Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

LUẬN VĂN: Các giải pháp vận dụng Marketing để đưa Việt Nam thành điểm đầu tư hấp dẫn potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.44 KB, 64 trang )














LUẬN VĂN:

Các giải pháp vận dụng Marketing để đưa
Việt Nam thành điểm đầu tư hấp dẫn








LỜI MỞ ĐẦU

Bạn đã bao giờ thử đặt ra câu hỏi rằng tại sao tất cả các quốc gia trên thế giới từ
những nước phát triển đến những nước đang và kém phát triển đều muốn thu hút một
lượng lớn đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài không? Để trả lời câu
hỏi này trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu xem đầu tư trực tiếp nước ngoài là gì? Đầu tư trực


tiếp nước ngoài ( FDI )là khoản đầu tư vào tư bản thuộc quyền sở hữu và được điều hành
bởi một thực thể nước ngoài. Như vậy nó có lợi ích gì cho nền kinh tế? Có thể trả lời ngay
rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của một nước.
Mặc dù một phần ích lợi của khoản đầu tư này chảy ra nước ngoài, nhưng nó thực sự làm
tăng khối lượng tư bản cho một đất nước, dẫn tới tăng năng suất và tiền lương cao hơn.
Ngoài ra, đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng là một cách
để các nước nghèo học hỏi công nghệ hiện đại của các nước giàu.
Vậy bạn cũng bao đã bao giờ thử hỏi rằng tại sao thu hút đầu tư nước ngoài quan
trọng thế mà có quốc gia lại chỉ thu hút được một lượng rất nhỏ đầu tư nước ngoài thôi?
Có rất nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Tuy nhiên có 2 câu trả lời thường thấy nhất đó là
các quốc gia đó chưa nhận ra tầm quan trọng của đầu tư nước ngoài một cách đúng mức và
câu trả lời thứ hai đó là các quốc gia này đã thấy được tầm quan trọng của đầu tư nước
ngoài để phát tiển kinh tế nhưng do vẫn còn những hạn chế của môi trường đầu tư cũng
như chưa có các chương trình xúc tiến đầu tư hiệu quả, để quảng bá hình ảnh của quốc gia
đó nói chung và hình ảnh về môi trường đầu tư của quốc gia đó nói riêng.
Việt Nam với 20 năm đổi mới từ 1986 đến năm 2006 đã thu hút một lượng vốn đầu
tư nước ngoài có thể tóm gọn vào một câu là “ chưa xứng với tiềm năng”. Tại sao lại vậy?
Việt Nam nằm trong câu trả lời thứ nhất hay thứ hai? Có lẽ tại thời điểm này nó là câu trả
lời thứ hai. Những năm gần đây Việt Nam đã đẩy mạnh quảng bá hình ảnh đất nước cũng
như hình ảnh về môi trường đầu tư của Việt Nam tuy nhiên nó vẫn chưa đạt hiểu quả chưa
mong muốn. Một phần do vẫn còn những yếu kém về môi trường đầu tư, một phần là do
những chương trình xúc tiến đầu tư chưa được thực hiện một cách triệt để và chưa có
những kế hoạch và chương trình hành động cụ thể và rõ ràng.

Để đạt được mục tiêu là trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020 và xa hơn
nữa là sánh ngang với các cường quốc năm Châu như lời Bác Hồ dạy, chúng ta phải có
những giải pháp và hành động cụ thể nhằm thu hút thật nhiều đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây cũng là mục đích của bài viết này. Trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi xin được sự dụng những lý thuyết cơ bản của
Marketing nhằm vận dụng vào việc xây dựng kế hoạch cho các chương trình xúc tiến đầu

tư để đạt được mục tiêu cuối cùng là thu hút một lượng lớn FDI. Trong bài viết này chúng
tôi tập trung vào nghiên cứu việc thu hút FDI vào lĩnh vực công nghiệp do tầm quan trọng
cũng như tính cấp thiết của nó. Các ví dụ thực tiễn chúng tôi sẽ lấy từ các quốc gia
ASEAN, Trung Quốc, và Nhật Bản với việc coi các nước ASEAN và Trung Quốc là các
đối thủ cạnh tranh thu hút FDI còn Nhật Bản là nhà đầu tư nước ngoài mà Việt Nam quan
tâm thu hút.
Cấu trúc của bài viết gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về việc vận dụng Marketing trong thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp vận dụng Marketing để đưa Việt Nam thành điểm đầu tư
hấp dẫn


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC VẬN DỤNG MARKETING
TRONG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI FDI

1.1. Marketing dưới góc độ thu hút FDI
1.1.1. Lý thuyết Marketing hiện đại
Marketing thường được hiểu là bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ.
Thực ra tiêu thụ và bán hàng chỉ là hai trong nhiều khâu của hoạt động Marketing.Ý tưởng
cơ bản của thuật ngữ Marketing có thể hiểu đơn giản là cung cấp cái thị trường cần chứ
không phải cái mình có. Một hàng hoá kém thích hợp, không đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng thì cho dù nhà kinh doanh có bỏ bao công sức tiền của thuyết phục khách
hàng thế nào đi nữa thì việc khách hàng sử dụng loại hàng hoá này sẽ vẫn rất hạn chế.
Ngược lại, khi nhà kinh doanh tiến hành phân tích tìm hiểu thị trường, biết được nhu cầu
thị hiếu của khách hàng từ đó tạo ra những mặt hàng phù hợp với nhu cầu đó, thực hiện
một phương pháp bán hàng, kích thích tiêu thụ phù hợp thì chắc chắn việc tiêu thụ những
loại hàng hoá đó sẽ hiệu quả hơn. Cách làm này đã thể hiện sự thực hành quan điểm

Marketing hiện đại. Định nghĩa Marketing hiện đại đã nêu : “Marketing là làm việc với thị
trường để thực hiện các cuộc trao đổi với mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong
muốn của con người”.
Khái niệm Marketing ở trên được xây dựng trên cơ sở hàng loạt khái niệm cơ bản
khác đó là: nhu cầu, sản phẩm, sự thoả mãn, trao đổi và thị trường.
Nhu cầu là một vấn đề cốt lõi của hoạt động Marketing bởi vì chỉ khi hiểu được
nhu cầu của người mua thì người sản xuất mới tạo ra những hàng hoá có khả năng hấp dẫn
người mua hơn.Và hoạt động tìm hiểu nhu cầu trở thành hoạt động cơ bản đầu tiên của
người làm Marketing. Nhu cầu thường được hiểu một cách quá đơn giản là sự đòi hỏi của
con người về một vật phẩm nào đó tuy nhiên nội dung của thuật ngữ này hàm chứa ba mức
độ đó là: nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán.

Nhu cầu tự nhiên phản ánh sự cần thiết của con người về một vật phẩm. Nhu cầu
tự nhiên là vốn có được hình thành do sự đòi hỏi của con người. Những người làm
Marketing không tạo ra nhu cầu tự nhiên, hoạt động Marketing sẽ góp phần tạo ra những
nhu cầu tự nhiên mới chứ hoàn toàn không sáng tạo ra nó. Tuy nhiên nếu mới chỉ dừng lại
ở việc sản xuất ra những hàng hoá thoả mãn nhu cầu tự nhiên thì người sản xuất đó mới
chỉ làm ra những sản phẩm cũ như những người sản xuất khác cũng đã làm. Do vậy để tạo
ra hàng hoá thích ứng với nhu cầu, tăng cạnh tranh và tăng hiệu quả công ty thì người làm
Marketing phải hiểu một khía cạnh thứ hai là mong muốn.
Mong muốn là nhu cầu tự nhiên của con người có dạng đặc thù, đòi hỏi được đáp
lại bằng một hình thức đặc thù phù hợp với trình độ và tính cách của cá nhân. Chỉ có phát
hiện ra mong muốn của từng người hoặc tập hợp người thì người sản xuất mới tạo ra tính
đặc thù của cùng một loại sản phẩm. Nhờ vậy mà tăng khả năng thích ứng của hàng hoá
trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Nhu cầu tự nhiên và
mong muốn của con người là vô hạn, người sản xuất không chỉ phát hiện và sản xuất các
sản phẩm thích ứng với chúng mà còn phải thông qua trao đổi để thoả mãn lợi ích của cả
hai bên. Vì vậy trong khi tìm hiểu nhu cầu tự nhiên và mong muốn của khách hàng thì
người sản xuất cũng cần chú ý đến một yếu tố rất quan trọng nữa là nhu cầu có khả năng
thanh toán.

Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu tự nhiên và mong muốn phù hợp với
khả năng mua của người tiêu dùng. Người sản xuất đã phát hiện ra nhu cầu tự nhiên và
mong muốn của con người, họ đã chế tạo ra loại hàng hoá phù hợp nhưng nhu cầu tiềm
năng không biến thành nhu cầu hiện thực kết quả là sức mua đối với hàng hoá đó vẫn
không cao.
Vì vậy để hiểu được nhu cầu của thị trường đòi hỏi người làm Marketing phải
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng và các phương diện của nhu cầu để có
thể sản xuất và kinh doanh hiệu quả, thu lợi nhuận cao nhất.
Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi loại hàng hoá và dịch vụ có thể đem chào bán, có
khả năng thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn của khách hàng, gây sự chú ý, kích thích
sự mua sắm và tiêu dùng của họ. Khi một người tiêu dùng mua một sản phẩm nào đó thì
điều mấu chốt mà họ quan tâm chính là những lợi ích mà họ có thể nhận được từ việc tiêu

dùng hàng hoá đó. Những lợi ích này lại phụ thuộc vào nhu cầu và ước muốn của người
tiêu dùng do vậy để tạo ra một sản phẩm tốt thì yêu cầu đặt ra với người sản xuất là họ
phải xác định được chính xác nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
Sự thoả mãn là mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ
việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với những kì vọng của họ. Khi
khách hàng quyết định mua sắm một loại hàng hoá nào đó thì họ thường kì vọng vào
những lợi ích mà loại hàng hoá đó đem lại. Với cùng một nhu cầu nhưng có nhiều sự lựa
chọn từ các sản phẩm khác nhau thì người tiêu dùng buộc phải lựa chọn. Để lựa chọn họ sẽ
căn cứ vào khả năng cung cấp lợi ích và khả năng thoả mãn nhu cầu của từng hàng hoá và
nhãn hiệu.
Trao đổi trong Marketing là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một
người nào đó bằng cách đưa cho họ một thứ khác. Trao đổi là một quá trình tạo nền móng
cho hoạt động Marketing, hai bên tiến hành trao đổi để đạt được một thoả thuận. Khi đạt
được thoả thuận có nghĩa là hai bên đã hoàn thành một giao dịch.
Lý thuyết về Marketing cho rằng, thị trường là bao gồm tất cả những khách hàng
tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia trao
đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn của mình. Như vậy theo khái niệm này thì qui mô

thị trường không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác nhau.
1.1.2. Vận dụng Marketing trong thu hút FDI
Thu hút FDI là một hoạt động hết sức quan trọng để phát triển nền kinh tế đất
nước. Là nhân tố tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, tạo việc
làm và tăng thu nhập cho người lao động. Trong những năm qua tình hình thu hút FDI của
Việt Nam thực sự đã có nhiều thành tựu đáng kể tuy nhiên để có sự phát triển bền vững lâu
dài thì chúng ta cần phải có một cái nhìn toàn diện và có chiến lược cụ thể về công tác xúc
tiến đầu tư cũng như xây dựng một môi trường đầu tư hoàn thiện mà trong đó xem việc
xây dựng thương hiệu quốc gia và hình ảnh về môi trường đầu tư như là một nội dung
quan trọng của công tác xúc tiến. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ tiến hành nghiên
cứu một cách cụ thể hơn về việc vận dụng lý thuyết Marketing trong thu hút FDI để có thể
huy động được nguồn vốn lớn từ nước ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế đất

nước. Và để bắt đầu cho việc đưa ra một kế hoạch hay chương trình hành động cụ thể cho
công tác xúc tiến đầu tư chúng ta sẽ cùng tìm hiểu những khái niệm ban đầu, những ý
tưởng cốt lõi nhất của việc vận dụng Marketing trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trước tiên, phải coi các nhà đầu tư là khách hàng. Khách hàng là một trong những lực
lượng- yếu tố quan trọng nhất chi phối mang tính quyết định tới hoạt động Marketing.
Mỗi sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng đều buộc người bán phải xem xét lại
các quyết định Marketing của mình do vậy người bán phải nghiên cứu kỹ lưỡng khách
hàng để đưa ra các quyết định phù hợp qua đó có thể đáp ứng họ một cách tốt nhất. Cũng
như vậy trên quan điểm thu hút FDI, để có một chiến lược hợp lý chính phủ cần phải hiểu
được nhu cầu của các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác nhau, họ có
những lí do khác nhau để chọn Việt Nam là địa điểm đầu tư. Có nhà đầu tư đến Việt Nam
vì họ muốn khai thác thị trường nội địa với lợi thế về giá nhân công rẻ hay có nhà đầu tư
muốn đầu tư tại Việt Nam, xem Việt Nam như một địa điểm phân tản rủi ro khi mà rủi ro
từ đầu tư ở các nước khác như Trung Quốc hay Ấn Độ ngày càng tăng lên do đó nhu cầu
của các nhà đầu tư là không giống nhau. Do vậy chúng ta phải coi các nhà đầu tư là khách
hàng để từ đó tiến hành tìm hiểu nhu cầu họ và đưa ra các quyết định phù hợp qua đó đáp
ứng được các nhu cầu của các nhà đầu tư một cách tốt nhất.

Coi môi trường đầu tư là sản phẩm Dưới góc độ thu hút FDI sản phẩm mà chính
phủ đưa ra để thu hút các nhà đầu tư chính là môi trường đầu tư. Để tạo ra một sản phẩm
tốt chính phủ cần tìm hiểu một cách chính xác nhu cầu và mong muốn của khách hàng để
tạo ra sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khách hàng trên cả ba khía cạnh của nhu cầu đó là
nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán. Ngoài ra để tạo được
môi trường đầu tư có sức cạnh tranh thì mỗi nước cũng cần phải đưa ra được những đặc
thù, những lợi thế riêng để kêu gọi các nhà đầu tư vào nước mình. Chính phủ Việt Nam
cũng hiểu rằng để có một môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh với các
quốc gia khác, không chỉ đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, an toàn xã hội,
mà còn phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, khắc phục những yếu kém về cơ sở hạ
tầng, xoá bỏ các rào cản đầu tư đặc biệt là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh.

Thị trường là tập hợp các nhà đầu tư nước ngoài. Dựa theo lý thuyết Marketing đã
nêu tuy thị trường gồm cả người bán và người mua nhưng những người bán hợp thành
những người cung ứng còn người mua mới hợp thành thị trường. Trên quan điểm thu hút
FDI những người mua ở đây là các doanh nghiệp FDI do vậy tập hợp các nhà đầu tư nước
ngoài chính là thị trường và mục tiêu của Marketing ở đây là đem sản phẩm là môi trường
đầu tư của mình giới thiệu trên thị trường từ đó thu hút khách hàng là các doanh nghiệp
FDI.
Trao đổi trên thị trường. Dưới góc độ thu hút FDI trao đổi được hiểu là chúng ta
cung cấp cho các doanh nghiệp FDI một môi trường đầu tư hiệu quả nơi mà họ có thể tiến
hành sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận và họ cũng mang đến cho chúng ta những cơ
hội mới như tạo ra nhiều việc làm hơn, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao năng
lực sản xuất, đổi mới công nghệ…

1.2. Năm biến số Marketing trong thu hút FDI
Để việc vận dụng Marketing trong thu hút FDI đạt hiệu quả cần phải xây dựng
một kế hoạch Marketing mà trong đó các khái niệm, các phạm trù của Marketing cần phải
được vận dụng khéo léo và khoa học vào việc xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài. Trong

chương trình cao học quản trị kinh doanh tại Đại học Quốc Tế Nhật Bản, Giáo sư Philips
Sidel sử dụng năm biến số sau để phân tích một kế hoạch Marketing: sản phẩm, định vị,
khách hàng mục tiêu, phạm vi phân phối và phạm vi truyền thông. Để phù hợp hơn khi vận
dụng vào thu hút FDI chúng tôi xin đưa ra năm biến số sau: sản phẩm, định vị, phân loại
và xây dựng khách hàng mục tiêu, phạm vi phân phối và truyền thông Marketing. Dưới
đây chúng tôi xin miêu tả năm biến số này dưới góc độ thu hút FDI và nhìn nhận việc sử
dụng các biến số này ở Việt Nam cũng như kinh nghiệm của Trung Quốc và một số nước
khác trong việc sử dụng các biến số này để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2.1. Sản phẩm
Như đã phân tích ở trên, trong việc thu hút FDI thì sản phẩm chính là môi trường
đầu tư. Một môi trường đầu tư tốt là môi trường đầu tư thỏa mãn được các nhu cầu của các
nhà đầu tư, lợi ích của các nhà đầu tư sẽ được đảm bảo khi đầu tư vào đó. Do đó các quốc

gia thu hút được nhiều FDI là các quốc gia có môi trường đầu tư hoàn thiện và tạo điều
kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư làm ăn và sinh lời ở đó.
Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài, một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công này là do chính phủ Trung
Quốc đã xác định môi trường đầu tư là một yếu tố quyết định của việc thu hút FDI do vậy
họ đã có những biện pháp can thiệp cải thiện môi trường đầu tư giúp huy động được lượng
lớn FDI ngay cả khi có những tác động xấu ảnh hưởng đến xu hướng và lượng vốn đầu tư.
Điển hình như cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra vào cuối năm 1997 đầu năm
1998, dù có tiềm lực khá mạnh nhưng nền kinh tế Trung Quốc cũng không tránh khỏi
những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Nguồn vốn FDI vào Trung Quốc giảm sút, năm
1997 số vốn đăng ký của FDI là 44 tỷ USD (giảm 40% so với năm 1996) và vốn FDI thực
hiện đạt 39 tỷ USD (giảm 6% so với năm trước). Năm 1998 mặc dù vốn đăng ký không
giảm so với năm trước (tăng 3%) nhưng vốn thực hiện lại giảm 2%.
Để ngăn cản sự giảm sút của dòng vốn FDI, Chính phủ Trung Quốc đưa ra hàng
loạt các chính sách, cơ chế nhằm cải thiện môi trường đầu tư như: thực hiện miễn thuế
nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng cho các thiết bị nhập khẩu, giảm thuế thu nhập cho các
công ty nước ngoài đầu tư ở những khu vực nội địa kém phát triển…

Kết quả là sang năm 2000, sau hàng loạt những cố gắng, nỗ lực của Chính phủ TQ
trong việc cải cách các cơ chế và môi trường đầu tư, lượng vốn FDI đổ vào TQ lại bắt đầu
phục hồi trở lại và đạt mức trên 42 tỷ USD.
Ở Việt Nam hiện nay, hiểu được tầm quan trọng của việc vận dụng biến số này
trong chiến lược thu hút FDI, chính phủ cũng đã có những nỗ lực nhằm hoàn thiện sản
phẩm tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất cho các doanh nghiệp FDI chẳng hạn chính
phủ Việt Nam đang quyết tâm thực hiện cải cách hành chính, giảm bớt các thủ tục hành
chính trong triển khai các dự án, thực hiện các chính sách giảm chi phí kinh doanh cho các
doanh nghiệp FDI…
1.2.2. Định vị
Định vị thị trường là thiết kế một sản phẩm có những đặc tính khác biệt so với hàng
hoá của đối thủ cạnh tranh và tạo cho nó một hình ảnh riêng với khách hàng. Định vị thị

trường cũng có nghĩa là xác định vị trí của sản phẩm trên thị trường so với sản phẩm cùng
loại của đối thủ cạnh tranh. Vị trí của sản phẩm trên thị trường là tập hợp những ấn tượng,
khái niệm và cảm giác của khách hàng về sản phẩm đó so với các sản phẩm cùng loại hay
nói cách khác nó là mức độ nhìn nhận của khách hàng đối với sản phẩm. Tóm lại định vị
chính là điều mà chúng ta nói với khách hàng về sản phẩm, nó liên quan đến những suy
nghĩ mà chúng ta muốn khách hàng có về sản phẩm. Tuy nhiên làm cách nào để định vị
cho thật tốt chính là phải khắc hoạ tốt hình ảnh của sản phẩm trong tâm trí khách hàng ở
thị trường mục tiêu điều này phải bắt nguồn từ sự thấu hiểu những cảm nhận và đánh giá
của họ về hàng hoá. Để làm được điều này điều quan trọng đối với nhà sản xuất là xác
định được loại định vị cho sản phẩm của họ từ đó đề ra chiến lược định vị phù hợp.
Đó là những lý thuyết của Marketing về định vị thế còn dưới góc độ thu hút FDI,
định vị được hiểu như thế nào? Định vị là điều mà chính phủ hay các địa phương của Việt
Nam nói với các nhà đầu tư. Định vị giúp cho chúng ta xây dựng hình ảnh về môi trường
đầu tư bao gồm việc môi trường đầu tư này đáp ứng loại nhu cầu nào của các nhà đầu tư,
cũng như những lợi ích mà nó đem lại. Để việc định vị là đạt hiệu quả tốt nhất, chính phủ
cần tìm hiểu những đánh giá của nhà đầu tư nước ngoài về môi trường đầu tư của Việt
Nam. Chính phủ cần chủ động phân tích điểm mạnh và điểm yếu của nước ta so với các

quốc gia khác từ đó có một chiến lược chủ động khắc phục những điểm yếu, tập trung khai
thác điểm mạnh nhằm quyết định một con đường thực tế cải thiện hình ảnh môi trường đầu
tư của Việt Nam trong suy nghĩ của các nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế hiện nay trong suy
nghĩ các nhà đầu tư nước ngoài Việt Nam được đánh giá cao với những lợi thế cơ bản là:
Thứ nhất, Việt Nam là một đất nước ổn định và thanh bình - điều này rất quan trọng đối
với các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao và
thu nhập của người dân tăng lên, có nghĩa là nhu cầu nội địa tăng theo. Thứ ba, cộng đồng
quốc tế ngày càng tin tưởng vào những nỗ lực và quyết tâm hội nhập kinh tế thế giới của
Việt Nam. Và triển vọng gia nhập WTO dường như không còn xa nữa. Đây chính là thông
điệp có tác dụng quảng bá hữu hiệu cho thu hút FDI của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy
nhiên, ngoài những lợi thế trên thì Việt Nam cũng còn có những điểm hạn chế, trong con
mắt các nhà đầu tư như hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn hay thay đổi, cơ
sở hạ tầng còn nhiều hạn chế nhiều nơi còn chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu
tư… Từ những ưu thế và hạn chế trên, chính phủ Việt Nam cần quyết định một con đường

định vị phù hợp để cải thiện suy nghĩ của các nhà đầu tư về Việt Nam. Cần lứu ý rằng các
quyết định về định vị cần phải phù hợp với hoàn cảnh thực tại của Việt Nam, một định vị
phù hợp có ý nghĩa quan trọng hơn một định vị cao.
1.2.3. Phân loại và xây dựng khách hàng mục tiêu
Khách hàng mục tiêu được hiểu là các khách hàng có cùng nhu cầu, mong muốn có
khả năng đáp ứng, đồng thời có thể tạo ra ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh và đạt được
các mục tiêu Marketing đã định. Trong thu hút đầu tư nước ngoài, dựa vào những ưu tiên
trong phát triển kinh tế xã hội mà chính phủ tiến hành lựa chọn và xây dựng những nhóm
các nhà đầu tư phù hợp co thể mang lại những lợi ích mà chính phủ mong muốn. Từ đó
chính phủ cũng tiến hành đưa ra các sản phẩm phù hợp nhất với nhu cầu của nhóm khách
hàng này.
Do vậy, nhà đầu tư nước ngoài cần được phân loại. Vì các nhà đầu tư khi đến Việt
Nam họ theo đuổi những mục tiêu khác nhau do vậy nhu cầu về sản phẩm là khác nhau,
chính phủ không thể lúc nào cũng làm hài lòng các nhà đầu tư. Lợi ích của môi trường đầu
tư cần tập trung vào các nhà đầu tư mục tiêu. Dựa vào các điều kiện hiện có của mình mà

các quốc gia khác nhau có thể tập trung khai thác khách hàng mục tiêu khác nhau. Hiện
nay, thu hút FDI ở Việt Nam không đơn thuần là thu hút nguồn vốn, cái chúng ta cần ở họ
là kĩ năng, bí quyết quản lý, chuyển giao công nghệ. Vì vậy,Việt Nam hoan nghênh mọi
nhà đầu tư tuy nhiên Chính phủ cũng sẽ xây dựng những chính sách ưu tiên đối với các tập
đoàn đa quốc gia, trước mắt là trong các lĩnh vực công nghiệp chế tạo, công nghệ cao, hoá
chất, dịch vụ. Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh, liên kết để
sản xuất các sản phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao. Và đặc biệt Chính phủ cần đặt
trọng tâm thu hút đầu tư từ các quốc gia lớn như Nhật Bản, Mỹ, EU.
Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng cho thấy khi họ mở rộng các lĩnh vực thu hút
FDI thì trước tiên họ xác định các trọng điểm thu hút nhà đầu tư nước ngoài để hoàn thiện
và phát triển nền kinh tế trong nước. Chẳng hạn khi họ chú trọng thu hút các công ty xuyên
quốc gia đầu tư, chuyển giao công nghệ gia công trình độ cao để đạt giá trị gia tăng cao.
Đồng thời, thu hút các cơ quan nghiên cứu khai thác quốc tế đến Trung Quốc, thúc đẩy các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên doanh với các doanh nghiệp trong nước trên
các lĩnh vực: nghiên cứu khai thác công nghệ, nhập khẩu nguyên liệu, khai thác thị

trường thì lập tức các chính sách được đưa ra để phục vụ các khách hàng mục tiêu như:
mở rộng các dây chuyền sử dụng và nâng cấp kỹ thuật, thúc đẩy hợp tác giữa các công ty
vừa và nhỏ trong nước sản xuất các phụ tùng, linh kiện cho các doanh nghiệp có vốn nước
ngoài…
1.2.4. Phạm vi phân phối
Phạm vi phân phối là một tập hợp các doanh nghiệp hay các cá nhân độc lập và phụ
thuộc lẫn nhau tham gia vào quá trình đưa hàng hoá từ người sản xuất tới người tiêu dùng.
Hay phạm vi phân phối là quy trình và địa điểm mà khách hàng có thể mua sản phẩm.
Hoạt động phân phối giúp cho các sản phẩm đến được tay khách hàng. Nhờ có mạng lưới
phân phối mà hàng hoá được lưu thông, khắc phục được những khác biệt về thời gian, địa
điểm và quyền sở hữu của những người sản xuất và tiêu dùng các hàng hoá dịch vụ. Diễn
giải trong thu hút FDI, phạm vi phân phối được hiểu là qui trình và địa điểm mà các nhà
đầu tư có thể đăng kí và triển khai dự án đầu tư. Ở Việt Nam hiện nay các nhà đầu tư có
thể đăng kí đầu tư tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân thành phố, các khu công

nghiệp tuỳ thuộc vào khối lượng đầu tư và các ngành đầu tư.
Chính phủ Việt Nam cần xây dựng những kênh phân phối hợp lý, nhanh chóng và
hiệu quả nhằm giúp các nhà đầu tư đăng kí và triển khai các dự án một cách nhanh nhất.
Triển khai dự án đầu tư mới chỉ là bước đầu. Sau quá trình đăng ký đầu tư các nhà đầu tư
cũng mong muốn Việt Nam xây dựng một hệ thống dịch vụ sau đầu tư để hỗ trợ và giúp
đỡ một cách có hiệu quả nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài. Dịch vụ sau đầu tư sẽ hỗ trợ
cho các dự án đầu tư trong việc giải toả mặt bằng, thuế, thủ tục báo cáo, thủ tục hải quan…


1.2.5. Truyền thông Marketing
Hệ thống truyền thông Marketing của một công ty là một hệ thống tổ chức chặt chẽ
trong đó sử dụng phối hợp hài hoà các công cụ truyền thông thích hợp với điều kiện của
công ty ở từng thời kì. Hoạt động truyền thông Marketing thường được kế hoạch hoá theo
các bước: xác định người nhận tin, xác định các phản ứng, xác định thông điệp, lựa chọ
phương tiện truyền tin…

Các hoạt động truyền thông Marketing giúp cho các thông điệp định vị đến được với
khách hàng, xác định các địa điểm mà các thông điệp định vị đến được với khách hàng
mục tiêu. Sau khi chính phủ xác định được các nhà đầu tư mục tiêu, có một định vị phù
hợp thì chính phủ cần đưa ra các chương trình truyền thông mang thông điệp về môi
trường đầu tư truyền tải tới các nhà đầu tư mục tiêu.
Như vậy trong phần này những ý tưởng cho việc vận dụng lý thuyết cơ bản của
Marketing trong thu hút đầu tư nước ngoài đã được trình bày. Lấy ý tưởng có bản là coi
môi trường đầu tư là sản phẩm và các nhà đầu tư là khách hàng sẽ giúp cho chúng ta vận
dụng khoa học và hợp lý nhất các lý thuyết hiện đại về Marketing vào thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài.Với năm biên số Marketing được diễn giải ở trên sẽ là những lý luận cơ sở
giúp cho các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra những đánh giá về thực trạng thu hút
FDI của Việt Nam và cũng từ đó đưa ra những kế hoạch để thu hút FDI hơn nữa vào Việt
Nam. Trong phần sau chúng tôi sẽ trình bày và phân tích thực trạng thu hút FDI của Việt
Nam. Và việc phân tích này sẽ sử dụng một cách có hiệu quả năm biến số được trình bày ở

trên.


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
2.1. Tổng quan
Nhìn lại gần 20 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam (từ 1988 đến
nay), có thể khẳng định rằng, chủ trương của Đảng và Nhà nước hội nhập kinh tế quốc tế,
trong đó có thu hút FDI là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với xu thế của thời đại.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đã không ngừng phát triển và trở
thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu được trong nền kinh tế quốc dân. Trong 15
năm qua Việt Nam luôn được đánh giá là nước có tiềm năng và sức hút lớn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.
Sau thời kỳ thăm dò và học hỏi (1988 - 1990), là thời kỳ mà FDI vào Việt Nam tăng
trưởng với tốc độ cao trên diện rộng (1991 - 1997). Bẩy năm này có thể được gọi là “thời
kỳ hoàng kim” của FDI. Trong 3 năm 1998 - 1990, vốn đăng ký mới và tăng vốn chỉ có
1,582 tỷ USD, thì trong 5 năm 1991 - 1995 lên tới 18,377 tỷ USD và chỉ trong 2 năm 1996
- 1997 đó là 15,246 tỷ USD.
Từ 1998 - 2003 là thời kỳ suy giảm mạnh mẽ FDI. Có nguyên nhân khách quan đó là
tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực bắt đầu từ tháng 7/1997.
Cuộc khủng hoảng này đã tác động xấu tới sự phát triển của các nước, trong đó có Việt
Nam. Trên phạm vi toàn cầu, mấy năm qua dòng vốn FDI đã giảm sút liên tục, năm 2001
giảm 41%, năm 2002 giảm 13% năm 2003 giảm 12% và năm 2004 có nhích lên 2% nhưng
chỉ đạt ở mức 648 tỷ USD. Nhưng nguyên nhân chủ quan là chúng ta không biết biến
thách thức do cuộc khủng hoảng đó gây ra thành cơ hội để thu hút mạnh mẽ FDI vào nước
ta.
Nhờ những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường đầu tư và kinh
doanh, các nhà đầu tư đã chọn Việt Nam như là một địa chỉ đáng tin cậy. Các tín hiệu tích
cực đó bắt đầu từ cuối năm 2003 và càng rõ hơn trong năm 2004. Nhiều nhà đầu tư cũ đã
trở lại, nhiều nhà đầu tư mới đã tìm thấy những tiềm năng mới của Việt Nam. Luồng vốn

FDI vào Việt Nam bao gồm cả cấp phép mới, tăng vốn và thực hiện đều liên tục tăng. Năm
2002 vốn đăng ký mới đạt 2,8 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, năm 2004 tăng lên 4,2 tỷ

USD và lượng vốn FDI thực tế vào Việt Nam đứng thứ 50 trên thế giới, cao hơn mức của
nhiều nước Đông Nam Á vượt Thái Lan giành vị trí thứ 9 trong số các nước hấp dẫn đầu
tư nước ngoài nhất Châu Á.
Đặc biệt năm 2005 được xem là năm khởi sắc trong thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Việt Nam. Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng tổng vốn đăng ký mới và tăng
vốn vượt trên 5,8 tỷ đồng (với vốn đăng ký khoảng 4 tỷ USD từ 771 dự án mới từ 42 quốc
gia và có 509 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn trên 1,8 tỷ USD),
tăng 38% so với năm trước, vượt gần 30% so với mục tiêu đề ra trong cả năm (4,5 tỷ
USD). Đây là mức cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực đến nay.
Hình 2.1. Tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
5000
1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Vốn mới
Vốn bổ sung

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Chất lượng các dự án mới và các dự án tăng vốn trong năm 2005 có chuyển biến tích

cực, đã thu hút được một số dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến. Trong đó
có những dự án tăng vốn lớn như: Công ty TNHH Canon với vốn đầu tư tăng thêm trên 60
triệu USD; Công ty chế tạo công nghiệp VMEP vốn đầu tư tăng thêm 70,2 triệu USD;
Công ty liên doanh Larkhall (Việt Nam) với vốn đầu tư tăng thêm 62,5 triệu USD; Công ty
Honda Việt Nam vốn đầu tư tăng thêm 58 triệu USD; Công ty Toto Việt Nam vốn đầu tư
tăng thêm 52 triệu USD… Tuy nhiên, nhìn chung tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với
luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Có những dự án được cấp trước thời kỳ khủng

hoảng tài chính khu vực (năm 1997) vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai ở một số
ít hạng mục, nhiều dự án bất động sản vẫn dậm chân tại chỗ do vướng cơ chế chính sách.
Một số dự án thì gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến
môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn lớn, tốc
độ tăng vốn chưa cao.
Ngày càng nhiều dự án của các tập đoàn đa quốc gia quay trở lại đầu tư và mở rộng
sản xuất tại Việt Nam. Đến nay có 95 công ty đa quốc gia đầu tư với trên 230 dự án FDI
tại Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký (kể cả tăng vốn) là 10,6 tỷ USD, chiếm 20% tổng
vốn đăng ký. Hầu hết các công ty nói trên đầu tư vào các dự án có quy mô lớn (bình quân
trên 45 triệu/dự án).
Với môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được cải thiện, các doanh nghiệp đầu tư
nước ngoài đã hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển, điều này thể hiện ở các
chỉ tiêu vốn thực hiện, doanh thu xuất khẩu và nộp ngân sách ngày càng tăng. Giá trị xuất
khẩu ở khu vực có vốn FDI (không kể xuất khẩu dầu thô) chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước, nếu tính cả dầu thô thì tỷ lệ này đạt 56%. Nộp ngân sách Nhà nước ở khu vực
có vốn FDI tiếp tục tăng cao và năm 2005 lần đầu tiên vượt 1 tỷ USD (đạt 1,29 tỷ USD).
Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm 2005 đã có nhiều chuyển biến theo hướng tăng
tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ, các dự án mới trong lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 37% tổng
vốn đăng ký. Cùng với việc duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao (8,4%), sản xuất công
nghiệp tăng 16,5%, xuất khẩu tăng 21%. Cánh cửa năm 2005 khép lại với những dấu ấn
lạc quan trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tính chung lại, trong 5 năm (2000 - 2005), Việt Nam đã thu hút được hơn 18 tỷ USD

vốn FDI đăng ký mới, 13,6 tỷ USD vốn FDI thực hiện, góp phần bổ sung nguồn vốn cho
đầu tư phát triển và nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu của nền kinh tế. Khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài đã có đóng góp lớn cho sự phát triển, chiếm hơn 17% vốn đầu tư toàn
xã hội, đóng góp hơn 15% vào GDP, 43% giá trị sản xuất công nghiệp, 54% giá trị xuất
khẩu, hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (không kể dầu thô) và tăng nhanh
quy mô tỷ trọng đóng góp cho ngân sách nhà nước. Trong 5 năm qua, khu vực này đóng
góp gần 1 tỷ USD/năm vào ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho gần 800 nghìn lao động
trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp. Các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs) đã đầu tư

và làm ăn ở Việt Nam, góp phần quan trọng mở rộng thị trường, thực hiện chuyển giao
công nghệ, tăng cường khả năng xuất khẩu và qua đó đóng góp vào việc nâng cao hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Trên đây là những đánh giá chung về tình hình thu hút FDI của Việt Nam theo các thời kỳ từ
1988 đến 1997, từ 1997 đến 2003 và từ 2003 đến 2005. Đó là những con số tổng quan và chỉ đơn
thuần là số liệu nhằm phản ánh thực trạng thu hút FDI của Việt Nam trong những năm qua. Để có
một cái nhìn sâu sắc và bản chất của vấn đề chúng tôi xin được phân tích thực trạng theo cách vận
dụng các biến số của Marketing đã được diễn giải ở phần lý luận chung.
2.2. Thực trạng của việc thu hút FDI ở Việt Nam
Lấy ý tưởng từ 5 biến số Marketing được giới thiệu ở phần đầu chúng tôi sẽ đi sâu phân tích
thực trạng của việc thu hút FDI ở Việt Nam.

2.2.1. Sản phẩm
Theo tiếp cận của Marketing thì sản phẩm chính là môi trường đầu tư, bởi vì môi
trường đầu tư thoả mãn một nhu cầu nào đó của các nhà đầu tư thì các nhà đầu tư mới đem
tiền của mình vào một quốc gia đó nhằm sử dụng môi trường đầu tư đó để sản xuất kinh
doanh. Việt Nam đang tích cực chủ động đổi mới và hoàn thiện môi trường đầu tư theo
tiêu chí do Ngân hàng thế giới đưa ra (trong thông điệp Báo cáo phát triển thế giới 2005),
đó là: tạo ra môi trường đầu tư tốt hơn cho tất cả mọi người. Tức là mang lại lợi ích cho
toàn thể xã hội chứ không chỉ cho riêng doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam hiểu rằng để
làm được điều này không chỉ đòi hỏi phải giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, an toàn xã

hội, mà còn phải nâng cao chất lượng nguồn lực, khắc phục những yếu kém về cơ sở hạ
tầng, xoá bỏ các rào cản về đầu tư, đặc biệt là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính
sách thu hút đầu tư, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động. Do đó, Chính phủ cũng
như các địa phương đang thực hiện nhiều biện pháp và đã thu hút được nhiều chuyển biến
rất tích cực cũng như vẫn còn một số hạn chế trong quá trình thực hiện. Việc đánh giá
được thực hiện trong từng nhận định cụ thể sau:
2.1.1.1. Hệ thống pháp luật, chính sách đang dần được cải thiện

Môi trường đầu tư gồm rất nhiều yếu tố, tuy nhiên hệ thống pháp luật và chính sách
là yếu tố rất quan trọng có vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại của việc thu
hút FDI. Nhận thấy được tầm quan trọng đó hiện nay Việt Nam đang tích cực hoàn thiện
pháp luật, cơ chế chính sách theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước
ngoài.Qua quá trình thực hiện chúng ta đã đạt được những kết quả sau:
Đầu tiên, chính sách về đầu tư nước ngoài đã được điều chỉnh tích cực hơn tạo khuôn
khổ pháp lý đầy đủ, rõ ràng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Trong năm 2005 vừa qua, chúng ta tiếp tục chỉnh sửa nhiều chính sách liên quan
đến đầu tư, đồng thời hoàn tất lộ trình áp dụng cơ chế một giá hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi
phí sản xuất. Chính sách thuế doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế VAT và một số
quy định về sở hữu trí tuệ, nhãn hiệu hàng hoá, chuyển giao công nghệ đã được sửa đổi.
Pháp luật mới về đất đai được ban hành đã loại bỏ nhiều thủ tục phiền hà, phức tạp, tăng
cường chức năng của các cơ quan Nhà nước trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư. Hệ thống
quy hoạch được cải cách, được rà soát cập nhật và bổ sung tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài. Pháp luật cạnh tranh được ban hành đã tạo
dựng khuôn khổ pháp lý thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh.
Riêng trong năm 2005, Quốc hội Việt Nam sẽ thông qua hơn 20 luật, đây cũng là số
lượng luật được thông qua nhiều nhất trong một năm kể từ trước tới nay, trong đó có Luật
đầu tư chung và Luật doanh nghiệp thống nhất vừa được quốc hội thông qua và có hiệu lực
ngày 1/7/2005 sẽ tạo mặt bằng pháp lý cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hai đạo
luật này không những tạo ra cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước một sân chơi bình
đẳng, xoá bỏ các rào cản trong đầu tư mà còn thể hiện quyết tâm của Nhà nước Việt Nam

trong việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Các nhà đầu tư, các tổ
chức quốc tế ngày càng tin tưởng vào Việt Nam. Đỉnh cao là Hội nghị các nhà tài trợ cho
Việt Nam (CG 2004) với con số cam kết ODA lên tới 3 tỷ USD.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật của Việt Nam còn nhiều điều bất cập đối với khu vực
kinh tế FDI. Các chính sách đầu tư đưa ra chưa đồng bộ, dễ thay đổi, chậm trong việc đưa
ra các văn bản hướng dẫn thực hiện luật, gây tâm lý hoang mang mất lòng tin của các nhà
đầu tư. Chính sách của chính phủ còn nhiều điểm bất hợp lý, chồng chéo và thiếu tính ổn
định. Cụ thể là:

Thứ nhất: Tính không đồng bộ của các văn bản qui phạm pháp luật. Đó là do cộng
tác ban hành và thực thi các văn bản dưới luật, hướng dẫn thực hiện luật còn nhiều yếu
kém. Xét về số lượng văn bản thể chế, tình trạng phổ biến hiện nay là quá nhiều văn bản
dưới luật. Chính số lượng văn bản quá nhiều nên khó tránh khỏi sự mâu thuẫn chồng chéo.
Thứ hai: Hiện nay các văn bản pháp luật liên quan đến khu vực FDI chưa có được
sự rõ ràng và minh bạch đặc biệt trong các quy định về cấp phép đầu tư. Cụ thể các hạn
chế tiêu chí cấp phép đối với nhà ĐTNN vẫn còn dừng lại với các quy định khung các
nguyên tắc cơ bản, chưa thể hiện tính rõ ràng… làm cho nhà đầu tư không xác định được
dự án của mình có thuộc diện được cấp giấy phép đầu tư không. Tương tự các hệ thống ưu
đãi cũng bị đánh giá là hết sức phức tạp do các qui định thiếu rõ ràng, gây khó khăn cho
doanh nghiệp khi xác định mình có thuộc diện được hưởng ưu đãi đầu tư hay không? Đặc
biệt thiếu các tiêu chí mang tính định lượng để làm cơ sở cấp giấy phép đầu tư.
Ngoài ra một số luật quan trọng chưa được ban hành hoặc được ban hành nhưng hiệu
lực không cao như: luật chứng khoán và thị trường chứng khoán, luật kế toán, luật kiểm
toán… do đó dẫn đến hạn chế trong kinh doanh, liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với
các nhà ĐTNN. Đây có thể coi là thách thức lớn đối với Việt Nam trong quá trình hợp tác
đầu tư với nước ngoài.
Thứ ba: Các văn bản sai thẩm quyền, vượt cấp còn diễn ra khá phổ biến, không chỉ
xuất hiện ở một số chính sách của địa phương vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành
(như chính sách về miễn giảm thuế, qui định giá tiền thuê đất… gây nên tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh về thu hút FDI, phá bỏ tính pháp lý của các văn bản cao hơn) mà

các cơ quan trung ương cũng xảy ra tình trạng đó.
Thứ tư: Thiếu tính ổn định và khó tiên liệu trong các văn bản QPPL. Vấn đề nhà đầu
tư lo ngại hiện nay là luật lệ Việt Nam hay thay đổi và khó tiên đoán. Việc tăng lương cho
công nhân các doanh nghiệp FDI gần đây là một ví dụ. Có nhà đầu tư đã nói rằng nếu như
chính phủ tăng lương cho công nhân một cách có lộ trình thì sẽ không gây sốc cho các nhà
đầu tư.
2.2.1.2. Thủ tục hành chính còn nhiều bất cập

Một trong những rào cản lớn nhất đối với các nhà đầu tư khi đến với Việt Nam đó là:
thủ tục hành chính. Trong thời gian qua các nhà đầu tư nước ngoài khi triển khai các dự án
đã được cấp giấy phép thì thường xuyên gặp rất nhiều các vấn đề phiền toái. Thủ tục hành
chính quá chậm, hiệu suất thấp, quá trình thẩm định dự án hoặc cấp giấy phép đầu tư đều
không đảm bảo thời gian theo quy định của luật pháp. Lý do khách quan có thể là từ phía
các nhà đầu tư chưa trình đủ giấy tờ liên quan, nhưng phải nhìn nhận thẳng thắn lý do chủ
quan là sự phối hợp giữa các bộ ngành trong nước chưa tích cực, bộ này chờ ý kiến của bộ
kia, ngành này chuyển đẩy sang cho ngành nọ… Để khắc phục những yếu kém đó, hiện
nay Chính phủ đã tập trung hoàn thiện cơ chế một cửa ở các cơ quan cấp phép và quản lý
đầu tư, tiếp tục minh bạch hoá quy trình đăng ký và triển khai đầu tư, cải thiện quy trình
thẩm định dự án theo hướng mở rộng diện đăng ký cấp phép đầu tư, rút ngắn thời gian
thẩm định, từng bước chuyển sang chế độ “tiền đăng, hậu kiểm”, tăng cường phân cấp
mạnh quản lý đầu tư đi đôi với tăng cường cơ chế phối hợp, giám sát và kiểm tra, giải
quyết kịp thời các thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, hải quan.
2.2.1.3. Nguồn lao động dồi dào nhưng vẫn còn thiếu các lao động tay nghề cao
Lao động Việt Nam được đánh giá là chăm chỉ, cần cù, tiếp thu nhanh các kiến thức
mới, tiền lương thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực cũng như trên thế
giới. Ví dụ: tiền lương của công nhân Việt nam chỉ bằng một nửa so với Thái Lan, thấp
hơn nhiều so với lao động của Trung Quốc. Tại Việt nam lao động làm việc 6 ngày trong
tuần, trong khi ở Thái Lan và Trung Quốc là 5 ngày. Thêm vào đó, chất lượng nguồn lực
đã từng bước được nâng cao thông qua việc đầu tư cho đào tạo và đào tạo lại, từ các cấp
học phổ thông và đại học, cấp trung học và dạy nghề. Nhưng trong thời gian gần đây, các

doanh nghiệp bắt đầu đối mặt với khó khăn do thiếu lao động. Tình trạng này không chỉ
diễn ra với những lao động lành nghề, cán bộ quản lý, mà ngay cả tuyện dụng lao động
phổ thông cũng ngày một khó. Nhất là với những trung tâm kinh tế lớn. Một thực trạng
đang khá phổ biến hiện nay là việc thiếu những lao động có tay nghề cao và có kiến thức
tốt để tham gia lao động sản xuất. Đây là sản phẩm của một ngành giáo dục còn quá nặng
về lý thuyết ở nước ta hiện nay. Nếu trở ngại này không được giải quyết sớm thì trong
tương lai gần sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thu hút đầu tư.

2.2.1.4. Cơ sở hạ tầng đã cải thiện rất nhiều nhưng nhìn chung vẫn không đáp ứng
được yêu cầu
Tại các diễn đàn gần đây, giới đầu tư bắt đầu cảnh báo hạ tầng cơ sở không đáp ứng
nổi nhu cầu đầu tư. Nhìn chung, cơ sở hạ tầng của nước ta là kém, không đáp ứng được
các nhu cầu của các nhà đầu tư, ở những địa phương thuộc vùng sâu vùng xa điều kiện đi
lại khó khăn, hệ thống giao thông thấp kém cho nên hầu hết các nhà đầu tư không tới được
với vùng này. Năm 2005, thiếu điện nghiêm trọng trong 2 tháng, ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đường sá nhỏ, ngắn, manh mún,
chưa đáp ứng được nhu cầu lưu thông. Chất lượng đường sá còn kém, mới đưa vào sử
dụng đã hỏng hóc nhiều, liên tiếp phải sửa chữa. Hiện tượng tắc đường là vấn đề nhức nối
của các thành phố lớn. Cảng biển có chất lượng phục vụ chưa cao. Viễn thông tồn tại dưới
những hình thức phục vụ còn hết sức lạc hậu, các dịch vụ giá trị gia tăng còn quá ít, giá
cước viễn thông còn khá cao so với thế giới.
2.2.1.5 Ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam còn kém phát triển
Muốn thu hút được FDI cao thì công nghiệp phụ trợ phải đi trước một bước, tạo nên
cơ sở hạ tầng kĩ thuật để cung cấp sản phẩm đầu vào cho các ngành công nghiệp. Những
nước có tỉ lệ FDI cao đề có một ngành công nghiệp phụ trợ khá mạnh. Ví dụ như Thái Lan,
một nước cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam trong việc thu hút FDI, họ đã phát triển cho
mình đến 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở ba cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị - phụ tùng -
linh kiện và dịch vụ. Còn ở Việt Nam hiện nay ngành công nghiệp phụ trợ vẫn còn ở dạng
thai nghén. Chưa có được sự định hướng rõ ràng. Đây là yếu tố đang cản trở dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta.

2.2.2. Định vị
Định vị cần thể hiện rõ điều Việt Nam muốn các nhà đầu tư có trong đầu khi nghĩ
đến việc đầu tư vào Việt Nam. Quyết định về việc định vị càng sớm càng tốt. Điều đó đòi
hỏi việc hiểu rõ khả năng nội tại cũng như tình hình bên ngoài bao gồm xu hướng FDI,
chính sách của các quốc gia khác, hành vi của các nhà đầu tư và các yếu tố quyết định việc
đầu tư. Việt Nam định vị là điểm thu hút FDI như thế nào? Câu trả lời này còn rất chung
chung và chưa rõ ràng.

Bên cạnh việc chưa xác định được là điểm thu hút FDI như thế nào? Các nhà hoạch
định chính sách ở Việt nam còn chưa đưa ra được những yếu tố hấp dẫn chính, chủ đạo mà
thực sự làm cho các nhà đầu tư quan tâm. Bộ kế hoạch và Đầu tư cũng như các tỉnh chưa
chọn được một thông điệp khơi dậy sự quan tâm của các nhà đầu tư tiềm năng. Trong
chiến dịch xúc tiến đầu tư, chúng ta đưa ra một loạt các yếu tố là điểm hấp dẫn đối với các
nhà đầu tư nước ngoài: ổn định chính trị, vị trí địa lý lý tưởng, nguồn nhân lực trẻ và có kỹ
năng, mức lương cạnh tranh, kích cỡ thị trường triển vọng, hệ thống pháp lý được cải cách
theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, chi phí kinh doanh đang được giảm, thuế thu nhập
doanh nghiệp thấp và miễn thuế nhập khẩu, cho phép nhiều hình thức đầu tư, xoá bỏ kiểm
soát ngoại hối, đang thực hiện hệ thống một giá, mở rộng ngành đầu tư cho các dự án FDI.
Tuy nhiên, khi được hỏi về việc chọn một hay hai yếu tố hấp dẫn chính thì các cơ quan và
các cá nhân trong cơ quan Nhà nước lại đưa ra những câu trả lời là khác nhau, không
thống nhất.
2.2.3. Phân loại khách hàng mục tiêu
Chính phủ Việt nam chủ trương thu hút tất cả các nhà đầu tư tiềm năng không kể
ngành nghề, loại hình công ty, quy mô, quốc gia. Tuy nhiên, từ một thực tế khách quan đó
là: lợi ích của mỗi nhà đầu tư mang lại là rất khác nhau kể cả trong một môi trường đầu tư
hoàn hảo. Do đó, Chính phủ không phải lúc nào cũng chia công bằng nguồn lực của mình
cho tất cả các nhà đầu tư. Để lợi ích của môi trường đầu tư đạt hiệu quả cao nhất, Chính
phủ cần thiết tập trung vào các nhà đầu tư mục tiêu, các nhà đầu tư mang tính chiến lược
cũng như điều tiết các nhà đầu tư mục tiêu này vào từng địa phương sao cho lợi ích của
nhà đầu tư và từng địa phương là đạt tối đa. Vì vậy các nhà đầu tư sẽ có rất nhiều cơ hội

lựa chọn từng ngành nghề mà mình đầu tư để thu được lợi nhuận tối đa. Để tập trung vào
các nhà đầu tư mục tiêu, Việt Nam đã phân loại các nhà đầu tư nước ngoài theo nhiều tiêu
thức khác nhau, việc phân loại đó giúp chúng ta đã có những chính sách khác nhau đối với
mỗi nhà đầu tư. Chúng ta có thể xem xét thực trạng của một số những tiêu chí mà Việt
Nam đã dùng để phân loại các nhà đầu tư.
Quốc tịch của các nhà đầu tư
Trong số các quốc gia đầu tư vào Việt Nam, đến năm 2005 luồng vốn đầu tư chủ yếu
vẫn đến từ các nước và vùng lãnh thổ Châu Á như Đài Loan (15,7%), Singapore (15,04%),

Nhật Bản (12,26%), Hàn Quốc (10,45%). Đài Loan nổi lên là một nhà đầu tư nước ngoài
lớn nhất tại Việt Nam trong số 71 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư. Tính đến thời điểm
cuối 8/2005, Đài Loan có 1.363 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,642 tỷ USD; Tiếp theo
là Singapore có 366 dự án, tổng vống đầu tư đăng ký là 7,443 tỷ USD; Nhật Bản có 549 dự
án, tổng vốn đầu tư là 5,938 tỷ USD. Nếu tính trên vốn đầu tư thực hiện, Nhật Bản là quốc
gia dẫn đầu với số vốn đã thực hiện là 3,419 tỷ USD. Trong khi đó, đầu tư của Hoa Kỳ và
EU của các năm vẫn đang ở mức thấp chưa tương xứng với tiềm năng của hai bên. Do đó,
bên cạnh những quốc gia “truyền thống” trong đầu tư vào việt nam, thì hiện nay chúng ta
đang có nhu cầu thu hút mạnh vốn FDI từ các nước có nền kinh tế mạnh như: Hoa kỳ, EU
và Nhật Bản.



Bảng 2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo nước (1988 – 2005)
(Tính tới ngày 20/12/2005 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực)

STT
Nước, vùng
lãnh thổ
Số dự án
(SDA)

TVĐT
Vốn pháp
định (VPĐ)
Đầu tư thực
hiện
(ĐTTH)
1 Đài Loan 23,79% 15,70% 15,20% 10,90%
2 Singapore 6,67% 15,04% 12,56% 13,42%
3 Nhật Bản 9,97% 12,26% 12,51% 16,74%
4 Hàn Quốc 17,39% 10,45% 10,17% 9,14%
5 Hồng Kông 5,98% 7,32% 6,95% 7,39%
6 British 4,17% 5,25% 4,47% 4,62%
7 Pháp 2,75% 4,30% 6,00% 4,38%
8 Hà Lan 1,03% 3,85% 5,26% 6,62%
9 Malaysia 3,02% 2,97% 3,07% 3,10%

10 Hoa Kỳ 4,39% 2,88% 3,38% 2,70%

Hình 2.2. Tình hình thu hút ĐTTT NN từ một số nước vào VN từ 1988 đến 2005
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
SDA TVĐT VPĐ ĐTTH
Đài Loan Sing Nhật Bản Hàn Quốc Hồng Kông
British Pháp Hà Lan Malay Mỹ

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Ngành kinh doanh
Nhìn chung, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chủ yếu tập trung đầu tư vào
ngành công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp, tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử
dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Cụ thể, từ năm 1998 đến năm 2005,
ngành công nghiệp có 3.983 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 30,7 tỷ USD; ngành dịch
vụ có 1.163 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 16,2 tỷ USD; Ngành nông, lâm nghiệp có
772 dự án với tổng vốn đầu tư khoảng 3,7 tỷ USD.
Mỗi địa phương đã đưa ra được cho mình những ngành nghề mũi nhọn, hứa hẹn lợi
nhuận cao đối với các nhà đầu tư kèm theo đó là nhiều những ưu đãi hấp dẫn được đưa ra.
Hà nội là một trong những thành phố đi đầu trong cả nước về thu hút FDI, Thủ đô luôn
hoan nghênh các nhà đầu tư nhưng tập trung vào các nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính và
dịch vụ. Tương tự, Tỉnh Vĩnh Phúc tuy khẳng định là mọi nhà đầu tư đều là nhà đầu tư
mục tiêu, nhưng thực tế tỉnh khuyến khích hơn, tập trung hơn vào các nhà đầu tư trong lĩnh

vực công nghiệp nhẹ, dịch vụ; không tập trung thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực xuất
khẩu vì tỉnh không có lợi thế so sánh bằng các địa phương khác.
Theo đánh giá của UNCTAD trong báo cáo Đầu tư Thế giới 2004 (Worl Investment
Report 2004), thì xu hướng đầu tư toàn cầu trong những năm gần đây là hướng vào lĩnh
vực dịch vụ. Tuy nhiên, Việt Nam với tư cách là nước tiếp nhận vốn đầu tư, vẫn đang
trong tình trạng khó khăn trong việc khai thác đầu tư tiềm năng vào lĩnh vực dịch vụ. Theo
số liệu gần đây, thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam vẫn ở mức
thấp trong cơ cấu vốn đầu tư thu hút mới chỉ đạt 16,3%. Rào cản lớn nhất của đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực dịch vụ hiện nay chính là hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực
dịch vụ chưa đồng bộ, thiếu rõ ràng. Bên cạnh đó, sự tham gia của khu vực tư nhân trong
đầu tư và cung ứng dịch vụ hạ tầng còn nhiều hạn chế.








Bảng 2.2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành nghề (1988 – 2005)
(Tính đến ngày 20/12/2005 - chỉ tính những dự án còn hiệu lực)
Chuyên
ngành
Số dự án
(SDA)
TVĐT
Vốn pháp
định (VPĐ)
Đầu tư thực
hiện (ĐTTH)
Công nghiệp 67.30%

60.69% 58.75% 68.44%
Nông, lâm 13.04% 7.38% 7.18% 6.73%

×