Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

LUẬN VĂN: Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.07 KB, 95 trang )














LUẬN VĂN:

Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh tại Công ty
Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9





















Lời nói đầu
Theo quan điểm hiện đại, mỗi doanh nghiệp được xem như một tế bào sống cấu
thành nên toàn bộ nền kinh tế. Tế bào sống đó cũng cần phải có quá trình trao đổi chất với
môi trường bên ngoài thì mới tồn tại và phát triển được, Vốn chính là đối tượng của quá
trình trao đổi đó. Nó đảm bảo sự sống cho doanh nghiệp, nếu thiếu hụt thì doanh nghiệp sẽ
mất khả năng thanh toán. Nói cách khác, vốn là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
bất kỳ doanh nghiệp nào.
Do đó, hiệu quả của quản lý và sử dụng vốn trở thành vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan
trọng với các doanh nghiệp. Nếu đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng có khả năng đem lại lợi
nhuận cao thì doanh nghiệp không những bù đắp được chi phí mà còn tích luỹ được để tái sản
xuất mở rộng. Vốn kinh doanh tham gia vào hầu hết các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, việc quản lý và sử dụng nguồn vốn kinh doanh sao cho có hiệu quả tác động
mạnh mẽ tới khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy vậy, trên thực tế tình hình
quản lý và sử dụng của các doanh nghiệp kinh doanh còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm
đúng mức.
đề tài: “ Vốn kinh doanh và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
kinh doanh tại Công ty Cổ phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9” làm đề tài cho
khoá luận tốt nghiệp của mình.
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Khóa luận của em được trình bày theo 3 phần:
Phần I : Cơ sở lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong doanh
nghiệp.
Phần II: Thực trạng vốn và công tác quản lý sử dụng vốn tại Công ty Cổ phần Xây
dựng Công trình Thăng Long 9

Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Cổ
phần Xây dựng Công trình Thăng Long 9




Phần 1
Cơ sở Lý luận về vốn và hiệu quả sử dụng vốn
sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp

I. Khái quát về vốn
1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh đều với mục đích là sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để trao đổi với các đơn vị kinh
tế khác nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng để tiến hành sản xuất kinh doanh thì
cần thiết phải có vốn. Vậy vốn là gì ?
Từ trước đến nay, có rất nhiều khái niệm về vốn, và mỗi khái niệm đều có những ưu
điểm khác nhau, tuỳ điều kiện, mục đích nghiên cứu mà người ta có thể tiếp cận vốn dưới
giác độ nào.
Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật, “Vốn là yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh” [3] .Đây là cách hiểu phù hợp với trình độ
quản trị còn sơ khai, nó rất đơn giản, dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ và chưa phản ánh hết mặt
tài chính của vốn.
Theo quan điểm của Mác dưới góc độ các yếu tố sản xuất, “Vốn (tư bản) là giá trị
mang lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của quá trình sản xuất” [3] . Định nghĩa của
C.Mác có tầm khái quát lớn, tuy nhiên trong bối cảnh lúc đó khi mà nền kinh tế chưa phát
triển, C.Mác quan niệm chỉ có khu vực sản xuất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Và tiền chỉ được gọi là vốn khi nó được dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp với mục đích là lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản trị và
sử dụng vốn, nhưng quan điểm này lại mang tính trừu tượng, do đó hạn chế về ý nghĩa

nhất là đối với các vấn đề như hạch toán, phân tích tình hình quản trị và sử dụng vốn của
doanh nghiệp.

Theo Paul-Sammelson, nhà kinh tế học theo trường phái tân cổ điển đã kế thừa quan
niệm về các yếu tố sản xuất của trường phái cổ điển và chia yếu tố đầu vào của quá trình sản
xuất ra làm ba loại: đất đai, lao động và vốn. Theo ông, “Vốn là hàng hoá được sản xuất ra
để phục vụ cho quá trình sản xuất mới, là đầu vào cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp” – [3]. Khái niệm này không đề cập đến các loại tài sản khác, các giấy
tờ có giá trị có thể đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, cũng không phản ánh đầy đủ
mặt tài chính của vốn.
Theo một số nhà tài chính thì “Vốn là tổng số tiền do những người có cổ phần
trong công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của
công ty” – [4]. Quan điểm này đã đề cập đến mặt tài chính của vốn, khuyến khích các nhà
đầu tư tăng cường đầu tư , mở rộng và phát triển sản xuất. Song nó có hạn chế là không
nói rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình phục vụ sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp .
Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố
kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình, tài sản vô hình, các
kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản
trị và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng của đội ngũ công nhân viên trong
doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí, uy tín của doanh nghiệp trên thương
trường Quan điểm này có ý nghĩa rộng trong việc khai thác đầy đủ mọi hình thức thức
của vốn trong nền kinh tế thị trường nhưng việc xác định và quản trị vốn theo quan điểm
này rất khó khăn, phức tạp nhất là khi trình độ quản trị chưa cao và hệ thống pháp luật
chưa thực sự hợp lý và hoàn thiện như nước ta hiện nay.
Cũng có quan niệm lại cho rằng: “Vốn kinh doanh là giá trị của các tài sản hiện có
của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền” – [4], nhưng quan điểm này mới dừng lại ở
mặt hình thái của vốn mà không phản ánh trạng thái, mục đích của vốn nên cũng không
thuận lợi cho phân tích kinh tế.
Như vậy, các quan điểm về vốn ở trên một mặt đã thể hiện được vai trò của vốn trong

những điều kiện lịch sử cụ thể với những yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt
khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản trị, các quan
điểm đó còn gây khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu của quản trị vốn hiệu quả.

Trong điều kiện tồn tại một nền sản xuất hàng hoá -tiền tệ, khái niệm về vốn sản xuất
kinh doanh phải thể hiện những vấn đề sau:
- Nguồn gốc sâu xa của vốn sản xuất kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc
dân được tái đầu tư (khác vốn đất đai, vốn nhân lực).
- Trạng thái vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản vật chất (tài sản
cố định, tài sản dự trữ ) và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các chứng khoán,
tín phiếu…) là cơ sở để ra biện pháp quản trị vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
một cách hiệu quả.
- Mối quan hệ mật thiết giữa vốn và các nhân tố khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp (đất đai, lao động). Điều này đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng tiết
kiệm, hợp lý và hiệu quả vốn.
- Mục đích của quá trình đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận. Vấn đề
này sẽ định hướng cho quá trình quản trị kinh doanh nói chung và quản trị vốn nói riêng.
Từ những quan điểm trên, có thể định nghĩa: “Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới
dạng tài sản vật chất hay tài sản tài chính được các cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra,
đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tối đa hoá lợi nhuận” – [11] .
2. Đặc trưng của vốn:
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động
đội tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các
yếu tố đó để tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho hoạt động sản
xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu để xây
dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị, thuê lao động hay mua sắm nguyên vật liệu,
…Có vốn tiền tệ, doanh nghiệp mới tiến hành sản xuất kinh doanh. Sau khi tiêu thụ sản phẩm,
doanh nghiệp dành một phần thu nhập của mình để bù đắp lại những chi phí đã bỏ ra như tài
sản cố định đã bị hao mòn, chi phí vật tư, tiền lương, tiền công … và một phần để tạo lập quỹ
dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo.

Như vậy, có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải
đầu tư để sản xuất và tái sản xuất mở rộng là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Do vậy, vốn phải có những đặc trưng cơ bản sau:

- Vốn phải là một lượng tài sản nhất định. Vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản
hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp.
- Vốn phải được tích tụ và tập trung tới một qui mô nhất định mới có thể bỏ ra để đầu
tư vào sản xuất kinh doanh và phát huy tác dụng. Các nhà quản trị, các nhà đầu tư không
chỉ tìm cách khai thác mọi tiềm năng của vốn mà còn tìm cách tập trung, huy động vốn từ
những nguồn cung ứng thích hợp.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quản trị chặt chẽ. Trong
nền kinh tế thị trường không có những đồng vốn vô chủ, mà nếu có tồn tại những đồng
vốn vô chủ thì cũng đồng nghĩa với việc sử dụng lãng phí và kém hiệu quả vốn. Khi đồng
vốn gắn liền với chủ sở hữu nhất định thì nó mới là động lực để vốn được chi tiêu hợp lý,
hiệu quả.
- Vốn là một loại hàng hoá đặc biệt có giá trị (trao đổi, mua bán) và giá trị sử dụng.
Những người có vốn có thể đưa vào thị trường và những người cần vốn tới thị trường để
vay vốn, tức là chuyển quyền sử dụng vốn. Người vay phải trả một tỷ lệ lãi suất nhất định
tức là phải trả giá cho quyền sử dụng vốn (chi phí sử dụng vốn). Như vậy, khác với hàng
hoá thông thường, vốn khi được bán sẽ không mất đi quyền sở hữu mà chỉ mất đi quyền sử
dụng vốn.
- Vốn phải có giá trị về mặt thời gian, có nghĩa là khi tiến hành đầu tư vào một dự án
kinh doanh nào thì đều phải xét đến yếu tố thời gian của vốn vì trong nền kinh tế thị truờng
do ảnh hưởng của nhiều nhân tố như giá cả, lạm phát,…nên sức mua của đồng tiền tại
những thời điểm khác thì cũng khác nhau.
- Vốn phải được vận động để sinh lời. Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng tiền chỉ là
dạng tiềm năng của vốn, còn để trở thành vốn sản xuất kinh doanh thì vốn phải được vận
động, đầu tư vào sản xuất kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
Khi tham gia vào sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái
vật chất theo thời gian và không gian. Toàn bộ sự vận động của vốn khi tham gia quá trình

sản xuất kinh doanh được thể hiện ở sơ đồ sau:
TLSX
T - H SX - H - T

SLĐ
Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại có thể chỉ là: T-H- T’ và trong
doanh nghiệp ngân hàng là: T - T’.
Qua sơ đồ ta thấy: quá trình vận động của vốn trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Giai đoạn một: vốn hoạt động trong phạm vi lưu thông, lúc đầu là vốn tiền tệ (T)
tích luỹ được đem ra thị trường (đó là thị trường các yếu tố đầu vào) mua hàng hoá bao
gồm tư liệu sản xuất và sức lao động. Trong giai đoạn này vốn thay đổi từ hình thái vốn
tiền tệ sang vốn sản xuất.
TLSX
T - H
SLĐ
- Giai đoạn hai: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông bước vào hoạt động trong khâu sản xuất.
ở đây các yếu tố sản xuất hay còn gọi là các yếu tố hàng hoá dịch vụ được sản xuất ra trong đó
có phần giá trị mới (do giá trị sức lao động con người tạo ra).
TLSX
- H’
SLĐ
- Giai đoạn ba: Sau giai đoạn sản xuất tạo ra H’ thì vốn lại trở lại hoạt động trên lĩnh
vực lưu thông dưới hình thái hàng hoá. Kết thúc giai đoạn này (hàng hoá được tiêu thụ) thì
vốn dưới hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái vốn tiền tệ ban đầu nhưng về mặt số
lượng có thể là khác nhau.
H’
_______________
T’ (T’  T)
Từ sự phân tích sự vận động của vốn thông qua “vòng tuần hoàn vốn” ta thấy rằng: tiền
có khả năng chuyển hoá thành vốn chỉ khi tiền được đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh

thông qua hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời mới được gọi là vốn. Với tư cách đầu tư
thì mục đích cuối cùng là tạo được T’ phải lớn hơn T.
Vòng tuần hoàn của vốn bắt đầu từ hình thái tiền tệ (T) và chuyển sang hình thái hàng
hoá (H) dưới dạng các tư liệu lao động và đối tượng lao động. Qua quá trình sản xuất kinh

doanh tạo ra sản phẩm, lao vụ và dịch vụ, vốn chuyển sang hình thái sản phẩm hàng hoá
được bán trên thị trường và cuối cùng vốn lại trở về hình thái tiền tệ (T’). Do sự luân
chuyển không ngừng của vốn trong sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc, vốn sản xuất
kinh doanh tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực dự trữ, sản xuất và lưu
thông.
Như vậy, từ những phân tích trên cho thấy trong nền kinh tế thị trường, phạm trù vốn
phải được nhận thức một cách đầy đủ, phù hợp. Đây là vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ
sở cho việc quản trị và sử dụng vốn hiệu quả trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
3. Vai trò của vốn :
Trong nền kinh tế thị trường, mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá, do vậy bất kỳ một
quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất cứ cấp độ nào: cá nhân, tổ chức, gia đình, doanh
nghiệp hay quốc gia luôn luôn cần có một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ, tài nguyên đã
được khai thác, bản quyền phát minh,…Vốn là điều kiện tiền đề quyết định sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp .
- Về mặt kinh tế:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh vốn là mạch máu của doanh nghiệp. Vốn không
những đảm bảo mua sắm máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ phục vụ cho quá trình
sản xuất kinh doanh mà còn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
được diễn ra liên tục, thường xuyên.
Vốn cũng là yếu tố quyết định việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để
có thể tiến hành tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng thì sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh
doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời, tức là hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp phải có lãi đảm bảo cho vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển.
Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất kinh doanh, mở
rộng thị trường, nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.

Nhu cầu về vốn xét trên giác độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy trì sản xuất, đổi
mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng việc làm và thu
nhập cho người lao động, đóng góp cho xã hội Như vậy:

+ Vốn sản xuất kinh doanh là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Vốn sản xuất kinh doanh phản ánh các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư.
+ Vốn sản xuất kinh doanh cho phép khả năng lựa chọn của doanh nghiệp trong sự
phân tích nhu cầu thị trường là: quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản
xuất cho ai? sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
- Về mặt pháp lý:
Mỗi doanh nghiệp khi muốn thành lập thì điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải có
một lượng vốn nhất định. Đối với một số ngành, lĩnh vực thì lượng vốn đó tối thiểu phải
bằng lượng vốn pháp định (do Nhà nước quy định). Nếu không, doanh nghiệp sẽ không
được thành lập. Và trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lượng vốn doanh
nghiệp không đạt điều kiện Nhà nước quy định thì doanh nghiệp sẽ tự tuyên bố chấm dứt
hoạt động như phá sản, sát nhập với doanh nghiệp khác. Như vậy, với một số ngành, vốn
có thể được xem là một trong những cơ sở quan trọng nhất để đảm bảo sự tồn tại tư cách
pháp nhân của một doanh nghiệp trước pháp luật.
Nhận thức được tầm quan trọng của vốn, các doanh nghiệp nhất thiết phải tìm mọi
cách huy động, bảo toàn và phát triển vốn bằng cách sử dụng tiết kiệm, hợp lý vốn tức là
phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
4. Phân loại vốn :
Do trong quá trình vận động, vốn biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau nên cũng
có nhiều cách phân loại vốn khác nhau:
4.1. Căn cứ vào nguồn hình thành vốn.
4.1.1. Vốn chủ sở hữu.
Là số vốn góp của các chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không
phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải chịu lãi

suất. Tuy nhiên, lợi nhuận thu được do sản xuất kinh doanh có lãi của doanh nghiệp sẽ
được chia cho các cổ đông theo tỷ lệ phần vốn góp của mình. Tuỳ theo từng loại hình

doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các hình thức khác nhau, thông
thường là:
 Vốn góp
Là số vốn do các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp đóng góp, sử dụng
vào mục đích sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì đây là nguồn vốn
do Nhà nước cấp. Đối với công ty liên doanh thì là phần vốn góp của các đối tác trong và
ngoài nước tham gia thành lập liên doanh. Số vốn này được bổ sung hoặc rút bớt trong quá
trình sản xuất kinh doanh.
 Lãi chưa phân phối
Là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận hay các khoản thu nhập hợp pháp khác của
doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản phải nộp hay thanh toán. Số lãi trong khi chưa
phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong sản xuất kinh doanh như
vốn chủ sở hữu.
4.1.2. Vốn vay.
Vốn vay là khoản vốn đầu tư ngoài vốn chủ sở hữu được hình thành từ nguồn vốn đi vay, đi
chiếm dụng của các cá nhân, đơn vị, tổ chức trong và ngoài nước và sau một thời gian nhất định,
doanh nghiệp phải trả cho người cho vay cả gốc lẫn lãi. Phần vốn này, doanh nghiệp được sử
dụng với những điều kiện nhất định (như thời hạn sử dụng, lãi suất, thế chấp,…) nhưng không
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Vốn vay luôn được ưu tiên chi trả trước vốn chủ sở hữu
trong bất cứ hoàn cảnh nào đặc biệt doanh nghiệp khó khăn về tài chính. Doanh nghiệp càng sử
dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là
nguồn huy động vốn rất lớn tuỳ thuộc vào khả năng thế chấp, tình hình sản xuất kinh doanh, uy
tín của doanh nghiệp. Vốn vay có hai loại: Vốn vay, nợ ngắn hạn và vốn vay, nợ trung, dài hạn
với nhiều hình thức khác nhau như tín dụng thương mại, hùn vốn qua phát hành trái phiếu, tín
dụng cầm đồ hoặc thế chấp tài sản
Thông thường, một doanh nghiệp đều nên phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo
nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như bảo đảm nguyên tắc phân tán rủi ro trong đầu tư.

Kết cấu hợp lý của hai nguồn vốn này tuỳ thuộc đặc điểm ngành doanh nghiệp đang hoạt

động, quyết định của nhà quản trị doanh nghiệp trên cở sở xem xét tình hình tài chính của
doanh nghiệp và tình hình chung của nền kinh tế đất nước.
4.2. Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn.
4.2.1. Nguồn vốn thường xuyên.
Đây là nguồn vốn mang tính chất ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để
đầu tư vào TSCĐ và một bộ phận TSLĐ tối thiểu thường xuyên cần thiết cho hoạt động
sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn này bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay dài hạn.
4.2.2. Nguồn vốn tạm thời.
Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (sử dụng trong thời gian dưới một năm) để
đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm các khoản vay, nợ ngắn hạn và các
khoản chiếm dụng của doanh nghiệp với các bạn hàng.
Với cách phân loại này còn giúp cho nhà quản trị doanh nghiệp lập các kế hoạch tài
chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác
định quy mô vốn cần thiết, lựa chọn nguồn cung ứng và quy mô vốn thích hợp cho từng
nguồn vốn đó, khai thác nguồn tài chính tiềm năng, tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.

4.3. Căn cứ vào vai trò, đặc điểm chu chuyển cuả vốn trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp
4.3.1. Vốn cố định.
VCĐ của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng trước về TSCĐ, mà đặc
điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một
vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
Quy mô của VCĐ quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại
ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản trị VCĐ. Vì vậy, muốn quản trị VCĐ hiệu
quả thì phải quản trị, sử dụng hiệu quả TSCĐ. Từ mối quan hệ này, ta có thể khái quát
những nét đặc thù của VCĐ như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh do TSCĐ có thể phát huy

trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nên VCĐ-hình thái biểu hiện của nó cũng được
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh. TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất
của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó, VCĐ cũng
được tách làm hai phần:
+ Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu
haoTSCĐ. Tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn. Bộ phận giá trị
của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được chuyển dịch dần dần vào giá trị sản
phẩm, gọi là khấu hao TSCĐ.
+ Phần còn lại của VCĐ được “cố định ” trong TSCĐ. Việc quản trị VCĐ và TSCĐ
trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản trị, về kế toán tài
chính người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian
sử dụng một TSCĐ. Hiện nay, ở nước ta một tư liệu lao động là TSCĐ phải đồng thời thoả
mãn hai điều kiện: Giá trị tối thiểu từ 10 triệu đồng Việt nam và thời gian sử dụng ít nhất
là 1năm .
Để quản trị VCĐ hiệu quả, cần nghiên cứu kết cấu và phân loại VCĐ.
 Cơ cấu của vốn cố định

Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ cấu vốn là một chỉ tiêu động
mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều nhân tố như: khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị
trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất kinh doanh, trình độ
trang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn cố định có ý nghĩa quan
trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu vốn cố định phải nghiên cứu
trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và quan hệ mỗi bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra
là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh
nghiệp và với trình độ phát triển khoa học- kỹ thuật.
 Phân loại vốn cố định
Có nhiều cách phân loại TSCĐ:

- Căn cứ vào hình thái biểu hiện :
+ TSCĐ hữu hình: Là TSCĐ có hình thái vật chất.
+ TSCĐ vô hình: là TSCĐ không có hình thái vật chất.
- Căn cứ theo tình hình sử dụng:
+ TSCĐ đang sử dụng.
+ TSCĐ chưa sử dụng.
+ TSCĐ không cần dùng.
+ TSCĐ chờ thanh lý.
- Căn cứ theo công dụng kinh tế:
+ TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh.
+ TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh :
- Căn cứ theo quyền sở hữu:
+ TSCĐ doanh nghiệp tự có.
+ TSCĐ doanh nghiệp thuê ngoài
+ TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác.

4.3.2. Vốn lưu động
VLĐ của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ và vốn lưu thông nhằm đảm
bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp tiến hành thường xuyên, liên
tục.
Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba giai
đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. VLĐ chu chuyển nhanh hơn VCĐ. Trong mỗi giai đoạn
đó VLĐ được biểu hiện dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay
hình thái giá trị.
Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản
xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiều khó khăn
và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn. Để quản trị VLĐ tốt, cần
nghiên cứu kết cấu và phân loại VLĐ.
 Cơ cấu vốn lưu động

Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số VLĐ. ở những
doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống nhau. Xác định được cơ cấu VLĐ
hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả VLĐ.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả VLĐ thì cần thiết phải tiến hành phân loại vốn
khác nhau.
 Phân loại VLĐ
- Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia vốn là
ba loại:
+ Vốn dự trữ: Là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế dự
trữ và đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất
+ Vốn trong lưu thông: Là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu
thông như thành phẩm, vốn tiền mặt
- Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn thành:

+ VLĐ định mức: là số VLĐ cần thiết tối thiểu thường xuyên trong hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gồm: vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm,
hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư thuê ngoài chế biến.
+ VLĐ không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định mức được.
- Căn cứ vào nguồn hình thành:
+ VLĐ tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, VLĐ từ bổ sung lợi
nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn
+ VLĐ đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng
để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Có thể vay vốn
ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các đơn vị, tổ chức và các cá
nhân khác trong và ngoài nước.
Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý .
Sự khác nhau cơ bản giữa VCĐ và VLĐ là: nếu như VCĐ tham gia vào quá trình sản xuất
như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như VLĐ tạo ra thực thể của sản

phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá. Mặt
khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá và thu hồi
được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn VCĐ tham gia nhiều vào quá
trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu
hao.
4.4. Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành vốn
4.4.1. Nguồn vốn do doanh nghiệp tự cung ứng
 Khấu hao tài sản cố định
Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như
ý muốn chủ quan của con người. Đối với doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải
phụ thuộc ý đồ của Nhà nước, các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và
phương pháp tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa

chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung ứng vốn bên trong của
mình.
 Tích luỹ tái đầu tư
Nguồn này phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được trong từng
thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. Đối với
doanh nghiệp nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải sử dụng cho các khoản.
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản phải quy định
+ Lập các quỹ đặc biệt
 Điều chỉnh cơ cấu tài sản
Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất - kinh doanh nhưng lại có
tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở
những nơi không cần thiết.
4.4.2. Nguồn vốn do bên ngoài cung ứng
 Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu
Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng
khoán. Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát hành

cổ phiếu bán trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng không tăng
nợ của doanh nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ đông của doanh
nghiệp. Vì lẽ đó nhiều nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được phát
hành cổ phiếu. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo
Luật doanh nghiệp.
 Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành
lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho công

chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng có những ưu
điểm và hạn chế nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh
doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát
chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ
đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí kinh
doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của ngân hàng
thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: TSCĐ phải nhỏ hơn tổng
số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào thoả mãn các điều kiện
theo luật định mới được phép phát hành trái phiếu.
 Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các
hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại. Đây là
mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức này doanh
nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các doanh nghiệp
cùng tham gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Yêu cầu doanh nghiệp phải có
uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định ngặt nghèo. Nếu doanh
nghiệp vay tiền của ngân hàng có thể bị ngân hàng thương mại kiểm soát các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian cho vay.

 Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp thông
thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt thời gian giữa
dòng tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá trình doanh nghiệp
nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền doanh nghiệp chiếm dụng
của khách hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang
bản chất tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn
gồm cả khoản đặt cọc trước của khách hàng.

Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong
vòng 30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp đang
trong thời kỳ tăng trưởng.
 Tín dụng thuê mua
Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu
sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua diễn ra khá
phổ biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng
mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề
thuê mua. Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào
tạo. Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy móc
thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
 Vốn liên doanh, liên kết
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh
nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó.
- Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một
hoặc một số hoạt động nào đó mà không tăng nợ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi nhuận
thu được.
 Nguồn vốn ODA
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương
trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế khác. Hình

thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiện
ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí kinh doanh thấp (sử
dụng vốn). Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh nghiệp phải chấp nhận thủ
tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều kiện làm việc với các cơ quan Chính
phủ và chuyên gia nước ngoài.
 Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI

Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả
kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ thị
trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm soát điều
hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.
 Cung ứng vốn từ sự kết hợp công và tư trong xây dựng cơ bản
Phương thức này rất có ý nghĩa với các doanh nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng, song
cũng đòi hỏi doanh nghiệp phải có những điều kiện nhất định.
Như vậy, tuỳ mục đích nghiên cứu, đặc thù của doanh nghiệp mà lựa chọn cách phân
loại, cũng như kết cấu thích hợp.


II. Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
1. Khái niệm chung về hiệu quả - hiệu quả sử dụng vốn
Mặc dù có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả song có thể khẳng
định trong nền kinh tế thị trường hiệu qủa là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh
nghiệp. Mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm lâu dài
là tối đa hoá lợi nhuận.
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã
hội và kỹ thuật. Song ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất
kinh doanh (hiệu quả kinh doanh ). Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn ) để đạt
mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có thể
đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí nguồn lực xác

định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng công thức:
+ Hiệu quả kinh doanh : H =K/C
Trong đó : K: là kết quả đạt được
C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.
Như vậy, Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của hoạt
động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất trong
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong sự vận động không ngừng của các quá
trình sản xuất kinh doanh, không phụ thuộc vào qui mô, tốc độ biến động của từng
nhân tố. – [8]
Hiệu quả kinh doanh cũng là một phạm trù phức tạp, và khó xác định tính toán bởi cả
phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể đều khó xác định một
cách chính xác.
Từ các vấn đề trên suy ra : ‘Hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả
kinh doanh, nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục
tiêu xác định. Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu

được với số vốn bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định ‘.[11]
Và hai loại chỉ tiêu trên được xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn lưu
động.
2. Bản chất hiệu quả sử dụng vốn
Để hiểu rõ bản chất của hiệu qủa kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói
riêng, cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn.
Kết quả sử dụng vốn bao giờ cũng là mục tiêu mà doanh nghiệp hướng tới, có thể biểu
hiện bằng đơn vị hiện vật cụ thể như m, lít, kg,…hay đơn vị giá trị như triệu đồng, ngoại
tệ,… Kết quả sử dụng vốn cũng có thể phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất
kinh doanh hoàn toàn định tính của doanh nghiệp như uy tín, danh tiếng, chất lượng sản
phẩm…Nhưng không chỉ có kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh
doanh nào đó thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản

phẩm hoàn chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, Hơn nữa, hầu như quá
trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản
phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ nào đó cũng chưa thể khẳng định được liệu sản phẩm đó
có tiêu thụ được không và bao giờ thì tiêu thụ và thu được tiền về …nên nó cũng lại tách
rời quá trình tiêu thụ.
Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn
lực vốn. Trình độ lợi dụng nguồn lực vốn không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị
mà là một phạm trù tương đối, chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối: tỷ số giữa kết
quả và hao phí nguồn lực vốn tạo ra kết quả đó. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa phạm trù
hiệu quả với phạm trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và vốn. Chênh lệch giữa kết quả
và vốn luôn là số tuyệt đối, phạm trù này phản ánh mức độ đạt được của vốn nên cũng
mang bản chất kết quả của việc sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh và không
bao giờ phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn. Nếu kết quả là mục tiêu của quá trình
sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện để doanh nghiệp có thể đạt
được mục tiêu đó.

Mặt khác, hao phí nguồn lực vốn của một thời kỳ trước hết là hao phí về mặt hiện vật,
cũng có thể được xác định bằng đơn vị hiện vật hay đơn vị giá trị. Tuy nhiên, thông
thường người ta hay xác định bằng đơn vị giá trị vì nó mang tính so sánh cao hơn. Việc
xác định hao phí nguồn lực trong một thời kỳ là một vấn đề không đơn giản, không đơn
giản ngay ở sự nhận thức về vấn đề này: Hao phí nguồn lực vốn này được đánh giá thông
qua phạm trù chi phí kế toán hay chi phí sản xuất kinh doanh ? Chỉ có phạm trù chi phí sản
xuất kinh doanh mới phản ảnh tương đối đầy đủ chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã bỏ ra.
Nhưng việc có tính toán được chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ kinh doanh ngắn hay
không cũng như có tính toán được chi phí kinh doanh tới từng bộ phận hay không còn phụ
thuộc vào trình độ phát triển của khoa học quản trị chi phí kinh doanh .
Cũng cần chú ý rằng hiệu quả sử dụng vốn phản ánh trình độ lợi dụng nguồn lực vốn trong
một thời kỳ kinh doanh nào đó cũng hoàn toàn khác với việc so sánh sự tăng lên của kết quả với
sự tăng lên của sự tham gia các yếu tố đầu vào.
Vậy, bản chất của phạm trù kết quả và hiệu quả sử dụng vốn là hoàn toàn khác nhau.

Kết quả là mục tiêu còn hiệu quả sử dụng vốn là phuơng tiện để doanh nghiệp đạt mục tiêu
đó trong một thời kỳ nhất định.
3. Mục đích Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích thông tin giúp các
nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp thời.
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả cụ thể đến từng bộ phận và xem xét,
phát hiện ra những nguyên nhân để tìm ra những biện pháp khắc phục.
Tuy nhiên để công việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát huy
được những mục đích trên thì cần quán triệt một số nhiệm vụ sau:
- Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ nguồn như báo cáo về tình hình sử dụng
vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành, tài liệu thống kê các vấn đề có liên quan
của ngành.
- Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.

- Sử dụng các phương pháp đánh giá kết hợp với các chỉ tiêu đã xây dựng.
- Lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thích hợp
- Cung cấp thông tin đánh giá đến cán bộ quản trị doanh nghiệp .
4. Các chỉ tiêu đánh giá và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
4.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói chung
 Hệ số doanh lợi của tổng vốn = (lợi nhuận thuần + lãi trả vốn vay)/tổng tài sản
- ý nghĩa: hệ số doanh lợi của vốn cho biết cứ đầu tư một đồng vốn vào sản xuất kinh
doanh thì doanh nghiệp sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần (gồm cả lãi trả vốn
vay). Chỉ tiêu này càng cao thì có thể khẳng định hiệu quả sử dụng tổng vốn của doanh nghiệp
càng cao. Nhưng, nếu lãi trả vốn vay là quá lớn thì cũng cần xem xét lại bởi thực chất, lãi trả
vốn vay cũng là chi phí kinh doanh.
 Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh = doanh thu/ tổng tài sản
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp quay được
bao nhiêu vòng trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ vốn càng

quay được nhiều vòng trong kỳ và hiệu quả sử dụng vốn càng cao.
4.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ thường sử dụng là:
 Sức sản xuất của VCĐ = Doanh thu thuần/VCĐ bình quân
- ý nghĩa: Sức sản xuất của VCĐ cho biết, cứ một đồng VCĐ đầu tư vào sản xuất
kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng
tỏ sức sản xuất của VCĐ càng cao và hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
 Hệ số đảm nhiệm của VCĐ = VCĐ bình quân/Doanh thu thuần
- ý nghĩa: Hệ số đảm nhiệm cho biết, để tạo ra được một đồng doanh thu thuần thì
doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VCĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu
này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ và hiệu quả sử dụng VCĐ
càng cao.
 Hiệu suất sử dụng VCĐ = Lợi nhuận thuần/VCĐ bình quân

- ý nghĩa: Hiệu suất sử dụng VCĐ cho biết cứ đầu tư một đồng VCĐ vào sản xuất
kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
 Suất hao phí của VCĐ = VCĐ bình quân/lợi nhuận thuần
- ý nghĩa: Suất hao phí cho biết, để tạo ra được một đồng lợi nhuận thuần thì
doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VCĐ nên hiệu quả sử dụng VCĐ càng
cao.

4.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ thường được sử dụng là:
 Số vòng quay của VLĐ = doanh thu thuần/VLĐ bình quân
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết, VLĐ của doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng
trong kỳ sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ VLĐ trong kỳ càng quay
vòng nhanh nên hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
 Mức đảm nhiệm của VLĐ = VLĐ bình quân / doanh thu thuần

- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết để tạo ra được một đồng doanh thu thuần, doanh
nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng VLĐ để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này
càng thấp, chứng tỏ doanh nghiệp càng tiết kiệm được VLĐ, do đó hiệu quả sử dụng VLĐ
càng cao.
 Số ngày bình quân của một vòng luân chuyển VLĐ = 365/ số vòng quay của VLĐ
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để VLĐ quay được một vòng
quay. Chỉ tiêu này càng thấp, chứng tỏ VLĐ càng quay vòng nhanh và hiệu quả sử dụng
VLĐ càng cao.
 Hiệu suất sử dụng VLĐ = lợi nhuận thuần / VLĐ bình quân
- ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết cứ đầu tư một đồng VLĐ vào sản xuất kinh doanh
thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận thuần. Chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả
sử dụng VLĐ càng cao.
4.4. Tiêu chuẩn hiệu quả
Từ công thức xác định hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng nói riêng,
ta có thể xác lập được một dãy các giá trị có thể có của kết quả/chi phí kinh doanh. Nếu xét
các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh cụ thể thì với mỗi chỉ tiêu cũng đều xác lập được một dãy
các giá trị có thể. Vấn đề được đặt ra là liệu mọi giá trị đó đều phản ánh có hiệu quả ở mức
độ khác nhau hay trong dãy các giá trị đó thì giá trị nào thì có hiệu quả ? Rõ ràng, trong
dãy giá trị có thể của mỗi chỉ tiêu không phải giá trị nào cũng phản ánh sự có hiệu quả.
Trường hợp doanh nghiệp bị lỗ vốn chỉ tiêu lợi nhuận/vốn âm thì rõ ràng là doanh nghiệp

×