn ngay lập tức, nên họ phải yêu
cầu ngân hàng cấp cho ngay số tiền đó , trừ đi phần trả lãi. Đổi lại , họ chuyển nhượng
trái quyền cho ngân hàng và khi đến hạn ngân hàng sẽ đòi tiền người thụ trái ( người
phải trả ). Như vậy, tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền cho ngân hàng chủ
yếu là phương thức chiết khấu thương phiếu và chuyển nhượng khoản cho cay nghề
nghiệp
1.2.3.Tín dụng qua chữ ký ( cho vay qua cam kết bằng chữ ký ):
Trong hình thức này , ngân hàng không ứng tiền ra , mà chỉ cam kết sẽ trả một
khoản nợ của khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả được. Chính vì lý do
bão lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình mà ngườita gọi hành vi cam kết bão lãnh
của ngân hàng là tín dụng qua chữ ký.
Các ngân hàng lớn dựa vào uy tín của mình cấp chứng thư cam kết bảo lãnh cho khách
hàng thực hiện các quan hệ tài chính trong nước và quốc tế giúp cho khách hàng của
mình có thêm điều kiện để được các đối tác tín nhiệm về mặt tài chính trong quan hệ

giao dịch.
Tín dụng này có nhiều dạng :




1) Bảo lãnh ngân hàng :
Đây là hình thức rất quan trọng trong thức tiễn , bởi vì nó là điều kiện rất hay
phải có để một số người thụ trái được trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc.
Bảo lãnh của ngân hàng có thể thực hiện dưới dạng bảo chứng thương phiếu :
“Bảo đảm trả ngay khi có yêu cầu đầu tiên”, do các ngân hàng cấp. Loại bảo lãnh này
trái ngược với loại trên ở chổ , người bảo lãnh cam kết với chủ nợ sẽ trả tiền ngay khi có
yêu cầu đầu tiên , mà không được phản đối những ngoại lệ mà người thụ trái có thể phản
đối .
2) Tín dụng chấp nhận:
Trong loại tín dụng này , ngân hàng chấp nhận một hối phiếu đòi tiền chính
ngân hàng , và ngay trước khi hối phiếu đến hạn , khách hàng phải nộp vào ngân hàng số
tiền cần thiết để thanh toán . Như vậy, ngân hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc .
Việc chấp nhận này cho phép chủ nợ có được một chứng từ bảo đảm được thanh toán
bởi khả năng thanh toán của ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
1.3. Phân loại tín dụng chung:
1.3.1. Tín dụng ngắn hạn , trung hạn và dài hạn:
Chúng khác nhau ở thời hạn ngân hàng giao vốn cho khách hàng sử dụng : tối
đa là 6 tháng về ngắn hạn , tới 7 năm đối với trung hạn và trên 7 năm là dài hạn.
1.3.2. Tín dụng cấp ra kèm theo hoặc không kèm theo cam kết của ngân hàng :
- Một số loại tín dụng , thường rất ngắn hạn , là kết quả của sự khoan dung của
ngân hàng ( ví dụ: hình thức hổ trợ quỹ ). Trong trường hợp này ngân hàng không hề
cam kết dứt khoát với khách hàng và do đó có thể tự chấm dứt cho vay , trừ trường hợp
quá lạm quyền .





- Nhưng tín dụng thường phát sinh từ một cam kết dứt khoát của ngân hàng ,
hoặc là cấp một tín dụng cụ thể , hoặc là mở một hạn ngạch tín dụng cho khách hàng của
họ .
Khi hạn ngạch tín dụng không có thời hạn xác định, ngân hàng chỉ được chấm
dứt hoặc giảm hạn ngạch sau khi đã thông báo bằng văn bản khi đến hạn báo trước thoả
thuận lúc mở tín dụng.
Nhưng ngân hàng bao giờ cũng có thể chấm dứt việc mở tín dụng mà không cần
báo trước khi:
+ Khách hàng có thái độ rất đáng trách
+ Tình hình của khách hàng bị tổn hại không thể cứu vãn được.
1.3.3. Tín dụng có thể huy động và tín dụng không thể huy động được ( có thể bán lại và
không thể bán lại ).
- Tín dụng có thể huy động là những khoản tín dụng mà ngân hàng có thể
nhượng lại nhằm thu hồi lại được tiền trước kỳ hạn đã định. Các khoản tín dụng này chủ
yếu dựa trên kỹ thuật các chứng phiếu có thể chuyển nhượng và cho phép ngân hàng đi
vay lại được ( tự tái cấp vốn ).
- Tín dụng không huy động là tín dụng mà ngân hàng cấp ra không thể đem
chuyển nhượng để vay lại vốn .
1.4.Rủi ro tín dụng:
Đó là rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng, cho vay bao giờ cũng bao gồm
rủi ro và xảy ra mất mát. Rủi ro tín dụng không giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn
bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng, như: các hoạt
động bão lãnh, cam kết, chấp nhận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân
hàng, những chứng khoán có giá, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ v.v . Ngày nay, dù có





nhiều hính thức kinh doanh mới trong hoạt ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, song
hoạt động tín dụng vẫn là hoạt kinh doanh chủ yếu của ngân hàng . Vì thế ở các nước,
rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm . Các ngân hàng luôn luôn tìm cực đại
lợi nhuận qua việc tìm kiếm những lợi tức cao nhất có thể có ở các món cho vay và
chứng khoán, đồng thời cố gắng giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay, như:
sàng lọc và giám sát khách hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, qui định
các mức tín dụng, vật thế chấp, và hạn ché tín dụng. Dẫu sao, không một ngân hàng nào
nghĩ được hết mọi sự bất ngờ khi nó viết ra những qui định hạn chế trong hợp đồng tín
dụng; sẽ luôn luôn có những hoạt động rủi ro của người vay tiền, chưa có một qui định
hạn chế nào loại bỏ được chúng. Người ta gọi đó là rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro không thu được nợ khi đến hạn.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho ngân hàng những tổn thất về tài chính.
Nhưng những thiệt hại về uy tín của ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn
thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Rủi ro tín dụng giống như là “ngòi nổ”tự mình nó sự phá
hoại chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp nhưng khi có những chất kích thích sự phá hoại lan
truyền và sự tàn phá khủng khiếp sẻ diển ra. Rủi ro tín dụng lúc đó có thể là đầu mối của
những cuộc khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảnh kinh tê- xã hội.
Rủi ro tín dụng thường có hai loại: rủi ro sai hẹn là rủi ro xảy ra khi khách hàng
không trả nợ đúng hạn và rủi ro mất vốn là rủi ro xảy ra khi khách hàng không trả được
tiền vay. Và cho dù bất cứ loại rủi ro nào thì các ngân hàng cũng luôn tìm cách để hạn
chế các rủi ro xảy ra và một khi nó đã xảy ra thì có thể xử lý được nó. Một trong những
biện pháp chính là vấn đề đảm bảo cho vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
2. Hình thức đảm bảo tiền vay:
2.1. Tính tất yếu khách quan phải đảm bảo tiền vay :
Rủi ro tín dụng luôn thường trực trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng
Thương mại và là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các vụ đổ vỡ của phần lớn các ngân





hàng. Các rủi ro này bắt nguồn từ sự không an toàn về sử dụng vốn của ngân hàng. Do
đó, an toàn trong quá trình sử dụng vốn là tất yếu khách quan và không thể thiếu được
đối với các Ngân hàng Thương mại.
Lý do chính đòi hỏi một khoản vay có đảm bảo là nhằm tạo điều kiện để người
cho vay giảm bớt được những rủi ro mất mát trong trường hợp người đi vay không muốn
hoặc không có khả năng trả được nợ vay khi đến hạn. Nhưng đảm bảo không có nghĩa là
các khoản vay sẽ được hoàn trả vì Ngân hàng chỉ trở thành chủ nợ ưu tiên trong chi trả
và cũng có quyền ưu tiên so với tất cả các chủ nợ khác trong việc thanh lý các tài sản
đảm bảo cho vay. ở bất cứ lúc nào, với khách hàng nào thì cho vay có đảm bảo là
nguyên tắc hoàn toàn hợp lý và cần thiết để đảm bảo cho ngân hàng đối phó với những
tổn thất khi món nợ quá hạn, khó đòi hoặc khách hàng không có khả năng thanh toán.
Mặc dù hoàn trả tín dụng không phải là mục đích kinh doanh của ngân hàng
nhưng nó là cơ sở quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh doanh của ngân hàng. Sử
dụng đảm bảo tiền vay giúp cho các nhà kinh doanh tiền tệ có thể hạn chế đến mức tối
thiểu các rủi ro xảy ra. Bởi họ có thể thu hồi vốn khi đến hạn thông qua việc xữ lý các
tài sản đảm bảo ngay cả khi người vay gặp khó khăn không có khả năng trả nợ. Mục
đích của ngân hàng trong việc đặt ra đảm bảo tiền vay là tạo điều kiện cho Ngân hàng có
thể thu hồi nợ một cách chắc chắn, đồng thời có cơ sở để mỡ rộng qui mô tín dụng. Hơn
nữa, Ngân hàng có quyền phát mãi các tài sản của người vay được dùng làm đảm bảo đã
góp phần nâng cao ý thức hoàn trả của người vay.
Tuy nhiên, không phải khách hàng nhất thiết phải có đủ tài sản đảm bảo thì
Ngân hàng mới cho vay. Một phương án kinh doanh có cơ sở vững chắc để thực hiện có
hiệu quả là điều kiện tiên quyết cho vay của Ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay khi
phương án kinh doanh của khách hàng có hiệu quả, có khả thu nợ chứ không chỉ dựa
vào việc bán tài sản đảm bảo để thu nợ.
Mặc dù vậy, nếu Ngân hàng không thực hiện các đảm bảo tiền vay thì sẽ không
chống đỡ nổi khi có rủi ro xảy ra. Tình trạng mất vốn khi cho vay và bị đọng vốn thường





xuyên không có cách khắc phục sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không
có hiệu quả, thậm chí còn bị phá sản. Vì lẽ đó, đảm bảo tiền vay được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
2.2. Khái niệm đảm bảo tiền vay:
Đảm bảo tiền vay là thiết lập những cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ
thứ hai ngoài nguồn thu thứ nhất.
Trong hoạt tín dụng của Ngân hàng, cho vay kinh doanh có nguồn thu nợ thứ
nhất là doanh thu đối với cho vay vốn lưu động, hoặc là khấu hao và lợi nhuận đối với
cho vay trung và dài hạn để hình thành tài sản cố định. Trong cho vay tiêu dùng, nguồn
thu nợ thứ nhất của Ngân hàng là thu nhập của cá nhân khách hàng như: tiền lương, các
khoản thu nhập chính ( lãi cho vay, lãi các chứng khoán ) và các khoản thu nhập khác.
Trong xem xét đánh giá hoạt động của khách hàng, nếu thấy nguồn thu nợ thứ
nhất chưa có cơ sở vững chắc thì Ngân hàng phải thiết lập các cơ sở pháp lý để có thêm
nguồn thu nợ thứ hai. Nguồn thu nợ thứ hai bao gồm giá trị tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc bảo lãnh của bên thứ ba và đây chính là nguồn dự phòng nếu bất trắc xảy ra.
2.3. Phân loại đảm bảo tiền vay:
2.3.1. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản :
Cho vay có đảm bảo bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài
sản cầm cố, thế chấp, tài sản hình thành từ vốn vay hoặc bão lãnh bằng tài sản của bên
thứ ba.
2.3.2. Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản:
Cho vay không có đảm bảo bằng tài sản là việc cho vay vốn của tổ chức tín dụng mà
biện pháp đảm bảo tiền vay được thực hiện theo các biện pháp :





- Tổ chức tín dụng chủ động lựa chọn khách hàng vay
- Tổ chúc tín dụng nhà nước được cho vay theo sự chỉ định Chính phủ
- Tổ chức tín dụng cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bão lãnh bằng tín
chấp của tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội.
III. Vấn đề cho vay có đảm bảo bằng tài sản trong các Ngân hàng Thương mại Việt
nam:
1.Tài sản đảm bảo và vai trò của tài sản đảm bảo :
Tài sản đảm bảo là những tài sản mà người đi vay ( hoặc người bảo lãnh) dùng
để đảm bảo cho khoản vay của người vay tại Ngân hàng bằng cách trao cho Ngân hàng
giấy tờ sở hữu tài sản và xác nhận cho Ngân hàng quyền phát mãi tài sản khi khách hàng
không trả được nợ khi đến hạn.
Như vậy, tài sản đảm bảo phải là những tài sản thuộc quyền sở hữu của khách
hàng . Quyền sở hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt.
Khi một tài sản được dùng để đảm bảo cho một khoản vay tức là có sự chuyển
về mặt pháp lý quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng nếu khoản vayquá hạn. Nếu khoản
vay được hoàn trả theo đúng thoã thuận thì tài sản đảm bảo đó được trao lại cho khách
hàng. Nếu khoản vay không được thanh toán và người vay không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì tài sản đảm bảo sẻ bị xữ lý theo phán quyết của toà án.
Một mặt tài sản đảm bảo là một phương tiện tạo cho Ngân hàng một sự đảm bảo
rằng sẽ có một nguồn khác nữa dùng để hoàn trả cho khoản nợ nếu người đi vay mất khả
năng chi trả. Như vậy, tài sản đảm bảo là một phương thức làm giảm rủi ro tín dụng.
Mặt khác, tài sản đảm bảo còn tạo tâm lý cho Ngân hàng yên tâm hơn khi cấp
tín dụng cho khách hàng ; đồng thời nó nâng cao trách nhiệm của người đi vay trong




hoạt động kinh doanh của mình . Đây là cơ sở để Ngân hàng thiết lập được một mạng
lưới khách hàng cho mình.
2.Các hình thức cho vay có đảm bảo bằng tài sản:

2.1.Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay:
2.1.1. Thế chấp:
Thế chấp tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn dùng tài sản là bất
động sản và một số động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trả nợ ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) đối với bên cho vay. Đây là
phương thức nhất thiết phải đảm bảo trong cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc
doanh, cá thể và hộ gia đình. Đối với doanh nghiệp nhà nước hiện nay cũng có thể phải
áp dụng hình thức thế chấp tuỳ thuộc với doanh nghiêp và mối quan hệ của doanh
nghiêp với Ngân hàng.
Tài sản được dùng thế chấp là bất động sản và một số loại động sản nhất định
được quy định rõ với thời hạn bất kỳ ( Tàu biển , máy bay, ). Người ta có thể dùng tài
sản thế chấp để vay ngắn hạn , trung hạn hoặc dài hạn. Đối với thế chấp Ngân hàng bao
giờ cũng nắm giữ các giấy tờ sở hữu gốc.
2.1.2. Cầm cố:
Cầm cố tài sản vay vốn Ngân hàng là việc bên vay vốn có nghĩa vụ giao tài sản
là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay vốn để thực hiện nghĩa vụ trả nợ (
bao gồm nợ gốc, tiền lãi và tiền lãi phạt quá hạn). Nếu tài sản mà pháp luật có quy định
đăng ký quyền sở hữu hoặc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu thì các bên có quyền
thoã thuận bên cầm cố vẫn giữ tài sản cầm cố và giao bản gốc giấy tờ quyền sở hữu tài
sản thế chấp để vay cả ngắn hạn , trung hạn và dài hạn.
2.2.Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba:




Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) dùng
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để cam kết với người cho vay vốn ( bên nhận bảo
lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho bên vay vốn ( bên được bảo lãnh) nếu người
vay vốn không thực hiện nhiệm vụ trả nợ khi đến hạn
Hoạt động bảo lãnh ở Việt nam chủ yếu do các Ngân hàng Thương mại đảm

nhận cho khách hàng tham gia các dự án hoặc xin vay ở các Ngân hàng khác.
3. Các điều kiện đối với tài sản dùng đảm bảo tiền vay:
Khi các tài được dùng để đảm bảo cho các khoản vay tại Ngân hàng phải có các
điều kiện sau:
* Tài sản đảm bảo phải có các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, thuộc quyền
sở hợp pháp của khách hàng vay (hoặc bên bảo lãnh), các tài sản mà pháp luật quy định
đăng ký quyền sở hữu thì phải được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đối
với quyền sử dụng đất, bên đem đảm bảo phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, đất không có tranh chấp, có thể chuyển nhượngvà
thời hạn dùng để đảm bảo tối đa bằng thời hạn được giao đất hoặc thuê đất còn lại.
` * Tài sản đảm bảo phải được pháp luật cho phép mua bán, chuyển nhượng trên
thị trường
* Những tài sản mà pháp luật qui định phải bảo hiểm thì bên vay vốn (hoặc bên
bảo lãnh) phải thực hiện bảo hiểm.
* Tài sản đem đảm bảo phải có khả năng phát mãi.
* Một tài sản được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín
dụng; trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu theo qui định pháp luật, thì một tài
sản có thể được đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại một tổ chức tín dụngvới
điều kiện giá trị tài sản đảm bảo tiền vay phải lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được
đảm bảo.




* Hoa lợi, lợi tức, các quyền phát sinh từ bất động sản được đem làm bảo đảm
thuộc tài sản đảm bảo hay không là do các bên thoã thuận hoặc do pháp luật qui định.
4.Qui trình cho vay có đảm bảo bằng tài sản:
Cho vay có hoặc không có đảm bảo bằng tài sản đều có những đặc điểm giống
nhau trong qui trình tài trợ tín dụng của Ngân hàng như: xem xét yêu cầu vay vốn của
khách hàng, nghiên cứu và đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đàm phán

về tiền vay, kỳ hạn cho vay, lãi suất cho vay, ký kết hợp đồng cho vay.
Đối với những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản thì qui trình cho vay
được tiến hành như sau:
4.1. Định giá tài sản đảm bảo:
Sau khi nhân viên tín dụng đã phân tích, đánh giá hồ sơ vay vốn của khách hàng
về mục đích vay vốn, khả năng tài chính, khả năng hoạt động, nếu tất cả đều phù hợp
với chính sách kinh doanh của Nhà nước và mức độ rủi ro có thể chấp nhận được thì tiến
hành giám định về hồ sơ tài sản và định giá tài sản đem đảm bảo.
* Giám định tính chất pháp lý của tài sản: Ngân hàng phải xem xét thông qua
các hồ sơ , giấy tờ có liên quan để xác định tài sản đó có thuộc quyền sở hữu của khách
hàng vay vốn ( hoặc của bên bảo lãnh) hay không? Tài sản đó có được phép dùng để
đảm bảo khoản vay theo qui định của pháp luật hay không? Tài sản có khả năng phát
mãi hay không?
* Định giá tài sản đảm bảo: Định giá tài sản phải sát với giá trên thị trường.
Nếu định giá cao hơn giá trên thị trường sẽ có nguy cơ dẫn đến bán tài sản không thu hồi
đủ nợ gốc, lãi và các chi phí khác có liên quan trong trường hợp khách hàng khônh
thanh toán nợ được khi đến hạn.Còn nếu định giá thấp hơn giá thị trường sẽ ảnh hưởng
đến nhu cầu vốn cho khách hàng , từ đây có thể ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng trong việc thu hút khách hàng.




Việc xác định giá trị tài sản đảm bảo tiền vay do các bên thoã thuận, hoặc thuê
tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định.
4.2.Xác định mức cho vay dựa vào tài sản đảm bảo:
Sau khi đã xác định giá trị tài sản đảm bảo thì Ngân hàng tiến hành cho vay dựa
vào tài sản này. Do tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai và nguồn này phải đảm bảo
chi trả đủ các khoản sau: nợ gốc, lãi vay, các chi phí có liên quan khác . Vì vậy mức cho
vay bao giờ cũng thấp hơn giá trị của tài sản định mức (thông thường là 70% giá trị tài

sản đảm bảo). Tuy nhiên giá trị tài sản thường xuyên biến động trên thị trường, vì vậy
tuỳ vào mức độ biến động của từng tài sản trên thị trường mà Ngân hàng ấn định tỷ lệ
cho thích hợp. Những loại tài sản ít biến động giá, mức cho vay có thể lên đến 80% so
với giá trị tài sản.Còn những tài sản có mức biến động lớn, tỷ lệ cho vay có thể là 50%.
4.3. Ký kết hợp đồng và quản lý tài sản đảm bảo:
Sau khi hai bên đã thoã thận được các điều kiện về tín dụng, bên vay vốn (hoặc
bên bảo lãnh) phải lập giấy cầm cố, thế chấp tài sản đồng thời chuyển giao giấy chứng
nhận quyền sở hữu tài sản cho Ngân hàng và tiến hành ký kết hợp đống tín dung theo
mẫu qui định của cơ quan có thẩm quyền.
Đối với tài sản cầm cố, thế chấp là phương tiện vận tải, tàu thuyền đánh bắt thuỷ
hải sản có giấy chứng nhận đăng ký, thì tổ chức tín dụng giữ bản chính giấy chứng nhận
đăng ký, chủ phương tiện được dùng bản sao có công chứng của Nhà nước và xác nhận
của tổ chức tín dụng để lưu hành phương tiện trong thời gian cầm cố, thế chấp.
Khi thế chấp tài sản, tài sản thế chấp do khách hàng vay giữ , trừ trường hợp các
bên thoã thuậngiao cho tổ chức tín dụng hoặc bên thứ ba giữ. Nếu tài sản là tài sản có
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đất thì tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy
chứng nhận quyền sở hữu tài sản, quyền sử dụng đất.




Trong trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản cho khoản vay hợp vốn, các tổ chức
tín dụng tham gia hợp vốn cử người đại diện quản lý tài sản và các giấy tờ của tài sản
bảo đảm tiền vay.
IV. Vấn đề xử lý tài sản đảm bảo thu hồi nợ trong hoạt động của Ngân hàng thương
mại:
1.Khái niệm nợ khó đòi:
Nợ khó đòi là khoản nợ mà khách hàng không có khả năng chi trả cho Ngân
hàng sau một thời gian kết thúc hợp đồng tín dụng.
Theo luật Ngân hàng hiện nay, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấulà khoản nợ đã

quá hạn trên 360 ngày và dư nợ cho vay tuy chưa quá hạn nhưng đã xác định là đã bị
mất (người vay chết, mất tích, doanh nghiệp bị phá sản, giải thể, bị khách hàng lừa
đảo, ). Ngoài ra một bộ phận của khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng phải trả thay cho
khách hàng trong các khoản bảo lãnh mở thế chấp nhập hàng trả chậm cũng được coi là
khoản nợ khó đòi.
2.Thời điểm phát sinh việc xử lý tài sản đảm bảo cho vay:
Rủi ro tín dụng luôn là yếu tố tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng Thương mại. Do vậy tình trạng khách hàng không trả được nợ đúng hạn hay không
trả được nợ cho Ngân hàng là điều luôn xảy ra. Và nợ quá hạn hay nợ khó đòi luôn xuất
hiện khiến các Ngân hàng Thương mại luôn phải đặt mình trong tình trạng phải xử lý
các khoản nợ này.
Như chúng ta đã biết xử lý tài sản đảm bảo là một biện pháp để thu hồi các
khoản nợ này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là khi nào thì phát sinh việc xử lý các tài sản
này, Mặc dù một phần khoản nợ khó đòi nằm trong nợ quá hạn dưới 360 ngày nhưng
không có nghĩa khi phát sinh tình trạng khách hàng không trả nợ đúng hạn là đã tiến
hành xử lý tài sản đảm bảo tức là khẳng định khách hàng không trả được nợ. Ngân hàng




vẫn tiếp tục xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và cho gia hạn nợ nếu xét thấy
khách hàng vẫn còn có khả năng thanh toán. Mục tiêu của Ngân hàng không phải là bắt
nợ khách hàng mà cố gắng tối đa để giúp khách hàng trả được nợ cho Ngân hàng. Ngân
hàng có thể cấp thêm vốn cho khách hàng để tiếp tục duy trì sản xuất nếu dự án còn khả
thi và nguyên nhân khách hàng không trả được nợ là do khách hàng thiếu vốn để sản
xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, việc xem xét đến tài sản đảm bảo chỉ nên áp dụng sau khi đã thẩm
định, phân tích kỷ khả năng tồn tại để tiếp tục sản xuất của khách hàng. Nếu xét thấy
tình hình kinh doanh của khách hàng có dấu hiệu phát triển lành mạnh thì Ngân hàng
không nên xiết tài sản đảm bải để thu hồi nợ, mà nên tiếp tục gia hạn nợ, hoặc điều

chỉnh kỳ hạn trả nợ cho khách hàng. Nếu giải phàp này gặp trở ngại do tranh chấp giữa
các chủ nợ của người vay thì Ngân hàng cũng có thể xiết nợ để xác lập quyền sở hữu và
quyền định đoạt của mình đối vơi tài sản đó nhưng không nên phát mãi mà nên cho
khách hàng thuê lại với điều kiện khách hàng phải hoàn trả vốn cho Ngân hàng trong
một thời gian nhất định do hai bên thoã thuận mà thực chất đây là thay đổi hợp động tín
dụng bằng hợp đồng thuê tài sản. Tài sản đảm bảo chỉ nên xử lý bằng phát mãi khi
doanh nghiệp không thể trả được nợ cho Ngân hàng do dự án vay vốn không khả thi
hoặc doanh nghiệp bị phá sản.
3.Nguyên tắc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ:
Việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ đối với các khoản cho vay có
đảm bảo bằng tài sản phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
* Khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng, thì tài sản bảo đảm xin vay được xử lý để
thu hồi nợ.




* Tài sản đảm bảo phải được xử lý theo các phương thức mà các bên đã thoã
thuận trong hợp đồng, trường hợp các bên không xử lý được theo các phương thức đã
thoã thuận thì tổ chức tín dụng có quyền:
a) Bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ.
b) Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; nếu bên bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì xử lý tài sản của bên bảo
lãnh để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
* Tổ chức tín dụng có quyền chuyển giao quyền thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên
thứ ba xủ lý tài sản đảm bảo tiền vay; trong trường hợp này thì bên thư ba cũng có
quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ như tổ chức tín dụng.
* Trường hợp một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trả nợ, nếu phải xử lý tài
sản đảm bảo tiền vay để thực hiện một nghĩa vụ trả nợ đến hạn, thì các nghĩa vụ trả nợ

khác tuy chưa đến hạn cũng được coi là đến hạnvà được xử lý tài sản đảm bảo tiền vay
để thu hồi nợ.
* Trường hợp tài sản được các bên xử lý theo thoã thuận thì phải thực hiện
nhanh chóng, công khai, bảo đảm lợi ích giữa các bên; nếu tài sản không xử lý được do
không thoã thuận được giá bán , thì tổ chức tín dụng có quyền quyết định giá bán tài sản
để thu hồi nợ.
* Các chi phí phát sinh trong xử lý tài sản đảm bảo tiền vay do khách hàng vay,
bên bảo lãnh chịu. Tiền thu được từ xử lý tài sản đảm bảo tiền vay sau khi trừ đi chi phí
xử lý, thì tổ chức tín dụng thu nợ theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí
khác (nếu có). Tài sản đảm bảo tiền vay sau khi xử lý nếu không đủ để thực hiện nghĩa
vụ trả nợ, thì khách hàng vay. bên bảo lãnh phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ đã
cam kết.




* Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tạo điều kiện, hổ trợ các
bên xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho tổ chức tín dụng.
* Việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là
hoạt động kinh doanh tài sản của Ngân hàng.
4.Phương thức xử lý tài sản đảm bảo tiền vay:
Tài sản đảm bảo được xử lý theo các phương thức đã thão thuận trong hợp đồng
tín dụng hoặc trong hợp đồng cầm cố, thế chấp, hợp đồng bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng
và khách hàng vay, bên bảo lãnh. Trong trường hợp các bên không xử lý được tài sản
đảm bảo theo phương thức đã thoã thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền chủ động áp
dụng các phương thức xử lý tài sản đảm bảo tiền vay.
*Đối với tài sản thông thường:
1) Ngân hàng tiến hành bán tài sản đảm bảo:
Bán tài sản đảm bảo là việc tổ chúc tín dụng hoặc các bên bảo đảm hoặc các bên
phối hợp để bán tài sản trực tiếp cho người mua hoặc uỷ quyền cho bên thứ ba bán tài

sản cho người mua.
Bên thứ ba được uỷ quyền bán tài sản có thể là trung tâm bán đấu giá tài sản
hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản hoặc tổ chức có chức năng được mua tài sản để
bán.
2) Nhận chính tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm:
Nhận chính tài sản đảm bảo để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo
đảm là việc Ngân hàng trực tiếp nhận tài sản đảm bảo, lấy giá tài sản đảm bảo được định
giá khi xử lý làm cơ sở để thanh toán nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn của bên bảo đảm sau
khi trừ đi các chi phí khác (nếu có) và được tiếp nhận tài sản đó theo qui định.




3)Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải trả hoặc phải giao cho bên
bảo đảm :
Nhận các khoản tiền, tài sản mà bên thứ ba phải hoặc phải giao cho bên bảo đảm
là việc tổ chức tín dụng trực tiếp nhận khoản tiền hoặc tài sản mà bên thứ ba phải trả
hoặc phải giao cho bên bảo đảm theo các thủ tục qui định.
*Đối với các tài sản là quyền sử dụng đất:
Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp quyền sử dụng đất
mà bên thế chấp không thực hiện hoặc không đúng nghĩa vụ thì quyền sử dụng đất được
xử lý. Trong trường đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp để trồng rừng đã thế chấp tại Ngân
hàng thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tổ chức
đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi, trong trường hợp quyền sử dụng đất ở
đã thế chấp với tổ chức kinh tế, cá nhân thì bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất để thu hồi vốn và lãi.
5. Khai thác, sử dụng tài sản đảm bảo trong thời gian chưa xử lý:
Trong thời gian tài sản đảm bảo chưa xử lý được để thu hồi nợ, tổ chức tín dụng
có quyền khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm hoặc cho phép bên bảo đảm hoặc uỷ quyền

cho bên thứ ba khai thác,sử dụng tài sản đảm bảo theo đúng tính năng và công dụng của
tài sản. Việc cho phép hoặc uỷ quyền khai thác, phương thức khai thác và việc xử lý hoa
lợi, lợi tức từ việc khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm phải được lập thành văn bản.
Hoa lợi, lợi tức thu đượcphải được hạch toán riêng (trừ các bên có thoã thuận
khác); sau khi trừ đi các chi phí cần thiết cho việc khai thác, sử dụng tài sản (bao gồm:
chi phí quản lý, tu bổ, sữa chữa tài sản, các loại thuế, phí khai thác tài sản và các chi phí
cần thiết khác), số tiền còn lại được thanh nợ cho tổ chức tín dụng.
6. Định giá tài sản đảm bảo khi xử lý:

×