Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.2 MB, 103 trang )





LUẬN VĂN:

Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã
hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa







mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính sách BHXH được Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ban
hành, thực hiện ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công và thường xuyên bổ
sung, điều chỉnh cho phù hợp yêu cầu thực tiễn đất nước; đảm bảo cuộc sống cho cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động, tạo thành sức mạnh toàn dân, góp phần làm nên
thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên
mới: hoà bình, thống nhất, độc lập và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện chính sách BHXH phù hợp với công cuộc đổi mới của đất nước, hoà
nhập với xu thế phát triển của thời đại, thực hiện Hiến pháp năm 1992 và Bộ Luật lao
động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ BHXH
đối với cán bộ, công nhân, viên chức, người lao động và Nghị định số 45/CP ngày
15/7/1995 kèm theo Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Theo đó, ngày 16/02/1995, Chính
phủ ban hành Nghị định số 19/ CP thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất các


tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc hệ thống LĐTB&XH và LĐLĐ Việt
Nam. Thực hiện chủ trương cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình mới,
từ ngày 01/01/2003, BHXH Việt Nam có thêm nhiệm vụ quản lý quỹ và tổ chức thực
hiện chính sách BHYT theo Nghị định số 100/2002/NĐ-CP, ngày 06/12/2002 của Chính
phủ. Đặc biệt, ngày 26/9/2006, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật BHXH,
có hiệu lực từ ngày 01/ 01/2007, đây là cơ sở pháp lý vững chắc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH, nội dung của Luật thể hiện quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực BHXH.
Cùng với sự hình thành của hệ thống BHXH, BHXH tỉnh Thanh Hóa được thành
lập theo Quyết định số 137/QĐ-TCCB ngày 15/6/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam. Qua gần 13 năm tổ chức hoạt động, với những kết quả đạt được, BHXH Thanh
Hóa đã góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo quốc
phòng, an ninh trên địa bàn. Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách BHXH ở tỉnh Thanh
Hóa trong thời gian qua còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót, đặc biệt trong công tác quản lý
thu BHXH, đã và đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm giải quyết, đó là:

- Việc phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, nhất là khu vực dân doanh.
Đây là khu vực có nhiều lao động, nhưng tỷ lệ tham gia BHXH còn quá thấp, chưa tương
xứng với tiềm năng của tỉnh.
- Vấn đề quản lý lao động trong độ tuổi có việc làm trong các thành phần kinh tế.
Đây là cơ sở để phát triển đối tượng tham gia BHXH, nhưng cũng là khâu còn yếu, hoặc
có thể đánh giá là chưa quản lý được.
- Công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật BHXH đối với
chủ doanh nghiệp cố tình không đóng, đóng không đúng, không kịp thời, đóng không đầy
đủ BHXH cho người lao động; vấn đề giải quyết nợ tồn đọng BHXH đang là một trong
những bức xúc hiện nay.
- Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính, đổi mới phong cách phục vụ của đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác thu BHXH và ứng dụng công nghệ thông tin vào quản
lý thu BHXH bắt buộc.
Những vấn đề trên, nếu không được quan tâm khắc phục sẽ tác động xấu đến toàn

bộ hoạt động BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đây là sự tác động khách quan do quá
trình hội nhập mang lại và do chính vị trí và vai trò của quản lý thu BHXH. Như chúng ta
đều thấy rõ, sự hội nhập WTO của nước ta cũng đồng nghĩa với việc nước ta tham gia
vào quá trình phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên sự phân công lao động lần này
không phải là sự phân công lao động thuần tuý theo nghĩa của sự hợp tác kinh tế quốc tế
giữa các quốc gia nhằm đảm bảo một cách cân đối và có kế hoạch mà là sự phân công
thực hiện trên cơ sở của sự cạnh tranh gay gắt; nó kéo theo sự di chuyển nguồn lao động
từ trong nước ra nước ngoài cũng như dòng lao động từ nước ngoài vào nước ta. Tương
ứng như vậy, việc đóng BHXH cũng như quyền lợi về BHXH của người lao động Việt
Nam tại nước ngoài cũng như người lao động nước ngoài tại Việt Nam cần phải được
đảm bảo theo hướng phù hợp với chính sách BHXH của nước sở tại. Những thách thức đối
với hoạt động BHXH rất lớn, đó là sự biến động của đối tượng lao động tham gia BHXH
trong khu vực doanh nghiệp khi phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt
hơn. Tất cả điều đó đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần có những giải pháp mang tính khả
thi cao, vì vậy thực hiện tốt việc quản lý thu BHXH có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Là người trực tiếp làm công tác quản lý thu BHXH ở địa phương, tác giả chọn vấn đề:
" Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xó hội trờn địa bàn tỉnh Thanh Hóa " làm đề tài luận

văn thạc sĩ để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ năm 1995, sau 13 năm thành lập và đi vào hoạt động của hệ thống BHXH Việt
Nam, đã có trên một trăm công trình nghiên cứu của cán bộ lãnh đạo, quản lý, các chuyên
gia trong ngành và ngoài ngành, từ đề tài cấp bộ, luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ đi sâu cứu
những vấn đề chung, cũng như từng lĩnh vực cụ thể về BHXH, nhưng về quản lý thu BHXH
còn rất hạn chế, mới có một số đề tài trong lĩnh vực này được nghiên cứu một cách có hệ
thống, đó là:
- "Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nâng cao hiệu
quả công tác thu", đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, do Tiến sĩ Nguyễn Văn Châu,
nguyên Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam chủ nhiệm đề tài, bảo vệ năm 1996.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quản lý thu BHXH của một số nước trên thế

giới và tổng kết hoạt động thực tiễn của quản lý thu BHXH ở Việt Nam trước năm 1995
và đến năm 1996; tác giả làm rõ thực trạng hoạt động BHXH đặc biệt là công tác thu
BHXH trong thời gian qua, nhằm phân tích khả năng thu BHXH để bù đắp các chế độ
BHXH, thay thế dần các nguồn chi lấy từ Ngân sách nhà nước, đồng thời đề xuất một số
kiến nghị cụ thể nhằm cải tiến công tác thu BHXH ở Việt Nam.
- " Cơ sở khoa học hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội“, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, do Tiến sĩ Dương Xuân Triệu, Giám đốc Trung tâm thông
tin khoa học BHXH Việt Nam, bảo vệ năm 1999.
Trên cơ sở nghiên cứu 5 mô hình quản lý thu BHXH của các nước trong khu vực
và thế giới, tác giả đã làm rõ một số khái niệm xung quang vấn đề thu BHXH, thực trạng
quản lý thu BHXH, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình quản lý
thu BHXH phù hợp với từng loại đối tượng ở Việt Nam.
- " Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh
ở Việt Nam", đề tài luận văn Thạc sĩ của tác giả Trần Quốc Tuý, Ban Tuyên truyền-
BHXH Việt Nam, bảo vệ năm 2000. Đề tài nghiên cứu quá trình tổ chức thực hiện thu
BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ năm 1995 đến năm 2000; làm rõ thêm
cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu BHXH khu vực này; thực trạng và giải pháp
hoàn thiện quản lý thu BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam.
Đề tài "Hoàn thiện quản lý thu bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa" được

tác giả lựa chọn để nghiên cứu, hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có
hệ thống trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH, luận
văn phân tích thực trạng công tác quản lý thu BHXH từ 2003 đến 2007 trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa; từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu BHXH,
đảm bảo phát triển sự nghiệp BHXH một cách bền vững.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:

- Làm rõ cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về quản lý thu BHXH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý thu BHXH, chỉ ra những kết quả đạt đ-
ược, những hạn chế, thiếu sót và những vấn đề đang đặt ra hiện nay trong quản lý thu
BHXH ở Thanh Hóa.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý thu BHXH trên địa bàn
tỉnh Thanh Hóa.
- Kiến nghị với Chính phủ, UBND tỉnh và BHXH Việt Nam bổ sung, sửa đổi chính
sách liên quan đến công tác thu BHXH.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
BHXH mang nội hàm rất rộng, với chức năng cơ bản là thực hiện các chế độ
BHXH cho người lao động (hình thức BHXH bắt buộc với 5 chế độ áp dụng cho đối t-
ượng tham gia BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện với 2 chế độ áp dụng cho đối tượng
tham gia BHXH tự nguyện) ở cơ quan HC,SN, các tổ chức Đảng, đoàn thể, các doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, hợp tác xã, các đơn vị ngoài công lập, bán công,
tư thục. Thực hiện chế độ BHYT cả hai loại hình bắt buộc và tự nguyện; quản lý các
nguồn quỹ. Để thực hiện các chức năng trên, ngành BHXH có 15 nhiệm vụ, có thể nhóm
lại gồm: Thu BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT; chi lương hưu và trợ cấp
BHXH; thẩm định, giải quyết các chế độ BHXH, BHYT; ứng dụng công nghệ thông tin
vào quản lý; lưu trữ hồ sơ các đối tượng tham gia và thụ hưởng chế độ BHXH, BHYT;
kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hiện đầu tư xây dựng cơ bản, trang
thiết bị công nghệ thông tin; công tác tổ chức, bộ máy và cán bộ

Trong giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào một nội dung trong nhiệm vụ
thu BHXH:
- Về đối tượng: nghiên cứu đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
- Về phạm vi nghiên cứu: chỉ nghiên cứu về công tác quản lý thu BHXH bắt buộc
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa từ năm 2003 đến 2007, không đề cập đến thu BHXH tự
nguyện, thu BHYT và đối tượng thuộc lực lượng vũ trang.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng được đề ra trong các kỳ Đại hội, đặc biệt là Đại
hội IX, Đại hội X về lĩnh vực kinh tế - xã hội; các số liệu tổng hợp, báo cáo, điều tra về
quản lý thu BHXH trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Tác giả sử dụng phương pháp hệ thống và khái quát hoá, có minh hoạ, đối chiếu, so
sánh, kế thừa một số công trình đã công bố có liên quan đến vấn đề nghiên cứu để đánh
giá và làm sáng tỏ các vấn đề cần quan tâm.
6. Những đóng góp của luận văn
Đề tài của luận văn nghiên cứu về một trong những nhiệm vụ thường xuyên của
ngành, đã và đang có những vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, tháo gỡ để góp phần phát
triển bền vững sự nghiệp BHXH, đáp ứng được yêu cầu hiện tại cũng như thực hiện mục tiêu
"BHXH cho mọi người lao động". Những giải pháp được đề xuất và những kiến nghị với các
cấp có thẩm quyền có thể tham khảo, vận dụng vào thực tế công tác quản lý thu BHXH ở
tỉnh Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Luận văn gồm 3 ch-
ương, 8 tiết.


Chương 1
Một số vấn đề chung
về bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội

1.1. một số vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Cuộc sống con người luôn phấn đấu cho an sinh hạnh phúc, nhưng quy luật của tạo
hoá là sinh ra, lớn lên và già yếu, đi theo đó là những rủi ro, ốm đau, hoạn nạn có thể đến
bất cứ lúc nào. Với trí óc thiên phú, con người luôn có những phát kiến khoa học cả về tự
nhiên và xã hội để chế ngự thiên nhiên, khắc phục những diễn biến bất thường của quy
luật, làm cho xã hội không ngừng phát triển. BHXH như là một phát kiến văn minh của
nhân loại về khoa học xã hội kết hợp với khoa học tự nhiên để giữ gìn, bảo vệ cuộc sống,

sức khoẻ cho con người.
Thực tế cuộc sống có nhiều rủi ro xảy ra mà không thể phòng trước được, để khắc
phục hậu quả của nó thì mỗi cá nhân có thể dự phòng ở những mức độ khác nhau tuỳ
thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh của từng người. Nhưng, dù cá nhân có chủ động và dự
phòng những rủi ro khi xảy ra thì cũng không thể nào đáp ứng được mọi rủi ro xảy ra
trong cuộc sống của mỗi người. Vì vậy, cần phải có biện pháp khắc phục tổng thể và lâu
dài mang tính cộng đồng xã hội, do đó ngoài dự phòng cá nhân, còn cần có dự phòng của
cộng đồng.
Trong tất cả các biện pháp phòng chống và khắc phục rủi ro, bảo hiểm là biện pháp
mang lại hiệu quả cao nhất. Bảo hiểm là chế độ bồi thường kinh tế, chia nhỏ rủi ro, tổn
thất của một người hay một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng xảy ra rủi ro,
tổn thất nào đó, theo những nguyên tắc, chuẩn mực được thống nhất và quy định trong
khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia. Bảo hiểm không những đảm bảo cho người tham
gia về kinh tế mà còn góp phần ổn định xã hội.
Trên thế giới, BHXH ra đời cách đây hàng trăm năm và trở thành giải pháp hữu hiệu
giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống và trong quá trình lao động.
BHXH trở thành nền tảng cơ bản của hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, được thực
hiện ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Để đảm bảo quyền lợi cơ bản
cho người lao động trên toàn thế giới và an toàn xã hội, ILO ban hành Công ước số 102 ngày

04/6/1952 về quy phạm tối thiểu an toàn xã hội, có quy định 09 chế độ trợ cấp gồm: chế độ
chăm sóc y tế; chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN; chế độ trợ cấp ốm đau; chế độ trợ cấp thai sản;
chế độ trợ cấp thất nghiệp; chế độ trợ cấp tàn tật; chế độ trợ cấp tuổi già; chế độ trợ cấp tiền
tuất và chế độ trợ cấp gia đình [25, tr.123-142].
ở nước ta, BHXH được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm ngay từ khi bôn ba tìm đường
cứu nước đến trước lúc đi xa, Người đã nhiều lần đề cập đến cụm từ "Bảo hiểm xã hội" và
khẳng định bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ bản đối với người lao động. Trong bài báo
cáo về những Nghị quyết của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương về phong trào nông
dân viết cuối năm 1930, Người chỉ rõ trong đấu tranh của nông dân, đặc biệt "đòi bảo hiểm
xã hội, ngày nghỉ được trả công" [22, tr.2]. Năm 1941, khi về nước, trong 10 chính sách của

Việt Nam, thì chính sách BHXH được Người đề cập khá toàn diện, với việc ký hàng loạt
Sắc lệnh: số 54 (03/11/1945) quy định điều kiện về hưu cho công chức các ngạch; số 58
(10/11/1945) về việc nghỉ gia hạn không lương cho công chức tất cả các ngạch; số 74
(17/12/1945) quy định chế độ hưu cho các nhân viên, công chức mắc bệnh lao, bệnh phong
phải nghỉ việc dài ngày. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về BHXH đã được thể hiện trong
Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Điều 32 Hiến pháp 1959 quy định: "người lao động được
giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các
tổ chức bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để đảm bảo cho mọi người được hưởng quyền đó".
Từ năm 1995, cơ chế quản lý BHXH được đổi mới toàn diện bằng việc Chính phủ
ban hành Điều lệ BHXH, đặc biệt Luật BHXH được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2007. Khi chưa có Luật BHXH, khái niệm về BHXH được tiếp cận dưới
những góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ chính sách: BHXH là một chính sách xã hội, nhằm giải quyết các
chế độ xã hội liên quan đến một tầng lớp đông đảo người lao động và bảo vệ sự phát triển
kinh tế - xã hội, sự ổn định chính trị quốc gia.
- Dưới góc độ quản lý: BHXH là công cụ quản lý của Nhà nước để điều chỉnh mối
quan hệ kinh tế giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước; thực hiện quá
trình phân phối và phân phối lại thu nhập giữa các thành viên trong xã hội.
- Dưới góc độ tài chính: BHXH là một quỹ tài chính tập trung, được hình thành từ
sự đóng góp của các bên tham gia và có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Dưới góc độ thu nhập: BHXH là sự bảo đảm thay thế một phần thu nhập khi người

lao động có tham gia BHXH bị mất hoặc giảm thu nhập.
- Theo Bộ luật Lao động:
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do
bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội
thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên
tham gia bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội [26, tr.7].

Khái niệm về BHXH được khái quát một cách cao nhất, đầy đủ nhất khi có Luật
BHXH, đó là: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của nguời lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào
quỹ bảo biểm xã hội" [49, tr.5]. Bảo hiểm xã hội bắt buộc là loại hình bảo hiểm xã hội
mà người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia.
1.1.2. Bản chất của chính sách bảo hiểm xã hội
Một là, BHXH mang tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc.
Tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn trong các chế độ BHXH quy định bản chất
của BHXH, đó là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một
loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
ngừng hoặc bị giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp,
thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc và trợ cấp cho các gia đình
đông con. Đối với các rủi ro như trên, nhiều khi từng cá nhân không đủ khả năng tài
chính để khắc phục, do vậy Nhà nước ban hành các quy định để huy động mọi người
trong xã hội đóng góp một khoản nhất định cùng với Nhà nước hình thành quỹ BHXH để
chi trả cho một số người gặp rủi ro cần khắc phục hay do điều kiện sinh học như tuổi tác,
môi trường sống, điều kiện làm việc mà người lao động phải nghỉ làm việc, khi đó cần có
một khoản kinh phí để đảm bảo cuộc sống cho chính bản thân và gia đình họ.
BHXH là chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Đây là một loại hoạt động dịch
vụ công, mang tính xã hội, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. Quỹ để thực hiện
chế độ BHXH là do người lao động, người sử dụng lao động đóng góp và Nhà nước hỗ
trợ, đấy chính là tính chất xã hội trong kết cấu nguồn lập quỹ (riêng đối với nước ta Ngân

sách nhà nước hỗ trợ ít nhất là 50 % cho quỹ BHXH đối với đối tượng mới tham gia
BHXH bắt buộc, nên bản chất của chế độ BHXH nước ta là do Ngân sách nhà nước bao
cấp). Tính xã hội còn được thể hiện thông qua các chế độ BHXH được hưởng. Thời điểm
bắt đầu tham gia đóng BHXH đồng thời là thời điểm được hưởng chế độ BHXH, đó là
chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, trợ cấp TNLĐ-BNN. Tính chất xã hội trong chế độ hưu
trí được thể hiện trong tiền lương hưu thời gian đóng góp của người tham gia đóng và

mức đóng với mức hưởng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung hoặc tỷ lệ từ 45%
đến 75% tiền lương bình quân đóng BHXH và được hưởng chế độ BHYT. Trường hợp
không đủ điều kiện nghỉ hưu được trợ cấp mỗi năm đóng BHXH bằng 1,5 tháng lương
bình quân, đấy chính là phần xã hội mà người sử dụng lao động đã đóng góp vào và
Ngân sách nhà nước hỗ trợ mà có. Tính chất xã hội còn thể hiện ở chế độ tử tuất, ngoài
trợ cấp mai táng phí, người đóng BHXH chết có thân nhân phải nuôi dưỡng được hưởng
trợ cấp tuất theo quy định. BHXH là sự san sẻ rủi ro, chia nhỏ rủi ro cho nhiều cá nhân
trong cộng đồng cùng gánh chịu, hay nói cách khác "lấy số đông bù số ít", tức là dùng số
tiền đóng góp của số đông người tham gia BHXH để bù đắp, chia sẻ cho một số ít người
khi gặp phải những biến cố rủi ro gây tổn thất.
Như vậy, mục tiêu của BHXH là tạo ra màng lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều
lớp bảo vệ cho tất cả các thành viên của cộng đồng trong những trường hợp bị giảm hoặc
bị mất thu nhập hoặc phải tăng chi phí đột xuất trong chi tiêu của gia đình do những biến
cố và những "rủi ro xã hội", vì vậy để tạo ra lưới an toàn gồm nhiều tầng, nhiều lớp,
BHXH phải dựa trên nguyên tắc san sẻ trách nhiệm và thực hiện công bằng xã hội, được
thực hiện bằng nhiều hình thức, phương thức và các biện pháp khác nhau. Có thể thấy rõ
bản chất của BHXH là nhằm che chắn, bảo vệ cho các thành viên của xã hội trước mọi
biến cố xã hội bất lợi. BHXH thể hiện chủ nghĩa nhân văn cao đẹp: mọi người trong xã
hội với tư cách là một công dân, họ phải được đảm bảo mọi mặt để phát huy đầy đủ
những khả năng của mình, không phân biệt địa vị xã hội, chủng tộc, tôn giáo đều bình
đẳng về BHXH.
Hai là, BHXH là một công cụ để quản lý xã hội, là sự bảo đảm của Nhà nước để ổn
định đời sống cho người tham gia BHXH và an toàn xã hội, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Đồng thời đây là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội.
BHXH được coi là một chính sách xã hội quan trọng, song hành cùng với chính

sách kinh tế, nhằm bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người lao động,
chống các tệ nạn xã hội, góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy sản xuất phát triển. Với tư
cách là công cụ để quản lý xã hội, Nhà nước quy định quyền và trách nhiệm giữa các bên
tham gia BHXH, đặc biệt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động;

yêu cầu người sử dụng lao động phải thực hiện những cam kết, đảm bảo điều kiện làm
việc, nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, trong đó có nhu cầu cơ
bản về tiền lương, tiền công, chăm sóc sức khoẻ khi bị ốm đau, tai nạn Đây là những
ràng buộc mang tính nguyên tắc và thông qua đó Nhà nước thực hiện quản lý nhà nước
về BHXH. BHXH dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia, gồm người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp, thực chất quỹ BHXH là
quỹ của người lao động tiết kiệm được, bất luận trong hoàn cảnh nào Nhà nước phải
đứng sau hỗ trợ, duy trì, bảo toàn để thực hiện các chế độ trợ cấp cho người lao động, nếu
không thì xã hội sẽ mất ổn định, kinh tế sẽ trì trệ. Ngược lại, nếu quỹ BHXH được hình
thành và phát triển lớn mạnh sẽ có khoản nhàn rỗi để đầu tư trở lại giúp cho sản xuất phát
triển.
BHXH là quá trình phân phối lại thu nhập xã hội. Đây là quá trình phân phối lại
theo hướng có lợi cho người tham gia BHXH khi gặp phải rủi ro trong lao động sản xuất
và đời sống xã hội, vì chính việc tổ chức thu, chi BHXH là quá trình thực hiện phân phối
lại thu nhập: Thu BHXH dựa trên cơ sở mức tiền lương, tiền công do Nhà nước quy định
và mỗi người tham gia có một mức đóng BHXH khác nhau tương ứng với mức tiền
lương, tiền công đó; hằng năm Nhà nước còn trích một khoản nhất định từ Ngân sách để
hỗ trợ quỹ BHXH. Chi BHXH là việc trả tiền cho người có nhu cầu phát sinh về BHXH
dựa trên mức đóng và thời gian đóng BHXH trong chế độ dài hạn, nhưng trong chế độ
ngắn hạn thì không dựa trên nguyên tắc này mà có sự chia sẻ giữa người khoẻ cho người
ốm, người trẻ cho người già.
1.1.3. Vai trò của chính sách bảo hiểm xã hội
Hoạt động BHXH là hoạt động sự nghiệp của toàn xã hội, phục vụ mọi thành viên
trong xã hội, lợi nhuận không phải là mục tiêu của hoạt động BHXH. Do đó, chính sách
BHXH có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế-xã hội của một quốc gia và được thể
hiện ở các mặt sau đây:
Thứ nhất, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động và gia đình khi đã

hết tuổi lao động hoặc không đủ sức tiếp tục lao động, hoặc quá trình làm việc không
may gặp phải rủi ro.

Mục đích lớn nhất của BHXH là đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình
họ, người tham gia BHXH sẽ được thay thế một phần thu nhập bị mất hoặc giảm thu
nhập, nó làm cho người lao động yên tâm cống hiến và không phải lo lắng khi rủi ro có
thể xảy ra. Đồng thời, BHXH góp phần hạn chế và điều hòa các mâu thuẫn có thể xảy ra
giữa người sử dụng lao động và người lao động, tạo môi trường làm việc bình đẳng, ổn
định, đảm bảo cho hoạt động sản xuất, công tác đạt hiệu quả cao, từ đó góp phần tăng
trưởng và phát triển kinh tế đất nước. Đây là vai trò cơ bản nhất của chính sách BHXH,
nó quyết định nhiệm vụ, tính chất, phương thức hoạt động của BHXH.
Thứ hai, BHXH làm gắn bó lợi ích giữa người lao động, người sử dụng lao động
đối với Nhà nước.
BHXH không những đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ
mà còn góp phần bảo vệ lợi ích của người sử dụng lao động khi rủi ro xảy ra đối với
người lao động của mình, nó tạo điều kiện cho người sử dụng lao động có thể nhanh
chóng ổn định sản xuất. Đồng thời, thể hiện sự quan tâm của người sử dụng lao động đối
với người lao động thông qua việc đóng góp vào quỹ BHXH, do đó người lao động có
trách nhiệm hơn trong công việc, tích cực, sáng tạo trong quá trình lao động. Đối với Nhà
nước, thông qua việc tổ chức hoạt động BHXH nhằm đảm bảo cho mọi người lao động,
mọi tổ chức, đơn vị hoạt động sản xuất, kinh doanh bình đẳng, công bằng trong lao động
sản xuất, xã hội phát triển an toàn.
Thứ ba, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội
BHXH dựa trên nguyên tắc người lao động bình đẳng trong nghĩa vụ đóng góp và
thụ hưởng. Thông qua hoạt động của mình, BHXH tham gia vào việc phân phối và phân
phối lại thu nhập xã hội giữa những người lao động thế hệ trước với thế hệ sau, giữa
những ngành nghề sản xuất, giữa những người thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những
người may mắn và không may mắn. Mặt khác mức hưởng BHXH phụ thuộc vào mức
đóng, thời gian đóng dài hay ngắn theo nguyên tắc " có đóng có hưởng" và "đóng ít h-
ưởng ít, đóng nhiều hưởng nhiều "; đối tượng tham gia không chỉ trong khu vực nhà nước
mà ở mọi thành phần kinh tế. Vì vậy, BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội, giảm
bớt khoảng cách giàu nghèo trong xã hội.


Thứ tư, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế của
đất nước, góp phần đảm bảo ổn định chính trị, xã hội
Do BHXH tập trung được nguồn tài chính nhàn rỗi tương đối lớn, thực chất đây là
tiền của người lao động tồn tích lại, nguồn tài chính này tương đối nhàn rỗi, được đầu tư
vào các dự án kinh tế-xã hội để bảo toàn, phát triển quỹ BHXH và tăng thêm nguồn lực
cho sự phát triển nền kinh tế đất nước. Đảng và Nhà nước đã khẳng định phát triển kinh
tế-xã hội dựa trên nội lực là chính thì nguồn đầu tư từ quỹ BHXH nhàn rỗi là một kênh
quan trọng.
1.2. Quản lý thu bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội
Xuất phát từ khái niệm của quản lý: "Quản lý là sự tác động có tổ chức có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra "[43, tr.11].
Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có xác định mục tiêu, thể hiện mối
quan hệ giữa chủ thể quản lý (quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (chịu sự quản lý),
đây là quan hệ giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, không đồng cấp và có tính bắt buộc. Nó diễn ra
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người với nhiều cấp độ, nhiều mối liên hệ với nhau.
Đối với hoạt động BHXH thì quản lý được bao gồm cả quản lý các đối tượng tham gia và
thụ hưởng, quản lý thu, quản lý chi trả và quản lý nguồn quỹ từ đầu tư tăng trưởng.
Khi nói đến quản lý thu BHXH là nói đến một loạt quan hệ, bao gồm quan hệ giữa
Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH. Trong mối quan
hệ trên đây, thì người lao động, người sử dụng lao động là đối tượng quản lý; Nhà nước
giao cho cơ quan BHXH chủ thể quản lý; Nhà nước là chủ thể duy nhất điều tiết và quản
lý BHXH, vì các bên tham gia có lợi ích khác nhau thậm chí trái ngược nhau (người lao
động muốn đóng ít nhưng lại muốn được hưởng thụ quyền lợi nhiều, người sử dụng lao
động muốn đóng BHXH càng ít càng tốt để giảm chi phí sản xuất nâng cao lợi nhuận).
Nhà nước với hai tư cách: một là, thông qua cơ quan lập pháp (Quốc hội) đề ra Luật
BHXH, thông qua Chính phủ đề ra các quy định về BHXH; hai là, thông qua các cơ quan
nhà nước để thực hiện nộp BHXH cho người lao động hưởng lương từ Ngân sách nhà
nước và thành lập cơ quan chuyên trách (BHXH Việt Nam) thực hiện chính sách BHXH.
Để quản lý thu BHXH đảm bảo theo đúng các quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH

phải xây dựng biện pháp, kế hoạch, tổ chức các thao tác nghiệp vụ, phối hợp với các cơ

quan hữu trách và hình thành hệ thống chuyên thu từ Trung ương đến cấp huyện, thực
hiện theo một quy trình chặt chẽ, khép kín. Như vậy, trong quản lý thu BHXH, mối quan
hệ ba bên là người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH được xác lập
quyền và trách nhiệm của mỗi bên do pháp luật về BHXH quy định, các quy định này là
những căn cứ pháp lý mà mỗi bên phải tuân thủ, thực hiện nghiêm túc. Mặt khác để thu
đúng, đủ, kịp thời, không để thất thoát tiền thu, đòi hỏi cơ quan BHXH phải có phương
pháp và biện pháp hữu hiệu, kể các các biện pháp hỗ trợ "thu BHXH là một khái niệm
phức hợp, bao gồm các định hướng, chủ trương, phương pháp và biện pháp hữu hiệu
nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo, khuyến khích đẩy mạnh công tác thu bảo hiểm
xã hội" [58, tr.5] và "Quản lý thu BHXH là một quá trình chủ thể quản lý tác động đến
đối tượng quản lý, trong hoạt động dự báo, xây dựng chỉ tiêu kế hoạch, tổ chức thực hiện,
điều chỉnh và kiểm tra để đạt được mục tiêu quản lý bằng các nguyên tắc và phương pháp
nhất định" [59, tr.19].
Từ phân tích trên, về quản lý thu BHXH, theo tác giả được hiểu như sau: Quản lý thu
BHXH là sự tác động của Nhà nước thông qua các quy định mang tính pháp lý bắt buộc
các bên tham gia BHXH phải tuân thủ thực hiện; trong đó cơ quan BHXH sử dụng các
biện pháp nghiệp vụ và các phương pháp đặc thù tác động trực tiếp vào đối tượng đóng
BHXH để đạt mục tiêu đề ra.
1.2.2. Nguyên tắc quản lý thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất: Thu đúng, đủ, kịp thời
- Thu đúng, là đúng đối tượng, đúng mức, đúng tiền lương, tiền công và đúng thời
gian quy định: mọi người lao động khi có HĐLĐ hoặc giao kết lao động theo quy định,
được trả công bằng tiền đều là đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Việc xác định đúng đối
tượng, đúng tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là cơ sở
quan trọng để đảm bảo thu đúng; việc thu đúng còn phụ thuộc vào tính chất hoạt động
của đơn vị sử dụng lao động để xác định đúng đối tượng, mức thu, phương thức thu.
- Thu đủ, là thu đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và số tiền phải
đóng BHXH của người lao động, người sử dụng lao động.

- Thu kịp thời, là thu kịp về thời gian khi có phát sinh quan hệ lao động, tiền công,
tiền lương mà những quan hệ đó thuộc đối tượng, phạm vi tham gia BHXH. Chế độ
BHXH thường xuyên thay đổi để phù hợp với phát triển kinh tế- xã hội từng thời kỳ, ở

mỗi thời điểm thay đổi đó cần phải tổ chức thực hiện thu BHXH của người sử dụng lao
động và người lao động đảm bảo kịp thời, không để tồn đọng tiền thu, không bỏ sót lao
động tham gia BHXH.
Thứ hai: Tập trung, thống nhất, công bằng, công khai
Cơ chế thu BHXH được quy định thống nhất, nguồn thu BHXH tập trung quản lý,
điều tiết ở Trung ương là BHXH Việt Nam. Việc tham gia BHXH của người lao động,
người sử dụng lao động đảm bảo công khai, thực hiện công bằng ở các thành phần kinh
tế. Các đơn vị tham gia BHXH đều phải công khai minh bạch số lao động phải đóng
BHXH và số tiền đóng theo đúng quy định, có sự kiểm tra, thanh tra, kiểm soát của Nhà
nước và giám sát của các cơ quan chức năng và các tổ chức chính trị-xã hội. Tính công
bằng được thể hiện trong việc thu nộp BHXH, không phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế, tức là đều có tỷ lệ phần trăm thu BHXH như nhau.
Thứ ba: An toàn, hiệu quả
Thực hiện quản lý chặt chẽ tiền thu BHXH theo chế độ quản lý tài chính của Nhà
nước và sử dụng nguồn thu đúng mục đích. Nguồn thu BHXH do được tồn tích cộng
đồng, nên thường có khối lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn chưa sử dụng cần được đầu
tư tăng trưởng, vừa nâng cao hiệu quả sử dụng, vừa an toàn tiền thu BHXH về mặt giá trị
do các yếu tố trượt giá. Vì vậy, thông qua cơ chế quản lý nghiêm ngặt về thu BHXH để
tránh lạm dụng, thất thoát; đồng thời nghiên cứu các lĩnh vực đầu tư để đảm bảo thu hồi
được vốn và có lãi, tức là hiệu quả sử dụng nguồn thu.
1.2.3. Vai trò quản lý thu bảo hiểm xã hội
BHXH có nội hàm rất rộng và phức tạp, bao gồm thu, chi, thực hiện các chế độ,
chính sách dài hạn, ngắn hạn; đối tượng và phạm vi áp dụng rộng và liên quan đến đời
sống của người lao động làm công ăn lương; thực hiện tốt các chế độ BHXH là đảm bảo
đời sống kinh tế cho người lao động có tham gia BHXH được coi như là "đầu ra" của
BHXH và thu BHXH được coi là yếu tố "đầu vào" của BHXH, trong đó quản lý thu

BHXH là khâu đầu tiên trong việc xác lập mối quan hệ về BHXH giữa người lao động,
người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Mối quan hệ ấy xác định quyền và trách
nhiệm của các bên; đây là mối quan hệ quan trọng hàng đầu, vì có thực hiện mối quan hệ
này thì mới có cơ sở để tổ chức thu BHXH, hình thành quỹ BHXH, thực hiện chi trả các
chế độ BHXH.

Mặt khác, BHXH thực hiện trên nguyên tắc tương trợ cộng đồng, lấy số đông bù số
ít nên khi tham gia BHXH người lao động sẽ được san sẻ rủi ro khi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động. Người lao động khi nghỉ hưu để duy trì cuộc sống, sẽ đỡ gánh nặng cho gia
đình, góp phần cho từng tế bào của xã hội ổn định, bền vững là cơ sở tạo lập nên một xã
hội ổn định, bền vững. Khi người dân có cuộc sống được đảm bảo, sẽ hạn chế được phân
biệt đối xử, giảm bớt được sự phân cách giàu nghèo.Thông qua hoạt động BHXH, Nhà
nước sẽ là trung gian đứng ra điều chỉnh thu nhập, đảm bảo hài hoà lợi ích và công bằng
xã hội cho người lao động trong mọi thành phần kinh tế. Hay nói cách khác, người lao
động sẽ được công bằng hơn về quyền lợi, khi Nhà nước thực hiện phân phối và phân
phối lại thu nhập thông qua chính sách BHXH, nhất là trong thời điểm hiện nay thu nhập
của người lao động, nhất là khu vực lao động trực tiếp còn thấp hơn các khu vực khác.
1.2.4. Mục đích quản lý thu bảo hiểm xã hội
Thứ nhất, đảm bảo cho yếu tố "đầu vào" (tiền nộp BHXH) đủ khả năng thực hiện
quá trình tái sản xuất xã hội, tức là có thu đúng, thu đủ, thu kịp thời mới đảm bảo chi trả
chế độ cho người lao động, góp phần ổn định đời sống của người lao động trong quá trình
lao động không may bị rủi ro, nghỉ hưu, cũng như khi về già.
Thứ hai, xác lập rõ ràng quyền và trách nhiệm của các bên tham gia BHXH, đó là:
người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH; phân định rõ chức năng quản lý
nhà nước với chức năng hoạt động sự nghiệp của BHXH.
Thứ ba, không bỏ sót nguồn thu, quản lý chặt chẽ, đảm bảo nguồn thu BHXH được
sử dụng đúng mục đích; đồng thời làm cho nguồn thu BHXH liên tục tăng trưởng.
Thứ tư, đảm bảo cho các quy định về thu BHXH được thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả, khắc phục được tính bình quân nhưng vẫn bảo đảm tính xã hội thông qua việc điều
tiết, chia sẻ rủi ro. Trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay, quản lý thu BHXH lại càng

có ý nghĩa sâu sắc trong việc phòng ngừa, ngăn chặn những lạm dụng của người sử dụng
lao động với nguời lao động nhất là việc thuê mướn, sử dụng, trả tiền lương, tiền công
bất bình đẳng.
1.2.5. Nội dung quản lý thu bảo hiểm xã hội
* Quy định các mức thu BHXH các thời kỳ
- Giai đoạn trước năm 1994
Điều lệ tạm thời về BHXH ban hành theo Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961

của Hội đồng Chính phủ, có hiệu lực thi hành từ 01/01/1962. Theo quy định của Điều lệ
này đối tượng tham gia BHXH chỉ mới thực hiện ở phạm vi hẹp: toàn thể CNVC nhà
nước ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường, không phân biệt
dân tộc, nam, nữ, quốc tịch. Việc thực hiện các chế độ BHXH dựa trên nguyên tắc phân
phối theo lao động, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Mức đóng góp BHXH rất thấp,
người lao động không trực tiếp đóng mà được lấy từ Ngân sách nhà nước, nên nguồn thu
hạn chế. Tổng mức đóng BHXH là 4,7 % tổng quỹ tiền lương, do hai ngành quản lý: Bộ
nội vụ (nay là Bộ Lao động Thương binh & Xã hội) quản lý 1 % thông qua hệ thống
Ngân sách nhà nước; Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam) quản lý 3,7 %. Qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mức đóng được điều
chỉnh phù hợp với chính sách tiền lương và việc làm, theo Biểu 1.1 sau:
Biểu 1.1: Các mức đóng góp cơ bản qua từng thời kỳ
Thời kỳ Các chế độ dài hạn Các chế độ ngắn hạn
01/1961-9/1986 1% 3,7%
10/1986-2/1988 1% 5%
3/1988-12/1993 10% 5%
Nguồn: [5, tr.23].
- Từ 01/1994 đến 12/2006
Cùng với việc đổi mới chính sách xã hội, Nhà nước cũng đồng thời thực hiện cải
cách toàn diện chính sách BHXH, đánh dấu bằng việc Chính phủ ban hành Nghị định
số 43/CP ngày 22/6/1994 và Nghị định số 66/CP ngày 30/9/1993, quy định tạm thời
chế độ BHXH, trong đó nêu rõ quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của

người lao động, người sử dụng lao động và có sự hỗ trợ của Ngân sách nhà nước.Thời
kỳ này, đối tượng tham gia BHXH được mở rộng rất nhiều, không những khu vực nhà
nước mà ở các thành phần kinh tế khu vực ngoài nhà nước, các tổ chức kinh tế có sử
dụng từ 10 lao động trở lên. Tổng mức đóng BHXH giai đoạn này là 20%, trong đó
người lao động là 5% tiền lương, người sử dụng lao động là 15% tổng quỹ tiền lương.
Năm 1995, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH kèm theo Nghị định số 12/CP ngày
26/01/1995, sau đó hàng loạt Nghị định của Chính phủ được ban hành sửa đổi, bổ sung
các chính sách, chế độ BHXH. Đối tượng tham gia BHXH được tiếp tục mở rộng đến cán
bộ cấp xã, các thành phần kinh tế, các tổ chức, đơn vị, cá nhân có thuê mướn và trả công

cho người lao động, có sử dụng từ 01 lao động trở lên, tức là quan hệ BHXH được xác
lập trên cơ sở quan hệ lao động và tiền lương. Tổng mức đóng BHXH vẫn là 20%, nhưng
có một số đối tượng đặc thù chỉ đóng 15%, cụ thể theo Biểu 1.2 sau:
Biểu 1.2: Mức đóng góp theo nhóm đối tượng

ban hành


12/CP
26/1/1995


45/CP
15/7/1995


09/CP
23/7/1998



152/CP
19/8/1999


73/CP
20/9/1999


121/CP
21/10/200
3
M. đóng 20% 20% 15% 15% 20% 20%
Tr. đó
NSDLĐ 15% 15% 10% 0% 15% 15%
NLĐ 5% 5% 5% 15% 5% 5%
Nguồn: Tổng hợp các Nghị định của Chính phủ về BHXH
- Từ 01/01/2007 trở đi
Luật BHXH được ban hành, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007, đây là cơ sở
pháp lý quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH, phù hợp với thông lệ quốc tế
khi Việt Nam tham gia WTO. Mức đóng BHXH là 20% được ổn định trong thời gian
ngắn đến hết năm 2009, sau đó tăng dần và ổn định vào năm 2014, nhưng tỷ lệ đóng góp
vào các quỹ thành phần của người lao động, người sử dụng lao động có khác so với các
quy định trước khi chưa có Luật BHXH. Từ ngày 01/01/2007, người lao động chỉ đóng
góp vào quỹ dài hạn (quỹ hưu trí, tử tuất); người sử dụng lao động, ngoài việc đóng góp
vào quỹ dài hạn trên, còn phải đóng góp vào quỹ ngắn hạn, chi tiết theo các Biểu 1.3; 1.4
sau:
Biểu 1.3: Tỷ lệ đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động
và người sử dụng lao động

Đối tượng

01/2007- 01/2010- 01/2012-
Từ 01/2014

12/2009 12/2011 12/2013
Người LĐ 5% 6% 7% 8%
NSDLĐ 15% 16% 17% 18%
Tổng cộng 20% 22% 24% 26%
Nguồn: [34].
Biểu 1.4: Mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động
trong các quỹ thành phần
Thời kỳ
Chỉ tiêu
01/2007-
12/2009
01/2010-
12/2011
01/2012-
12/2013
Từ
01/2014
* Quỹ hưu trí, tử tuất
16% 18% 20% 22%
Trong đó:

Người lao động
5% 6% 7% 8%
Người sử dụng lao động

11% 12% 13% 14%
* Quỹ ngắn hạn

(NSDLĐ)
4% 4% 4% 4%
Trong đó:

- Quỹ ốm đau, thai
sản:
- Quỹ TNLĐ-BNN:
3%
1%
3%
1%
3%
1%
3%
1%
Nguồn: [34].
* Quản lý nguồn hình thành quỹ BHXH
Nguồn thu để hình thành quỹ BHXH, bao gồm:
- Tiền đóng BHXH của người lao động,
- Tiền đóng BHXH của người sử dụng lao động,
- Tiền hỗ trợ của Nhà nước,
- Tiền sinh lời từ đầu tư quỹ BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác.
Nguồn thu vào quỹ BHXH được phân chia theo ba quỹ thành phần:

+ Quỹ ốm đau và thai sản do người sử dụng lao động đóng bằng 3 % quỹ tiền
lương, tiền công đóng BHXH.
+ Quỹ TNLĐ-BNN, do người sử dụng lao động đóng bằng 1 % quỹ tiền lương,
tiền công đóng BHXH.
+ Quỹ hưu trí và tử tuất do người lao động đóng (5%) và người sử dụng lao động
đóng (11%).

Như vậy, người lao động chỉ đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất; các quỹ còn lại do
người sử dụng lao động đóng và hỗ trợ của Nhà nước, nhưng người lao động được thụ
hưởng tất cả các chế độ BHXH không phân biệt các quỹ thành phần khi phát sinh các yêu
cầu về BHXH.
Hình thức quản lý nguồn thu BHXH(quỹ BHXH)
- Quản lý các quỹ thành phần được phân cấp cho BHXH tỉnh quản lý và sử dụng
để trả chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí và tử tuất.
- Trong tổng số mức đóng BHXH cho người lao động (hiện nay là 20% quỹ tiền
lương, tiền công), người sử dụng lao động được giữ lại 2 % trong 3 % đóng vào quỹ ốm
đau và thai sản để trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động và thực hiện
quyết toán hằng quý với cơ quan BHXH. Phần còn lại của mức đóng (18 %) người sử
dụng lao động trực tiếp chuyển vào Kho bạc hoặc Ngân hàng, nơi BHXH mở tài khoản
chuyên thu để đóng BHXH cho người lao động.
- Tiền hỗ trợ của Nhà nước; thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ
BHXH do BHXH Việt Nam thực hiện, không giao cho BHXH các địa phương.
- Người lao động đóng BHXH phải thông qua người sử dụng lao động và phải
đóng cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu BHXH, nếu thu bằng tiền mặt thì sau 3 ngày
kể từ ngày cơ quan BHXH thu tiền đóng BHXH phải nộp vào tài khoản chuyên thu
BHXH theo quy định. Hệ thống Kho bạc, Ngân hàng thực hiện chuyển tiền từ tuyến
huyện đến tuyến tỉnh và từ tuyến tỉnh đến Trung ương theo quy định cứ 10 ngày một lần
hoặc khi có số dư từ năm tỷ đồng trở lên.
* Quản lý mức đóng và phương thức đóng BHXH
- Mức đóng và phương thức đóng BHXH của người lao động
Người lao động theo quy định tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: cán bộ, công
chức, viên chức; người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời

hạn hoặc hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên, nếu dưới 3 tháng nhưng sau đó tiếp tục
làm việc tại đơn vị cũ.
Mức đóng và phương thức đóng BHXH được quy định: hằng tháng, người lao động
đóng bằng 5% mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2

năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%. Riêng người lao động hưởng
tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp,
lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp được đóng BHXH hằng tháng, hằng quý hoặc 6 tháng
một lần.
- Mức đóng và phương thức đóng BHXH của người sử dụng lao động
Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm: cơ quan hành chính,
sự nghiệp, Đảng, đoàn thể, doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của
pháp luật; hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã; hộ kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công
cho người lao động; cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều
ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có
quy định khác.
Mức đóng và phương thức đóng BHXH: hằng tháng người sử dụng lao động
đóng trên quỹ tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của những người lao động với
mức 3% vào quỹ ốm đau và thai sản; 1% vào quỹ TNLĐ-BNN; 11% vào quỹ hưu trí và
tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là
14%.
Hằng tháng, chậm nhất vào ngày cuối tháng, người sử dụng lao động đóng BHXH
trên quỹ tiền lương, tiền công của những người lao động tham gia BHXH; đồng thời trích
từ tiền lương, tiền công tháng của từng người lao động để đóng cùng một lúc vào tài
khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
Người sử dụng lao động là các doanh nghiệp sản xuất (nuôi, cấy, trồng trọt) thuộc
ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện trả tiền lương, tiền
công cho người lao động theo mùa vụ hoặc theo chu kỳ có thể đóng BHXH theo quý
hoặc 6 tháng một lần nhưng phải xuất trình phương án sản xuất và phương thức trả lương
cho người lao động để cơ quan BHXH có căn cứ thu nộp.

Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thuê mướn, trả công cho người lao
động, sử dụng dưới 10 lao động có thể đóng BHXH theo quý nhưng phải đăng ký và

được sự chấp thuận của cơ quan BHXH.
Người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (trừ trường hợp người lao
động làm trong các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu hoặc đầu tư ra nước
ngoài) đóng theo quý, 6 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc có thể đóng trước một lần theo
thời hạn hợp đồng; người sử dụng lao động thu, nộp BHXH cho người lao động và đăng
ký phương thức đóng với cơ quan BHXH hoặc người lao động đóng thông qua người sử
dụng lao động mà người lao động tham gia BHXH trước đó hoặc đóng trực tiếp tại cơ
quan BHXH nơi người lao động cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Trường hợp
người lao động được gia hạn hợp đồng hoặc ký hợp đồng mới ngay tại nước tiếp nhận
hợp đồng thì thực hiện đóng BHXH như trên hoặc truy đóng cho cơ quan BHXH sau khi
về nước.
- Tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH
+ Người lao động hưởng lương theo chế độ tiền lương của Nhà nước thì tiền lương
làm căn cứ đóng BHXH là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp: chức vụ,
thâm niên vượt khung, thâm niên nghề (nếu có).
+ Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động
quy định thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi
trong hợp đồng lao động nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu chung và
không cao hơn 20 lần mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
+ Tiền lương, tiền công để tính đóng BHXH của người quản lý doanh nghiệp là
chủ sở hữu, Giám đốc doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh công ty hợp danh, Chủ
tịch hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, thành viên hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc,
Phó Tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, kế toán trưởng và kiểm soát viên là mức
tiền lương, tiền công do Điều lệ của công ty quy định nhưng phải được đăng ký với cơ
quan quản lý nhà nước về lao động tỉnh, thành phố.
+ Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động trong hợp tác xã là
mức tiền lương, tiền công được đại hội xã viên thông qua và phải đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về lao động theo phân cấp quản lý.
+ Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH của người lao động thuộc các hộ kinh


doanh cá thể, tổ hợp tác và cá nhân là mức tiền lương, tiền công do người sử dụng lao
động quy định nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về lao động theo phân
cấp quản lý.
+ Người lao động có tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động bằng ngoại
tệ thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH được tính bằng đồng Việt Nam trên cơ sở
tiền lương, tiền công bằng ngoại tệ được chuyển đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố tại
thời điểm vào ngày 02 tháng 01 cho 6 tháng đầu năm, vào ngày 01 tháng 7 cho 6 tháng
cuối năm. Trường hợp trùng vào ngày nghỉ mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam chưa công
bố thì được lấy tỷ giá của ngày tiếp theo liền kề.
+ Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động thuộc các công ty nhà nước
chuyển đổi thành công ty cổ phần, công ty TNHH nhà nước một thành viên trở lên nếu áp
dụng thang, bảng lương do Nhà nước quy định thì phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà
nước về lao động tỉnh, thành phố nơi đóng trụ sở tại thời điểm chuyển đổi, thực hiện
chuyển xếp lương, nâng bậc hoặc chuyển ngạch lương phải đúng theo quy định của Nhà
nước đối với công ty nhà nước trên cơ sở thang, bảng lương đang áp dụng và đóng
BHXH trên cơ sở mức lương đó.
* Quản lý trình tự, thủ tục tham gia BHXH
- Người lao động tham gia BHXH lần đầu: căn cứ hồ sơ gốc (quyết định tuyển
dụng, quyết định nâng lương hoặc hợp đồng lao động ) kê khai 03 bản "Tờ khai tham
gia BHXH, BHYT" (Mẫu số 01-TBH) nộp cho người sử dụng lao động; trường hợp đã
được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ nộp sổ BHXH.
. Người sử dụng lao động kiểm tra, đối chiếu Tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ
gốc của từng người lao động; ký xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung
trên Tờ khai của người lao động. Lập 01 bản "Danh sách lao động tham gia BHXH bắt
buộc" (Mẫu 02a-TBH) và bản sao quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng ký kinh
doanh hoặc giấy phép hoạt động; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì nộp
bản hợp đồng lao động. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao
động hoặc quyết định tuyển dụng, người sử dụng lao động phải nộp toàn bộ hồ sơ theo
quy định của người lao động cho cơ quan BHXH.

. Cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại

giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của người lao động; ghi mã số quản lý đơn vị và từng người
lao động trên danh sách và trên Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc (mã đơn vị và người
lao động ghi theo quy định của BHXH Việt Nam). Trường hợp hồ sơ chưa đủ, cơ quan
BHXH phải hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện. Ký đóng dấu vào "Danh sách lao
động tham gia BHXH bắt buộc"; trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày
nhận đủ hồ sơ phải trả lại đơn vị 01 bản Danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH, cơ
quan BHXH lưu 01 bản Danh sách; riêng 03 Tờ khai (Mẫu 01-TBH) của người lao động
sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 Tờ khai cùng với sổ BHXH.
- Người sử dụng lao động đang tham gia BHXH. Lập danh sách theo mẫu (02a-
TBH) nếu tăng lao động; nếu giảm lao động hoặc điều chỉnh tiền lương, mức đóng
BHXH, BHYT theo mẫu (03a-TBH); nếu đồng thời có cả các biến động trên thì lập tất cả
các mẫu (02a-TBH) và mẫu (03a-TBH), mỗi mẫu 01 bản kèm theo hồ sơ như: Tờ khai,
quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển, nghỉ việc, thôi việc hoặc hợp đồng lao động,
quyết định tăng, giảm lương và thẻ BHYT (nếu có), nộp cho cơ quan BHXH trước ngày
20 của tháng. Các trường hợp tăng, giảm từ ngày 16 của tháng trở đi thì lập danh sách và
thực hiện vào đầu tháng kế tiếp.
. Cơ quan BHXH tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ; ký, đóng dấu vào danh
sách lao động tham gia BHXH, BHYT; các Tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng
BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT kịp thời cho người lao động.
. Khi người lao động di chuyển địa bàn từ tỉnh này sang địa bàn tỉnh khác, phải
xuất trình hồ sơ kèm theo “Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH bắt
buộc” (Mẫu số 03-TBH); đóng đủ BHXH cho người lao động đến thời điểm di
chuyển; cơ quan BHXH tỉnh nơi đi xác nhận sổ BHXH cho người lao động; người sử
dụng lao động đăng ký tham gia BHXH với cơ quan BHXH tỉnh nơi chuyển đến theo
thủ tục tham gia BHXH lần đầu như quy định trên.
. Người sử dụng lao động thay đổi pháp nhân, chuyển quyền sở hữu; sáp nhập
hoặc giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật phải thông báo bằng văn bản cho cơ
quan BHXH và đóng đủ BHXH cho người lao động đến thời điểm thay đổi. Cơ quan

BHXH xác nhận sổ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc đóng đến thời điểm nào
thì xác nhận đến thời điểm đó.

Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý thu BHXH
(1)
(2)

(3) (4)

(5)

(6)


(7)
(8) (10)

(11)
(9)
(12)

Giải thích sơ đồ:
(1) Chứng từ do đơn vị SDLĐ lập gửi cơ quan BHXH
(2) Cơ quan BHXH trả chứng từ cho đơn vị sau khi đã thẩm định
(3) Cơ quan BHXH ghi sổ chi tiết thu BHXH
(4) và (5) Thông báo cho đơn vị sử dụng lao động nộp BHXH
(6) Báo cáo nhanh BHXH cấp dưới gửi BHXH cấp trên
(7) và (8) tổng hợp báo cáo thu
(9) Báo cáo tổng hợp thu BHXH tỉnh gửi BHXH Việt Nam
(10) và (11) Thẩm định kết quả thực hiện thu BHXH

(12) Lập kế hoạch thu BHXH năm sau
Giải thích biểu mẫu:
02a-TBH: Danh sách lao động tham gia BHXH
03a-TBH: Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH
Chứng từ nộp tiền
Mẫu 02a - TBH,
Đơn vị sử
d
ụng

Mẫu 07 - TBH sổ chi tiết
theo dõi thu BHXH
Mẫu 08 - TBH
thông báo kết
qu
ả nộp BHXH

Mẫu 09 - TBH Báo
cáo thực hiện thu
BHXH

Mẫu 10 - TBH Báo cáo thu
BHXH

Mẫu 11 - TBH báo cáo tổng
hợp thu BHXH
Mẫu 12 - TBH biên
bản thẩm định số
li
ệu thu


Mẫu 13 - TBH kế
hoạch thu BHXH

×