LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực, chính xác và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào,
mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn này đã được cảm ơn.
Tôi xin cam đoan rằng, các thông tin trích dẫn sử dụng trong luận văn
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Huế, tháng 9 năm 2009
Người cam đoan
Phạm Hồng Thắng
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết
hợp với kinh nghiệm trong quá trình công tác thực tiễn, với sự nỗ lực cố gắng
của bản thân.
Đạt được kết quả này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý
thầy, cô giáo trường Đại học Kinh tế Huế đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ cho tôi.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, Tiến sỹ.
Nguyễn tài Phúc là người trực tiếp hướng dẫn khoa học và đã dày công giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến lãnh đạo; cán bộ công chức Cục
thuế tỉnh Quảng Bình; Chi cục Thuế huyện Quảng Trạch; phòng thống kê
huyện Quảng Trạch; phòng Tài Chính - Kế hoạch huyện Quảng Trạch và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn huyện Quảng Trạch đã giúp đỡ tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân luôn đứng bên
cạnh tôi động viên, khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn.
Mặc dù bản thân đã rất cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi
những khiếm khuyết, tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy,
cô giáo; đồng chí và đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, ngày tháng năm 2009
Phạm Hồng Thắng
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt Nghĩa
CBCC: Cán bộ công chức
CTCP: Công ty cổ phần.
CQT: Cơ quan thuế
DN: Doanh nghiệp
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
DNVVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐTNT: Đối tượng nộp thuế
GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT: Giá trị gia tăng
HTX: Hợp tác xã
NSNN: Ngân sách Nhà nước
QLT: Quản lý thuế
SXKD: Sản xuất kinh doanh
TNDN: Thu nhập doanh nghiệp
TNCN: Thu nhập cá nhân
TK-TN Tự khai - tự nộp
TTĐB: Tiêu thụ đặc biệt
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
UBND: Uỷ ban nhân dân
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Sau 19 năm (1990-2009) thực hiện cải cách chính sách và quản lý thuế,
ngành thuế đã có những đóng góp đáng kể vào việc phát triển kinh tế xã hội,
góp phần thực hiện và hoàn thành các nhiệm vụ phát triển mà Đảng và Nhà
nước đã đề ra. Hệ thống chính sách thuế tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo bao
quát tương đối đầy đủ các nguồn thu hiện có và phù hợp với nền kinh tế đang
chuyển đổi theo cơ chế thị trường và mở cửa với bên ngoài. Công tác quản lý
thu thuế từng bước được chuyên môn hoá, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm
của cá nhân và tập thể trong quản lý thu nộp thuế, bảo đảm tính công khai,
dân chủ.
Cùng với ngành thuế cả nước, Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình được thành lập năm 1990 có nhiệm vụ thu ngân sách trên địa
bàn. Kết quả thu thuế năm sau cao hơn năm trước. Tổ chức quản lý thu thuế
từng bước được cải cách, hiện đại hoá; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của
cán bộ công chức (CBCC) thuế ngày càng được nâng lên. Hiện nay với gần
200 doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang hoạt động sản xuất kinh doanh
(SXKD), là một nhân tố quan trọng trong việc đóng góp nguồn thu cho Ngân
sách nhà nước (NSNN) ở địa phương.
Tuy nhiên, công tác quản lý thu thuế nói chung, quản lý thu thuế đối
với DNVVN nói riêng hiện tại vẫn còn chưa hoàn thiện, còn nhiều vướng
mắc, bất cập cả về qui trình quản lý, ứng dụng công nghệ tin học, bố trí nguồn
nhân lực, trình độ quản lý thu thuế của một số công chức thuế chưa đáp ứng
được yêu cầu công cuộc cải cách hành chính, hiện đại hoá ngành thuế; tình
trạng doanh nghiệp kê khai đăng ký thuế ít hơn số lượng doanh nghiệp đăng
ký thành lập; tình hình nộp thuế chưa phản ảnh đúng quy mô hoạt động
SXKD của doanh nghiệp.
1
Mặt khác, xu thế hội nhập kinh tế trong khu vực và thế giới tiến tới toàn
cầu hoá là tất yếu khách quan. Theo đó hội nhập quốc tế về thuế ngày càng
rộng và sâu nhằm khuyến khích đầu tư, tự do hoá thương mại trên toàn thế
giới. Ngoài việc phải xây dựng hệ thống chính sách thuế tương thích, công tác
quản lý thuế phải được cải cách và hiện đại hoá theo các chuẩn mực quản lý
thuế quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh mẽ đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài, tạo môi trường thuận lợi đồng nhất về thuế để phát triển kinh tế - xã
hội đất nước.
Để nhằm mục tiêu tăng thu cho Ngân sách, nâng cao năng lực quản lý
thuế, góp phần đẩy mạnh cải cách thủ hành chính trong lĩnh vực thuế. Đồng
thời đáp ứng được yêu cầu về công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế thì việc xây
dựng hoàn thiện chính sách thuế nói chung và quản lý thu thuế đối với
DNVVN nói riêng là một đòi hỏi bức thiết. Xuất phát từ những vấn đề nêu
trên chúng tôi chọn đề tài : "Hoàn thiện quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình"
làm luận văn thạc sỹ kinh tế của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận văn là phân tích, đánh giá thực trạng quản
lý thu thuế đối với các DNVVN, tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch. Trên
cơ sở đó nhằm đề xuất các giải pháp giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ và
Chi cục thuế Quảng Trạch nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa và bổ sung các vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý
thuế trong cơ chế thị trường đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
2
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu thuế đối với
doanh nhiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý thuyết và thực tiễn của
việc quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế
huyện Quảng Trạch đặt trong tổng thể vấn đề quản lý thu thuế, phí và lệ phí
trong toàn ngành thuế.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong lĩnh vực
quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện
Quảng Trạch.
- Không gian: Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Thời gian: Nghiên cứu thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch từ năm 2006 - 2008,
đề xuất giải pháp quản lý thu thuế đối với DNVVN đến năm 2012.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để đánh giá một cách toàn diện và có hệ thống thực trạng công tác
quản lý thuế đối với các DNVVN tại Chi cục thuế huyện Quảng Trạch, luận
văn sử dụng các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
trong quá trình đổi mới kinh tế để phân tích thực trạng quản lý và thực hiện
chính sách thuế ở địa bàn nghiên cứu. Từ đó rút ra một số nhận xét và kiến
3
nghị đề xuất các giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế đối
với các DNVVN tại Chi Thuế huyện Quảng Trạch.
Phương pháp tiếp cận: xem xét, nghiên cứu dưới góc độ các quy trình
nghiệp vụ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, trong đó tập trung
vào các quy trình quản lý thuế hiện hành như quy trình quản lý DN, quy trình
kiểm tra thuế...để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn
hoặc những tồn tại để nhằm đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong
tương lai.
4.2. Phương pháp thu thập số liệu
4.2.1. Số liệu thứ cấp
Được thu thập từ các nguồn tài liệu, báo cáo của Chi Cục Thuế huyện
Quảng Trạch; Niên giám thống kê huyện Quảng Trạch; các báo cáo tài liệu
của các ban ngành huyện Quảng Trạch; thông tin đã được công bố trên các
giáo trình, báo, tạp chí, công trình và đề tài khoa học trong và ngoài nước.
4.2.2. Số liệu sơ cấp
Được tiến hành thu thập trên cơ sở các doanh nghiệp hoạt động sản
xuất kinh doanh trên địa bàn và số lượng cán bộ công chức (CBCC) quản lý
thu thuế thuộc Chi Cục Thuế huyện Quảng Trạch. Cụ thể chọn 92 DNVVN
trong tổng số 197 DNVVN đang hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) trên
địa bàn huyện Quảng Trạch và 56 cán bộ công chức thuế trong tổng số 79
cán bộ công chức của Chi cục thuế huyện Quảng Trạch để tiến hành điều tra.
Phương pháp điầu tra bằng cách phát phiếu khảo sát đã được thiết kế
sẳn, nhằm lấy ý kiến của các DNVVN và của CBCC thuế về sự phù hợp của
nội dung chính sách thuế; thủ tục hành chính thuế...
4.3. Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu
- Dùng phương pháp phân tổ thống kê để hệ thống hoá và tổng hợp tài
liệu theo các tiêu thức phù hợp với mục đích nghiên cứu.
4
- Việc xử lý và tính toán các số liệu, các chỉ tiêu nghiên cứu được tiến
hành trên máy tính theo các phần mềm Excel, SPSS và phần mềm tin học của
Tổng Cục Thuế.
4.4. Phương pháp phân tích
- Trên cơ sở các tài liệu đã được xử lý, tổng hợp và vận dụng các
phương pháp phân tích thống kê, phân tích kinh tế để đánh giá thực trạng
quản lý thu thuế đối với các DNVVN của cơ quan thuế; phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến công tác quản lý thu thuế.
- Phương pháp kiểm định sự bằng nhau của hai trị trung bình để so sánh
có sự khác biệt ý kiến đánh giá của hai nhóm đối tượng được điều tra về nội
dung chính sách thuế và công tác quản lý thu thuế.
- Phương pháp đồ thị và biểu đồ để phân tích đánh giá một cách khách
quan, khoa học về các nội dung nghiên cứu.
4.5. Phương pháp chuyên gia và chuyên khảo
Phương pháp chuyên gia: Để làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như đánh
giá thực trạng quản lý thu thuế đối với DNVVN hiện nay trên địa bàn huyện
Quảng Trạch, tác giả thu thập ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Chi cục thuế
huyện Quảng Trạch, giám đốc và kế toán một số doanh nghiệp để đưa ra các
kết luận một cách xác đáng, có căn cứ khoa học nhằm đề xuất giải pháp có sức
thuyết phục cao, mang tính khả thi phù hợp với thực tiễn địa bàn nghiên cứu.
5
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ
ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm
Trên thực tế thuế đã tồn tại từ khi các Nhà nước hình thành, song các lý
luận về kinh tế của thế giới, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt đối
khái niệm về thuế [33]. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh
đầy đủ bản chất chung nhất của phạm trù này.
Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn
giản: “Để đạt được quyền lực công cộng đó, cần phải có những đóng góp của
những người công dân của nhà nước, đó là thuế” [1].
C.Mác đã viết “Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước”; Ăng ghen
cũng đã viết “Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của
công dân cho nhà nước, đó là thuế ” [44].
Theo Benjamin Franklin, một trong những tác giả của bản tuyên ngôn
độc lập nổi tiếng của nước Mỹ đã đưa ra một lời tuyên bố bất hủ trong lịch sử
thuế khoá: “Trong cuộc sống không có gì tất yếu, ngoài cái chết và thuế” [1]
Sau này khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Trong cuốn từ điển của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan
Lowes cho rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập
của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu),
trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”. [1]
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu như sau:
6
“Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao
bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ,
mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc
dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do
hành vi vi phạm pháp luật”[2]
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế
cho rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật
các khía cạnh sau đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan
hệ tiền tệ giữa Nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan
hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã
hội đặc biệt việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh
của Nhà nước xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà
nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Từ việc phân tích những quan niệm về thuế của thế giới và của nước ta
nêu trên, có thể nhận thức chung về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và
pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và pháp luật quy định. Khoản chuyển
giao thu nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu công cộng. Nguồn
thu về thuế không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân.
1.1.2. Bản chất, chức năng của thuế
1.1.2.1. Bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử,
thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình
thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có
của thuế. Những đặc điểm đó là:
7
Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ cơ
bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp; thuế là một phần thu
nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước; thuế là một
hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp [20].
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà
nước thu thuế cũng là nhằm tạo ra một nguồn lực tập trung để chi phát triển
cơ sở hạ tầng, chi phúc lợi công cộng, chi văn hóa, giáo dục y tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng… Hiến pháp nước ta năm 1992, Điều 80 đã ghi rõ: “Công
dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo qui định pháp luật”. Tuy
nhiên, Nhà nước cần phải thu đúng thu đủ để đảm bảo chi cho các mục tiêu
trên, còn người nộp thuế thường muốn nộp thuế càng ít càng tốt. Do đó khi ý
thức tự giác chấp hành pháp luật thuế của người dân chưa cao thì tình trạng
trốn thuế, nợ thuế là điều không thể tránh khỏi, dẫn đến công tác thuế luôn
gặp những khó khăn nhất định.
1.1.2.2. Chức năng của thuế
Chức năng của một sự vật hay đối tượng nào đó là sự thể hiện công
dụng vốn có của nó. Đối với một phạm trù kinh tế, chức năng phản ánh bản
chất sự tác động vốn có của nó, là phương thức đặc biệt biểu hiện những
thuộc tính vốn có cuả phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính
ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế không những là một phạm trù kinh tế mà còn là phạm trù tài
chính, nó biểu hiện những thuộc tính vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy
nhiên, thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng
riêng của mình bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Mặc dù chưa có sự thống nhất trong việc đưa ra số lượng các chức
năng của thuế, nhưng thông qua quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy thuế luôn thực hiện hai chức năng: chức năng huy động nguồn
lực tài chính cho nhà nước và chức năng điều chỉnh.
8
1.1.3. Hệ thống thuế, phân loại thuế và các yếu tố cấu thành một sắc thuế
1.1.3.1. Khái niệm hệ thống thuế
Suy cho cùng, cơ sở nộp thuế đều bắt nguồn từ thu nhập, song do yêu
cầu của quá trình tái sản xuất, thu nhập vận động qua một chu trình kinh tế và
thay đổi hình thái biểu hiện của nó.
Trong nền kinh tế thị trường, thu nhập luân chuyển trong một vòng
khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền công này để mua
hàng hoá, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty lại dùng số tiền thu
được để trả lãi cho vốn đầu tư, tiền thuê đất đai, tiền công...và những thành
phần này chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hoá, dịch vụ.
Chính sự biến đổi đa dạng này đã tạo ra khả năng đánh thuế của Chính
phủ trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín. Trong dòng luân chuyển
đó nảy sinh các cơ sở khác nhau, do đó xuất hiện các hình thức thuế khác nhau.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau và việc xây dựng các loại thuế, phương
pháp thu nộp thuế được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định.
1.1.3.2. Phân loại thuế
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống
pháp luật thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng
và quản lý hệ thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành
những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật
thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tuỳ thuộc
vào mục tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu
và nội dung các Luật thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào cơ sở, mục đích
phân định, thông thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
- Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách
9
Nhà nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
+ Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một
phần thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, sử dụng dịch vụ thông qua việc
thu thuế đối với người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tính chất gián
thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với
nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ
do chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người
tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này bao gồm:
Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt...
+ Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu
nhập của các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ
người nộp thuế theo quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế.
Thuế trực thu trực tiếp động viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở
nước ta thuộc loại thuế này gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan
trọng trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
- Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được
chia thành: Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế
giá trị gia tăng, thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu,
thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế
đánh vào việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài
nguyên, thuế sử dụng đất, sử dụng vốn của Ngân sách Nhà nước, thuế khác và
lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa
phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau
10
nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp
luật thuế [30].
1.1.3.3. Các yếu tố cơ bản cấu thành một sắc thuế
Khác với các hình thức động viên tài chính khác, thuế thực hiện chuyển
giao thu nhập dưới các hình thức biểu hiện cụ thể của mình bằng một sắc
thuế. Mỗi sắc thuế đều phải được quy định bằng một văn bản pháp luật và
được gọi là một luật thuế. Trong một luật thuế thông thường chứa đựng các
yếu tố cơ bản sau đây:
- Chủ thể chịu sự điều chỉnh của một luật thuế (Đối tượng nộp thuế):
Chủ thể chịu sự điều chỉnh của một luật thuế chỉ rõ khoản thuế đó do
chủ thể nào phải nộp. Luật thuế gọi chủ thể đó là đối tượng nộp thuế (ĐTNT).
Đối tượng nộp thuế theo luật định là thể nhân hoặc pháp nhân có trách
nhiệm phải nộp thuế cho Nhà nước theo luật pháp quy định. Đối tượng nộp
thuế không nhất thiết là đối tượng chịu thuế. Trong nhiều trường hợp đối
tượng nộp thuế cũng chính là đối tượng chịu thuế, khi trong sắc thuế đó người
nộp thuế không có khả năng chuyển giao gánh nặng thuế cho người khác.
- Khách thể chịu sự điều chỉnh của luật thuế (Đối tượng chịu thuế):
Khách thể trong luật thuế chỉ rõ đối tượng được đưa ra làm cơ sở tính
thuế hay đối tượng chịu thuế. Trong luật thuế, người ta gọi khách thể là đối
tượng chịu thuế.
Do cơ sở thuế là thu nhập, hàng hoá hay tài sản, do đó đối tượng chịu
thuế cũng có thể là thu nhập, giá trị hàng hoá hoặc giá trị của tài sản. Mỗi một
luật thuế có một đối tượng chịu thuế riêng. Đối tượng chịu thuế có thể được
tính trên một đơn vị, trên một đơn vị vật lý hoặc một đơn vị giá trị.
- Mức thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng chịu thuế (Thuế suất):
Mức thuế thể hiện mức độ động viên của Nhà nước trên một đơn vị của
đối tượng chịu thuế. Trong ngôn ngữ luật thuế người ta gọi mức thuế phải nộp
là thuế suất hay định suất.
11
Trong một luật thuế, thuế suất hay định suất là linh hồn của sắc thuế,
mang trong mình nó gánh nặng của thuế, thể hiện nhu cầu cần tập trung
nguồn tài chính và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế - xã hội của Nhà
nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy,
việc xác định thuế suất trong một luật thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi
trọng lợi ích chung của quốc gia vừa phải chú ý thích đáng đến lợi ích của
người nộp thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập trung và tích tụ trong việc
sử dụng công cụ thuế.
Thuế suất (t) được xác định dựa trên hai yếu tố: tổng số thuế cần huy
động cho Nhà nước (T) và cơ sở thuế (C):
t = T/C
Tổng số thuế cần huy động phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước trong từng thời kỳ, mức thu nhập và mức tích luỹ đạt được trong nền
kinh tế quốc dân.
Cơ sở thuế là một bộ phận của đối tượng tính thuế được xác định làm
căn cứ tính thuế. Cơ sở thuế thường thấp hơn đối tượng tính thuế, bởi vì tồn
tại mức tối thiểu không phải nộp thuế, miễn giảm thuế. Một cơ sở thuế sau
khi tính và nộp một loại thuế tương ứng có thể trở thành cơ sở của một loại
thuế khác.
1.1.4. Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
Quản lý Nhà nước đối với kinh tế là một chức năng vốn có của Nhà
nước, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì nhất thiết vai trò đó càng được
coi trọng và phát huy. Với vai trò chủ yếu là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự can thiệp tích cực của Nhà nước thông qua hệ thống
Pháp luật, đặc biệt là pháp luật tài chính, thuế, ngân hàng, trong đó vai trò của
thuế trở nên cực kỳ quan trọng. Thuế được coi là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước, có ảnh hưởng to lớn
12
đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Thuế điều tiết thu nhập trong xã hội và góp
phần đảm bảo công bằng xã hội [20].
1.1.4.1. Thuế là khoản thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước
Để có một nền tài chính Quốc gia lành mạnh chủ yếu phải dựa vào
nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay,
các khoản viện trợ giảm xuống nhiều thì thuế phải trở thành nguồn thu chủ
yếu của Ngân sách quốc gia, là một bộ phận cơ bản của chính sách tài chính
quốc gia. Sau 20 năm đổi mới tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến
tích cực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm sau tăng hơn năm trước, bình quân
trong 5 năm 2004-2008 là 7,8% [42].
Biểu đồ 1.1: Kết quả thu ngân sách của nước ta giai đoạn 2006 - 2008
ĐVT: Nghìn tỷ đồng
( Nguồn: Tổng cục thuế )
Lạm phát được kìm hãm và đẩy lùi, thị trường được mở rộng, kim
ngạch xuất khẩu tăng, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển. Quan
hệ kinh tế đối ngoại từng bước được mở rộng và phát triển hội nhập.Trong bối
cảnh đó thu ngân sách hàng năm tăng đều đặn năm sau cao hơn năm trước
13
0
100.000
200.000
300.000
400.000
500.000
Tổng thu NSNN
279.472 327.911 416.783
Số thu thuế nội địa
228.750 261.628 318.586
2006 2007 2008
đáp ứng được nhu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, góp phần tích
lũy cho Ngân sách và cả việc chi trả nợ vay. Được như vậy thuế đã góp phần
tích cực trong việc tăng thu Ngân sách. Tỷ lệ động viên GDP vào Ngân sách
Nhà nước ngày càng tăng. Trong đó mức động viên thuế và phí chiếm vai trò
quan trọng.
Ngân sách Nhà nước được thu từ nhiều nguồn khác nhau: Từ thuế, Phí
- lệ phí, viện trợ nước ngoài, tín dụng nhưng thuế và phí, đặc biệt là thuế là
nguồn thu chủ yếu, là bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia. ở các nước
phát triển, thuế chiếm trên dưới 90% tổng thu ngân sách. Ở Việt Nam vai trò
của thuế trong tổng thu ngân sách chiếm tỷ trọng lớn ngày càng tăng. Trong
năm 1990 tỷ trọng thuế và phí trong Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) là
76,8%, năm 2008 tăng lên 90% và tỷ lệ điều tiết từ GDP hàng năm khoảng
24-25%; tốc độ thu ngân sách qua các năm được thể hiện theo biểu đồ trên về
kết quả thu ngân sách của nước ta [37]
Với cơ cấu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Hệ thống thuế
được áp dụng thống nhất, đồng bộ giữa các thành phần kinh tế đã bao quát
toàn bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các nguồn thu nhập, mọi tiêu dùng của xã hội thuế đã hoàn thành
được nhiệm vụ tập trung tích lũy ngân sách đảm bảo cho yêu cầu chi của Nhà
nước về các mặt: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển...
1.1.4.2 Thuế là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thuế là một công cụ sắc bén của Nhà nước để quản lý kinh tế - xã hội
với chức năng chủ yếu là đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng khuyến khích sản xuất phát
triển theo định hướng của Nhà nước [32].
14
Một trong những yêu cầu có tính nguyên tắc là chính sách thuế phải
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Do vậy, bằng
các sắc thuế khác nhau áp dụng đối với từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau.
Nhà nước điều chỉnh quy mô đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực khác nhau.
Thực hiện cân đối hàng - tiền, cân đối cung cầu ở tầm vĩ mô, hình
thành cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, các vùng lãnh thổ giữa Trung
ương và Địa phương đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng tích lũy trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là điều kiện quan trọng ổn định để thúc đẩy tốc
độ phát triển của nền kinh tế.
Thông qua Pháp luật thuế Nhà nước xác định đúng đắn cơ cấu và quan
hệ giữa các sắc thuế, quy định chính xác, hợp lý đối tượng nộp thuế, chế độ
miễn giảm, phương pháp quản lý thuế để đảm bảo việc thu đúng thu đủ đồng
thời khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động sản xuất kinh doanh cần thiết
cho xã hội, khuyến khích những thành phần kinh tế cần thiết, các danh nghiệp
sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời hạn chế, thu hẹp những ngành
nghề, những mặt hàng cần thiết phải hạn chế kể từ sản xuất đến tiêu dùng xã
hội theo định hướng của chiến lược phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước có
lợi cho quốc kế dân sinh.
"Khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế cạnh tranh và chống độc quyền không thể áp dụng một cơ chế tài chính
đồng nhất cho các doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi hiện
nay (giữa các doanh nghiệp kinh doanh theo cơ chế thị trường và các doanh
nghiệp phục vụ các lợi ích công cộng) để điều tiết kinh tế - xã hội. Mặt khác
để chống độc quyền cần thiết phải có Luật về mặt tài chính cần phải sử dụng
công cụ thuế".
Thuế góp phần khuyến khích việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo
vệ môi trường sinh thái đồng thời khuyến khích việc khai thác, sử dụng một
15
cách tiết kiệm có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, vật tư trong nước [8].
Bằng các quy định phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế,
Thuế không những khuyến khích được hoạt động xuất khẩu hàng hoá nội địa,
từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển đồng thời thuế đã tạo điều kiện tốt cho quan
hệ hợp tác quốc tế trong khu vực và quốc tế. Mở rộng, phát triển đầu tư hợp
tác quốc tế thông qua chính sách khuyến khích đầu tư và xuất nhập khẩu [15].
1.1.4.3 Thuế góp phần bảo đảm bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế và
góp phần thực hiện công bằng xã hội
Hệ thống chính sách thuế được áp dụng thống nhất đối với mọi thành
phần kinh tế, mọi ngành nghề và các tầng lớp dân cư. Các đối tượng nộp thuế
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với việc nộp thuế, không một ai có những
đặc quyền đặc lợi riêng. Chính sách thuế không phân biệt, ưu tiên hay hạn chế
giữa các thành phần kinh tế. Mọi tổ chức, cá nhân đều phải chịu sự điều chỉnh
giống nhau của Pháp luật thuế [10].
Thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân bằng các sắc
thuế và các mức thuế suất khác nhau đối với từng lĩnh vực, từng mức thu
nhập Nhà nước thực hiện việc điều tiềt thu nhập giữa các thành phần kinh tế
và các cá nhân trong xã hội. Bằng cách đó, Nhà nước thu hẹp, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch quá mức về thu nhập giữa các bộ phận trong xã hội.
Người có thu nhập cao phải nộp thuế cao, người có thu nhập thấp nộp thuế
thu nhập ít [17].
Nhưng đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, các cá nhân sản xuất
kinh doanh giỏi, có hiệu quả bằng cách thừa nhận các khoản thu nhập hợp
pháp của họ.
Trong điều kiện kinh tế chưa phát triển, ý thức Pháp luật, tính tự giác
của số lớn các đối tượng nộp thuế chưa cao. Để đảm bảo sự công bằng về
16
nghĩa vụ nộp thuế thì một việc hết sức quan trọng là phải tăng cường công tác
quản lý thu thuế. Thông qua việc kiểm tra, thanh tra việc chấp hành Pháp luật
thuế phát hiện và xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm Pháp luật thuế. Từ yêu
cầu đó trong mọi luật thuế đều quy định rõ các biện pháp xử phạt, cưỡng chế.
Nhờ đó thuế đã góp phần tích cực trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của
các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Góp phần vào việc thực hiện công bằng xã
hội nói chung.
1.2. QUẢN LÝ THU THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Theo Nghị định số 90/12001 NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ
thì doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam được hiểu là cơ sở sản xuất, kinh
doanh độc lập, đã được đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn
đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không
quá 300 người.
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là các đơn vị sản xuất, kinh doanh độc lập có
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
1.2.1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Theo số liệu thống kê, tính đến cuối năm 2006 Việt nam có khoảng
210.000 doanh nghiệp đăng ký theo Luật doanh nghiệp. Trong số này khoảng
96% là các DNVVN với số lượng là 200.000. Khu vực DNVVN đóng vai trò
quan trọng trong phát triển bền vững của các nền kinh tế nói chung và của
Việt nam nói riêng. Đặc biệt là đối với Việt nam đang trên con đường công
nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Vai trò của các DNVVN thể hiện qua các mặt sau đây:
- Tạo ra việc làm mới, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp
17
- Huy động các nguồn vốn và sức mạnh của xã hội trong sản xuất, kinh
doanh
- Đóng góp quan trọng vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá và hiện đại hoá
- Tạo thêm thu nhập cho phần lớn người lao động
- Đóng góp vào phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau
- Góp phần giải quyết các vấn đề xã hội
- Đóng góp cho ngân sách Nhà nước
- Đào tạo các cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp lớn trong tương lai và
tạo nền tảng kinh tế ban đầu cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn
- Cùng với các doanh nghiệp lớn tạo ra các mối liên kết hiệu quả trong
tổng thể các chuỗi giá trị và chuỗi giá trị toàn cầu.
1.2.1.3. Sự cần thiết phải tăng cường quản lý thu thuế đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ
Chính sách đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đã thu được
những thành công rất to lớn, khẳng định tính đúng đắn trong việc đổi mới
công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt trong điều kiện
Đảng cầm quyền đòi hỏi phải có một Nhà nước được tổ chức khoa học có đủ
năng lực quản lý mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, nhất là năng lực tổ
chức quản lý kinh tế, mà một trong những công cụ hữu hiệu và sắc bén đó là
thuế. Hiệu quả quản lý nhà nước về thu ngân sách thể hiện qua việc tập trung
nguồn lực vật chất, quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế giúp cho Nhà nước
quản lý và kiểm soát có hiệu quả các hoạt động kinh tế và xã hội, thực hiện
được các mục tiêu đã đề ra.
Thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp nói chung là đối tượng thực hiện
tương đối tốt nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước như thực hiện tốt chế độ hạch
toán kế toán, đăng ký kê khai, chấp hành khá tốt pháp luật về thuế. Bên cạnh
18
mặt tích cực đó vẫn còn nhiều tồn tại cần phải khắc phục để nâng cao hiệu
quả công tác quản lý thu thuế và quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp đều là đối tượng phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với
Nhà nước. Vì vậy họ đều tính toán khi nộp thuế bởi nó liên quan đến lợi ích
của doanh nghiệp. Nếu không phải nộp thuế hoặc nộp thuế ít thì tỷ lệ để lại
được dùng vào mở rộng sản xuất kinh doanh, lợi nhuận để lại nhiều hơn ...
Cho nên còn một số doanh nghiệp tìm cách nộp thuế càng ít càng tốt. Vì vậy
những vi phạm về thuế vẫn cứ tiếp diễn dưới các hình thức như: tìm kẻ hở,
lách luật để tránh thuế, tăng chi phí để giảm thu nhập chịu thuế thậm chí có
một số doanh nghiệp còn trốn thuế như hạch toán sai chi phí, doanh thu ... vì
vậy đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự quản lý của cơ quan thuế .
Ngoài ra, các doanh nghiệp vẫn còn một số vi phạm về việc đăng ký, kê
khai, quyết toán thuế, dây dưa nộp thuế, nợ đọng thuế ... gây khó khăn phức
tạp trong quá trình quản lý thu thuế và ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
cơ quan thuế.
Những tồn tại trên xuất phát từ một số nguyên nhân như: cơ chế chính
sách thuế vẫn còn nhiều hạn chế chưa quy định chi tiết, cụ thể; giữa các luật
có khi không đồng bộ gây khó khăn cho công tác thực hiện. Công tác quản lý
thuế vẫn còn nhiều mặt yếu kém, đội ngũ cán bộ thuế vẫn có những cán bộ
chưa thực sự nắm chắc chuyên môn nghiệp vụ....còn thụ động, thiếu kiên
quyết, lúng túng, chưa có biện pháp cứng rắn trong quá trình xử lý các trường
hợp vi phạm. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp chưa thực sự am hiểu chính sách
thuế, thậm chí còn một số doanh nghiệp không tuân thủ các quy định về pháp
luật thuế để trốn thuế, gian lận thuế.
Qua sự phân tích trên cho thấy việc tăng cường công tác quản lý thuế
đối với các DNVVN là rất cần thiết đòi hỏi phải có nhiều giải pháp đồng bộ
mới có thể nâng cao hiệu quả của công tác này, góp phần chống thất thu, tăng
19
thu ngân sách, hạn chế sự vi phạm của các doanh nghiệp, đồng thời giúp Nhà
nước quản lý và điều tiết các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.2.1.4. Các sắc thuế thu vào doanh nghiệp
Thuế đối với doanh nghiệp là thuế đánh vào các pháp nhân kinh doanh
bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân (DNTN), công ty cổ phần
(CTCP), công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên (TNHH), công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã (HTX).
1.2.1.4.1. Thuế Giá trị gia tăng (GTGT)
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
[9], [10],[15].
Giá trị gia tăng = Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra – Giá trị hàng
hoá, dịch vụ mua vào tương ứng.
- Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho SXKD
và tiêu dùng.
- Đối tượng nộp thuế GTGT là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT hoặc nhập khẩu hàng hoá thuộc
diện chịu thuế GTGT.
- Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Giá tính thuế
GTGT được quy định cụ thể tại Điều 7 Luật thuế GTGT áp dụng cho từng
loại hàng hoá, dịch vụ.
Ví dụ: Giá tính thuế đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế
GTGT, đối với hàng hoá nhập khẩu giá tính thuế là giá nhập tại cửa khẩu
cộng với thuế nhập khẩu ...v.v.
20
Luật thuế GTGT của Việt Nam hiện nay quy định các mức thuế suất là:
0%, 5%, 10% áp dụng cho các nhóm hàng hoá dịch vụ.
- Phương pháp tính thuế GTGT: Gồm có 02 phương pháp tính thuế;
phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng và phương pháp tính trực tiếp trên
giá trị gia tăng.
+ Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế phải nộp = thuế GTGT đầu ra - thuế GTGT đầu vào
Trong đó: Thuế GTGT đầu ra bằng giá tính thuế hàng hoá dịch vụ bán
ra nhân (x) thuế suất; Thuế GTGT đầu vào = Tổng số thuế GTGT đã thanh
toán được ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp
thuế GTGT hàng hoá nhập khẩu.
+ Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT: Theo phương pháp này,
số thuế GTGT mà đối tượng nộp thuế phải nộp = GTGT của hàng hoá, dịch
vụ nhân (x) với thuế suất. [10]
1.2.1.4.2. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế trực thu đánh vào lợi
nhuận của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh [18], [46].
Căn cứ theo Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp hiện hành thì Thuế
TNDN được quy định như sau:
- Đối tượng nộp thuế TNDN: Là tổ chức hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế (sau đây gọi là doanh nghiệp),
bao gồm:
+ Doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật
doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm, Luật
chứng khoán, Luật dầu khí, Luật thương mại và các văn bản pháp luật khác
dưới các hình thức: Công ty cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
21