Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN:Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.62 KB, 99 trang )






LUẬN VĂN:

Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang








MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đói nghèo là một vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển thì đói nghèo không những là vấn đề
xã hội mà còn là một trong những thách thức đối với sự phát triển. Chính vì vậy, những
năm gần đây, các quốc gia, các tổ chức quốc tế đã nỗ lực tìm các giải pháp để giảm đói
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách giữa giàu và nghèo ở phạm vi quốc gia và quốc tế.
Là một nước đang phát triển lựa chọn xu hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam hết sức coi
trọng vấn đề xoá đói, giảm nghèo và đầu tư nhiều công sức, tiền của cho chương trình xoá đói,
giảm nghèo cả trên bình diện quốc gia lẫn trên bình diện địa phương. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII Đảng (năm 1996), Đảng ta đã khẳng định: “Thực hiện tốt chương trình xoá đói,
giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [20, tr.115].
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4 năm 2001) tiếp tục khẳng định: “Phấn
đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá


đói, giảm nghèo"[21, tr.211].
Quá trình thực hiện chương trình quốc gia về xoá đói, giảm nghèo ở nước ta thời gian
qua đã đạt được một số thành tựu nhất định như số hộ nghèo theo chuẩn cũ giảm cả tuyệt đối
và tương đối, số hộ nghèo vươn lên làm giàu ngày một nhiều hơn, Việt Nam được Ngân
hàng Thế giới đánh giá là nước có thành tích vượt trội trong xoá đói, giảm nghèo… Tuy
nhiên, kết quả xoá đói giảm nghèo ở nước ta thời gian qua chưa vững chắc, số hộ nghèo theo
chuẩn mới còn cao. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ lần thứ X nhận định: “Thành tựu
xoá đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc. Số hộ nghèo và tái nghèo ở một số vùng còn lớn, tỷ lệ
hộ nghèo theo chuẩn mới còn cao. Đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên
tai còn gặp nhiều khó khăn, nhiều vùng dân tộc thiểu số có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với bình
quân cả nước"[22, tr.173]. Thực trạng đó đòi hỏi nước ta cần nỗ lực hơn nữa trong tìm tòi giải
pháp hiệu quả để tiếp tục tổ chức thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo ở tầm cao
hơn.
Kiên Giang là một trong những tỉnh nghèo của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Theo số liệu điều tra mẫu khảo sát mức sống hộ gia đình của Tổng cục Thống kê tổng hợp


năm 2005 thì tỷ lệ nghèo theo chuẩn mới của tỉnh Kiên Giang là 13,73%, đứng thứ 10 về trình
độ phát triển trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Trong những năm qua Kiên Giang đã tích cực thực hiện chương trình xoá đói, giảm
nghèo và thu được một số kết quả đáng kể, tính bình quân cả giai đoạn 2001-2005 thì mỗi
năm giảm hơn 1% hộ nghèo. Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái
nghèo cao, đặc biệt ở vùng người dân tộc thiểu số. Còn có những hạn chế đó là do việc thực
hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo ở các địa bàn không đều, nhận thức ý nghĩa tầm quan
trọng của chương trình xoá đói, giảm nghèo của các cấp lãnh đạo và người dân còn chưa đầy
đủ… Thực tế đó đặt cho tỉnh Kiên Giang nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng
thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo trong thời gian tới.
Vì những lý do đó, đề tài “Xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang"được
chọn nghiên cứu trong luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề xoá đói, giảm nghèo cả ở trong nước
lẫn ngoài nước, cả về giác độ xã hội lẫn giác độ kinh tế…. Đáng chú ý là một số công trình
sau:
- UNDP (1996), Tiến kịp.
- Báo cáo Phát triển của Việt Nam (2000), Tấn công nghèo đói, Báo cáo chung của
nhóm Công tác chuyên gia Chính phủ - Nhà tài trợ - Tổ chức phi Chính phủ, Hội nghị
nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, 14 - 15/12/1999.
- Nguyễn Văn Thường (2004), Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi
mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện
nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Dương Phú Hiệp, Vũ Văn Hoà (1999), Phân hoá giàu - nghèo ở một số quốc gia khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của nhà nước góp phần xoá đói, giảm
nghèo trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam(2001), Xoá đói, giảm nghèo vùng
dân tộc thiểu số; phương pháp tiếp cận.


- Trần Thị Hằng (2001), Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Lê Xuân Bá, Chu Tiến Quang (2001), Nghèo đói và xoá đói, giảm nghèo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ngân hàng Thế Giới (2004), Đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam.
- Trần Đình Đàn (2002), Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xoá đói,
giảm nghèo ở Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội.
- Trần Thị Hằng (2000), Vấn đề giảm nghèo trong nền Kinh tế thị trường ở Việt
Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Hoàng Thị Hiền (2005), Xoá đói, giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc ít người

tỉnh Hoà Bình-Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Đình Huấn (8/1999), Suy giảm năng lực nội sinh ở nông thôn nước ta,
nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế.
- Nguyễn Hoàng Lý (2005), Xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai, thực trạng và giải
pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hải (2000), Những giải pháp chủ yếu về quản lý nhằm xoá đói, giảm
nghèo ở nông thôn phú thọ hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà nội.
- Đỗ Thế Hạnh (2000), Thực trạng và giải pháp chủ yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo
ở vùng định canh định cư tỉnh Thanh Hoá, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà nội.
- Thái Văn Hoạt (2007), Giải pháp xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà nội.
- Ở Kiên Giang, đã có một số đề tài, nghị quyết, chỉ thị, chiến lược về công tác xoá
đói, giảm nghèo trong tỉnh như:
+ Võ Trọng Đường (2000), Phân hoá giàu nghèo của các hộ nông dân ở tỉnh Kiên
Giang - thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.


+ Tỉnh uỷ và Hội đồng nhân dân tỉnh (2001 – 2005), Nghị quyết thực hiện Chương
trình xoá đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm.
+ Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang (2006 – 2010), Chương trình giảm nghèo.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề xoá
đói, giảm nghèo. Đây là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn lọc trong quá
trình viết luận văn của tác giả.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu

- Ðánh giá thực trạng đói nghèo và hoạt động xoá đói, giảm nghèo của Kiên Giang
trong 5 năm gần đây.
- Xác định những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo.
- Phân tích kinh nghiệm xoá đói, giảm nghèo của một số địa phương và rút ra bài
học cho Kiên Giang.
- Phân tích thực trạng đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, rút
ra các nhận xét về kết quả và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục thực hiện xoá đói, giảm nghèo
ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu là tình hình đói nghèo và hoạt động xoá đói, giảm nghèo
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
- Phạm vi nghiên cứu: Đói nghèo là hiện tượng vừa mang tính xã hội, tính kinh tế,
tính văn hoá… Trong khuôn khổ luận văn này, vấn đề đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo
chủ yếu được nghiên cứu dưới giác độ kinh tế. Không gian nghiên cứu là tỉnh Kiên Giang.
Thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn từ 2002 - đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quán triệt các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xoá đói, giảm


nghèo, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm của Ngân hàng Thế giới và kinh nghiệm của địa
phương khác để xem xét các vấn đề đói nghèo của Kiên Giang.
Trong các vấn đề cụ thể, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của
kinh tế học như dựa vào số liệu thống kê; phân tích tài liệu đã công bố; phương pháp kinh
nghiệm; phương pháp điều tra xã hội học…
6. Những điểm mới của luận văn

- Đưa ra bức tranh khái quát về đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở tỉnh Kiên Giang
những năm gần đây.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi nhằm tiếp tục xoá đói, giảm nghèo ở Kiên Giang
một cách hiệu quả hơn, nhất là xoá đói, giảm nghèo ở các vùng biên giới hải đảo, vùng có
đông đồng bào dân tộc sinh sống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn được trình bày trong 03 chương, 08 tiết.








Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÓI NGHÈO
VÀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO

1.1.QUAN NIỆM VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CHUẨN ĐÓI NGHÈO
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
* Quan niệm đói nghèo trên thế giới
Đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu và tổ chức quốc tế đưa ra khái niệm khác nhau
về đói nghèo, nhưng nhìn chung, chúng không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung
nhất để xác định đói nghèo trong các khái niệm này là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả
mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của con người về: ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá,
đi lại và giao tiếp xã hội. Sự khác nhau giữa các khái niệm là mức đo lường độ thoả mãn
cao hay thấp, mà mức đó lại phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế- xã hội cũng như
phong tục tập quán của từng vùng, từng quốc gia. Đáng chú ý là nhiều công trình nghiên

cứu và nhiều quốc gia đã sử dụng khái niệm người nghèo của Tổ chức Liên Hợp quốc.
Theo quan điểm của Tổ chức Liên Hợp quốc (UN): Người nghèo là những người có thu
nhập dưới đường ranh giới nghèo, được xác định bằng số tiền cho nhu cầu thiết yếu về ăn,
mặc, ở,…mà trước mắt là lương thực, thực phẩm để duy trì sự sống với mức tiêu dùng nhiệt
lượng 2.100 - 2.300 Calo/người/ngày.
Khái niệm về đói nghèo được nêu ra tại Hội nghị bàn về xoá đói, giảm nghèo ở khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc tháng 9/1993 cũng đáng
được chú ý. Hội nghị này cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không có
khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu ấy phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong
tục ấy được xã hội thừa nhận"[3, tr.11].
Có thể xem đây là khái niệm chung nhất về đói nghèo, một khái niệm có tính chất
hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu, phổ quát về đói nghèo. Các
tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn tính đến sự khác biệt giữa các vùng, các điều kiện lịch
sử cụ thể qui định trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Quan niệm hạt nhân có trong khái
niệm này là nhu cầu cơ bản của con người. Căn cứ xác định đói hay nghèo là ở chỗ đối với
những nhu cầu cơ bản mà con người không được hưởng và thoả mãn. Nhu cầu cơ bản nói


ở đây chính là cái thiết yếu, tối thiểu để duy trì sự tồn tại của con người như: ăn, ở, mặc,
Theo đó, sự nghèo khổ tuyệt đối, sự bần cùng được biểu hiện là đói, là tình trạng con
người không có ăn, ăn không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết, sự đứt đoạn trong
nhu cầu ăn. Nói cách khác, đói là tình trạng con người ăn không đủ no, không đủ năng
lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và không đủ sức để lao động, để tái
sản xuất sức lao động.
Nghèo là chỉ tình trạng mà thu nhập thực tế của người dân chỉ dành để chi tiêu cho
nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như không có. Các nhu cầu
tối thiểu khác như: ở, mặc, văn hóa, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp chỉ được đáp ứng một
phần rất ít, không đáng kể.
Cần phân biệt hai dạng nghèo: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Nghèo tuyệt đối

là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu để duy trì
cuộc sống. Trên thực tế, một bộ phận dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu
đói. Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức trung bình
của cộng đồng tại địa phương.
* Quan niệm đói nghèo của Việt Nam
Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước ta và hiện trạng
đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiên nay, có thể đánh giá đói nghèo theo 4 chỉ
tiêu chính: thu nhập; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt; tư liệu sản xuất và vốn liếng để dành.
Song, ở nước ta, do nền văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam, nên quan niệm về đói nghèo
không chỉ đơn thuần đề cập đến vấn đề thu nhập vật chất mà còn liên quan đến khía cạnh
bản sắc văn hoá, đạo đức, nhân văn…
Trong các tiêu chí như thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng
thụ văn hoá,…thì tiêu chí thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở nước ta chỉ tiêu đánh
giá hộ giàu, nghèo, đói, có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân nhân khẩu một
tháng (hoặc năm) được đo lường bằng chỉ tiêu giá trị qui đổi hoặc hiện vật qui đổi. Khái
niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý. Đối với hộ dân cư ở nông thôn, thu
nhập được tính bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu thu nhập bình quân
nhân khẩu/ tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. Ngoài ra, còn căn cứ
vào chỉ tiêu phụ là dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi
lại.


Trong điều kiện giá cả không ổn định như ở nước ta hiện nay cần phải sử dụng hình
thức hiện vật, phổ biến là qui ra gạo để xác định đói nghèo. Việc sử dụng hình thức hiện
vật qui ước này có tác dụng loại bỏ được yếu tố giá cả, từ đó có thể so sánh mức thu nhập
của người dân theo thời gian và không gian dễ dàng, thuận tiện. Đặc biệt đối với người
nghèo nói chung và nông dân nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng kg gạo bình quân đầu
người/ tháng rất có ý nghĩa thực tế.
Một hộ có thu nhập cao thì nhất thiết không phải là nghèo và ngược lại. Còn mức độ
chi tiêu và cơ cấu chi tiêu không thể thay thế thu nhập, vì chi tiêu còn phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác như: sở thích, phong tục tập quán, điều kiện khí hậu, quan hệ thị trường.
Tương tự như vậy, vấn đề mặc, nhà ở, phương tiện đi lại cũng không thể thay thế chỉ tiêu
thu nhập, ngược lại chỉ có tác dụng bổ sung cho chỉ tiêu thu nhập.
Qua nhiều cuộc khảo sát, nghiên cứu và đi đến thống nhất ở các Bộ, ngành, Bộ Lao
động, Thương binh và Xã hội đã đưa ra khái niệm đói nghèo ở Việt Nam như sau:
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức sống tối
thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần
các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của
cộng đồng xét trên mọi phương diện
Hộ đói là hộ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có
tiền chữa trị, nhà cửa rách nát.
Hộ nghèo là hộ thiếu ăn nhưng không đứt bữa, mặc không lành và không đủ ấm,
không có khả năng phát triển sản xuất.
Xã nghèo là xã có trên 40% tổng số hộ nghèo đói, không có hoặc rất thiếu những cơ
sở hạ tầng thiết yếu, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
Vùng nghèo là chỉ những địa bàn tương đối rộng, nằm ở những khu vực khó khăn,
hiểm trở, giao thông không thuận lợi, có tỷ trọng xã nghèo, hộ nghèo cao.
1.1.2.Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói của các tổ chức thế giới:
Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ giàu nghèo của các
quốc gia căn cứ vào bình quân thu nhập đầu người theo hai cách tính:
- Phương pháp ATLAS tức là tỷ giá hối đoái và tính theo USD.


- Phương pháp PPP (Purchasing Power Parity) là phương pháp sức mua tương
đương tính theo USD.
Theo phương pháp ATLAS, ở cấp quốc gia, căn cứ mức thu nhập bình quân đầu
người năm 1990, WB phân loại giàu nghèo trên thế giới thành 6 mức như sau:
+ Nước cực giàu: trên 25.000 USD

+ Nước giàu: từ trên 20.000 USD đến 25.000 USD
+ Nước khá giàu: từ trên 10.000 USD đến 20.000 USD
+ Nước trung bình: từ trên 2.500 USD đến 10.000 USD
+ Nước nghèo: từ trên 500 USD đến 2.500 USD
+ Nước cực nghèo: dưới 500 USD
Với mục tiêu hàng đầu là đấu tranh chống nạn nghèo khổ ở các nước đang phát
triển, WB đã đưa ra chuẩn nghèo đói tính theo số Calo tối thiểu cần thiết cho một người để
sống là 2100 Calo/người/ngày, những hộ gia đình không đảm bảo được mức này là những
hộ nghèo khổ. Tiêu chuẩn này được tính chung cho các nước trên thế giới, do đó nghèo
khổ theo tiêu chuẩn này chính là nghèo tuyệt đối. Theo mức đánh giá chung của thế giới,
để đảm bảo mức 2100 Calo/người/ngày thì cần ít nhất là 1USD/người/ngày. Theo tiêu
chuẩn này, thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đói nghèo, các khu vực có người nghèo nhất
thế giới hiện nay là Châu Phi và Châu Á.
WB còn đưa ra khuyến nghị thang đói nghèo như sau:
Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi mà có thu nhập dưới:
+ Đối với nước nghèo là 0,5 USD/ ngày;
+ Đối với nước đang phát triển là 1 USD/ngày;
+ Đối với các nước thuộc khu vực Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày;
+ Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày;
+ Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Tuy nhiên, để phù hợp với điều kiện đặc thù của từng nước, các quốc gia đều tự đưa
ra chuẩn riêng của mình. Thông thường, chuẩn quốc gia thấp hơn thang nghèo đói mà WB
đưa ra.Ví dụ, Mỹ đưa ra là thu nhập dưới 16.000 USD đối một gia đình chuẩn (gia đình 4
người) trong một năm, tương đương với 11,1 USD/ngày/người, Trung Quốc đưa ra chuẩn
nghèo là 960 Nhân dân tệ/năm/người tương đương với 0,33 USD/người/ngày.


Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo ở
Việt Nam, WB cũng đã đưa ra hai mức chuẩn nghèo đối với
Việt Nam:

Thứ nhất, số tiền cần thiết để mua một số lương thực, thực phẩm đáp ứng nhu cầu
dinh dưỡng với lượng 2100 Calo/người/ngày, gọi là chuẩn nghèo về lương thực thực
phẩm.
Thứ hai, số tiền cần thiết bao gồm cả chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và chi tiêu
cho nhu cầu phi lương thực thiết yếu khác, gọi là chuẩn nghèo chung. Theo quan niệm của
WB, ngoài chỉ tiêu tối thiểu về lương thực, thực phẩm để đảm bảo đủ lượng 2.100
Calo/người/ngày (tương đương 70% chi tiêu) còn có những khoản chi tiêu tối thiểu phi
lương thực, thực phẩm (tương đương 30% chi tiêu). Dựa vào số liệu điều tra mức sống dân
cư tại nước ta năm 1993, năm 1998, và căn cứ vào sức mua của đồng tiền Việt Nam, WB
đưa ra chuẩn nghèo đối với từng loại ở Việt Nam như sau:
Năm 1993 Năm 1998
- Chuẩn nghèo LTTP: 62.500 đ/người/tháng 107.000đ/người/tháng
- Chuẩn nghèo chung: 96.600 đ/người/tháng 149.000 đ/người/tháng
* Tiêu chí xác định chuẩn nghèo đói của Việt Nam
Ở Việt Nam, ngoài gợi ý về cách xác định chuẩn đói nghèo theo mức hưởng thụ calo
do bữa ăn mang lại hàng ngày qui đổi ra thu nhập của WB đã nêu trên, các nhà nghiên cứu
và các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đã nêu ra các mức xác định chuẩn mực đói
nghèo khác nhau, điển hình là cách xác định của Tổng cục Thống kê (TCTK) và của Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội (BLĐ-TB&XH).
Theo quan niệm của TCTK, tiêu chuẩn nghèo được xác định thông qua tiêu thụ
lương thực, thực phẩm, chưa tính đến việc tiêu thụ hàng hóa phi lương thực, thực phẩm.
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới chuẩn này thuộc vào diện hộ nghèo.
Tiêu chuẩn nghèo được tính riêng cho 2 khu vực: thành thị và nông thôn. Trên cơ sở định
mức chuẩn dinh dưỡng 2100 Calo/người/ngày, TCTK đã xác định chuẩn nghèo của Việt
Nam qua các năm như sau:
Đối với thành thị Đối với nông thôn
Năm 1993: 70.000 đ/người/tháng 51.000 đ/người/tháng
Năm 1994: 102.000đ/người/tháng 76.000 đ/người/tháng



Năm 1995: 125.000đ/người/tháng 95.000 đ/người/tháng
Năm 1996: 130.000đ/người/tháng 100.000 đ/người/tháng
Năm 1997-1998, TCTK không tiến hành điều tra đa mục tiêu như các năm trước,
mà phối hợp với WB tiến hành điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam, trong đó tình
trạng nghèo được nghiên cứu theo phương pháp đo lường mức sống của WB. Theo
TCTK, tiêu chuẩn nghèo của TCTK và WB tương đương nhau, tỷ lệ nghèo do hai cơ
quan này đưa ra cũng rất gần nhau và đều dựa trên số liệu về thu nhập hoặc chi tiêu được
điều tra một cách khách quan.
Bộ LĐ-TB&XH đồng tình với quan điểm về đói nghèo của hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu Á- Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan)
tháng 9/ 1993. Chuẩn nghèo được dùng để đánh giá mức độ đói nghèo ở Việt Nam là tính
theo thu nhập nhân khẩu một tháng hoặc một năm và được đo bằng giá trị hoặc hiện vật
qui đổi. Vì chuẩn nghèo là một khái niệm động, nó biến động theo không gian và thời
gian. Về không gian, ở Việt Nam, chuẩn nghèo biến động theo 3 vùng sinh thái khác nhau,
đó là: vùng thành thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời
gian, Bộ LĐ-TB&XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo chủ yếu dựa vào các số liệu về thu nhập
của hộ gia đình tùy theo thời kỳ phát triển của đất nước.
Theo phương pháp trên và căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương, Bộ LĐ-
TB &XH đã 3 lần công bố chuẩn nghèo tính theo thu nhập bình quân đầu người cho các
giai đoạn cụ thể khác nhau: giai đoạn 1993- 1995, giai đoạn 1996- 2000 và giai đoạn 2001-
2005.
- Năm 1993, để đáp ứng yêu cầu cấp bách về chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo, Bộ LĐ-
TB &XH đã đưa ra chuẩn đói nghèo ở nước ta là:
Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới 8 kg
ở nông thôn, dưới 13 kg ở thành thị;
Hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới
13 kg ở nông thôn, dưới 20 kg ở thành thị.
- Đến năm 1997, Bộ LĐ - TB & XH đã đưa ra tiêu chí chi tiết hơn cho từng mức độ
đói nghèo và từng khu vực, cụ thể được qui định như sau:
Hộ đói là có bình quân thu nhập đầu người trong 1 tháng qui đổi ra gạo dưới 13 kg,

tương đương với 40.000 đồng Việt Nam (đối với tất cả các vùng).


Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người/tháng được phân biệt theo
vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg gạo;
+ Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg gạo;
+ Vùng thành thị: dưới 25 kg gạo.
- Từ năm 2001, theo quyết định số 1143/2000/QĐ - LĐ-TB&XH ngày 01/11/2000
của Bộ LĐ-TB &XH, hộ đói nghèo ở nước ta giai đoạn 2001 - 2005 được điều chỉnh theo
mức chuẩn mới với mức thu nhập bình quân 1 đầu người trong hộ cho từng vùng như sau:
+ Vùng nông thôn miền núi, hải đảo : 80.000 đ/tháng;
+ Vùng nông thôn đồng bằng : 100.000 đ/tháng;
+ Vùng thành thị : 150.000 đ/tháng.
* Quyết định số 170/2005/QĐ - TTg, ngày 08/07/2005 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010 như sau:
+ Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo;
+ Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 260.000 đồng
/người/tháng (3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Nhìn chung, chuẩn nghèo của nước ta giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Ví dụ,
so với chuẩn nghèo giai đoạn 1996-2000, chuẩn nghèo giai đoạn 2001- 2005 tăng khoảng
1,5 lần. Sở dĩ có lựa chọn phương án tăng lên 1,5 lần là vì trong 5 năm (1996 - 2000) mức
sống dân cư Việt Nam tăng lên khoảng 1,47 lần. Theo chuẩn trên, đầu năm 2001, Việt
Nam có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 17,2%. Theo chuẩn nghèo giai đoạn 2002 -
2010, hiện nay nước ta có khoảng 3,7 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 19,5%.
* Tiêu chí về hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn: theo qui định của Ủy ban dân
tộc, hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn được áp dụng đối với các gia đình dân tộc thiểu
số cư trú ở các xã khu vực III thuộc chương trình phát triển KT- XH, các xã đặc biệt khó
khăn, miền núi và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là chương trình 135), tiêu chí cụ thể như sau:

Tiêu chí 1: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ gia đình dân tộc thiểu số
ở vùng dân tộc, miền núi và vùng sâu, vùng xa có mức thu nhập bình quân đầu người từ
80.000 đ/người/tháng trở xuống.


Tiêu chí 2: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tập quán sản xuất còn
mang nặng tính tự nhiên hái lượm, chủ yếu phát rẫy làm nương, chăn nuôi theo tập quán
cũ, lạc hậu, công cụ sản xuất thô sơ, thiếu đất hoặc chưa có đất sản xuất (tính theo mức
bình quân diện tích đất canh tác cho mỗi hộ gia đình của địa phương).
Tiêu chí 3: Hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn là các hộ có tổng giá trị tài sản
bình quân đầu người dưới 1 triệu đồng (không tính giá trị sử dụng của đất, giá trị của các
lán trại trên nương rẫy); hộ có hoàn cảnh neo đơn, thiếu lao động hoặc có người ốm đau
kéo dài, không có điều kiện tiếp cận thông tin để phục vụ cho sản xuất và đời sống.
* Quan niệm về xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo: ngoài tiêu chí xác định hộ nghèo,
hộ dân tộc đặc biệt khó khăn, Việt Nam còn có tiêu chí xác định xã đặc biệt khó khăn và
tiêu chí xã nghèo (ngoài số xã đặc biệt khó khăn) [3, tr.15].
Xã đặc biệt khó khăn là xã đáp ứng 5 tiêu chí sau:
+ Vị trí địa lý của xã ở xa trung tâm KT- XH, xa đường quốc lộ, phương tiện giao
thông khó khăn.
+ Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn nhiều tập tục lạc hậu.
+ Trình độ sản xuất còn lạc hậu, chủ yếu mang tính tự cung tự cấp.
+ Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn, mức sống thấp.
+ Hạ tầng cơ sở chưa phát triển, chưa đủ các công trình thiết yếu như: điện, đường
giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ,…
Xã nghèo được xác định trên cơ sở tỷ lệ đói nghèo trên địa bàn và tình trạng cơ sở hạ
tầng thiết yếu.
- Thời kỳ 1996-2000, Bộ LĐ-TB&XH đưa ra hướng dẫn xác định xã nghèo như sau:
+ Tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 40% trở lên;
+ Thiếu 1 trong số các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu (đường giao thông, điện
thắp sáng, trường học, trạm y tế, nước sạch sinh hoạt, chợ).

- Theo Quyết định số 587/2002/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ LĐ-TB&XH về
việc ban hành tiêu chí xã nghèo giai đoạn 2001-2005, thời kỳ 2001-2005, xã nghèo là xã đáp
ứng 2 tiêu chí sau: tỷ lệ hộ đói nghèo của xã chiếm từ 25% trở lên; chưa đủ 3 trên tổng số 6
công trình hạ tầng cơ sở thiết yếu (điện, đường giao thông, nước sạch, phòng học, trạm xá và
chợ) biểu hiện cụ thể như sau:
+ Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt;


+ Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch;
+ Chưa có đường ô tô tới trung tâm xã hoặc có nhưng không đi lại được cả năm;
+ Chưa có đủ phòng học theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
+ Chưa có trạm xá hoặc có nhưng còn tạm bợ;
+ Chưa có chợ hoặc mới có chợ tạm.
1.1.3. Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế - xã hội
- Tác động của đói nghèo đến sự phát triển kinh tế: Đói nghèo không những ngăn
cản hộ nghèo có thể phát huy hết nguồn lực của chính họ và xã hội để có cuộc sống đầy đủ
hơn, mà còn hạn chế sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Hộ đói nghèo không có khả năng cho con em học vấn và tay nghề tốt, do đó, trong
ngắn hạn dẫn đến hiện tượng trẻ em thất học, bỏ học, về lâu dài dẫn đến giảm năng lực sản
xuất của gia đình và mất cơ hội tăng thu nhập. Đói nghèo còn khiến hộ gia đình không có
khả năng nuôi dưỡng con cái khoẻ mạnh, không có khả năng để hưởng thụ văn hoá, không
có kinh phí chữa bệnh khi ốm đau…, do đó càng làm cho mức sống về lâu dài giảm sút
hơn.
Đặc biệt, hộ nghèo hầu như không có khả năng tích luỹ cho đầu tư mở rộng sản
xuất, không có tài sản thế chấp khi đi vay, khó tiếp cận thị trường tín dụng chính thức vì
mức độ rủi ro khi cho họ vay cao, chi phí cho vay lớn, nên các tổ chức tín dụng ngại cho
người nghèo vay. Vì không có vốn, trình độ học thức và tay nghề thấp, nên các hộ gia đình
đói, nghèo không có khả năng áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất của gia đình.
Hậu quả của tất cả các tác động kể trên là người nghèo rơi vào vòng xoáy không có
lối thoát: không có điều kiện để nâng cao mức sản xuất nên không có thu nhập; không có

thu nhập nên không được hưởng thụ sự đào tạo và không thể cải thiện năng lực sản xuất.
Nếu không có sự hỗ trợ của xã hội và Nhà nước thì vòng xoáy đó sẽ đẩy người nghèo vào
con đường bần cùng hoá và ngày càng nghèo khổ hơn.
Về mặt quốc gia, đói nghèo đi liền với sự lạc hậu, là một cửa ải phải vượt qua để
tiến tới một xã hội giàu có, phồn vinh và văn minh. Đói, nghèo là một hiện tượng kinh tế -
xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của cả cộng đồng dân cư, xã hội, gây trở ngại tới
sự phát triển chung của đất nước. Tác động này thể hiện trên các mặt sau đây:
+ Sự hiện diện của một bộ phận dân cư nghèo đói trong xã hội thể hiện tình trạng
mất công bằng trong phân phối thu nhập. Nếu Nhà nước và xã hội không tìm cách làm


giảm nhẹ tình trạng bất công bằng này, thì đến một lúc nào đó sẽ làm phát sinh mâu thuẫn
và bất ổn định xã hội, phá vỡ trạng thái bình thường của nền kinh tế, làm giảm hiệu quả
phát triển kinh tế, thậm chí có thể dẫn tới đổ vỡ, suy thoái, chiến tranh và nghèo khổ chung
của cả nước.
+ Xét về mặt xã hội, việc con em hộ nghèo không được đào tạo nghề đầy đủ, một
mặt làm giảm năng suất lao động xã hội nói chung, mặt khác có thể làm trầm trọng thêm
tình trạng thất nghiệp, vừa tăng gánh nặng cho Nhà nước, xã hội, vừa giảm năng lực sản
xuất của đất nước. Hơn nữa, các nguồn lực gia đình của người nghèo, nếu bị bỏ quên cũng
làm cho năng lực sản xuất của quốc gia xa rời mức sản xuất tiềm năng.
- Tác động của đói nghèo đến trật tự an ninh-xã hội: Đói nghèo dẫn đến tình trạng
các tệ nạn xã hội, phạm pháp gia tăng vì họ sẽ “đói ăn vụng, túng làm liều”. Vì vậy, đói
nghèo là một nguy cơ âm thầm, là nguyên nhân chủ yếu gây nên các tệ nạn xã hội, bạo lực,
tội phạm, mất an ninh xã hội như: mại dâm, cờ bạc, trộm cắp, cướp giật tài sản, thậm chí giết
người cướp của…
Nói tóm lại, đói nghèo không chỉ dẫn đến hậu quả KT-XH nghiêm trọng, mà còn là
nguyên nhân quan trọng của xung đột, mất ổn định chính trị. Vì vậy, xoá đói, giảm nghèo là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia để không những góp phần đảm bảo
ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, mà còn tăng trưởng và phát triển bền vững.
1.2. XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM

1.2.1. Quan điểm xóa đói giảm nghèo của Việt Nam
1.2.1.1. Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội
Vì nghèo đói là vấn đề không chỉ mang tính kinh tế, mà còn mang tính xã hội và
chính trị sâu sắc, nên nhiệm vụ xoá đói, giảm nghèo (XĐGN) đã được Đảng và Nhà nước
ta rất quan tâm. Đảng ta cho rằng, muốn XĐGN phải đảm bảo ổn định về chính trị - xã hội.
Sự bất ổn về mặt chính trị, xung đột sắc tộc, tôn giáo, khủng bố, tranh giành quyền lực
trong các giới lãnh đạo xẩy ra thường xuyên sẽ không thể tạo ra được môi trường thuận lợi
cho phát triển kinh tế và do đó sẽ không có môi trường và phương tiện để XĐGN.
Xóa đói, giảm nghèo phải được thực hiện đồng thời với các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội khác và phải thu hút sự nỗ lực từ nhiều phía: Nhà nước, cộng đồng và bản


thân người nghèo, phải phát huy nguồn lực bên trong, đồng thời khai thác nguồn lực bên
ngoài.
Ở nước ta XĐGN được coi là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, là yếu tố
quan trọng bảo đảm sự ổn định, phát triển kinh tế-xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ khi mới thành lập (1945) Nhà nước ta đã rất quan tâm đến XĐGN. Lúc bấy
giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà nước non trẻ Việt Nam đã coi đói nghèo là một loại
"giặc"cần phải chống như giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh đã nói: "Nếu nước độc lập mà dân
không hưởng hạnh phúc tự do; thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì" [39, tr.56] và "Tôi chỉ
có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân
ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành" [39,
tr.161].
Từ khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975), Đảng và
Nhà nước đã có nhiều quyết sách để xóa dần đói nghèo như: thực hiện cải cách ruộng đất,
xây dựng các công trình thủy lợi, miễn giảm thuế…để giúp các tầng lớp dân nghèo.
Đảng ta coi XĐGN là điều kiện để giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bất công,
thực hiện công bằng xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội có ghi:
Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn

phát huy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người
trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân;
kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài,
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội [17, tr.13].
Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), đất nước ta bước vào công
cuộc đổi mới toàn diện, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, sau này là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải
phóng sức sản xuất, kinh tế phát triển, thu nhập, đời sống của đa số nhân dân từng bước
được cải thiện. Tuy nhiên, hiện nay, do điểm xuất phát thấp, lại chịu hậu quả của thiên tai
và chiến tranh, dưới tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, nên phân hóa thu nhập,
chênh lệch mức sống giữa nông thôn - thành thị, giữa các vùng ngày càng tăng nhanh. Hơn


nữa, trong tiến trình đổi mới, bộ phận dân nghèo thường chịu nhiều thiệt thòi. Do đó, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giàu nghèo và trợ giúp người nghèo vươn lên đã trở thành yêu cầu
bức thiết của nước ta hiện nay, là một trong những quyết tâm của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong nhiều năm gần đây, xóa đói, giảm nghèo được chú trọng với tư cách Chương
trình quốc gia trọng yếu. Tại Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa
VII) Đảng ta chủ trương "Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo.
coi việc một bộ phận dân giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Đồng thời có chính sách
ưu đãi hợp lý về tín dụng, về thuế, đào tạo nghề nghiệp để tạo điều kiện cho người nghèo
có thể tự mình vươn lên đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả" [23, tr.47]. Để đảm bảo và
hướng tới công bằng xã hội, Đảng ta khẳng định phải:
Khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp đi đôi với chăm
lo xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức
sống giữa các vùng, giữa các dân tộc, giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt quan
tâm đến các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện
chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh

phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa
bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước [23,
tr.31].
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên
cơ sở nắm bắt những ưu điểm và hạn chế của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những
quan điểm chỉ đạo:
Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh
tế, thừa nhận trên thực tế còn có sự bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định
trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa
khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa
đói giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi
người, mọi nhà đều khá giả [23, tr.73].
Năm 1992, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc đề ra chính
sách XĐGN. Sáng kiến của Thành phố Hồ Chí Minh nhanh chóng được các địa phương
khác trong cả nước nhiệt liệt hưởng ứng, phát huy sáng kiến của chính quyền địa phương


các cấp và căn cứ vào kết quả điều tra mức sống dân cư lần thứ nhất, từ năm 1993, chính
phủ lần lượt ban hành các chính sách có liên quan đến XĐGN thực hiện trên phạm vi cả
nước và đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội 10 năm 1991-2000.
Năm 1995, Báo cáo quốc gia của Chính phủ Việt Nam tại hội nghị thượng đỉnh
Compenhagen về phát triển xã hội đã khẳng định XĐGN là một chính sách quốc gia quan
trọng.
Đến Đại hội VIII của Đảng, XĐGN chính thức được xác định là một trong những
chương trình quốc gia. Trên cơ sở đó Nhà nước cũng đã có một loạt các chương trình cấp
quốc gia và dự án đang được thực thi đều có nội dung gắn với xóa đói giảm nghèo. Đại hội
VIII của Đảng nhấn mạnh: "Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo nhất là vùng
căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói

giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối
tượng và có hiệu quả" [20, tr.115].
Chủ trương xóa đói, giảm nghèo đã được đưa lên thành chương trình về XĐGN với
mục tiêu: "Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20- 25% hiện nay xuống
còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của
kế hoạch 5 năm, tập trung xóa về cơ bản nạn đói kinh niên" [20, tr.221].
Tiếp theo, Chính phủ đã cho tiến hành điều tra mức sống dân cư lần thứ hai (năm
1997-1998) và trên cơ sở đó xây dựng, ban hành Chương trình mục tiêu XĐGN giai đoạn
1998-2000 theo quyết định 133/198/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7 năm 1998, gọi tắt là chương
trình 133. Chương trình này bao gồm một hệ thống các chính sách có nội dung trực tiếp
hoặc gián tiếp hướng tới mục tiêu XĐGN.
Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: "Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo thông
qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình địa phương, sớm đạt mục tiêu không còn hộ
đói, giảm mạnh các hộ nghèo" [21, tr.106]. Trong Định hướng phát triển các lĩnh vực xã
hội đến năm 2005, Đảng nhấn mạnh:
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo…, phải rất
coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy
mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng thu nhập. Phấn đấu đến năm 2005 về cơ


bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% số hộ thuộc diện nghèo…Nâng dần
mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo [21, tr.299].
Đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và từng chính sách phát triển", "Khuyến khích mọi người dân làm giàu theo
pháp luật, đồng thời thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói giảm nghèo, thực hiện tốt hơn
công bằng xã hội", phấn đấu đến năm 2010, "tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn
10- 11%" [22, tr.32, 89].
1.2.1.2. Xóa đói, giảm nghèo là sự kết hợp thống nhất giữa các biện pháp về kinh tế với
chính sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị
Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã hội nhức nhối. Nó

tác động sâu sắc vào các quan hệ xã hội, làm phát sinh và lây lan các tệ nạn, làm mất ổn
định xã hội và có thể làm mất ổn định về chính trị. Đặc biệt nếu phân hoá giàu nghèo vượt
quá giới hạn an toàn sẽ biến thành phân hoá giai cấp và xung đột giai cấp, làm suy giảm sự
bền vững của chế độ chính trị xã hội, làm chệch hướng XHCN.
Vì vậy, để xoá đói, giảm nghèo không phải chỉ cần các chính sách, biện pháp phát
triển kinh tế mà còn phải thực thi một hệ thống chính sách xã hội, đặt trong tổng thể của sự
ổn định chính trị, trong đó ổn định chính trị vừa là yêu cầu hàng đầu, là nền tảng cơ bản,
vừa là mục tiêu, đồng thời cũng vừa là điều kiện để phát triển kinh tế, thực hiện XĐGN.
Trên cơ sở nhận thức như vậy, chúng ta phải đặc biệt chú trọng bảo vệ lợi ích, quan tâm tới
đời sống của các tầng lớp cơ bản trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức, các lực
lượng bảo vệ an ninh cho chế độ. Đây chính là cơ sở xã hội, của chính trị, không được để
xảy ra hiện tượng người lao động bị bần cùng hoá, không được để tái sinh tràn lan hiện
tượng người lao động bị bóc lột, ngược đãi, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường.
XĐGN là điều kiện cần thiết, đảm bảo cho ổn định chính trị, nhưng thành công của
XĐGN sẽ là nhân tố quan trọng để củng cố, bảo vệ chế độ chính trị và giữ vững ổn định
chính trị, bảo vệ quyền làm chủ chế độ, làm chủ xã hội của nhân dân lao động.
1.2.1.3. Xóa đói, giảm nghèo bằng phát huy tính tự lực, tự chủ, tự vươn lên của chính
người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo, bằng huy động và khai thác có hiệu quả các
nguồn lực


Mặc dù XĐGN là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, nhưng
để vượt qua nghèo đói, cần sự nỗ lực, sự vươn lên vượt qua nghèo đói của chính người
nghèo, hộ nghèo. Nếu mỗi người nghèo, hộ gia đình nghèo, vùng quê nghèo không tự
vươn lên, thì không thể xoá được đói, giảm được nghèo. Đây là mối quan hệ qua lại giữa
các hộ gia đình (đơn vị kinh tế cơ bản) với cộng đồng xã hội. Cộng đồng xã hội chỉ có thể
tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho các cá nhân người lao động, các gia đình tiếp cận các
nguồn lực, vượt lên nghèo đói, mà không thể làm thay họ được.
Phải làm cho hộ nghèo, người nghèo tin vào triển vọng cuộc sống, có điều kiện và

môi trường xã hội thuận lợi để phát triển bằng khả năng sẵn có, bằng lao động, bằng đào
tạo, bồi dưỡng để hình thành khả năng đó. Tính chất trợ giúp, hỗ trợ phát triển là nét nổi
bật của XĐGN. Cần quán triệt quan điểm này và thể hiện một cách toàn diện trong nội
dung và biện pháp XĐGN. Đây chính là sự thực hiện xã hội hoá vấn đề XĐGN.
XĐGN là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện được trong vài ngày, vài
tháng, nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh thần rất to lớn, trong đó trước hết là các
nguồn lực vật chất như: tài nguyên, đất đai, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, trình độ
tay nghề của người lao động và các môi trường chính trị, xã hội, kết cấu hạ tầng khác…
Nguồn tài chính của Nhà nước là rất quan trọng, song không có thể chỉ trông chờ vào
một nguồn đó, nhất là trong điều kiện ngân sách quốc gia còn nghèo, mà phải huy động mọi
nguồn tài chính có thể huy động được cho XĐGN… Nguồn đầu tư của Nhà nước cho
XĐGN chỉ có kết quả và ý nghĩa tích cực, khi nó được đặt trong tổng thể các nguồn lực vật
chất huy động từ đóng góp của toàn xã hội. Nên XĐGN bằng cách phát triển sản xuất, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ chứ không phải bằng bao cấp tiêu dùng cho
người nghèo, hộ nghèo.
Đói nghèo và XĐGN là những vấn đề có ý nghĩa toàn cầu, là mối quan tâm của Chính
phủ và nhân dân ở các nước trên thế giới. XĐGN phải đặt trong quá trình mở rộng hợp tác,
tranh thủ khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực từ các nước, các tổ chức quốc tế
bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú.
1.2.2. Mục tiêu của xoá đói, giảm nghèo
Dựa trên Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010, có tính đến các
mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc, Nhà nước Việt Nam xác định các
chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói, giảm nghèo đến năm 2010 như sau:


* Các chỉ tiêu về kinh tế
Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000, trong đó giá trị tăng thêm của
nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 4-4,5%; công nghiệp và
xây dựng tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 10-10,5%; các hoạt động dịch vụ
tăng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 đạt 7-8%. Bảo đảm tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt

trên 30% GDP.
Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp là 16-17% vào năm 2010; công nghiệp 40-
41% vào năm 2010; dịch vụ 42-43% vào năm 2010.
Tỷ trọng lao động công nghiệp trong tổng số lao động tăng lên 23-24% vào năm 2010.
Giảm lao động nông, lâm, ngư nghiệp xuống 50% vào năm 2010. Tăng tỷ trọng lao động
dịch vụ lên 26-27% vào năm 2010.
* Các chỉ tiêu về xã hội và xóa đói giảm nghèo
Giảm tỷ lệ hộ nghèo
- Đến năm 2010 giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế và giảm 3/4 tỷ lệ
nghèo về lương thực thực phẩm so với năm 2000.
Đảm bảo công trình hạ tầng thiết yếu cho người nghèo, cộng đồng nghèo và xã
nghèo.
- Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, mở rộng và xây dựng mới các công trình hạ tầng thiết
yếu (thuỷ lợi nhỏ, trường học, trạm y tế xã, đường giao thông, điện chiếu sáng, nước sinh
hoạt, chợ, các điểm bưu điện văn hoá xã, nhà hội họp ) bảo đảm đến 2010 100% xã nghèo
có các cơ sở hạ tầng thiết yếu.
Đến 2010, 85% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60
lít/người/ngày, 75% gia đình có hố xí hợp vệ sinh. Chú trọng đến các công trình nước sạch
cho các gia đình nghèo, đặc biệt là những người ở xa trung tâm xã, xa trục đường chính
được tiếp cận nước sạch.
Phổ cập và cải thiện chất lượng giáo dục
Củng cố, duy trì và phát huy thành quả phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ,
đặc biệt ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện phổ cập trung học cơ sở trong
cả nước. Tăng tỷ lệ trẻ em dưới 3 tuổi đến nhà trẻ từ 12% năm 2000 lên 18% năm 2010.
Đối với trẻ em từ 3-5 tuổi tăng tỷ lệ đến trường, lớp mẫu giáo từ 50% năm 2000 lên 67%
năm 2010.


Tăng tỷ lệ học sinh đi học trong độ tuổi lên lên 99% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ học
sinh học xong tiểu học lên 85-95% vào năm 2010.

Giảm tỷ lệ sinh, tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng của trẻ em
Duy trì vững chắc xu thế giảm tỷ lệ sinh để đạt mức thay thế bình quân trong cả
nước chậm nhất vào năm 2010.
Đến năm 2010 giảm tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 1 tuổi xuống dưới 25‰; giảm tỷ suất
tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 32‰ năm 2010.
Giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi xuống dưới 20% vào năm 2010.
Giảm tỷ lệ trẻ sinh thiếu cân (dưới 2.500 gram) xuống còn 5% năm 2010.
Sức khoẻ sinh sản, các bệnh dịch, HIV/AIDS và các bệnh xã hội.
Đến năm 2010 giảm tỷ suất chết mẹ liên quan đến sinh sản xuống dưới 70/100.000
trẻ đẻ sống trong toàn quốc (100/100.000 trẻ đẻ sống ở miền núi). Cải thiện tình trạng sức
khoẻ của bà mẹ sau khi sinh nở.
Phát triển văn hoá thông tin và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống phủ sóng phát thanh, truyền hình trên cả nước, phấn
đấu đến 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến
mỗi gia đình.
Tăng thời lượng chương trình và giờ phát sóng phát thanh, truyền hình, chương trình
tiếng dân tộc.
Nâng cao đời sống và bảo tồn văn hoá của đồng bào dân tộc ít người
Nâng cao đời sống dân trí, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống
của đồng bào các dân tộc ít người. Giữ gìn và phát triển khả năng biết đọc, biết viết tiếng
dân tộc ở những vùng có tỷ lệ dân tộc ít người cao. Tạo khả năng tiếp cận giáo dục mẫu
giáo cho tất cả trẻ em và hoàn thành chương trình tiểu học một phần bằng tiếng Việt và
một phần bằng tiếng dân tộc ít người vào năm 2010. Hỗ trợ người dân thuộc nhóm dân tộc
ít người tham gia nhiều hơn vào làm việc tại các cơ quan nhà nước. Tăng tỷ lệ người thuộc
nhóm dân tộc ít người là cán bộ, viên chức nhà nước được đào tạo theo điều kiện cụ thể
của từng vùng dân tộc.
Bảo đảm sự bền vững môi trường


Tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường và bảo tồn tài nguyên thiên

nhiên; đến năm 2010 không còn các khu nhà ổ chuột ở đô thị và nhà tạm ở nông thôn, đặc
biệt là đồng bằng sông Cửu Long.
Đến năm 2010, phấn đấu 100% các khu công nghiệp, các đô thị và các làng nghề ở
nông thôn được xử lý nước thải, thu gom chất thải rắn và chất thải vệ sinh, có kế hoạch cải
tạo khắc phục sự cố môi trường trên các dòng sông, hồ, ao, kênh mương
Nâng cao chất lượng công tác bảo vệ rừng, trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi
trọc; nâng tỷ lệ che phủ của rừng từ 33% hiện nay lên 38% vào năm 2005 và 43% vào năm
2010.
Cải thiện đáng kể tình trạng thu nhập của người nghèo, nhất là các hộ nghèo do phụ
nữ làm chủ; nâng cao chất lượng và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và dịch vụ
sản xuất cũng như các nguồn lực khác của người nghèo, đặc biệt là phụ nữ nghèo.
Tăng cường bảo vệ trẻ em và vị thành niên, giải quyết triệt để tình trạng trẻ em lao
động sớm, trẻ em lang thang, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác, nhất là trẻ em của những
gia đình nghèo do phụ nữ làm chủ hộ. Bảo vệ những người có hoàn cảnh đặc biệt (người
tàn tật, người bị nhiễm chất độc màu da cam, người già cô đơn, đối tượng chính sách và
các đối tượng khác). Chăm lo và điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, nghiện ma
tuý
Xây dựng chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Đến 2010 giảm 1/2 số
người bị tái nghèo do thiên tai và các rủi ro khác.
* Đẩy mạnh cải cách hành chính, cung cấp kiến thức về pháp lý cho người nghèo
Tăng cường hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước, thực hiện chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
Tiếp tục hoàn thiện các thể chế chính sách có ảnh hưởng đến người nghèo, định
hướng mục tiêu và phân bổ nguồn lực tốt hơn cho các chương trình có lợi cho người
nghèo.
Cải thiện khả năng tiếp cận của người nghèo đến với một Chính phủ minh bạch, có
tinh thần trách nhiệm, có sự tham gia của người dân, tạo điều kiện cho người dân, phụ nữ
nghèo tiếp cận rộng rãi hơn đến hệ thống tư pháp và bảo đảm cung cấp thông tin pháp lý
cho tất cả mọi công dân trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ nghèo.



Mở rộng hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, củng cố và tiếp tục đa dạng
hóa các mô hình trợ giúp. Nâng cao tính linh hoạt và hiệu quả của các hình thức trợ giúp
và tạo điều kiện cho người nghèo dễ dàng tiếp cận với dịch vụ pháp lý miễn phí.
1.2.3. Chủ thể và nội dung xoá đói, giảm nghèo
1.2.3.1. Chủ thể tham gia xoá đói, giảm nghèo
* Các cơ quan nhà nước về công tác xoá đói, giảm nghèo ở nước ta.
Việc xoá đói, giảm nghèo ở nước ta đã trở thành chủ trương được Đảng, Chính
phủ, các đoàn thể quần chúng rất quan tâm. Trong những năm vừa qua, chương trình
xoá đói, giảm nghèo đã thu hút được nhiều nguồn lực và tác động có hiệu quả đến công
tác xoá đói, giảm nghèo. Để thấy rõ hơn vai trò của Nhà nước, luận văn tập trung xem
xét hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc hoạch định và thực hiện chương
trình xoá đói, giảm nghèo.
- Để tạo cơ chế cho Chính phủ và chính quyền các cấp chỉ đạo thực hiện chương
trình XĐGN, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 531TTg ngày 8/8/1996, Quyết
định số 80TTg ngày 9/4/1999 thành lập Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia
xoá đói giảm nghèo. Ban này ở cấp trung ương do Phó Thủ tướng làm chủ nhiệm, Phó chủ
nhiệm thường trực là Bộ trưởng Bộ LĐ,TB và XH, một Phó chủ nhiệm chương trình khác
là Bộ trưởng Bộ NN và PTNT. Các thành viên khác gồm:
Phó chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc và Miền núi.
Thứ trưởng Bộ LĐ,TB và XH.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thứ trưởng Bộ Tài chính.
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ trưởng Bộ Y tế.
Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Phó chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Ngoài ra có sự tham gia của đại diện Đoàn Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. 52

Hoạt động của Ban chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói, giảm nghèo
theo qui chế ban hành kèm theo Quyết định số 224/TTg ngày 19/12/1999 của Thủ tướng

×