LUẬN VĂN:
Hoàn thiện quy trình và phân cấp
quản lý ngân sách nhà nước trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngân sách nhà nước (NSNN) là bộ phận cơ bản, là khâu chủ đạo, có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, đồng thời là công cụ tài chính để
Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động kinh tế - xã hội của đất
nước trong từng giai đoạn phát triển.
Những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, việc quản lý, điều
hành NSNN đã có những đổi mới căn bản và từng bước được hoàn thiện góp phần thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, giải quyết được những vấn đề bức thiết về kinh tế -
xã hội kể từ khi Luật NSNN ra đời và bắt đầu có hiệu lực từ năm 1997, đánh dấu bước
đổi mới quan trọng trong lĩnh vực quản lý NSNN. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cho đến
nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi bổ sung cho phù hợp
với thực tiễn.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc Nam Trung Bộ có nguồn thu còn hạn hẹp, trong
khi nhu cầu chi cho đầu tư phát triển ngày càng lớn, đòi hỏi quản lý ngân sách cần phải
được hoàn thiện. Trong thực tế các biện pháp quản lý NSNN còn những vấn đề như: Quy
trình NSNN chưa được tiêu chuẩn hóa và chưa thống nhất hóa, các chỉ tiêu tài chính,
ngân sách còn rất phức tạp, chưa đồng bộ, chưa tính đến sự biến đổi trong quá trình vận
động ; phân cấp quản lý chưa rõ nét gây nên tình trạng chồng chéo trách nhiệm, quyền
hạn giữa các cơ quan quản lý NSNN Do vậy, việc quản lý NSNN đôi khi xử lý chậm
chạp, bị động, không phù hợp, hiệu quả chưa cao. Đây là những vấn đề bức xúc trong
quản lý ngân sách hiện nay. Chính vì vậy, cần thiết phải đánh giá lại việc thực hiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và những vấn đề đặt ra
từ thực tiễn do quản lý chưa đồng bộ, phân cấp chưa hợp lý, để tìm giải pháp phù hợp
góp phần hoàn thiện quản lý NSNN, nhằm thực hiện được các mục tiêu kinh tế - xã hội
do Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đề ra.
Với lý do đó, tôi chọn đề tài: "Hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi" làm luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu về quản lý NSNN đã có nhiều công trình của các nhà khoa học đề
cập đến những khía cạnh riêng, với qui mô rộng, hẹp khác nhau, trong điều kiện thời gian
khác nhau, chẳng hạn các công trình:
- Đổi mới ngân sách Nhà nước của Tào Hữu Phùng, Nguyễn Công Nghiệp, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 1992.
- Ngân sách Nhà nước của Lê Văn ái, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1992.
- Đổi mới chính sách tài khóa đáp ứng yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2000 - 2010 của Bùi Đường Nghiêu, Nxb Tài chính, Hà Nội, 2001.
- Đổi mới phân cấp NSNN trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, luận văn thạc sĩ kinh tế
của Nguyễn Lương Thăng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
Song chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu một cách có hệ thống về hoàn
thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Để thực hiện đề tài tôi có kế thừa một số ý tưởng của các công trình đã công bố,
kết hợp với thực trạng tại địa phương để đề xuất giải pháp thiết thực góp phần vào thực
tiễn quản lý ngân sách hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực
tiễn về quy trình và phân cấp quản lý NSNN, đề xuất giải pháp hoàn thiện hai nội dung
trên ở địa phương.
- Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Phân tích luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về NSNN và sự cần thiết
khách quan phải hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý NSNN.
+ Phân tích thực trạng việc thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách
hiện nay ở tỉnh Quảng Ngãi, rút ra những mặt đạt được, những hạn chế và nguyên nhân.
+ Đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình và phân cấp
quản lý NSNN trên địa bàn tỉnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Trong luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm
vi quy trình quản lý NSNN và phân cấp quản lý NSNN, các nội dung khác của quản lý
NSNN được đề cập chỉ nhằm làm rõ thêm hai nội dung trên. Phạm vi giới hạn trong thời
gian 4 năm 1998, 1999, 2000 và 2001 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật hiện hành của Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận khoa học, phương pháp diễn dịch qui nạp,
phương pháp phân tích - khái quát, phương pháp hạch toán thống kê, kết hợp với khảo
cứu thực tiễn và các tài liệu khác có liên quan.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
- Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý quy trình và phân cấp quản
lý NSNN trên địa bàn cấp tỉnh.
- Phân tích làm rõ thực trạng quản lý NSNN, tìm ra những vấn đề chưa hoàn
thiện trong các văn bản quy định và thực hiện chưa đúng hoặc chưa hợp lý trong tổ chức
quản lý cụ thể tại địa bàn khảo sát.
- Đề xuất những vấn đề có tính khả thi để hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm, quyền hạn quản lý ngân sách, phù hợp với yêu cầu quản lý hiện nay và nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Tài liệu dùng tham khảo cho công việc nghiên cứu, giảng dạy, hoạch định các
chính sách quản lý nhà nước và quản lý NSNN.
- Tài liệu giúp cho các nhà quản lý ở địa phương tham khảo để vận dụng vào
công tác quản lý NSNN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Mục lục
Trang
Mở đầu
1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước và sự
cần thiết hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước
5
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước 5
1.2. Quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 12
1.3. Yêu cầu hoàn thiện quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà
nước
25
Chương 2: Thực trạng tổ chức quy trình và phân cấp quản lý
ngân sách nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi (1998 -
2001)
32
2.1. Đặc điểm chủ yếu của tỉnh Quảng Ngãi chi phối hoạt động quản lý
ngân sách nhà nước địa phương
32
2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện quy trình và phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước ở tỉnh Quảng Ngãi (1998 - 2002)
42
2.3. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân trong việc thực hiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi
58
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu hoàn thiện quy
trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở
tỉnh Quảng Ngãi
66
3.1. Phương hướng chung 66
3.2. Giải pháp chủ yếu hoàn thiện nội dung quy trình và phân cấp quản 79
lý ngân sách ở tỉnh Quảng Ngãi
Kết luận
94
danh mục tài liệu tham khảo
96
phụ lục
99
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về ngân sách Nhà nước
và sự cần thiết hoàn thiện quy trình phân cấp
quản lý ngân sách Nhà nước
1.1. Những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước
1.1.1. Bản chất của ngân sách nhà nước
Lịch sử ra đời, tồn tại và phát triển NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế
bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và sự tồn tại phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia.
Khái niệm NSNN xuất hiện sau khái niệm Nhà nước. Sự xuất hiện của Nhà nước
đòi hỏi cần phải có nguồn tài lực để đáp ứng các khoản chi tiêu
của mình.
Đó là điều kiện cần để xuất hiện NSNN; song khái niệm NSNN ra đời khi quan
hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển mạnh, đó là điều kiện đủ để xuất hiện NSNN. Ngày nay
hệ thống NSNN phát triển đầy đủ ở mọi quốc gia, song quan niệm về NSNN vẫn chưa có
sự thống nhất.
Trong chế độ phong kiến thường chưa có các văn bản tài chính thống nhất, bao
quát toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước mà việc thu, chi của Nhà nước thường
rất tuỳ tiện không chịu ràng buộc bởi sự kiểm soát nào. Khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa (TBCN) ra đời nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, giai cấp tư sản đấu
tranh nhằm có được môi trường tài chính, chế độ thuế khóa rõ ràng để tự do hoạt động
kinh doanh. Kết quả cuộc đấu tranh đó Nhà nước TBCN đã xây dựng một thể chế tài
chính mới; lúc này, các nhân tố của NSNN mới hội tụ đầy đủ và NSNN từng bước được
hình thành hoàn chỉnh; đó là một ngân sách được thiết lập và phê chuẩn bởi Nhà nước.
Thuật ngữ NSNN được dùng từ đó.
Theo Luật NSNN được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20 tháng 3 năm 1996 và có hiệu lực thi hành từ
năm 1997, tại Điều 1 quy định: "Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước"
[19, tr. 19-20].
Hoạt động của NSNN được biểu hiện thông qua các hiện tượng, bị ràng buộc bởi
những nội dung bên trong hết sức chặt chẽ, đó là dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Đặc trưng của ngân sách:
- Các khoản thu NSNN phần lớn đều mang tính chất cưỡng bức, còn các khoản
chi lại mang tính cấp phát [16, tr. 8-13]. NSNN khác với ngân sách của các chủ thể ở chỗ
dự toán thu, chi của nó được thể chế hóa bằng luật pháp và do luật định của Nhà nước.
Nguồn thu của NSNN do Luật Thuế và các văn bản khác qui định; còn chi NSNN thì căn
cứ vào điều kiện kinh tế, tình hình tài chính quốc gia, nhu cầu chi và hệ thống định mức,
tiêu chuẩn do cấp Nhà nước có thẩm quyền ban hành để lập dự toán chi.
- Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối bằng tiền của các chủ thể
nào đó, tạo mối quan hệ giữa các chủ thể một bên là Nhà nước với một bên là xã hội.
Như vậy, thực chất của hoạt động này là hoạt động phân phối các nguồn tài chính trong
nền kinh tế - xã hội.
Như vậy, bản chất của NSNN được quan sát qua hai khía cạnh bộc lộ, đó là:
Về nội dung vật chất: Là các khoản thu và chi NSNN. Các khoản thu vào NSNN
từ nền kinh tế phần lớn đều mang tính bắt buộc của Nhà nước, Nhà nước đã sử dụng
quyền lập pháp để qui định hệ thống pháp luật tài chính và thuế khoá để động viên các
nguồn lực vào tay Nhà nước. Tính chất bắt buộc các nguồn thu này không mang ý nghĩa
tiêu cực, bởi vì mọi người trong diện động viên nguồn thu đều hiểu được nghĩa vụ của
mình và tầm quan trọng của NSNN đối với sự ổn định, tăng trưởng và phát triển kinh tế -
xã hội mà Nhà nước có chức năng điều hành.
Các khoản chi NSNN cho hoạt động và phát triển kinh tế - xã hội mang tính cấp
phát (không hoàn lại trực tiếp) gồm chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là
nội dung quan trọng, dựa vào quyền lực và khả năng tài chính của mình mà Nhà nước
thực hiện chức năng quản lý kinh tế - xã hội của mình. Như vậy, vai trò của Nhà nước
mang yếu tố quyết định đến tính chất, qui mô hoạt động của NSNN.
Về nội dung kinh tế - xã hội: Đó là các quan hệ kinh tế thuộc nội dung NSNN chỉ
nảy sinh trong quá trình phân phối giá trị của cải xã hội, nó chịu
sự điều chỉnh của Nhà nước theo những yêu cầu quản lý trong từng giai đoạn lịch sử.
Việc phân phối và phân phối lại các nguồn lực tài chính để hình thành nguồn thu
của Nhà nước, dù thực hiện dưới hình thức nào, thực chất cũng là quá trình giải quyết lợi
ích kinh tế giữa Nhà nước và xã hội. Phân phối nguồn lực tài chính là kết quả tài chính
của các đơn vị kinh tế được chia thành hai phần, phần nộp cho NSNN và phần để lại cho
các thành viên của đơn vị. Thông qua phần nộp NSNN, Nhà nước tiếp tục phân phối lại
qua các khoản cấp phát ngân sách cho mục đích tiêu dùng và đầu tư. Do vậy có thể thấy
rằng, mối quan hệ kinh tế - xã hội của NSNN là quan hệ ở phạm vi rộng lớn liên quan
đến mọi khu vực của nền kinh tế quốc dân [39].
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các công cụ sẵn có để
bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần
thiết. Song các chủ thể sản xuất - kinh doanh, các thành viên trong xã hội thì luôn đấu
tranh để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. Nghĩa là, Nhà nước không thể dựa vào quyền
lực của mình để huy động sự đóng góp của xã hội dưới bất kỳ hình thức nào, bằng mọi
giá phải có giới hạn hợp lí, đó chính là việc giải quyết hài hoà lợi ích kinh tế nhà nước và
xã hội. Nếu chỉ chú trọng đến lợi ích của Nhà nước mà không chú trọng đến lợi ích của
xã hội thì quan hệ giữa Nhà nước và xã hội trở nên căng thẳng, sản xuất đình trệ, đời
sống nhân dân bị bần cùng.
Mọi hoạt động thu, chi của NSNN đều nhằm tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài
chính, nó phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã
hội. Do đó, có thể kết luận về bản chất NSNN như sau: NSNN là hệ thống các mối quan
hệ giữa Nhà nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các
nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền
kinh tế - xã hội của mình.
1.1.2. Chức năng của ngân sách nhà nước
Trong thời gian dài nhiều nhà kinh tế đều cho rằng, NSNN có hai chức năng là
phân phối và giám đốc, mỗi chức năng có những đặc trưng riêng. Chức năng phân phối
bao gồm: phân phối lần đầu là phân phối lại giá trị tổng sản phẩm xã hội, cùng với các
nguồn tài chính khác dưới hình thức động viên các nguồn thu vào NSNN theo các luật
định như thuế, phí, lệ phí và các văn bản khác, sau đó phân phối lại thông qua các khoản
chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên cho nền kinh tế - xã hội. Chức năng giám đốc là
hệ quả của chức năng phân phối, tùy thuộc vào việc triển khai chức năng phân phối, chức
năng giám đốc của NSNN là việc kiểm tra, kiểm soát tình hình thu, chi NSNN, nhưng nếu
chỉ nhìn nhận ở phạm vi hai chức năng trên của NSNN thì chức năng của NSNN chỉ mới
có ý nghĩa quá trình phân chia số học, chưa thể hiện rõ ý nghĩa kinh tế tổng hợp và bao
quát của chức năng.
Bản chất, chức năng của Nhà nước quyết định bản chất, chức năng của NSNN.
Hoạt động của NSNN, thực chất là hoạt động của Nhà nước trên lĩnh vực tài chính. Nhà
nước ra đời và tồn tại đều phải có nguồn lực tài chính để chi tiêu, phục vụ cho việc duy
trì bộ máy quản lý và phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng của NSNN phải có nhiệm vụ
thống nhất tập hợp các khoản thu và các khoản chi, sự thống nhất đó thể hiện cả hệ thống
ngân sách, nghĩa là luôn giữ vững mối quan hệ và loại bỏ sự tuỳ tiện giữa thu và chi ngân
sách trong phạm vi thời gian ấn định không tách rời nhau.
Như vậy nguyên nhân ra đời và tồn tại của ngân sách là sự cần thiết tập hợp, cân
đối thu, chi của Nhà nước; các khoản thu phải thực hiện theo luật định, các khoản chi
phải dựa vào tiêu chuẩn, định mức và dự toán được cấp có thẩm quyền nhà nước phê
duyệt. Việc tập hợp cân đối thu, chi ngân sách là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh
vực tài chính quốc gia; thông qua đó mà thực hiện kiểm tra, giám sát việc thu, chi ngân
sách có đúng luật định và hiệu quả hay không. Từ đó ta có thể kết luận chức năng của
NSNN là:
- Huy động nguồn tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu theo dự toán nhà
nước.
- Thực hiện cân đối giữa khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà nước
[16, tr. 8-13].
1.1.3. Vai trò của ngân sách nhà nước
Vai trò của NSNN được xác định trên cơ sở các chức năng và nhiệm vụ cụ thể
của nó trong từng giai đoạn. Theo yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
thì vai trò NSNN cũng được thể hiện khác nhau tùy theo từng thời kỳ phát triển kinh tế
và cơ chế quản lý tương ứng với từng thời kỳ đó. Vì vậy, vai trò của NSNN là khâu chủ
đạo trong hệ thống tài chính, là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện điều hành vĩ
mô và toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội. Với quan điểm đó, vai trò NSNN thể hiện nội
dung cơ bản sau đây:
* Huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, đồng
thời NSNN thực hiện cân đối giữa các khoản thu và các khoản chi (bằng tiền) của Nhà
nước [16, tr. 20-190]. Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà bất cứ cơ chế kinh tế nào, hình
thái kinh tế - xã hội nào cũng phải thực hiện.
* Điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội.
Trong thời kỳ kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp công cụ
tài chính không phát huy được vai trò và vị trí của mình. Hoạt động tài chính luôn ở thế
bị động và nặng về nguyên tắc hành chính, các quan hệ tài chính chỉ chủ yếu tác động
trong phạm vi nhỏ hẹp, bản thân nguồn tài chính mang tính chất đơn điệu. Nhận thức về
các quan hệ tài chính nói chung và quan hệ ngân sách nói riêng chưa thật đầy đủ, rõ ràng.
Các quan hệ tài chính lúc đó chủ yếu là quan hệ thu, chi trong phạm vi tài chính nhà nước
với nét đặc trưng là quan hệ giao nộp cấp phát [13, tr. 29].
- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế thông qua các hoạt động thu, chi:
Thông qua các sắc thuế, là công cụ của NSNN và là nguồn thu chủ yếu của
NSNN, có tác dụng để khuyến khích, mở rộng sản xuất. Những mặt hàng sản xuất trong
nước, hàng xuất khẩu cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cạnh tranh với hàng hóa
trong khu vực và trên thế giới, nhất là hiện nay Việt Nam đã bắt đầu có những động thái
hòa nhập thương mại với Mỹ, thế giới, đang đứng trước thời cơ và thách thức mới; cho
nên cần phải có chính sách động viên NSNN hợp lý Chính vì thế, thông qua chính sách
thuế, không chỉ tập trung nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần thực hiện vai trò định
hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế phát triển theo hướng tích cực, kích thích
hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh [20, tr. 32].
Ngoài công cụ thuế còn có khoản thu từ nguồn vay nợ trong nước và ngoài nước
sẽ tạo thêm nguồn vốn cho NSNN, vấn đề là việc sử dụng nguồn vốn vay sao cho đúng
hướng, có chế độ quản lý hợp lý để có hiệu quả. Nếu không sử dụng tốt thì đây là khoản
nợ lớn của ngân sách, càng làm cho ngân sách khó khăn bởi gánh nợ chi trả.
Thông qua chi đầu tư của NSNN cho xây dựng, kết cấu hạ tầng như xây dựng
giao thông, thủy lợi, điện, nước, bưu điện đã tạo được môi trường kết cấu hạ tầng thuận
lợi cho phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân sách còn dành vốn đầu tư để hình thành các
doanh nghiệp then chốt, mũi nhọn có tác dụng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
ngành và vùng lãnh thổ, và cuối cùng tác động đến tăng trưởng kinh tế và là một biện
pháp để chống độc quyền, thực hiện các chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh miền núi, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công ích đã tạo điều kiện
hỗ trợ cho sự phát triển doanh nghiệp và góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế - xã hội
giữa các vùng đảm bảo hợp lý hơn [2, tr. 83-86].
- Đảm bảo công bằng xã hội:
Vai trò quan trọng nhất của NSNN về mặt xã hội là từ nguồn thu huy động được,
NSNN chi đầu tư và phân phối thông qua dự toán chi NSNN cho các ngành và mọi lĩnh
vực xã hội, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các chức năng nhiệm vụ của mình.
NSNN chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội từ tiêu dùng, thu nhập cho đến
các vấn đề kinh tế, xã hội; quan hệ chi tiêu liên quan đến mọi lĩnh vực như chi cho hoạt
động của bộ máy nhà nước, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, chi cho giáo dục,
y tế, văn hóa, xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ cho các đối tượng chính sách và chi cho nhiệm
vụ xã hội khác Những khoản chi này của NSNN thường được gom thành hai nhóm; chi
thường xuyên để duy trì bộ máy nhà nước và chi phục vụ cho đầu tư phát triển. Quan hệ
chi tiêu NSNN tỷ lệ tương quan giữa các nhóm, giữa các khoản mục chi tiêu, tốc độ tăng,
giảm, chi thứ tự của ưu tiên cấp phát chi không những chỉ phản ánh vấn đề có quan hệ
kinh tế quan trọng mà còn có ý nghĩa giai cấp, dân tộc và các vấn đề chính trị, xã hội.
- ổn định giá cả thị trường và chống lạm phát. Bằng các công cụ thu và các chính
sách chi ngân sách, Nhà nước có thể điều chỉnh giá cả thị trường một cách chủ động. Mối
quan hệ giữa giá cả, thuế và dự trữ nhà nước có ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình thị
trường. Quản lý nhà nước về thị trường, Nhà nước tác động vĩ mô thông qua các chính
sách để định hướng, tạo hành lang cho thị trường hàng hóa phát triển mạnh và ổn định.
Trong trường hợp thị trường có biến động mạnh về giá cả, để đảm bảo quyền lợi cho
người tiêu dùng Nhà nước sử dụng nguồn dự trữ hàng hóa và tài chính để ổn định, điều
hòa quan hệ cung - cầu, bình ổn sản xuất kinh doanh. Nguồn dự trữ này hình thành từ
kinh phí cấp phát của NSNN [2, tr. 95].
1.2. Quy trình và phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
1.2.1. Quản lý và chu trình quản lý ngân sách nhà nước
Quản lý NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các chức năng của NSNN để
hoạch định chính sách, chế độ; sử dụng hệ thống các phương pháp thích hợp tác động đến
các hoạt động thu - chi của NSNN, làm cho chúng vận động theo yêu cầu khách quan của
nền kinh tế - xã hội, nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng do Nhà
nước đảm nhận.
Quản lý NSNN được thể hiện qua việc hoạch định các chính sách, cơ chế quản lý
và Luật NSNN. Việc hoạch định chính sách, cơ chế quản lý và Luật ngân sách đúng đắn
sẽ tạo điều kiện phát huy tốt vai trò của ngân sách trong đời sống kinh tế, xã hội. Quản lý
NSNN là nghiệp vụ quản lý vĩ mô nhưng có sự phân công, phân cấp quản lý kinh tế và
hành chính, tinh thần là vừa khai thác, tạo ra và nuôi dưỡng nguồn thu, vừa phải bố trí
các nguồn chi hợp lý. Tác động quản lý phải thông qua các hệ thống, các biện pháp phù
hợp với đặc điểm và quy luật vận động của đối tượng quản lý và được biểu hiện qua
nhiều mặt khác nhau như sau:
- NSNN phải được quản lý bằng pháp luật và kế hoạch; hoạt động thu, chi của
NSNN đều phải được quy định rõ ràng, chặt chẽ từ khâu lập kế hoạch, thực hiện kế
hoạch; xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước các cấp, của các cán bộ nhà
nước trong quản lý ngân sách; việc lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra NSNN hàng năm
thể hiện sự kết hợp chặt chẽ việc sử dụng luật và kế hoạch để quản lý ngân sách.
- Quản lý NSNN sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhưng rất coi trọng biện
pháp tổ chức - hành chính: biện pháp này bảo đảm được tính thống nhất chỉ huy, quyền
lực; nó thể hiện tính luật pháp trong quản lý ngân sách vì nó bảo vệ lợi ích cộng đồng.
- Quản lý NSNN là sự quản lý kết hợp yếu tố con người và yếu tố tài chính: các
cơ quan Nhà nước vừa là người thụ hưởng ngân sách, vừa là người tổ chức các hoạt động
ngân sách, cho nên trước hết phải quản lý con người; các hoạt động NSNN có liên quan
đến tất cả các chủ thể kinh tế - xã hội, cũng là để phục vụ cho việc điều hành hoạt động
của cơ quan nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội.
Hoạt động ngân sách là hoạt động thu, chi của quỹ NSNN. Nhưng để hoạt động
thu, chi mang lại hiệu quả tốt thì phải có chính sách, cơ chế quản lý ngân sách đồng bộ và
Luật NSNN làm công cụ pháp lý quan trọng để quản lý và điều hành ngân sách. Phải
nhìn nhận tính biến động của cơ chế quản lý ngân sách trong sự biến động của hoàn cảnh
kinh tế, xã hội, sự biến động của chính sách ngân sách. Trên cơ sở đó, phải không ngừng
hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách, làm cho nó thích ứng với sự biến động trong chính
sách ngân sách. Một cơ chế quản lý ngân sách được coi là hợp lý khi các bộ phận trong
cơ chế đó mang tính hệ thống đồng bộ, không triệt tiêu lẫn nhau, làm hạn chế tác dụng
tích cực của cơ chế.
Hệ thống các phương pháp quản lý NSNN được sử dụng đồng thời, có sự tác
động, hỗ trợ, kiểm soát lẫn nhau như chính sách động viên, chi đầu tư phát triển, phân
cấp ngân sách, cân đối ngân sách, quy trình ngân sách trong đó, hai nội dung căn bản
là: quy trình ngân sách và phân cấp quản lý NSNN giữ vai trò quan trọng trong hệ thống
quản lý ngân sách.
Quy trình ngân sách là quá trình ngân sách. Theo Luật Ngân sách quy định thẩm
quyền của các cấp chính quyền, cơ quan nhà nước, trình tự thời gian về phân bổ, quyết
định ngân sách và quyết toán ngân sách trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân
sách. Quy định này vừa tạo sự chủ động cho chính quyền các cấp, vừa đề cao vai trò,
trách nhiệm của các địa phương trong việc thực hiện có hiệu quả ngân sách của cấp mình.
Phân cấp quản lý ngân sách là giải quyết tất cả các mối quan hệ (giữa chính
quyền nhà nước trung ương và các cấp chính quyền nhà nước địa phương) có liên quan
tới hoạt động của NSNN. Đó là thực hiện quản lý thống nhất NSNN theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, có phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp;
trong đó có nội dung phân giao nhiệm vụ thu, chi. Sự tồn tại của hệ thống NSNN bao
gồm NSTW và NSĐP đã dẫn đến yêu cầu tất yếu là phải phân cấp quản lý cho mỗi cấp
chính quyền nhà nước về nhiệm vụ, quyền hạn đối với các vấn đề thuộc về NSNN để
NSNN ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.
1.2.2. Quy trình ngân sách nhà nước
Quy trình NSNN bao gồm lập, chấp hành và quyết toán ngân sách; đó là quá
trình từ khi hình thành ngân sách cho tới khi kết thúc để chuyển sang ngân sách mới.
* Lập NSNN là một trong những giai đoạn quan trọng nhất của quy trình ngân
sách. Chính trong giai đoạn này các vấn đề về khối lượng ngân sách, về chính sách thuế,
chính sách vay nợ và tiền tệ cho năm sau được xem xét, quyết định. Lập ngân sách thực
chất là dự toán các khoản thu, chi của ngân sách trong một năm ngân sách.
Dự toán NSNN là dự toán tổng hợp phản ánh và đáp ứng những yêu cầu cơ bản
về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và những yêu cầu về mặt tài
chính của bộ máy nhà nước. Khi việc dự toán thu, chi đúng đắn, có cơ sở khoa học, cơ sở
thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội nói chung
và thực hiện ngân sách nói riêng. Do đó lập dự toán NSNN hàng năm phải dựa vào
những căn cứ sau:
- Nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh; chi tiêu,
nhiệm vụ cụ thể của năm kế hoạch và những chỉ tiêu phản ánh quy mô nhiệm vụ, đặc
điểm hoạt động, điều kiện kinh tế - xã hội và tự nhiên của từng vùng như dân số theo vùng
lãnh thổ, biên chế, các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội do cơ quan có thẩm quyền thông báo
với từng Bộ, ngành, địa phương và đơn vị cơ sở.
- Các luật, pháp lệnh thuế, chế độ thu; chế độ tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách
do cấp có thẩm quyền quy định; các chế độ, chính sách hiện hành làm cơ sở lập dự toán
chi NSNN năm, trường hợp cần sửa đổi, bổ sung phải được nghiên cứu và ban hành trước
thời điểm lập dự toán NSNN.
- Những quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội và phân cấp quản lý ngân
sách.
- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội và dự toán NSNN năm sau; Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc lập dự
toán ngân sách và văn bản hướng dẫn của các bộ.
- Số kiểm tra về dự toán ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
- Tình hình dự toán ngân sách các năm trước [5].
- Vào thời điểm quy định trước khi năm ngân sách bắt đầu thì Bộ Tài chính thông
báo về yêu cầu và nội dung lập dự toán thu, chi tài chính và ngân sách cho năm tới; chậm
nhất là ngày 10/7 năm trước. Căn cứ vào các định mức, tiêu chuẩn, cũng như điều kiện cụ
thể của mình, các đơn vị và cơ quan lập dự toán thu, chi tài chính, gửi cho Bộ Tài chính.
Sau khi nhận được tài liệu của các đơn vị, cơ quan, Bộ Tài chính tiến hành tổng hợp và
lập ngân sách cho năm tài chính tới để báo cáo Chính phủ, kèm theo thuyết minh và
những vấn đề cần thiết [16].
Các cấp chính quyền và cơ quan chuyên môn ở địa phương căn cứ vào nhiệm vụ
cấp mình, hệ thống luật, pháp lệnh, các chế độ, thu, chi, tiêu chuẩn định mức; những quy
định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, ngân sách; tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các
khoản thu và mức bổ sung từ ngân sách cấp trên; số kiểm tra về dự toán ngân sách (do Bộ
Tài chính thông báo quý II và ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh thông báo cho UBND huyện
và xã) và tình hình thực hiện dự toán ngân sách năm trước để tổ chức lập dự toán cấp
mình.
Cơ quan tài chính các cấp có nhiệm vụ tổ chức làm việc với UBND cấp dưới, các
cơ quan, đơn vị cùng cấp về dự toán ngân sách; có quyền yêu cầu bố trí lại những khoản
thu, chi trong dự toán chưa đúng chế độ, tiêu chuẩn, chưa hợp lý, chưa tiết kiệm, chưa
phù hợp với khả năng ngân sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
UBND hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, chính quyền cấp
dưới lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý; trình Hội đồng nhân dân
(HĐND) cùng cấp quyết định dự toán ngân sách địa phương (NSĐP) và phương án phân
bổ ngân sách cấp mình; báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên
dự toán NSĐP và kết quả phân bổ dự toán ngân sách cấp mình đã được HĐND cùng cấp
quyết định.
Trên cơ sở nhiệm vụ ngân sách cả năm gồm nội dung tổ chức thu NSNN và bố trí
cấp phát kinh phí của NSNN, cơ quan quản lý thu (thuế, hải quan) lập dự toán thu ngân
sách quý có chia ra khu vực kinh tế, địa bàn và đối tượng thu chủ yếu là hình thức thu:
các đơn vị thụ hưởng ngân sách lập dự toán, chi quý, chi tiết theo mục lục NSNN gửi cơ
quan quản lý cấp trên, cơ quan quản lý cấp trên tổng hợp, lập dự toán chi ngân sách quý
(chia ra tháng). Dự toán thu, chi gửi cơ quan tài chính đồng cấp trước ngày 10 của tháng
cuối quý.
Việc xem xét và thảo luận ngân sách được tiến hành tại kỳ họp Quốc hội; sau khi
thảo luận và thông qua, Quốc hội sẽ ra nghị quyết về việc phê chuẩn ngân sách, nghị
quyết này trở thành văn bản luật, mọi tổ chức và cá nhân đều có nghĩa vụ chấp hành.
- Thông báo ngân sách là bước cuối cùng của quá trình hình thành ngân sách
được thực hiện sau khi có quyết định nghị quyết phê chuẩn ngân sách của Quốc hội,
Chính phủ và Bộ Tài chính giao hướng dẫn nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho các bộ,
ngành, địa phương để thực hiện.
* Chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tổng hòa các biện pháp kinh tế, tài chính
và biện pháp hành chính nhằm biến các chỉ tiêu thu, chi ghi trong dự toán NSNN trở
thành hiện thực [26].
Chấp hành ngân sách được thực hiện khi năm ngân sách bắt đầu và ngân sách
được triển khai; nội dung chủ yếu là tổ chức thu, quản lý nguồn thu NSNN và cấp phát
kinh phí của NSNN.
Việc chấp hành NSNN thuộc về tất cả pháp nhân và thể nhân dưới sự điều hành
của Bộ Tài chính.
Thực chất của tổ chức chấp hành thu, chi ngân sách là việc tìm kiếm, sử dụng các
biện pháp có hiệu quả nhất để thắng lợi các nhiệm vụ chấp hành ngân sách đặt ra.
- Nội dung chủ yếu của tổ chức chấp hành kế hoạch thu ngân sách:
+ Dựa vào kế hoạch thu hàng năm đã được Quốc hội thông qua, căn cứ vào tình
hình thực tế sản xuất kinh doanh, tình hình kinh tế hoạch định kế hoạch thu hàng quý,
hàng tháng phù hợp. Đồng thời phân bổ, giao nhiệm vụ thu hàng quý, tháng cho từng
ngành, từng đơn vị và cho từng cán bộ làm công tác thu nộp.
+ Tổ chức các biện pháp kinh tế, tài chính, các biện pháp, các nghiệp vụ nhằm
hoàn thành kế hoạch thu NSNN, củng cố, kiện toàn bộ máy thu thống nhất từ trung ương
đến địa phương, đảm bảo bộ máy gọn nhẹ nhưng đạt hiệu suất công tác cao. Cụ thể hóa
các chính sách, chế độ, luật lệ thu của Nhà nước và hướng dẫn các cấp, các ngành, các
đơn vị sản xuất kinh doanh thực hiện, nghiên cứu đề xuất các biện pháp kiểm tra thu nộp
và tổ chức lực lượng thực hiện công tác kiểm tra đôn đốc thu nộp đối với từng cơ sở hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Xác lập mối liên hệ về mặt nghiệp vụ đối với các cơ quan liên quan trong quá
trình chấp hành kế hoạch thu NSNN: kịp thời nắm bắt và xử lý thông tin cần thiết trong
lĩnh vực sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực thu nộp [26, tr. 347-351-352].
- Nội dung chủ yếu của tổ chức chấp hành kế hoạch chi ngân sách:
+ Xác lập quỹ cấp phát NSNN theo những mục tiêu mà kế hoạch chi đã đặt ra
nhằm đảm bảo tính chủ động trong quá trình cấp phát.
+ Kiểm tra soát xét tình hình tồn quỹ ngân sách đề xuất các biện pháp giải quyết,
trên cơ sở đó tổ chức việc cấp phát một cách kịp thời, chặt chẽ, tránh mọi sơ hở gây lãng
phí, tham ô làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
- Bằng các biện pháp nghiệp vụ, cơ quan tài chính cụ thể hóa và hướng dẫn các
cấp, các ngành, các đơn vị thi hành. Cơ quan tài chính có trách nhiệm thường xuyên kiểm
tra tình hình sử dụng nguồn vốn của ngân sách đối với các cấp, các ngành, các đơn vị
nhằm làm cho việc sử dụng nguồn vốn của ngân sách đúng mục đích, tiết kiệm đạt hiệu
quả cao.
- Tham mưu cho Nhà nước điều phối nguồn vốn cấp phát của ngân sách khi
những nhu cầu đột xuất không nằm trong dự kiến kế hoạch chi nhưng đòi hỏi phải đáp
ứng.
Tổ chức đánh giá tình hình chấp hành kế hoạch chi và kịp thời đề xuất những
biện pháp khắc phục những tồn tại. Đồng thời thông báo kịp thời tình hình cấp phát, tình
hình tồn quỹ ngân sách cho các cấp có thẩm quyền theo chế độ báo cáo qui định [26, tr.
356], [28].
* Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong quy trình NSNN.
Thông qua quyết toán NSNN có thể cho ta thấy bức tranh toàn cảnh hoạt động
kinh tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian qua, tình hình hoạt động NSNN với tư cách
là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Từ đó rút ra kinh nghiệm trong việc quản lý điều
hành NSNN.
Các đơn vị dự toán các cấp I, II, III và đơn vị dự toán cấp dưới của
cấp III, cơ quan tài chính các cấp; KBNN; cơ quan thu đều là đối tượng thực hiện kế toán
NSNN. Trình tự lập, phê chuẩn và gửi báo cáo quyết toán thu, chi NSNN hàng năm của
ngân sách các cấp chính quyền địa phương như sau:
+ Ban Tài chính xã có trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách
hàng năm của xã trình UBND xã, UBND xã trình HĐND xã phê chuẩn xem xét để gửi
Phòng Tài chính huyện.
+ Phòng Tài chính huyện có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi
ngân sách xã; lập báo cáo quyết toán thu, chi ngân sách cấp huyện; tổng hợp báo cáo thu
NSNN trên địa bàn huyện; quyết toán thu, chi ngân sách huyện (gồm thu, chi ngân sách
cấp huyện và thu, chi ngân sách xã) trình UBND huyện, UBND huyện trình HĐND
huyện phê chuẩn xem xét để gửi Sở Tài chính - Vật giá.
+ Sở Tài chính - Vật giá có trách nhiệm thẩm tra báo cáo quyết toán thu, chi ngân
sách huyện; lập báo cáo thu NSNN trên địa bàn tỉnh và báo cáo quyết toán thu, chi ngân
sách tỉnh (bao gồm: thu, chi ngân sách cấp tỉnh; thu, chi ngân sách cấp huyện) trình
UBND, UBND tỉnh trình HĐND tỉnh phê chuẩn xem xét để gửi Bộ Tài chính và gửi cơ quan
kiểm toán nhà nước khu vực.
Công tác kiểm tra, kiểm toán, công tác kế toán ngân sách được thực hiện thường
xuyên là một biện pháp bảo đảm cho các quy định về kế toán được chấp hành nghiêm
chỉnh và số liệu kế toán được báo cáo đầy đủ, trung thực, chính xác và khách quan.
Các báo cáo quyết toán thu, chi đơn vị ngân sách của đơn vị dự toán các cấp và
báo cáo quyết toán ngân sách của các cấp chính quyền trước khi trình cơ quan nhà nước
có thẩm quyền phê chuẩn, phải được cơ quan kiểm toán nhà nước kiểm toán.
1.2.3. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
Phân cấp quản lý ngân sách thực chất là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền trong việc sử dụng NSNN, cụ thể là:
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong việc ban
hành các chính sách, chế độ thu, chi quản lý NSNN.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ chi, nguồn
thu và cân đối ngân sách các cấp chính quyền.
- Giải quyết mối quan hệ trong quy trình ngân sách.
Theo Luật NSNN hiện hành, mỗi cấp chính quyền đều có ngân sách tương ứng
với 4 cấp chính quyền là 4 cấp ngân sách: Ngân sách Trung ương (NSTW), ngân sách
cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện, ngân sách cấp xã.
Cả 4 cấp ngân sách này hợp thành một thể thống nhất là hệ thống NSNN, trong
đó NSTW giữ vai trò chủ đạo, ngân sách cấp tỉnh, huyện, xã lồng ghép vào nhau và hợp
thành NSĐP. Nhằm phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của địa phương về mặt quản lý
ngân sách cần phải phân cấp, phân quyền phù hợp với chức năng nhiệm vụ của từng cấp,
phân cấp quản lý ngân sách cho địa phương tạo điều kiện cho địa phương khai thác
nguồn thu và bố trí kinh phí phù hợp để giải quyết các nhu cầu chi trên địa bàn, khắc
phục tư tưởng ỷ lại, thụ động, trông chờ của địa phương đối với trung ương.
Trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay,
những nhiệm vụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô nền kinh tế - xã hội sẽ ngày càng trở nên phức
tạp đối với chính quyền nhà nước trung ương, nên việc phân cấp quản lý ngân sách với
sự tồn tại NSĐP là hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hình thái tổ chức nhà nước và Hiến
pháp nước ta, phân cấp quản lý ngân sách theo cấp chính quyền sẽ tăng cường quyền hạn,
trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc chủ động khai thác nguồn thu và đảm
nhận các nhiệm vụ chi được giao. Phân cấp ngân sách không chỉ dừng lại ở việc phân
giao nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp ngân sách mà còn giải quyết tất cả các mối quan hệ
về kinh tế - tài chính giữa các cấp chính quyền địa phương. Do đó, nó là công việc của
chính các cấp chứ không phải chỉ là công việc điều hành riêng trong nội bộ của ngành tài
chính [33].
* Nội dung phân cấp quản lý NSNN:
Giải quyết mối quan hệ giữa NSTW và NSĐP theo hướng tập trung cần thiết
NSTW để phát huy vai trò chủ đạo, chi phối trong toàn bộ hệ thống NSNN. Đồng thời
mở rộng hơn quyền chủ động NSĐP trong bảo đảm nguồn thu và nhiệm vụ chi. Quá trình
đó giải quyết mối quan hệ giữa chính quyền các cấp trong quản lý ngân sách, với ý nghĩa
đó phân cấp ngân sách phải bao gồm các nội dung sau:
Thứ nhất là quan hệ về mặt chế độ, chính sách.
Trong phân cấp quản lý ngân sách phải phân định rõ cấp chính quyền nào được
ban hành các chế độ, chính sách, định mức, tiêu chuẩn, chỉ tiêu ngân sách ban hành
những loại chế độ nào. Những vấn đề này phải được quy định rõ ràng về chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn mỗi cấp tức là cấp trung ương thì phạm vi thực hiện
đến đâu, cấp địa phương thì quyền xử lý ở phạm vi mức độ giới hạn nào trong hoạt động
ngân sách. NSĐP vừa thể hiện tính chủ động, độc lập, vừa là sự chấp hành. Các chế độ,
chính sách, định mức, tiêu chuẩn mỗi cấp ngân sách tuy phân định phạm vi, giới hạn
nhưng chúng có mối quan hệ khăng khít và thống nhất toàn quốc. Nếu không chấp hành
nghiêm chỉnh trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền trong quản lý ngân sách
thì sẽ xảy ra mâu thuẫn giữa yêu cầu xử lý các điều kiện cụ thể ở địa phương và khắc
phục được tính chất quan liệu cứng nhắc của các quy định từ trung ương.
Thứ hai là quan hệ vật chất.
Quan hệ vật chất trong việc phân giao nhiệm vụ chi và nguồn thu cũng như
quyền hạn trong cân đối ngân sách các cấp chính quyền nhà nước rất phức tạp vì luôn
vấp phải những khó khăn do sự biến động của khối lượng nguồn thu, vì nguồn thu phụ
thuộc lớn vào tình trạng kinh tế của mỗi địa phương, nguồn thu ở mỗi địa phương chênh
lệch nhau đều có ảnh hưởng đến việc chi tiêu khác nhau.
Rõ ràng quá trình chấp hành NSNN đều có đụng chạm đến quyền hạn và lợi ích
của các cấp chính quyền, có thể nói đây là mâu thuẫn luôn có trong sự thống nhất lợi ích
quốc gia và lợi ích địa phương, làm dịu đi tính phức tạp, không để gia tăng mâu thuẫn
trong quan hệ vật chất. Cho nên khi ban hành chế độ phân chia vật chất chú trọng đến đặc
điểm, khả năng của địa phương trong khai thác nguồn thu.
Thứ ba là quan hệ về quản lý.
Quan hệ quản lý trong quy trình NSNN, từ khâu lập, chấp hành và quyết toán
ngân sách, các mối quan hệ quản lý này phải được phân định rõ theo cấp ngân sách trong
quá trình vận động ngân sách, nghĩa là các nội dung quản lý mỗi cấp phải được tiêu
chuẩn hóa và thống nhất hóa thành hệ thống. Có như vậy sẽ khắc phục tình trạng bao
biện ôm đồm, bỏ lơi nhiệm vụ của chính quyền cấp trên, gây phức tạp cho chính quyền
cấp dưới, gây thiệt hại to lớn cho kinh tế đất nước [32].
Ba nội dung phân cấp quản lý có mối quan hệ khăng khít, các chế độ, chính sách
quyết định đến quyền hạn, lợi ích, vật chất mỗi cấp ngân sách.
NSĐP được phân giao cụ thể các nhiệm vụ chi và nguồn thu gắn với phân cấp
kinh tế - xã hội và hoạt động của chính quyền như:
- Về phân cấp nguồn thu:
+ Theo Luật NSNN quy định các khoản thu NSĐP gồm: các khoản thu được tập
trung vào ngân sách cấp mình 100% và các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần
trăm giữa ngân sách các cấp. Quy định của cơ chế phân cấp NSNN, các khoản thu được
để lại 100% cho NSĐP như:
- Tiền cho thuê mặt đất, mặt nước đối với các doanh nghiệp. Tiền thuê và bán nhà
ở thuộc sở hữu nhà nước - do ngân sách tỉnh thu.
+ Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoặc từ
nguồn vốn hỗ trợ phát triển từ nước ngoài (ODA) thuộc ngân sách cấp nào thì ngân sách
cấp đó thu
Tùy theo yêu cầu tình hình kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chi trên từng địa bàn,
ngân sách các cấp trung ương, tỉnh, huyện có nhiệm vụ chi bổ sung cho ngân sách cấp
dưới, ngược lại ngân sách các cấp, tỉnh, huyện, xã (phường, thị trấn) còn có một phần được
bổ sung từ ngân sách cấp trên trực tiếp.
Phần được bổ sung thu ngân sách này là các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần
trăm giữa các cấp ngân sách.
Đây là các khoản thu khá phức tạp và cơ chế phân cấp ngân sách đã quy định cho
phép điều hòa theo tỷ lệ phần trăm giữa các cấp ngân sách. Các khoản thu này như:
+ Đối với các doanh nghiệp do Trung ương quản lý bao gồm thu thuế giá trị gia
tăng (trừ thuế giá trị gia tăng hàng hóa xuất nhập khẩu), thuế thu nhập doanh nghiệp
(không kể đơn vị hạch toán toàn ngành), các khoản thu thuế sử dụng vốn NSNN, thu
hoàn vốn chênh lệch giá và thu khác phân cấp nhiệm vụ thu do tỉnh đảm nhiệm và được
phân chia tỷ lệ phần trăm giữa NSTW và ngân sách tỉnh theo quy định của Trung ương
(không phân chia cho ngân sách huyện).
+ Đối với các doanh nghiệp do địa phương quản lý và các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài bao gồm thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thu sử
dụng vốn NSNN, thu hoàn vốn chênh lệch giá và các khoản thu khác phân cấp cho tỉnh
thì do tỉnh thu và được điều tiết toàn bộ cho ngân sách tỉnh, không điều tiết cho ngân sách
huyện. Thuế sử dụng đất nông nghiệp phân cấp cho huyện thu và được phân chia tỷ lệ
phần trăm cho ngân sách tỉnh, ngân sách huyện, ngân sách xã. Mức phân chia cho các cấp
ngân sách được xác định căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương.
+ Thu từ khu vực ngoài quốc doanh bao gồm thuế doanh thu (thuế GTGT), thuế
lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế tài nguyên, thuế môn bài, thuế sát sinh, thu
khác phân giao nhiệm vụ cho cả tỉnh và huyện nhưng chủ yếu là huyện thu, nguồn thu
được phân chia theo tỷ lệ phần trăm cho cả ba cấp ngân sách địa phương (tỉnh, huyện, xã)
theo tỷ lệ nhất định. Thu phí và lệ phí phân cấp thuộc nhiệm vụ thu của ngân sách tỉnh,
huyện, xã, cấp nào thu thì ngân sách cấp đó được hưởng 100%
Những nguồn thu lớn và tập trung được phân cấp thu cho ngân sách tỉnh đảm
nhận nhằm thực hiện chức năng quan trọng của ngân sách tỉnh. Chỉ có Chính phủ mới
được quyền quy định điều chỉnh các khoản thu chi, từng cấp ngân sách, quyết định tỷ lệ
phần trăm phân chia các khoản thu giữa NSTW và ngân sách tỉnh và mức bổ sung của
NSTW cho ngân sách tỉnh.
- Phân cấp nhiệm vụ chi:
Chế độ tiêu chuẩn, định mức chỉ tiêu do Chính phủ hoặc Chính phủ ủy quyền cho
Bộ Tài chính quy định áp dụng thống nhất trong cả nước. Luật NSNN quy định chi
NSNN chỉ được thực hiện chi khi có đủ ba điều kiện là:
Một là, đã có trong dự toán ngân sách được duyệt