Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

LUẬN VĂN:Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1012.13 KB, 111 trang )












LUẬN VĂN:
Giải quyết việc làm ở Thái Bình:
thực trạng và giải pháp










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước đến nay, vấn đề việc làm luôn được xã hội và mọi người quan tâm.
Ngày nay, quan niệm về "phát triển" được hiểu một cách đầy đủ là: tăng trưởng kinh tế
đi đôi với tiến bộ xã hội; phải xóa đói, giảm nghèo, giảm thiểu thất nghiệp, đảm bảo được
công bằng xã hội. Vì vậy, việc làm là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn


cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại, của tất cả các quốc gia, đặc biệt là của các
nước đang phát triển.
ở nước ta, vấn đề việc làm cho người lao động được Đảng và Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Giải quyết việc
làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân"
[10, tr. 218].
Tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, một mặt nhằm phát huy được tiềm
năng lao động, nguồn lực to lớn ở nước ta cho sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác là
hướng cơ bản để xóa đói, giảm nghèo có hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao đời
sống của nhân dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo ra
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên.
Thái Bình là tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng, "đất chật, người đông"
với diện tích tự nhiên 1.546,01 km
2
, dân số 1,83 triệu người, mật độ dân số 1.188
người/km
2
, gấp 1,18 lần so với các tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng và 5,7 lần so
với cả nước; có 915 ngàn người trong độ tuổi lao động, chiếm 50% dân số của cả tỉnh, số
dân ở nông thôn chiếm 93,7%, thu nhập bình quân đầu người thấp mới đạt 3.889.000
đồng/người/năm vào năm 2003 [5, tr. 34]. Thu nhập của người lao động cơ bản dựa vào
sản xuất nông nghiệp, chất lượng lao động thấp, lao động phổ thông là chủ yếu, chưa qua
đào tạo.

Những năm 1997 - 1998 ở nông thôn Thái Bình diễn biến phức tạp, tình hình khiếu
nại, tố cáo của nhân dân diễn ra diện rộng trên địa bàn của cả tỉnh. Việc khiếu nại đông
người của nhân dân Thái Bình có nhiều nguyên nhân khác nhau, song trong đó có nguyên
nhân quan trọng là việc làm thiếu, đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn.
Do đó, vấn đề việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề bức xúc nhất đặt

ra với các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân Thái Bình. Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XVI chỉ rõ: "Coi trọng và phát huy nhân tố con người;
chăm lo giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội, giải quyết việc làm, cải thiện và nâng
cao đời sống nhân dân là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để góp phần
giữ vững ổn định kinh tế - xã hội" [26, tr. 90].
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm ở Thái Bình nhằm đánh giá đúng
đắn thực trạng, tìm ra phương hướng và những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý, có
hiệu quả nguồn lao động của tỉnh là một đòi hỏi bức xúc có ý nghĩa thiết thực cả về lý
luận và thực tiễn. Do đó, tôi chọn đề tài "Giải quyết việc làm ở Thái Bình: thực trạng và
giải pháp" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc làm là một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của
các quốc gia nói chung và ở Việt Nam nói riêng.
ở nước ta, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, liên quan đến chủ đề luận
văn đã có nhiều công trình khoa học, nhiều nhà nghiên cứu có bài viết xoay quanh vấn đề
này, tiêu biểu như:
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của TS. Nguyễn Hữu Dũng, TS.
Trần Hữu Trung (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
- ảnh hưởng của nền kinh tế tri thức với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam của
GS.TS Đỗ Thế Tùng (Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 6-2002);
- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và phát triển của thạc sĩ Nguyễn
Thị Lan Hương (Nxb Lao động - xã hội, 2002);

- Lao động việc làm những bước tiến quan trọng của Nguyễn Thị Hằng (Tạp chí
Cộng sản, số 23 - 8/2003);
- Một số vấn đề lao động, việc làm và đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay
do thạc sĩ Đinh Đặng Định chủ biên (Nxb Lao động, Hà Nội, 2004);
- Vấn đề lao động và việc làm ở Việt Nam từ đổi mới đến nay của GS.TS Phạm
Đức Thành, PGS.TS Phạm Quý Thọ, ThS. Thang Mạnh Hợp (Tạp chí Lao động và Công
đoàn, số 298 - 12/2003);

Ngoài ra, cũng có một số đề tài luận văn thạc sĩ viết về vấn đề việc làm như ở
một số tỉnh: Đồng Nai, Hà Tĩnh, Kiên Giang ; ở Thái Bình, ủy ban nhân dân (UBND)
tỉnh có ban hành "Chương trình mục tiêu giải quyết việc làm từ 2000 - 2005".
Song, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị đến nay chưa có công trình nào viết
về vấn đề này dưới dạng luận văn khoa học để tìm ra các giải pháp đồng bộ, hữu hiệu cho
giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài "Giải quyết việc
làm ở Thái Bình: thực trạng và giải pháp" dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị là cần
thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
* Mục đích đề tài
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề giải quyết việc làm, phân tích thực
trạng việc làm ở Thái Bình, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
có hiệu quả việc làm ở Thái Bình.
* Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát những vấn đề cơ bản về lý luận lao động, việc làm và thất nghiệp.
Làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay để làm
cơ sở cho việc phân tích tình hình giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm 1999
đến nay, rút ra những mặt làm được và chưa được, chỉ rõ những nguyên nhân tồn tại, hạn

chế.
- Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết
việc làm ở tỉnh Thái Bình trong những năm tới.
* Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung vào các vấn đề có tính trọng điểm: giải quyết việc làm ở tỉnh
Thái Bình từ năm 1999 đến năm 2004, xây dựng một số giải pháp chủ yếu để nâng cao
hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm cho lao động Thái Bình trong thời gian từ nay đến
năm 2010.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận

Đề tài được nghiên cứu dựa trên lý luận của khoa học kinh tế chính trị, căn cứ
vào quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các Văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa xoay quanh vấn đề việc làm. Bên cạnh đó, đề
tài có kế thừa, chọn lọc một số đề xuất, số liệu thống kê của một số công trình khoa học
có liên quan của các tác giả trong và ngoài nước.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp truyền thống của khoa học kinh tế chính trị: sử
dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu,
đồng thời còn sử dụng các phương pháp khác như: khảo sát, điều tra nghiên cứu thực tế,
tổng hợp, đối chiếu và phân tích, thống kê…
5. Những đóng góp chủ yếu của đề tài
+ Làm rõ quan niệm về việc làm và ý nghĩa kinh tế - xã hội của vấn đề giải quyết
việc làm ở tỉnh Thái Bình.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình từ năm
1999 đến nay.

+ Đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu có tính khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả vấn đề giải quyết việc làm ở tỉnh Thái Bình.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương, 8 tiết.

















Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang


2.1
Tốc độ tăng trởng GDP của Thái Bình qua các năm
48
2.2
GDP bình quân đầu ngời qua các năm
49
2.3
Tỷ lệ tăng dân số của Thái Bình qua các năm
51
2.4
Cơ cấu độ tuổi của lực lợng lao động Thái Bình
51
2.5
Phõn b dõn c theo a gii hnh chớnh ca tnh Thỏi Bỡnh
52
2.6

Trình độ học vấn của lực lợng lao động Thái Bình
54
2.7
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lợng lao động Thái Bình
55
2.8
C cu lao ng lm vic theo nhúm ngnh
61
2.9
So sánh lao ng lm vic theo thnh phn kinh t
63
2.10
Sự thay đổi cơ cấu GDP và cơ cấu lao động của tỉnh Thái
Bình
74

Chng 1
Vic lm v cỏc nhõn t
nh hng ti tng, gim vic lm

1.1. Vic lm v nhng khú khn trong quỏ trỡnh gii quyt vic lm nc
ta
1.1.1. Khỏi nim v lao ng, vic lm v tht nghip
1.1.1.1. Khỏi nim v lao ng
Cú nhiu cỏch tip cn v hiu khỏc nhau v lao ng nhng suy cho cựng, lao
ng l hot ng c thự ca con ngi, phõn bit con ngi vi con vt v xó hi loi

người với xã hội loài vật; bởi vì: khác với con vật, lao động của con người là hoạt động
có mục đích, có ý thức tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên
thành sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Lịch sử phát triển của xã

hội loài người đã chứng minh vai trò quyết định của lao động với sự phát triển kinh tế -
xã hội. Theo C.Mác: "Lao động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc
vào bất kỳ hình thái xã hội nào, là một sự tất yếu tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự
trao đổi chất giữa con người với tự nhiên, tức là cho bản thân sự sống của con người" [20,
tr. 61]. Ph.ăngghen viết:
Khẳng định rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Lao động
đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên là cung cấp những vật liệu cho
lao động đem biến thành của cải. Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng
lớn lao hơn thế nữa, lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống
loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [21, tr. 641].
Trong quá trình lao động, con người đã vận dụng sức lực của mình, sử dụng công
cụ lao động tác động vào tự nhiên nhằm biến đổi tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của cuộc
sống. Đó là quá trình sản xuất vật chất được kết hợp bởi ba yếu tố: lao động, đối tượng
lao động và tư liệu lao động. Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại,
lao động bao giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và
phát triển đời sống xã hội loài người. Lao động là hoạt động sáng tạo của con người, nhờ
có lao động mà con người khẳng định mình là chủ thể sáng tạo mọi giá trị vật chất và tinh
thần của xã hội.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chỉ rõ: trong các nguồn lực cơ bản
(lao động, tài nguyên thiên nhiên, vốn và khoa học công nghệ), mỗi nguồn lực đều có thể
bị khan hiếm, cạn kiệt nhưng nguồn lực con người là vô tận nếu quốc gia đó có chính
sách đúng đắn về đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và khai thác nguồn lực này một cách khoa
học. Vì vậy, V.Lênin khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là người
lao động" [18, tr. 430].

Trong nguồn lao động của mỗi quốc gia hay một địa phương nào đó thì người lao
động được xếp vào nguồn lao động. Nguồn lao động là số lượng của dân cư của quốc gia
đó hay của địa phương đó có khả năng lao động. Hay có thể hiểu rằng: nguồn lao động
là bộ phận dân cư có toàn bộ thể chất và tinh thần có thể sử dụng trong quá trình lao

động.
Tiềm lực của đất nước mạnh hay yếu trước hết phụ thuộc vào yếu tố nguồn lực
lao động; bởi vì, với tư cách là nguồn lực, lao động trực tiếp tham gia tạo cung của nền
kinh tế. Với tư cách là bộ phận dân số thực hiện quá trình tiêu dùng, nguồn lao động trở
thành nhân tố tạo cầu của nền kinh tế. Điều khác biệt cơ bản giữa nguồn lao động với các
nguồn lực khác là vừa tham gia tạo cung và tạo cầu của nền kinh tế, vừa trực tiếp điều tiết
quan hệ đó gắn với các thể chế kinh tế xã hội do con người tạo nên. Nguồn lao động vừa
có nhu cầu tự thân để phát triển với yêu cầu ngày càng cao và phong phú, vừa là chủ thể
sáng tạo ra công nghệ, điều chỉnh cơ bản kinh tế để thá¢a mãn các nhu
cầu đó.
Hiện nay trên thế giới, tiêu chí cơ bản để bố trí dân cư vào nguồn lao động được
dựa trên độ tuổi và tình trạng sức khỏe. Nhưng quy định giới hạn về độ tuổi lao động tối
đa và tối thiểu ở các nước có sự khác nhau. Ví dụ, độ tuổi lao động tối thiểu ở Braxin: 10
tuổi, ở Mỹ: 16 tuổi. Qui định về độ tuổi tối đa như: Mêhicô, Malayxia là 65 tuổi; Phần
Lan, Đan Mạch là 75 tuổi… Theo Bộ luật lao động hiện hành ở nước ta, nguồn lao động:
nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi, có khả năng lao động (trừ những người tàn
tật không có sức lao động).
Bộ phận chính của nguồn lao động là lực lượng lao động, bao gồm những người
trong độ tuổi lao động, có sức khá¢e đang làm việc và những người thất nghiệp. Đặc
trưng của nguồn lao động là các chỉ tiêu về số lượng và chất lượng, bao gồm các chỉ tiêu:
số lượng, độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, số người
đang đi học, số người đang làm việc và sự phân bố lao động theo lãnh thổ, theo ngành,
theo khu vực kinh tế…
Trong quá trình phát triển của sản xuất và đời sống xã hội, chất lượng nguồn lao

động cũng không ngừng được tăng lên. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao
động bao gồm: tình trạng sức khá¢e của người lao động, chính sách giáo dục - đào tạo,
chính sách tiền lương và các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
Như đã đề cập, lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, vậy quá trình đó chỉ
có thể tiến hành khi đã được dựa trên những tiền đề vật chất phục vụ cho quá trình đó đầy

đủ. Trên bình diện một nước hay một địa phương nào đó thì quá trình lao động của bộ
phận dân cư có sức lao động lại được thể hiện ở số lượng việc làm. Việc làm là một phạm
trù kinh tế - xã hội, là một chỉ tiêu cơ bản để xem xét, đánh giá sự tiến bộ hay lạc hậu của
mỗi quốc gia trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
1.1.1.2. Việc làm
Khi nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác có đề cập đến việc
làm nhưng chưa đưa ra khái niệm cụ thể về việc làm, như: "Sự tăng lên của bộ phận tư
bản khả biến của tư bản, và do đó sự tăng thêm số công nhân đã có việc làm, bao giờ
cũng gắn liền với những biến động mạnh mẽ và với việc sản xuất ra số nhân khẩu thừa
tạm thời" [20, tr. 159].
Theo cách tiếp cận của C.Mác cho thấy giữa việc làm có liên quan mật thiết với
lao động. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những nơi làm việc cụ thể mà
ở đó lao động diễn ra, là điều kiện cần thiết nhằm thá¢a mãn nhu cầu xã hội về lao động,
là hoạt động lao động của con người. Dưới góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương
quan giữa các yếu tố con người và yếu tố vật chất hay giữa sức lao động và tư liệu sản
xuất trong quá trình sản xuất vật chất.
Có nhiều cách quan niệm khác nhau về việc làm, song xét cho cùng thực chất
của việc làm là sự kết hợp sức lao động của con người với tư liệu sản xuất.
ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp,
người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người
làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể). Theo cơ chế
đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng không thừa

nhận có hiện tượng thiếu việc làm, thất nghiệp…
Từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đến nay, quan niệm về việc
làm đã được nhìn nhận đúng đắn và khoa học. Điều 13, Chương II Bộ luật lao động nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu
nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [3, tr. 42]. Với khái niệm
này, các hoạt động lao động sau đây được xác định là việc làm, bao gồm:
- Toàn bộ các hoạt động tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần không bị pháp luật

cấm, được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật;
- Tất cả những công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập
cho gia đình, cho cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng tiền hoặc
bằng hiện vật.
Như vậy, khái niệm việc làm theo Bộ luật lao động của nước ta bao gồm một
phạm vi rất rộng: từ những công việc được thực hiện trong các doanh nghiệp, công sở
đến mọi hoạt động lao động hợp pháp như các công việc nội trợ, chăm sóc con, cháu
trong gia đình… đều được coi là việc làm. Khái niệm trên làm cho nội dung của việc làm
được mở rộng và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc
làm cho nhiều người. Điều đó được thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, thị trường lao động được mở rộng tới tất cả các thành phần kinh tế,
trong mọi hình thức và cấp độ của tổ chức sản xuất kinh doanh và sự đan xen giữa chúng,
nó cũng không bị hạn chế về mặt không gian.
- Thứ hai, người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, thuê
mướn lao động theo khuôn khổ của pháp luật quy định.
Quan niệm mới về việc làm như Bộ luật lao động quy định cho thấy đã có sự
thay đổi căn bản trong nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm. Từ chỗ việc làm
phải là người nằm trong guồng máy biên chế của Nhà nước và giải quyết việc làm là
trách nhiệm của Nhà nước nay đã chuyển sang nhận thức mới: "Mọi hoạt động lao động
tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm". Bởi vì,

lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong thành phần kinh tế nhà nước mà còn ở cả
trong thành phần kinh tế tư nhân, cá thể và hộ gia đình… Với khái niệm đó, nó đã xóa bỏ
sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế, động viên mọi tổ chức, mọi cá
nhân và toàn xã hội tạo mở nhiều việc làm cho người lao động. Điều đó được Bộ luật lao
động quy định rõ ràng: "Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và
của toàn xã hội" [3, tr. 142].
Như vậy, với quan niệm trên đã làm cho nội dung của việc làm được mở rộng, tạo
tiền đề để giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động ở

các thành phần kinh tế khác nhau; mặt khác còn ngăn chặn những việc làm trái với quy
định dễ nảy sinh trong sản xuất kinh doanh.
Từ khái niệm việc làm, có thể làm rõ hơn một số khái niệm dẫn suất như: người
có việc làm, thiếu việc làm.
* Người có việc làm
Đối với nước ta, người có việc làm là những người từ đủ 15 tuổi trở lên trong
nhóm dân số hoạt động kinh tế, đang làm việc để nhận tiền lương (tiền công), hoặc đang
làm công việc dịch vụ cho bản thân, gia đình và các việc sản xuất kinh doanh của hộ gia
đình.
Có việc làm là có thu nhập, là đòi hỏi chính đáng của người lao động. Tạo được việc
làm tức là thu hút được nguồn lực lao động vào quá trình sản xuất, làm ra nhiều của cải cho
xã hội, tạo ra tiền đề vật chất để giải quyết tốt mối quan hệ gắn tăng trưởng kinh tế với tiến
bộ và công bằng xã hội. Trong hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn, Đảng ta luôn
quan tâm đến con người, tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Đảng ta khẳng định:
"Phát huy yếu tố con người và lấy con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động"
[8, tr. 36].
Thực tiễn những năm qua cho thấy, với các chính sách về lao động và việc làm
của Đảng và Nhà nước ta đã có tác động tích cực, tạo ra nhiều việc làm mới cho người

lao động; vì vậy, đời sống của đại bộ phận nhân dân lao động được cải thiện, nâng cao rõ
rệt. Tuy nhiên, vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động vẫn nổi lên là một trong
những vấn đề bức xúc, đặc biệt là đối với những vùng, những địa phương đất chật, người
đông, nhiều người lao động còn không có hoặc thiếu việc làm.
* Thiếu việc làm
Có nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau về vấn đề này, theo
TS. Trần Thị Thu đưa ra khái niệm mà nhiều nhà nghiên cứu cho là hợp lý và khoa học:
"Thiếu việc làm còn được gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là hiện tượng
người lao động có việc làm ít hơn mức mà mình mong muốn" [25, tr. 17]. Đó là tình
trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động,
họ phải làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định, hoặc làm những công việc

mà tiền công thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm
để bổ sung.
1.1.1.3. Thất nghiệp
Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học hiện đại: trong nền kinh tế thị trường, thất
nghiệp là một hiện tượng khách quan gắn liền với một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên xác định.
Người ta không thể loại bỏ được nó mà chỉ có thể hạn chế tỷ lệ thất nghiệp tới mức thất
nghiệp tự nhiên. Bởi vì, khi mức thất nghiệp cao (quá mức tự nhiên), tài nguyên bị lãng
phí, thu nhập của người dân bị giảm sút và rơi vào tình trạng nghèo đói, dẫn đến nền kinh
tế suy thoái, ảnh hưởng đến cuộc sống của cộng đồng dân cư. Tỷ lệ thất nghiệp là một
trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thực trạng của một nền kinh tế, là mối quan
tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia và của mọi thành viên trong xã hội.
Có nhiều quan niệm khác nhau về thất nghiệp, nhưng nội dung cơ bản của thất
nghiệp là đề cập về việc: người lao động có khả năng làm việc, mong muốn làm việc nhưng
không được làm việc. Samuelson - nhà kinh tế học của trường phái hiện đại cho rằng:
"Thất nghiệp là những người không có việc làm, nhưng đang chờ để trở lại việc làm hoặc
đang tích cực tìm việc làm" [32, tr. 271].

Như vậy, thất nghiệp (không có việc làm) là hiện tượng người lao động bị mất
việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp có nhiều loại:
 Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ
năng, trình độ của người lao động với cơ hội việc làm do cầu lao động và sản xuất thay
đổi.
 Thất nghiệp do chuyển đổi: là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, đây là loại thất
nghiệp do sự mất cân bằng trong một thời kỳ dài giữa cung và cầu lao động. Nó nảy sinh
do có những điều chỉnh trong chính sách kinh tế, dẫn đến những thay đổi trong cơ cấu
sản xuất, tiêu thụ trong toàn bộ nền kinh tế, làm cho một số ngành kinh tế truyền thống bị
suy thoái và làm nảy sinh một số ngành mới. Những thay đổi này làm cho các kỹ năng,
tay nghề cũ của người lao động trở nên không thích hợp với những ngành nghề mới. Họ
buộc phải thôi việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để đào tạo, huấn luyện lại tay
nghề [14, tr. 144]. Thất nghiệp cơ cấu thường xảy ra ở các nước đang phát triển có nền

kinh tế đang chuyển đổi như nước ta; loại thất nghiệp này có quy mô lớn hơn, trầm trọng
hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu ở các nước phát triển.
 Thất nghiệp tạm thời: là thất nghiệp phát sinh do người lao động muốn có thời
gian để tìm việc làm thích hợp với chuyên môn và sở thích của mình.
 Thất nghiệp theo mùa vụ: là thất nghiệp do cầu lao động dao động giảm,
thường vào những thời kỳ nhất định trong năm.
 Thất nghiệp chu kỳ: là thất nghiệp gắn liền với sự suy giảm theo thời kỳ của
nền kinh tế.
ở nước ta, theo khái niệm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
Người bị coi là thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân
số hoạt động kinh tế, hiện tại đang đi tìm việc làm hay không đi tìm việc do không
biết tìm việc ở đâu; và những người trong tuần lễ trước thời điểm điều tra có
tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ
nhưng không tìm ra việc [14, tr. 142].

Với khái niệm trên, theo Bộ luật lao động ở nước ta hiện nay: những người trong
độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) có khả năng lao động,
không có việc làm hoặc đang tìm việc làm là những người thất nghiệp.
Tuy nhiên, các đối tượng sau đây mặc dù nằm trong độ tuổi lao động nhưng
không thuộc những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động:
- Người không có khả năng lao động
- Người không có nhu cầu tìm việc làm
- Người đang đi học
- Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình
Thất nghiệp là một vấn đề xã hội rất nhạy cảm, là mối quan tâm lớn của tất cả
các quốc gia, khi mức thất nghiệp tăng quá mức tự nhiên (cho phép) tài nguyên sẽ bị lãng
phí, thu nhập của người lao động giảm và rơi vào tình trạng nghèo đói; nền kinh tế suy
thoái, lạm phát cao dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Do đó, tỉ lệ thất nghiệp là một
trong những chỉ tiêu trọng yếu để xem xét, đánh giá tình trạng của một nền kinh tế, sự
tiến bộ xã hội, là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.

1.1.2. Những khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm ở nước ta
ở nước ta, nguồn lao động hàng năm vẫn tăng ở mức cao (khoảng
3,4 - 3,5%), số lao động chưa có việc làm ở thành thị rất lớn chiếm khoảng
9 - 12% tổng lao động thành thị, là tỷ lệ vượt quá giới hạn cho phép để đảm bảo an toàn
xã hội. Khu vực nông thôn là nơi tập trung 80% dân số và lao động, nhưng do chuyển
dịch cơ cấu kinh tế chậm, kinh tế hàng hóa còn ở trình độ thấp, do đó nạn thiếu việc làm
là rất phổ biến và nghiêm trọng. Trong điều kiện bình quân đất canh tác trên một lao
động rất thấp (0,3 ha/1 lao động), nếu làm thuần nông sẽ dư thừa 1/2 số lao động [7, tr.
96]. Theo dự báo, "năm 2005, lực lượng lao động ở nước ta sẽ là 42,4 triệu người, năm
2010 sẽ tăng lên 47,7 triệu người" [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực to lớn nhưng đó cũng là
sức ép nặng nề đối với vấn đề giải quyết việc làm và là bài toán khó giải. Có thể khái
quát những khó khăn như sau:

Một là, nhu cầu việc làm ngày càng lớn với khả năng giải quyết còn rất hạn hẹp,
chưa gắn kết được giữa lao động với tiềm năng sẵn có. Vấn đề đặt ra là Nhà nước phải
tạo ra điều kiện và môi trường đồng bộ (luật pháp, cơ chế, chính sách) để tác động, khai
thác được các nguồn lực (lao động, đất đai, tài nguyên, vốn…) để phát triển thị trường
lao động, giải quyết việc làm, làm cho cung và cầu về lao động ăn khớp, phù hợp với
nhau ở mức cao nhất.
Hai là, vấn đề việc làm vừa là vấn đề kinh tế - xã hội cơ bản, lâu dài có tính chất
chiến lược, vừa là vấn đề cấp bách trước mắt mang tính xã hội sâu sắc đòi hỏi cùng một
lúc phải tập trung giải quyết việc làm cho một số đối tượng như: con em các gia đình
chính sách xã hội, bộ đội xuất ngũ, thanh niên đến tuổi lao động, đối tượng tệ nạn xã hội
sau cải tạo, người xuất cảnh trái phép hồi hương…; nếu không giải quyết việc làm cho số
đối tượng này sẽ
dễ phát sinh những "điểm nóng" về mặt xã hội, dẫn đến nguy cơ mất an toàn xã hội.
Ba là, nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi, để có cơ cấu kinh
tế tiến bộ đòi hỏi phải tổ chức lại lao động trên phương diện toàn xã hội, tất yếu dẫn đến
xu thế đẩy lao động tách khỏi việc làm, dẫn đến dư thừa một bộ phận lớn lao động xã hội.
Thực tiễn cho thấy: những năm qua, trong quá trình sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước,

lao động ở khu vực này dư thừa khoảng 35%, tương đương với 1,2 triệu người, trong khi
đó lao động có kỹ thuật lại thiếu nghiêm trọng và đang có xu hướng "bị hút vào" các
doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài…; tất cả những tác động đó làm cho quá trình
giải quyết việc làm gặp phải muôn vàn khó khăn.
* Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng thiếu việc làm
- Tình trạng giải quyết việc làm ở nước ta gặp phải khó khăn do nhiều nguyên
nhân khác nhau, song nguyên nhân chủ yếu nhất là: nước ta là nước chậm phát triển,
điểm xuất phát thấp, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, thiếu những tiền đề vật chất
cần thiết mà trước hết là nền đại công nghiệp để thay đổi nhanh chóng toàn bộ cơ cấu
kinh tế cho phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện đại; hạ tầng cơ sở thấp kém, không
đồng bộ; công nghệ lạc hậu, vốn thiếu, chất lượng lao động thấp, quan hệ kinh tế đối

ngoại còn ở mức hạn hẹp…; những nguyên nhân đó đã làm hạn chế và gây ra nhiều trở
ngại, khó khăn trong quá trình giải quyết việc làm cho người lao động.
- Trong cơ chế cũ, chúng ta đã xây dựng một hệ thống chính sách khuyến khích
người lao động tìm việc làm trong khu vực Nhà nước là chủ yếu và bao cấp rất nặng nề.
Nhà nước bố trí công ăn việc làm đến tận từng người lao động, điều đó đã kìm hãm tiềm
năng lao động, triệt tiêu động lực của họ trong phát triển việc làm và tự chịu trách nhiệm
về đời sống của chính bản thân mình. Ngày nay, chuyển sang nền kinh tế thị trường đã
mở ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động của toàn xã hội, song hệ thống
chính sách lại chưa đồng bộ để tạo ra tiền đề, điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm giải
phóng triệt để mọi tiềm năng (lao động, vốn, đất đai ) để phát triển sản xuất, tạo mở việc
làm; chưa có hệ thống đào tạo phù hợp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
nhu cầu đòi hỏi của thị trường sức lao động.
- Về tổ chức, chưa xây dựng một hệ thống sự nghiệp hoàn chỉnh giải quyết việc
làm; đặc biệt là các Trung tâm xúc tiến việc làm; Trung tâm chuyển giao công nghệ sử dụng
nhiều lao động Chương trình quốc gia về việc làm chưa được tập trung, chỉ đạo còn
phân tán. Quỹ quốc gia về việc làm còn nhỏ bé và chưa được đầu tư đúng mức.
- Quản lý nhà nước về lao động và việc làm còn nhiều bất cập, năng lực hoạch
định chính sách và điều hành thực thi chính sách về lao động và việc làm còn nhiều hạn

chế, qua nhiều khâu trung gian, thiếu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ.
1.1.3. ý nghĩa của vấn đề giải quyết việc làm
Việc làm và thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu,
là mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã tổng kết: có
ba yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là phải đảm bảo an toàn lương thực, an
toàn việc làm và an toàn môi trường. Như vậy, thế giới ngày nay cho rằng, mọi chiến
lược phát triển đều phải hướng vào việc phát triển con người, lấy con người làm trung
tâm trong phát triển xã hội và tiến bộ xã hội; trong đó việc làm là một tiêu chí quan trọng
để xem xét, đánh giá sự phát triển của xã hội, là thước đo tiến bộ của xã hội.

Xét về mặt xã hội, mọi người có sức lao động đều có quyền đòi hỏi có được việc
làm vì đó là một trong những quyền cơ bản của con người. Hồ Chí Minh - danh nhân văn
hóa thế giới đã từng nói: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ
những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền được sống, quyền được
tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc" [23]. Để có được hạnh phúc, con người cần phải
được tự do, đặc biệt tự do trong lao động là điều kiện cơ bản để giải phóng sức lao động
và là cơ sở để hoàn thiện và phát triển con người. Khi nghiên cứu quá trình sản xuất vật
chất của xã hội loài người, C.Mác đã chỉ rõ: "Sản xuất vật chất là cơ sở cho tồn tại và
phát triển của con người" [36, tr. 6]. Theo C.Mác, muốn tồn tại và phát triển, con người
phải lao động, phải tiến hành sản xuất. Lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình
thành và phát triển của con người, làm biến đổi bản chất tự nhiên của con người, đồng
thời hình thành nên và phát triển bản chất xã hội của con người. Nhờ lao động, con người
khẳng định được mình là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân
loại.
Hiện nay, công cuộc đổi mới đất nước đang bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Đảng ta chủ trương lấy phát triển kinh tế
làm trọng tâm, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội trong mỗi bước đi
và trong quá trình phát triển. Trong quá trình này, vấn đề giải quyết việc làm cho người
lao động là một trong những vấn đề cấp bách nhất; bởi vì giải quyết có hiệu quả vấn đề
việc làm là cơ sở để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đẩy lùi các tệ nạn xã hội,

thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát
huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr. 210].
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng, giảm việc làm
1.2.1. Dân số và cơ cấu dân số
Số lượng, tốc độ gia tăng và cơ cấu dân số có ảnh hưởng lớn tới nguồn lao động
và vấn đề giải quyết việc làm của mỗi quốc gia. Dân số, lao động và việc làm là những

vấn đề có liên quan mật thiết với nhau; xem xét mức độ biến động dân số những năm gần
đây ở nước ta, cho thấy: "Tốc độ gia tăng dân số hàng năm vẫn tăng 1,3% năm; đến giữa
năm 2003, dân số cả nước ta đã lên tới gần 81 triệu người; hàng năm có khoảng 1,5 triệu
thanh niên tham gia vào lực lượng lao động xã hội" [14, tr. 24; 29]. Đây là một sức ép lớn
đối với vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay.
Dân số tăng nhanh dẫn tới việc phân bố dân cư không hợp lý, không gắn kết
được lao động với các nguồn lực khác (đất đai, tài nguyên thiên nhiên, vốn…) khiến cho
tạo việc làm mới càng khó khăn, thất nghiệp càng cao.
Dân số gia tăng sẽ buộc ngân sách nhà nước nói chung, xã hội nói riêng phải
giảm chi cho đầu tư phát triển, tăng chi cho tiêu dùng. Vì vậy, đầu tư cho phát triển
nguồn nhân lực để nâng cao chất lượng nguồn lao động giảm xuống, cơ hội để tìm việc
làm càng gặp khó khăn.
Do đời sống của người lao động gặp khó khăn, nhu cầu về việc làm lớn, cơ hội
có việc làm ở khu vực nông thôn ít, nhất là những lúc nông nhàn dẫn đến tình trạng di
dân tự do từ nông thôn đổ ra đô thị để tìm việc làm kiếm sống. Nguồn lao động này phổ
biến là có sức khỏe, có kiến thức, có tay nghề, là lực lượng nòng cốt ở nông thôn; hậu
quả làm cho khu vực nông thôn mất đi nguồn lực quan trọng, cần thiết phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Ngược lại, nguồn lao động
di cư tự do này gây ra sức ép khó khăn cho các đô thị vì nguồn lao động này khó có thể
cạnh tranh và có được việc làm ở những ngành kinh tế hiện đại mà chủ yếu làm những
công việc dịch vụ; từ đó gây nên khó khăn trong công tác quản lý hành chính nhà nước

về hộ tịch, hộ khẩu, làm nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội ở đô thị.
Dân số là cơ sở hình thành nguồn lao động, là căn cứ để xác định nhu cầu giải quyết
việc làm. Bước vào thế kỷ 21, Việt Nam với tư cách là một nước có dân số đông, song đã
bước đầu tiến vào thời kỳ ổn định. Tốc độ tăng dân số dự kiến sẽ giảm 1,3% vào năm
2005 xuống còn 1,1% vào năm 2010 [17, tr. 152]. Đây là những thuận lợi rất cơ bản và
có những tác dụng sau đây với thị trường sức lao động:
- Giảm nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ sử dụng, đặc biệt đối

với dịch vụ y tế, sức khá¢e và giáo dục cũng như các chi phí giáo dục có liên quan khác;
- Giảm tỷ lệ người ăn theo, thông qua đó tăng thu nhập bình quân
đầu người;
- Tăng tỷ lệ tiết kiệm của dân cư. Theo quy luật co giãn của thu nhập so với tiết
kiệm, khi thu nhập tăng lên thì mức độ tiết kiệm của dân cư tăng lên, tức là tăng khả năng
đầu tư mở rộng cầu lao động, từ đó tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động.
Tuy nhiên vẫn còn những khó khăn sau đây:
 Mặc dù mức sinh và mức chết đã giảm đáng kể trong thời gian qua, song vẫn còn có
sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng. Trong khu vực thành thị, tổng
mức sinh đã giảm từ 2,5 xuống còn 1,7 con/phụ nữ. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn mức
này vẫn gần như gấp đôi (4,4 và 2,6 con/phụ nữ). Điều này làm tăng sự chênh lệch về thu
nhập và mức sống giữa hai vùng, tiếp tục tạo ra những lực đẩy kích thích dòng di chuyển
lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị.
 Giữa các vùng tình hình cũng tương tự. Trong khi các vùng phát triển như đồng
bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long đã đạt hoặc thấp hơn mức
sinh thay thế (tương ứng là 2,0; 1,9 và 2,1), các vùng kém phát triển nhất như Đông Bắc
và Tây Nguyên vẫn còn ở những mức rất cao (3,6 và 3,9) [17, tr. 153].
 Ngoài ra, giảm tốc độ tăng dân số sẽ dẫn đến việc "già hóa" dân số, với tỷ lệ
người cao tuổi tăng lên và đòi hỏi các chi phí về bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội tăng
lên , ảnh hưởng lớn tới cơ cấu và chất lượng của dân số.
Từ những thực tế trên đây, vần đề đặt ra là cần hướng tới việc "bảo tồn tính cân
bằng, ổn định bên trong của sự phát triển dân số" nhằm đạt được mục tiêu: ổn định tỷ lệ

sinh hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, trên cơ sở đó mà phát triển nguồn lực lao động
cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của thị trường
sức lao động.
Công cuộc đổi mới đất nước những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu về kinh
tế - xã hội, điểm quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế cao đã tạo ra sự tăng lên không

ngừng của nhu cầu sử dụng lao động. Hàng năm số lao động có việc làm đều tăng: "Từ
năm 1991 đến 2000, số người có việc làm tăng từ 30,9 triệu lên 40,6 triệu người, tức là
tăng 32,2%, bình quân hàng năm tăng khoảng 2,9%" [14, tr. 124].
Mặc dù đạt được những thành tựu trên, song do sức ép về dân số, vấn đề lao
động và việc làm vẫn là vấn đề hết sức bức xúc vì do tốc độ gia tăng dân số trước đây
quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng tăng, tốc độ giải quyết việc
làm không thể nào tăng kịp với tốc độ tăng rất nhanh của nguồn lao động. Theo dự báo:
"Dân số trong độ tuổi lao động năm 2005 đạt 51,5 triệu, chiếm 61% tổng dân số, năm
2010 đạt 56,8 triệu, chiếm 64% tổng dân số" [17, tr. 146]. Đây là bài toán khó giải nhưng
bắt buộc chúng ta phải giải quyết có hiệu quả để đất nước ta tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững; vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội - Con đường duy nhất đúng đắn mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
1.2.2. Tiến bộ khoa học - công nghệ
Tiến bộ của khoa học, công nghệ sẽ làm tăng yêu cầu việc làm cho lao động phức
tạp, có kỹ thuật và ngược lại, làm giảm việc làm đối với lao động giản đơn. Quá trình phát
triển của mỗi quốc gia ngày nay được cấu trúc lại dựa trên những lợi thế của nguồn lực
con người với hàm lượng trí tuệ ngày một gia tăng. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học -
công nghệ mà phần tỷ lệ lao động chân tay kết tinh vào sản phẩm ngày một giảm rõ rệt,
hàm lượng lao động "chất xám" kết tinh vào sản phẩm ngày càng cao. Theo dự báo: "Đến
năm 2010, phần tỷ lệ lao động chân tay trong sản phẩm chỉ còn 1/10" [33, tr. 31].
Như vậy, sự phát triển của khoa học - công nghệ mang lại nhiều cơ hội để người
lao động tạo ra việc làm, phát huy khả năng cống hiến của mình cho xã hội, đồng thời
cũng đặt ra nhiều thách thức. Kinh nghiệm ở các nước đang phát triển cho thấy: khi đưa
khoa học, công nghệ tiến bộ vào sản xuất sẽ làm cho những nước có nguồn lao động giản

đơn dư thừa nhưng thiếu lao động phức tạp, có kỹ thuật cao như Việt Nam hiện nay mất
đi ưu thế của lao động nhiều giá rẻ. Xu hướng chung hiện nay là tăng lao động phức tạp
có kỹ thuật cao, giảm lao động giản đơn. Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm của mỗi
quốc gia phụ thuộc vào chất lượng nguồn lao động (thể lực và trí lực) mà điểm quan

trọng có tính quyết định là trí tuệ của nguồn lao động; bởi vì, sự yếu kém của trí tuệ là
lực cản nguy hại nhất dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của con người. Điều này đã
được C. Mác khẳng định: "Sự ngu dốt là sức mạnh của ma quỷ và chúng ta lo rằng, nó sẽ
là nguyên nhân của nhiều bi kịch nữa" [22, tr. 438].
Ngày nay, khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão, là lực lượng trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất vật chất. Vì vậy, đòi hỏi người lao động phải có phẩm
chất trí tuệ cao; nghĩa là người lao động phải có năng lực sáng tạo, áp dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ tiên tiến, khả năng biến tri thức của mình thành kỹ năng
nghề nghiệp, thể hiện qua trình độ tay nghề thành thạo, chuyên môn nghiệp vụ giỏi, làm
chủ được công nghệ, hoàn thành tốt công việc mà mình đảm nhiệm.
ở nước ta hiện nay có nguồn lao động dồi dào, bước vào năm 2005 lực lượng lao
động là 42,4 triệu người [17, tr. 147]. Đây là nguồn lực cơ bản nhất để tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, chỉ có lực lượng lao động đông thì không
đủ và không thể đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa mà vấn đề bức bách hàng đầu đặt ra hiện nay là phải nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, đó là giải pháp cơ bản để tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, là nhân tố quyết định
đảm bảo vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành công. Chính vì
vậy, Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX khẳng định: "Đổi mới
và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân nhằm nhanh chóng
thoát khỏi tình trạng lao động thủ công, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, nâng
cao đời sống nhân dân và sức mạnh quốc phòng, an ninh. Chú trọng chuyển giao tiến bộ
kỹ thuật và thành tựu của khoa học, công nghệ cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn" [12, tr. 93-94].
1.2.3. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất vì nó vừa là đối

tượng lao động, vừa là tư liệu lao động, là cơ sở quan trọng hàng đầu của sản xuất vật
chất, tạo ra việc làm cho người lao động.

Tài nguyên thiên nhiên là một phạm trù kinh tế rộng lớn. Đối với một quốc gia,
nó bao gồm tất cả những gì có trong vùng trời, vùng biển, trên mặt đất, trong lòng đất,
khí hậu, thời tiết, vị trí địa lý… đều tác động đến sự phát triển, giàu có hay nghèo đói của
mỗi quốc gia, đặc biệt là có ảnh hưởng lớn đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy: ở quốc gia nào hoặc ở vùng nào có điều
kiện thiên nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú thì ở nơi đó có điều kiện thuận lợi hơn
đối với vấn đề giải quyết việc làm và cơ cấu việc làm ở những nơi này cũng phong phú
đa dạng hơn so với những nơi khác.
Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú, đa dạng. Nhờ đó đã góp phần tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, làm thay đổi mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội trong những năm qua. Tuy nhiên, do tốc độ gia tăng dân số
trong quá khứ quá nhanh nên số người bước vào độ tuổi lao động ngày càng nhiều, tốc độ
tạo việc làm không thể tăng kịp với tốc độ gia tăng của nguồn lao động; vì vậy, vấn đề
đặt ra hiện nay đòi hỏi phải phát huy và khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên cùng với các nguồn lực khác như lao động, vốn, công nghệ… để tạo ra nhiều việc
làm mới cho người lao động, đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh và bền
vững, đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiếp tục đi lên. Tuy vậy, có những quốc gia, thậm
chí một địa phương nào đó của một quốc gia có nguồn tài nguyên nghèo nàn, khan hiếm
như Nhật Bản mà vẫn tạo được nhiều việc làm cho người lao động. Bởi vì, họ đã xây
dựng được chính sách và giải pháp về việc làm đúng đắn và khoa học.
1.2.4. Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động, Liên hợp quốc gọi là "Di dân quốc tế", là hình thức biểu
hiện cơ bản của thị trường lao động. Vấn đề giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp
về thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu về lao động trên thị trường sức
lao động. Theo nghĩa đó, xuất khẩu lao động là hướng đi quan trọng vừa tăng cầu lao
động, giải quyết việc làm cho người lao động, vừa tạo ra nguồn thu nhập cho người lao
động và tăng thu cho ngân sách nhà nước, vừa nâng cao trình độ tay nghề cho người lao

động và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của nhân loại, vừa mở rộng giao lưu kinh

tế quốc tế.
Hiện nay, xuất khẩu lao động (đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài)
là hiện tượng phổ biến trong đời sống kinh tế - xã hội quốc tế. Nhiều nước đã coi xuất
khẩu lao động là một chính sách lớn, một lĩnh vực hoạt động kinh tế quan trọng nhằm
giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp. Ngoài hình thức xuất khẩu lao động còn có
các hình thức khác như: hợp tác nghiên cứu khoa học, hợp tác triển khai và ứng dụng
công nghệ, trao đổi chuyên gia… cũng đang mở rộng. Tất cả những hình thức trên đã tạo
nên trào lưu dịch chuyển và phân công lao động quốc tế, giải quyết việc làm, giảm thiểu
thất nghiệp, phân bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của mỗi quốc gia.
Vì vậy, xuất khẩu lao động được nhiều nước coi là một hướng quan trọng để giải
quyết việc làm cho người lao động. Ví dụ: "Năm 1988, số người lao động của Philippin làm
việc tại nước ngoài là 4 triệu người; năm 1995, lượng kiều hối gửi qua các kênh chính thức
về Philippin là trên 4 tỷ USD" [36, tr. 232].
ở nước ta, công tác xuất khẩu lao động đã đạt được một số kết quả đáng kể, số
lượng lao động xuất khẩu đã tăng dần hàng năm và đang có xu hướng gia tăng. Chúng ta
đã mở ra nhiều thị trường mới có thu nhập tương đối cao như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Li
Bi… đặc biệt là gần đây, nước ta đã bắt đầu chuyển sang xuất khẩu lao động theo hình
thức nhận thầu như ở Lào, Cô-oét, Angiêri… Tuy nhiên, công tác xuất khẩu lao động
cũng còn nhiều hạn chế, kết quả xuất khẩu lao động chưa tương xứng với tiềm năng lao
động và nhu cầu của đất nước, sức ép về lao động và việc làm vẫn hết sức bức bách.
Trong thời gian tới, chúng ta phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xuất khẩu lao động,
phát triển và mở rộng hơn nữa thị trường lao động để giải quyết được số lao động dôi dư
hiện có, tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động, đáp ứng nguyện vọng chính đáng
và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
1.2.5. Chính sách giải quyết việc làm của Đảng và Nhà nước
Để giải quyết việc làm, vấn đề quan trọng hàng đầu là Nhà nước phải tạo ra các
điều kiện thuận lợi để người lao động có thể tự tạo việc làm thông qua những chính sách


kinh tế - xã hội cụ thể. Các chính sách tác động đến việc làm có nhiều loại, có loại tác
động trực tiếp, có loại tác động gián tiếp tạo thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh,
đồng bộ có quan hệ tác động qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung lẫn
cầu về lao động; đồng thời làm cho cung và cầu về lao động xích lại gần nhau, phù hợp
với nhau, thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu lao động với cơ cấu kinh tế.
Chính sách giải quyết việc làm rất đa dạng đã được nhiều nhà khoa học đề cập
đến. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả chỉ giới hạn đề cập tới một số chính sách
chủ yếu nhất.
1.2.5.1. Chính sách đất đai
Đất đai có vị trí đặc biệt quan trong, bởi vì nó vừa là tư liệu lao động, vừa là đối
tượng lao động của quá trình sản xuất xã hội. Đối với nước ta, đất đai là đối tượng cơ bản
nhất để phát triển sản xuất, tạo mở việc làm, đặc biệt là ở khu vực nông nghiệp, nông
thôn.
Theo Luật đất đai, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, người nông dân có các
quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) khẳng định: "Quyền sử dụng đất đai bước
đầu trở thành một nguồn vốn để Nhà nước và nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh"
[13, tr. 58].
Nhờ có chính sách đúng đắn về đất đai đã tạo ra tiềm năng mới để giải phóng sức
sản xuất xã hội, tạo mở việc làm, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Khuyến khích
người có điều kiện (kể cả người trong nước và nước ngoài) đến khai hoang và kinh doanh
theo mô hình trang trại ở các vùng đất còn hoang hóa, quai đê lấn biển… tạo ra nhiều
việc làm mới, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao trong
những năm qua. Tuy nhiên, dưới góc độ chính sách việc làm, cần tiếp tục hoàn thiện
chính sách đất đai hướng vào các nội dung sau:
- Khuyến khích và tạo điều kiện cho hộ nông dân dồn điền, đổi thửa tập trung

×