LUẬN VĂN:
Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu
vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở
Việt Nam hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp (DN) là tế bào của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam hiện
nay, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) có vai trò hết sức quan trọng thể hiện ở chỗ:
DNNN chi phối các ngành, các lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế,
góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
Trước những thách thức gay gắt của yêu cầu đổi mới, phát triển và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực, để kinh tế nhà nước nói chung, DNNN nói riêng thực sự
giữ vai trò chủ đạo trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định phát triển kinh
tế, chính trị, xã hội của đất nước, cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của DNNN.
Giải pháp cơ bản để thực hiện được mục tiêu này là tăng cường chất lượng công tác quản trị
kinh doanh trong các DNNN.
Kế toán, với vị trí là công cụ không thể thiếu phục vụ cho quản lý kinh tế tài chính
cần phải được các DNNN sử dụng một cách hợp lý, đúng đắn nhằm phát huy tối đa vai trò
của nó trong hệ thống quản lý kinh tế. ở nước ta, hệ thống kế toán hiện hành đã có những
thay đổi cơ bản so với hệ thống kế toán trước đây, đã tiếp cận những thông lệ, chuẩn mực kế
toán quốc tế và bao gồm một số nội dung của kế toán quản trị (KTQT). Tuy nhiên, những
thay đổi bước đầu đó mới chỉ thỏa mãn phần lớn nhu cầu thông tin theo quy định của Bộ Tài
chính, nhằm chủ yếu đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với hoạt động kinh tế tài
chính của DN. Công tác KTQT phục vụ cho mục đích quản trị DN vẫn còn là một vấn đề
chưa được xem xét, nhìn nhận đúng với vị trí và vai trò vốn có của nó.
KTQT là công cụ quản lý vi mô không thể thiếu phục vụ cho quản trị DN mới chỉ
được đề cập tới trong các tài liệu nghiên cứu và bước đầu xuất hiện một cách sơ lược trong
Luật Kế toán, chưa được những người hành nghề kế toán thực hiện một cách đầy đủ, các
nhà quản trị DN quan tâm sử dụng, thậm chí còn bỡ ngỡ cả trong nhận thức về vai trò, chức
năng và cách thức tổ chức thực hiện.
Đề tài " Tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà
nước ở Việt Nam hiện nay " được chọn nghiên cứu với mong muốn góp phần bổ sung thêm
những vấn đề lý luận về KTQT các yếu tố đầu vào, đưa ra một số biện pháp để tổ chức thực
hiện KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh
(KD) thì việc quản trị đúng đắn, hợp lý các yếu tố đầu vào của DN có vai trò vô cùng quan
trọng. Để đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời trong việc quản trị các yếu tố đầu vào,
nhà quản trị DN cần phải có nhiều thông tin: thông tin thực hiện, thông tin dự báo KTQT
với đặc điểm riêng của mình đã đáp ứng những yêu cầu về thông tin của quản trị trong từng
DN.
Với vai trò quan trọng như vậy, KTQT các yếu tố đầu vào đã và đang là vấn đề
được giới chuyên môn quan tâm. Các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong các trường đào
tạo chuyên ngành đang còn nhiều quan điểm khác nhau về lý luận cũng như việc áp dụng
trong các DN.
Thực tế ở Việt Nam, kế toán trong các DN chưa nhận thức đúng đắn về KTQT nói
chung và KTQT các yếu tố đầu vào nói riêng nên chưa cung cấp được các thông tin cần
thiết phục vụ cho quản trị. Nhận thức đúng vai trò, chức năng, mục đích của KTQT các yếu
tố đầu vào trong quản trị DN; tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào một cách khoa học, hợp lý,
sẽ góp phần nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành KD và hiệu quả hoạt động của
các DN.
Xuất phát từ những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Tổ chức kế toán quản trị các
yếu tố đầu vào trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay" vừa có ý nghĩa lý
luận, vừa mang tính thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DN.
- Tìm hiểu thực tế công tác kế toán ở một số DNNN trên địa bàn Hà Nội, đánh giá
thực trạng tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào trong các DNNN.
- Đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTQT các yếu tố đầu vào
trong các DNNN.
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Với mục đích đã xác định, luận văn tập trung
nghiên cứu, hệ thống hóa và phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức KTQT
các yếu tố đầu vào trong các DNNN. Trong đó tập trung chủ yếu vào các DN sản xuất và
yếu tố đầu vào được quan tâm nghiên cứu là nguyên liệu vật liệu (NLVL).
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp chung: Dựa vào phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử nghiên cứu các vấn đề một cách toàn diện, hệ thống và cụ thể.
- Phương pháp thực hiện: Vận dụng các phương pháp như: phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước,
học hỏi các thầy cô giáo giảng dạy ở các môn học liên quan đến quản trị DN, tìm hiểu các
tài liệu thực tế về công tác kế toán của một số DNNN trong lĩnh vực sản xuất (SX). Do
KTQT có mục tiêu chủ yếu là cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản trị ở nội bộ DN cho
nên cần thiết phải tìm hiểu một số phương pháp, kỹ thuật quản trị tác nghiệp đối với các yếu
tố đầu vào của DN.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
trong doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong các doanh
nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị về tổ chức kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong
các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam.
Chương 1
Những vấn đề chung về tổ chức kế toán quản trị
các yếu tố đầu vào trong Doanh Nghiệp
1.1. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào đối với doanh nghiệp
1.1.1. Các quan điểm về yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Vận dụng quan điểm toàn diện vào khoa học và cuộc sống, người ta đã hình thành lý
thuyết hệ thống. Lý thuyết hệ thống là quá trình sử dụng tổng hợp các lĩnh vực khoa học như:
toán học, tin học, lôgic học, kinh tế nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra theo quan điểm toàn
diện. Lý thuyết hệ thống được ứng dụng rộng rãi trong công tác quản lý, từ quản lý vĩ mô
cho tới quản lý vi mô.
Những bộ phận chủ yếu của một hệ thống bao gồm: các phần tử của hệ thống, môi
trường của hệ thống, đầu vào của hệ thống, đầu ra của hệ thống.
DN khi được nhìn nhận theo quan điểm là một hệ thống cũng bao gồm các bộ phận
đã nêu trên.
Đối với bộ phận "đầu vào" của DN, có nhiều quan niệm, nhiều cách phát biểu khác
nhau.
Theo các tác giả của Trường Đại học kinh tế quốc dân:
Doanh nghiệp cần được nhìn nhận như một hệ thống xã hội, một hệ
thống kinh doanh. Điều đó có nghĩa là mọi khái niệm, mọi nguyên lý, mọi phương
pháp trong lý thuyết hệ thống đều có thể được vận dụng trong nghiên cứu và giải
quyết các vấn đề của doanh nghiệp.
Đầu vào của doanh nghiệp là các phương tiện cần thiết để cho doanh
nghiệp hoạt động, bao gồm:
- Nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám) cung ứng các loại
nhân lực cho doanh nghiệp.
- Nguồn vốn đảm bảo cung cấp tài chính cho doanh nghiệp.
- Thị trường tư liệu sản xuất và dịch vụ để phục vụ cho các hoạt động tạo
ra đầu ra (sản phẩm và dịch vụ mới cho doanh nghiệp).
- Thị trường năng lượng và nguyên liệu tạo ra động lực và cung cấp
nguyên liệu cho sản xuất.
- Thị trường công nghệ và kỹ thuật để tạo ra các công nghệ và kỹ thuật
mới thích hợp.
- Thị trường chất xám, thông tin (dịch vụ, tư vấn) [20, tr. 37-38].
Như vậy, theo quan điểm này, các yếu tố đầu vào của DN bao gồm: sức lao động, tư
liệu SX, vốn và các yếu tố đầu vào này đều có thể mua bán được trên thị trường, tức là có
thể lượng hóa được bằng thước đo tiền tệ. Tuy nhiên, các tác giả trình bày nội dung còn có
sự trùng lặp giữa “thị trường tư liệu sản xuất” với “thị trường năng lượng và nguyên liệu”;
giữa “nguồn nhân lực (lao động và thị trường chất xám)” với thị “trường chất xám” làm cho
người đọc khó phân biệt, dễ nhầm lẫn.
Theo tác giả Nguyễn Hải Sản:
Khi xem xét doanh nghiệp dưới quan điểm hệ thống người ta cho rằng
doanh nghiệp là một tổng thể bao gồm các yếu tố đầu vào, quá trình chế biến, chế
tạo, và các yếu tố đầu ra. Tổng thể này chịu sự điều chỉnh của các thông tin phản
hồi và tất cả đều nằm trong một môi trường kinh doanh cụ thể.
Các yếu tố đầu vào bao gồm: tài sản cố định, nguyên liệu, nguồn nhân
lực, tài chính và nguồn thông tin được đưa vào sản xuất chế biến [17, tr. 52-53].
Quan điểm này tương tự như quan điểm của trường Đại học Kinh tế quốc dân, chỉ
khác về ngôn từ diễn đạt. Trong quan điểm này, tác giả coi thông tin là một nguồn lực của
DN. Đó là một cách hiểu đúng đắn vì trên thực tế các nhà quản trị phải có được thông tin thì
mới đề ra được các quyết định quản lý phù hợp và thông tin ngày càng có vai trò quan trọng
trong công tác quản lý nói chung, công việc quản trị DN nói riêng.
Theo quan điểm của trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội (nay là Học viện Tài
chính):
Đối với doanh nghiệp, đầu vào là:
1. Tiền vốn.
2. Tổ chức lao động.
3. Công nghệ, trang thiết bị, nguyên nhiên vật liệu.
4. Trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
5. Thị trường, thông tin và các ràng buộc vĩ mô trong kinh doanh
6. Các cơ hội và rủi ro [21, tr. 23-24].
Theo quan điểm này, nhìn nhận các yếu tố đầu vào của DN trong môi trường KD cụ
thể, gắn liền với các điều kiện KD, có tính đến các yếu tố chưa thể lượng hóa đo lường bằng
các thước đo như: trình độ, phẩm chất, tiềm năng của nhà quản lý.
Theo các nhà kinh tế nước Cộng hòa Pháp, các yếu tố đầu vào và đầu ra của DN
được thể hiện qua sơ đồ 1.1 (trang 8) [23, tr. 26].
Theo quan điểm này các yếu tố đầu vào của DN gồm lao động, tài sản cố định
(TSCĐ), nguyên liệu vật liệu (NLVL), hàng hóa, dịch vụ, tiền vốn và các yếu tố này đều
được lượng hóa bằng thước đo tiền tệ.
Qua việc phân tích các quan điểm trên chúng tôi nhận thấy thuật ngữ các yếu tố đầu
vào của DN có nghĩa rất rộng dùng để chỉ tất cả các yếu tố, các nguồn lực mà DN đã sử
dụng trong quá trình hoạt động để tạo ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đầu ra của DN.
Đứng trên giác độ của kế toán khi thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về các yếu tố đầu
vào của DN chỉ có thể xem xét tới các yếu tố đầu vào có thể lượng hóa được vì đặc trưng
của thông tin kế toán là thông tin phải được lượng hóa bằng các thước đo (thước đo hiện
vật, thước đo lao động, thước đo giá trị, trong đó thước đo giá trị là chủ yếu).
Với nội dung và phạm vi của các yếu tố đầu vào rộng như vậy nên luận văn chỉ tập
trung xem xét tới các yếu tố đầu vào là NLVL, sức lao động và TSCĐ của DNNN trong lĩnh
vực SX.
1.1.2. ý nghĩa của việc quản trị các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp
Quản lý là hoạt động tất yếu khách quan là sự tác động có tổ chức của chủ thể quản
lý lên đối tượng bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã định trước. Quản lý được tiến hành
trong mọi lĩnh vực của xã hội, cả ở tầm vĩ mô (toàn xã hội) và cả ở tầm vi mô (trong từng
đơn vị). Khi sử dụng thuật ngữ quản lý người ta thường gắn liền với đối tượng bị quản lý
như quản lý kinh tế, quản lý hành chính, quản lý nhân sự
Thuật ngữ quản trị (trong tiếng Anh là management) vừa có nghĩa là quản lý, vừa
có nghĩa là quản trị nhưng được dùng chủ yếu với nghĩa quản trị. Ngoài ra, tiếng Anh còn
có một thuật ngữ nữa là administration với nghĩa là quản lý hành chính, quản lý chính
quyền. Tiếng Pháp cũng có hai từ: gestion là quản trị kinh doanh và administration là quản
lý hành chính. Như vậy có thể hiểu quản lý là thuật ngữ được dùng đối với các cơ quan nhà
nước trong việc quản lý xã hội nói chung và quản lý kinh tế nói riêng, còn quản trị là thuật
ngữ được dùng để chỉ các hoạt động quản lý ở cấp cơ sở. Đối với các DN người ta sử dụng
thuật ngữ quản trị kinh doanh.
Quản lý và quản trị có điểm chung là lôgíc giống nhau của vấn đề quản lý, nhưng
điểm khác nhau là nội dung và quy mô cụ thể của vấn đề quản lý đặt ra: một bên là phạm vi
toàn xã hội, một bên là phạm vi trong từng cơ sở.
Quản trị kinh doanh là quá trình tác động liên tục, có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh
nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách
tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt được
những mục tiêu đầu ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội [ 20, tr. 41].
Để hoạt động của các đơn vị nói chung, các DN nói riêng đạt được hiệu quả cao thì
cần thiết phải tiến hành các hoạt động quản trị.
Các chức năng chủ yếu của quản trị là: xác định mục tiêu, lập kế hoạch, tổ chức
thực hiện, kiểm tra đánh giá.
Quản trị các yếu tố đầu vào là một nội dung của công tác quản trị DN.
Việc quản trị đúng đắn các yếu tố đầu vào sẽ giúp cho DN đảm bảo được hoạt động
của mình một cách bình thường, liên tục, không bị gián đoạn. Với một đầu ra xác định, việc
quản lý khoa học, hợp lý các yếu tố đầu vào sẽ tạo cơ sở để DN tiết kiệm chi phí đầu vào từ
đó tăng hiệu quả hoạt động của DN nói riêng, hiệu quả kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc
dân nói chung.
Những biểu hiện cụ thể của việc quản trị đúng đắn có hiệu quả các yếu tố đầu vào
là:
- Đối với các yếu tố đầu vào là sức lao động: Đảm bảo bố trí, sử dụng lao động hợp
lý, đầy đủ cả về số lượng và chất lượng phục vụ cho hoạt động KD của DN. Nâng cao ý
thức, trách nhiệm của người lao động, kích thích thi đua trong lao động
- Đối với các yếu tố đầu vào là NLVL, hàng hóa: Đảm bảo số lượng, chất lượng,
chủng loại, quy cách NLVL, hàng hóa cần thiết phục vụ SXKD một cách kịp thời, liên tục
với chi phí dự trữ NLVL, hàng hoá hợp lý góp phần tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả KD của DN.
- Đối với các yếu tố đầu vào là TSCĐ: Trang bị TSCĐ hợp lý, bảo quản tốt, sử dụng
có hiệu quả phát huy tối đa năng lực phục vụ của TSCĐ trong DN, đổi mới kịp thời TSCĐ
đáp ứng yêu cầu hoạt động của DN.
1.2. Nhiệm vụ của kế toán trong việc phục vụ quản trị các yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp
Để quản trị DN có hiệu quả, nhà quản trị cần phải có những thông tin về DN.
Không thể thực hiện công việc quản trị DN khi không biết các thông tin về tình tài chính
của DN như: tổng tài sản, tổng nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu chứ chưa nói đến việc
quản trị có hiệu quả. Do đó, thông tin đã được coi là một thứ "quyền lực" trong quản trị hiện
đại. Được coi là quyền lực, một nguồn lực, thông tin phải có giá trị. Các tiêu thức để xác định
giá trị của thông tin bao gồm: chất lượng, sự phù hợp, khối lượng và tính kịp thời. Tuy nhiên,
không giống các nguồn lực vật chất, việc xác định giá trị của thông tin là một công việc không
dễ dàng, bởi thông tin không có giá trị nội tại. Giá trị của thông tin được xác định bởi chính
những người sử dụng nó để ra quyết định. Các nhà quản trị và các nhân viên thuộc tất cả các
cấp và tất cả các lĩnh vực chuyên môn của DN đều có những nhu cầu thông tin khác nhau.
Có thể mô hình hóa thông tin mà nhà quản trị cần để phục vụ cho việc quản trị DN bằng sơ
đồ 1.2.
Sơ đồ 1.2: Tiến trình xử lý, sử dụng thông tin phục vụ quản trị DN
Theo mô hình này để đưa ra các quyết định, nhà quản trị cần biết được các thông tin
nên xuất hiện các nhu cầu về thông tin. Để đáp ứng nhu cầu này đòi hỏi phải có các dữ liệu
về thông tin theo nhu cầu của nhà quản trị. Để có được các dữ liệu thông tin này cần có phải
tiến hành thu thập dữ liệu. Nguồn cung cấp dữ liệu có thể từ bên trong DN (dữ liệu về tình
hình hàng tồn kho, tình hình công nợ, lợi nhuận của DN), dữ liệu từ bên ngoài DN (tình
hình giá cả thị trường, tình hình về các đối thủ cạnh tranh, các chế độ chính sách về quản lý
kinh tế tài chính hiện hành ). Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được sẽ tiến hành việc xử lý
và sắp xếp dữ liệu để trở thành ngân hàng dữ liệu của DN. Các dữ liệu cần sử dụng sẽ trở
Quyết định
Các nhà quản
trị
và nhân viên
Thông tin
Phân tích
quyết định
Yêu cầu về
thông tin
Truyền dữ
li
ệu
Ngân hàng
dữ liệu
Xử lý và
s
ắp xếp dữ
Thu th
ập
dữ liệu
Xác định
nhu cầu dữ
Các nguồn
dữ liệu bên
trong và bên
Thành phần
Hoạt động
Dòng cung cấp
Dòng yêu c
ầu
Doanh
nghiệp
thành thông tin và được phân tích, đánh giá để nhà quản trị đề ra được các quyết định quản
trị đúng đắn.
Từ mô hình trên chúng ta nhận thấy vai trò quan trọng của thông tin đối với công
tác quản trị DN: Nhà quản trị không thể đề ra được các quyết định quản trị đúng đắn khi
thiếu thông tin về hoạt động mà họ đang quản lý.
Kế toán với tư cách là "khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về
tài sản và sự vận động của tài sản hay toàn bộ thông tin về tài sản và các hoạt động kinh tế
tài chính của đơn vị" [1, tr. 10] đã trở thành công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế
nói chung, quản trị trong các DN nói riêng. Vai trò của kế toán được thể hiện ở chỗ: Kế toán
là phân hệ thông tin kinh tế tài chính quan trọng, cung cấp các thông tin về hoạt động kinh
tế tài chính của DN để trên cơ sở đó những nhà quản trị DN có các quyết định đúng đắn để
hoạt động của DN đạt hiệu quả cao.
Đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào, nhà quản trị cần rất nhiều thông tin do kế
toán cung cấp, trong đó với đặc điểm là cung cấp thông tin chủ yếu cho việc quản trị nội bộ
DN, KTQT có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp các thông tin. Vai trò đó được đảm
bảo nhờ vào việc thực hiện các nhiệm vụ của KTQT các yếu tố đầu vào. Các nhiệm vụ đó là:
- Ghi chép tính toán phản ánh đầy đủ chính xác tình hình hiện có về các yếu tố đầu
vào của DN cũng như tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào đó.
- Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch về các yếu tố đầu vào: tình hình dự trữ, sử
dụng NLVL, tình hình trang bị, sử dụng TSCĐ, sử dụng lao động; phát hiện và ngăn ngừa
kịp thời các hành vi làm ảnh hưởng tới việc sử dụng không hiệu quả các yếu tố đầu vào.
- Cung cấp số liệu tài liệu phục vụ cho việc quản trị các yếu tố đầu vào ở DN, phục vụ
cho công tác thống kê và thông tin kinh tế về các yếu tố đầu vào. Đồng thời cung cấp các thông
tin mang tính dự báo về tình hình sử dụng các yếu tố đầu vào để phục vụ cho việc đề ra các
quyết định về quản trị các yếu tố đầu vào.
1.3. Tổ chức Kế toán quản trị các yếu tố đầu vào trong Doanh nghiệp
1.3.1. Sự xuất hiện của kế toán quản trị
Kế toán là một công cụ phục vụ cho yêu cầu quản lý, vì vậy khi yêu cầu quản lý
thay đổi kế toán cũng phải có sự thay đổi phù hợp.
Trong môi trường kinh doanh hiện nay, nhu cầu về thông tin trong công
tác quản lý đã có sự gia tăng rất lớn và đa dạng do áp lực của những thay đổi
nhanh chóng về các mặt:
- Toàn cầu hóa nền kinh tế.
- Sự mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia.
- Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các công ty trong nước, giữa
các công ty ở các quốc gia khác nhau.
- Sự tiến bộ nhanh chóng về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tự động hóa
ngày càng toàn diện trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Sự ra đời ngày càng nhiều các công cụ quản lý, các chuyên ngành khoa
học hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý, công tác kế toán.
Chính những điều này đã làm cho kế toán phát triển sâu rộng hơn về tính
chất và đặc điểm thông tin cần phải cung cấp. Kế toán không chỉ dừng lại ở việc
cung cấp thông tin mang tính nguyên tắc mà đòi hỏi phải linh hoạt, kịp thời, hữu
ích. Đồng thời, thông tin kế toán cũng phải đảm bảo tính ngắn gọn, nhanh chóng
nhằm hỗ trợ đắc lực cho các nhà quản trị trong môi trường kinh doanh mới [14, tr.
10].
Trong bối cảnh đó, KTQT được hình thành và phát triển, tách biệt
với kế toán tài chính (KTTC).
Nghiên cứu sự phát triển của KTQT cho thấy: KTQT hình thành và phát triển xuất phát
từ nhu cầu thông tin của DN. Môi trường cạnh tranh buộc các DN phải tìm mọi biện pháp mở
rộng, phát triển thị trường, giảm chi phí, nâng cao lợi nhuận. KTQT là công cụ hữu hiệu cho
phép các nhà quản trị kiểm soát quá trình KD, đánh giá hiệu quả hoạt động của từng bộ
phận cũng như hiệu quả sử dụng của từng yếu tố đầu vào trong DN để từ đó có các quyết
định phù hợp.
Như vậy có thể nói, chính môi trường và điều kiện KD là cơ sở khách quan cho sự
ra đời và phát triển của KTQT, tồn tại song hành với KTTC và trở thành một công cụ khoa
học giúp cho các nhà quản trị nâng cao khả năng điều hành, quản lý tổ chức một cách có
hiệu quả.
1.3.2. Bản chất của kế toán quản trị
Từ khi KTQT xuất hiện cho tới nay, đã có nhiều cách phát biểu khác nhau về
KTQT.
Theo các nhà khoa học kế toán nước Cộng hòa Pháp:
- "Kế toán quản trị là một yếu tố của hệ thống thông tin phục vụ cho quản trị" [24,
tr. 7].
- "Kế toán quản trị là một hệ thống kế toán phục vụ cho nhà quản
trị" [25, tr. 18] và "Kế toán quản trị hướng tới hai mục đích chủ yếu: giúp cho nhà quản trị
hiểu được tương lai và điều hành các vấn đề của hiện tại. Để hiểu được tương lai, kế toán
quản trị phải xây dựng được mối quan hệ giữa những mục tiêu mong muốn và các nguồn
lực để đạt được mục tiêu đó" [24, tr. 19].
Theo cách phát biểu này, KTQT là một hệ thống kế toán cung cấp các thông tin
kinh tế tài chính phục vụ cho việc thực hiện công tác quản trị tại đơn vị. Mục tiêu của
KTQT không chỉ là cung cấp các thông tin quá khứ về tình hình kinh tế tài chính của đơn vị
để phục vụ việc quản trị các hoạt động đang diễn ra mà còn cung cấp các thông tin mang
tính dự báo về việc thực hiện các mục tiêu của đơn vị trong tương lai.
Theo các nhà khoa học kế toán Việt Nam:
- Theo các nhà khoa học kế toán của Học viện Tài chính: "Kế toán quản trị là khoa
học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp một cách cụ thể,
phục vụ cho các nhà quản lý trong việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra và đánh giá
tình hình thực hiện kế hoạch các hoạt động của doanh nghiệp" [11, tr. 11].
Theo cách phát biểu này KTQT là một môn khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp
thông tin về hoạt động của DN nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của quản trị
DN. Như vậy quá trình KTQT có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với quá trình thực hiện các
chức năng của quản trị DN. Có thể khái quát hai quá trình đó theo sơ đồ 1.3.
Sơ đồ 1.3: Mối quan hệ giữa các chức năng quản trị
và quá trình kế toán quản trị
Theo sơ đồ trên, sau khi nhà quản trị đề ra các mục tiêu của DN, KTQT sẽ hình
thành các chỉ tiêu kinh tế về mục tiêu đó. Căn cứ vào kế hoạch hoạt động của DN do nhà
quản trị đưa ra trong từng giai đoạn và các chỉ tiêu kinh tế đã thiết lập, KTQT thực hiện việc
lập dự toán chung và lập các dự toán chi tiết (dự toán về NLVL, lao động, vốn ) cho hoạt
Xác định mục tiêu
Chính thức hình thành
các chỉ tiêu kinh tế
Lập kế hoạch
Tổ chức thực hiện
Kiểm tra, đánh giá
Lập dự toán chung
và các bản dự toán
chi ti
ết
Thu nhận
kết quả thực hiện
Soạn thảo báo cáo
thực hiện
Quá trình KTQT
Các chức năng qu
ản trị
động của DN và như thế KTQT sẽ cung cấp các thông tin mang tính dự báo về hoạt động
của DN. Trong quá trình nhà quản trị tổ chức thực hiện các hoạt động của DN, KTQT phải
tiến hành thu thập thông tin về các hoạt động đó và cung cấp cho nhà quản trị thông qua các
báo cáo KTQT để nhà quản trị thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch
và có các quyết định điều chỉnh kịp thời.
- Theo các nhà khoa học kế toán của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh: "Kế toán quản trị là chuyên ngành kế toán cung cấp các thông tin kinh tế - tài chính
gắn liền với quan hệ dự báo, đánh giá, kiểm soát và trách nhiệm trong việc điều hành tổ
chức hàng ngày của nhà quản trị ở các bộ phận" [16, tr. 12].
Như vậy, cách phát biểu này cũng có sự thống nhất về mặt nội dung với các nhà
khoa học kế toán của Học viện Tài chính.
Từ những cách phát biểu trên cùng với việc tìm hiểu quá trình hình thành, xuất hiện
của KTQT, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
+ KTQT hình thành xuất phát từ nhu cầu về thông tin của nhà quản trị DN, KTQT
phục vụ các hoạt động quản trị của một DN cụ thể và vì vậy có mối quan hệ chặt chẽ, gắn
bó với các phương pháp quản trị tác nghiệp mà DN đó đang áp dụng đối với các hoạt động
của DN.
+ Thông tin KTQT cung cấp không chỉ là những thông tin quá khứ mà còn có các
thông tin tương lai về hoạt động kinh tế tài chính của DN. Do đó KTQT không phải tuân thủ
triệt để các nguyên tắc, chuẩn mực, chế độ về kế toán như đối với KTTC mà KTQT còn áp
dụng các phương pháp nghiên cứu ngoài các phương pháp đã có ở KTTC để đạt được mục
tiêu đã đề ra.
Trong thực tiễn công tác kế toán ở Việt Nam chúng tôi nhận thấy: KTQT được đề
cập trong công tác nghiên cứu bắt đầu từ những năm 1990, còn trên thực tế cho đến năm
2003 vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào quy định về công tác KTQT. Trong khi đó còn
có quan điểm cho rằng: Kế toán chỉ là việc thu nhận, xử lý và cung cấp các thông tin về các
hoạt động kinh tế tài chính đã phát sinh và thực sự hoàn thành của đơn vị, thông tin mà kế
toán cung cấp chỉ là những thông tin thực hiện (quá khứ), mà không bao gồm các thông tin
mang tính dự báo. Theo quan điểm này, việc lập kế hoạch hoạt động của đơn vị là một chức
năng của quản trị DN và đã được thực hiện bởi các bộ phận chức năng khác trong đơn vị
(bộ phận làm công tác kế hoạch) còn kế toán chỉ thu nhận và cung cấp các thông tin về hoạt
động kinh tế tài chính đã xảy ra để đối chiếu, kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch mà thôi.
Từ năm 1995, cùng với những thay đổi to lớn của cơ chế quản lý kinh tế tài chính
cả ở tầm vĩ mô cũng như vi mô, hệ thống kế toán Việt Nam đã có những cải cách cơ bản.
Một trong những nguyên tắc của việc cải cách hệ thống kế toán là dần tiếp cận với các
thông lệ và chuẩn mực kế toán quốc tế để kế toán Việt Nam hội nhập với kế toán quốc tế.
Với xu hướng đó, KTQT đã được các nhà nghiên cứu chú trọng hơn, đã được đưa vào giảng
dạy ở các trường đại học kinh tế và trong Luật Kế toán (có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2004) KTQT đã chính thức được thừa nhận về mặt pháp lý: "Kế toán ở đơn vị kế toán
gồm kế toán tài chính và kế toán quản trị" - Điều 10 [3, tr. 14] và: "Kế toán quản trị là việc
thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu
quản trị và quyết định kinh tế, tài chính trong nội bộ đơn vị kế toán" - Điều 4, khoản 3 [3, tr.
9].
Từ việc xem xét quá trình hình thành KTQT và những quan điểm về KTQT, có thể
rút ra bản chất của KTQT như sau:
Kế toán quản trị là một bộ phận của công tác kế toán nói chung và là một công
cụ quan trọng không thể thiếu được đối với công tác quản lý nội bộ doanh nghiệp.
Với bản chất đó có thể xác định KTQT trong các DN bao gồm các nội dung cơ bản
sau:
- KTQT các yếu tố đầu vào bao gồm: KTQT vật tư, hàng hóa; KTQT íTCĐ; KTQT
lao động - tiền lương.
- KTQT chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
- KTQT doanh thu - kết quả và phân phối kết quả.
- KTQT các hoạt động khác.
(Bốn nội dung này được thực hiện theo quy trình KTQT như đã trình bày ở sơ đồ
1.3).
- Lập và phân tích báo cáo KTQT, cung cấp các thông tin phục vụ cho lập kế hoạch,
dự toán chi phí, doanh thu theo yêu cầu của nhà quản trị DN.
Để nghiên cứu những nội dung trên, KTQT đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu bao gồm: Phương pháp chứng từ kế toán, phương pháp tài khoản kế toán, phương pháp
tính giá, phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán và các phương pháp kỹ thuật nghiệp vụ
khác.
* Phương pháp chứng từ kế toán: Mục đích của phương pháp này thu thập thông tin về
các hoạt động kinh tế tài chính của đơn vị để có được những dữ liệu thông tin cần thiết cho
quản trị DN. Hình thức biểu hiện của phương pháp này là các bản chứng từ kế toán và
chương trình luân chuyển chứng từ kế toán.
Khi sử dụng phương pháp chứng từ kế toán để thu nhận thông tin về các nghiệp vụ
kinh tế tài chính phát sinh, KTQT ngoài việc sử dụng các chứng từ bắt buộc (trong trường
hợp Nhà nước quy định chứng từ bắt buộc), còn sử dụng rộng rãi hệ thống chứng từ hướng
dẫn phản ánh các nghiệp vụ kinh tế trong nội bộ doanh DN. Các chứng từ này do KTQT của
DN vận dụng trên cơ sở hướng dẫn của Nhà nước hoặc tự thiết kế theo yêu cầu quản lý cụ
thể ở DN mình. Việc thu thập, kiểm tra, xử lý và luân chuyển chứng từ cũng được xác lập
theo cách riêng, nhằm đảm bảo cung cấp các thông tin cụ thể, nhanh chóng và thích hợp cho
việc ra quyết định của quản trị
* Phương pháp tài khoản kế toán: Mục đích của phương pháp này là phân loại và hệ
thống hóa các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh theo nội dung kinh tế để có được những
thông tin mang tính thường xuyên, liên tục và có hệ thống phục vụ cho việc lập các báo cáo
KTQT. Hình thức biểu hiện của phương pháp này là các tài khoản kế toán và cách ghi chép
trên tài khoản kế toán.
Để hệ thống hóa các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh phục vụ cho quản trị DN,
KTQT phải mở các tài khoản phục vụ yêu cầu quản trị đối với từng chỉ tiêu cụ thể. Việc xây
dựng hệ thống tài khoản phục cho KTQT phải dựa theo yêu cầu cụ thể của nhà quản trị. Do
đó, hệ thống tài khoản kế toán phục vụ cho KTQT không giống nhau giữa các DN mà phụ
thuộc vào những đặc điểm cơ bản sau:
- Phụ thuộc vào phạm vi, quy mô SXKD, loại hình DN.
- Phụ thuộc vào tổ chức quá trình SXKD và tổ chức quản lý SXKD, mức độ phân
cấp quản lý nội bộ DN.
- Phụ thuộc vào yêu cầu và trình độ của cán bộ quản lý.
- Phụ thuộc trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ kế toán trình độ trang bị và sử
dụng các phương tiện kỹ thuật tính toán, ghi chép của kế toán.
* Phương pháp tính giá: Mục đích của phương pháp này là xác định trị giá thực tế
của tài sản bằng thước đo tiền tệ theo những nguyên tắc nhất định. Hình thức biểu hiện của
phương pháp này là các sổ tính giá và trình tự tính giá.
Trong KTTC, phương pháp tính giá được vận dụng theo nguyên tắc, chuẩn mực quy
định thống nhất của mỗi quốc gia để trình bày các thông tin trên báo cáo tài chính một cách
thống nhất. Đối với KTQT, việc tính giá các loại tài sản mang tính linh hoạt cao hơn và gắn
với mục đích sử dụng các thông tin về giá theo yêu cầu quản trị DN. Các tài liệu để tính giá
không chỉ căn cứ vào các chi phí thực tế đã phát sinh mà còn dựa vào sự phân loại các chi
phí thích hợp cho từng quyết định cá biệt theo yêu cầu quản lý đặc thù của DN. Như vậy
phạm vi, nội dung của chi phí trong giá phí của KTQT có thể không giống, thậm chí còn có
sự khác biệt so với KTTC.
* Phương pháp tổng hợp - cân đối kế toán: Mục đích của phương pháp này là cung
cấp các thông tin cho đối tượng sử dụng thông tin kế toán. Hình thức biểu hiện của phương
pháp này là hệ thống các bảng tổng hợp - cân đối kế toán (các báo cáo kế toán).
Báo cáo kế toán của KTQT là các bảng tổng hợp - cân đối bộ phận. Các báo cáo
này còn được gọi là báo cáo kế toán nội bộ được lập theo kỳ hạn ngắn hơn các báo cáo tài
chính. Ngoài các chỉ tiêu về tiền tệ, các bảng tổng hợp - cân đối bộ phận còn sử dụng rộng
rãi các thước đo về hiện vật và thời gian lao động. Đồng thời, ngoài các bảng tổng hợp - cân
đối kế toán trình bày các chỉ tiêu quá khứ, chỉ tiêu đã thực hiện, kế toán còn thiết lập các
bảng tổng hợp - cân đối trình bày các chỉ tiêu trong dự toán, trong kế hoạch, các chỉ tiêu
giữa nhu cầu tài chính và nguồn tài trợ, giữa yêu cầu KD và các nguồn lực được huy động
Báo cáo KTQT có một số điểm khác biệt với báo cáo KTTC:
+ Về kỳ hạn: Báo cáo KTQT có kỳ hạn ngắn hơn báo cáo KTTC nhằm đáp ứng kịp
thời thông tin cho nhà quản trị DN.
+ Về tính pháp lý: Báo cáo KTTC mang tính pháp lệnh, bắt buộc còn báo cáo
KTQT là loại báo cáo kế toán riêng có phục vụ cho quản trị từng DN nên không mang tính
bắt buộc
+ Về phạm vi: Báo cáo KTTC được lập cho toàn DN còn báo cáo KTQT không chỉ
lập cho toàn DN mà cả cho từng bộ phận, từng loại công việc, từng khâu công việc tùy
thuộc vào yêu cầu của nhà quản trị.
* Các phương pháp khác: Thông tin của KTQT chủ yếu nhằm phục vụ cho việc ra
quyết định của các nhà quản trị DN, các nhu cầu về thông tin của nhà quản trị rất đa dạng và
phong phú cho nên trong một số trường hợp để có được các thông tin mà nhà quản trị mong
muốn (ví dụ các thông tin dự báo như: sản lượng tiêu thụ trong tương lai, số NLVL cần sử
dụng trong kỳ tới ) KTQT phải vận dụng một số phương pháp nghiệp vụ của các môn khoa
học khác như:
+ Phương pháp hồi quy của kinh tế lượng: Căn cứ vào mối quan hệ phụ thuộc giữa
các yếu tố của quá trình KD của DN như: số lượng sản phẩm (SP) và số chi phí phải bỏ ra
(chi phí về NLVL, về sức lao động ) để SX lượng SP đó, thông qua số liệu thống kê của
các thời kỳ để xây dựng hàm số hồi quy biểu hiện mối quan hệ đó. Từ hàm này, khi biết
được một yếu tố sẽ tính toán dự báo được các yếu tố còn lại.
+ Các phương pháp của kinh tế học vi mô: Phương pháp xác định điểm hòa vốn,
phương pháp tìm hiểu sự thay đổi của giá cả có tác động như thế nào đến nhu cầu về SP của
DN trên thị trường để xác định chỉ tiêu số lượng SP cần SX.
+ Các phương pháp của toán xác suất, của thống kê: được sử dụng để ước lượng số
SP sẽ được tiêu thụ trong kỳ tới.
1.3.3. Các quan điểm về tổ chức kế toán quản trị trong doanh nghiệp
Tổ chức KTQT khoa học và hợp lý sẽ đảm bảo cung cấp thông tin có chất lượng,
đáng tin cậy, kịp thời và đảm bảo tiết kiệm chi phí, nói cách khác là đảm bảo cung cấp thông
tin hữu ích cho nhà quản trị trên cơ sở đảm bảo tính hiệu quả của công tác kế toán. Có hai quan
điểm chủ yếu về việc tổ chức KTQT.
* Quan điểm thứ nhất: Tổ chức KTQT kết hợp chặt chẽ với KTTC trong cùng một
bộ máy.
Theo quan điểm này, việc thu nhận, xử lý, cung cấp thông tin của KTQT và KTTC
được tiến hành trên cơ sở của cùng một hệ thống chứng từ kế toán, hệ thống tài khoản kế
toán chỉ khác là thông tin tổng quát và thông tin chi tiết. Thông tin do KTTC cung cấp chủ
yếu là các thông tin tổng quát và một số thông tin chi tiết để phục vụ cho các đối tượng sử dụng
thông tin ở bên ngoài DN, các thông tin này đều là các thông tin thực hiện (về các nghiệp vụ
kinh tế tài chính đã phát sinh và hoàn thành). Thông tin do KTQT thu nhận, xử lý và cung
cấp phục vụ cho các quản trị DN và nó không chỉ là các thông tin thực hiện mà còn có cả các
thông tin dự báo để phục vụ cho việc ra các quyết định trong tương lai. Để có được các thông
tin này, KTQT tiến hành mở các sổ kế toán của các tài khoản chi tiết (theo từng cấp cần thiết)
trong hệ thống tài khoản sử dụng cho KTTC để thu nhận, hệ thống hóa các thông tin thực hiện,
đồng thời mở các sổ kế toán chi tiết khác để thu nhận, hệ thống hóa các thông tin dự báo; xác
định nội dung, phương pháp ghi chép, phản ánh trên các sổ kế toán đó cho phù hợp với việc
xử lý và cung cấp thông tin phục vụ quản trị. Khi lập báo cáo KTQT để cung cấp các thông
tin cụ thể chi tiết theo yêu cầu quản lý cán bộ kế toán sẽ tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán đã
mở theo các chỉ tiêu trong các báo cáo KTQT.
Cách tổ chức theo quan điểm này giúp cho bộ máy kế toán DN được tổ chức thống
nhất, bao gồm các bộ phận kế toán theo các phần hành công việc kế toán. Mỗi phần hành kế
toán đều thực hiện cả công việc KTTC và KTQT nên có thể kết hợp giữa quản lý tổng hợp
và quản lý chi tiết từng chỉ tiêu, thuận tiện cho việc phân công chuyên môn hóa và có điều
kiện quản lý chặt chẽ khối lượng công việc của nhân viên kế toán, thuận lợi cơ giới hóa
công tác kế toán, tạo điều kiện tiết kiệm thời gian và chi phí trong công tác kế toán. Đồng
thời, cách tổ chức này đòi hỏi người tổ chức phân công công việc phải xác định rõ công việc
của KTTC và KTQT trong từng phần hành, tức là xác định rõ phần việc kế toán nào, loại
thông tin nào cần cho việc lập báo cáo KTTC và phần việc nào, loại thông tin nào phục vụ
lập các báo cáo KTQT; đòi hỏi nhân viên kế toán cần hiểu rõ công việc KTTC và KTQT.
Quan điểm thứ hai: Tổ chức KTQT độc lập với KTTC
Theo quan điểm này, KTQT và KTTC được tổ chức tách biệt với nhau. ở bộ phận kế
toán phân công các cán bộ thực hiện riêng nội dung công việc của KTQT. Việc thu nhận thông
tin vẫn được thực hiện trên cùng một hệ thống chứng từ nhung việc xử lý và cung cấp thông
tin của KTQT và KTTC được tiến hành tách biệt. KTQT sử dụng hệ thống tài khoản kế toán
và hệ thống sổ kế toán riêng biệt với KTTC.
Các tài khoản trong hệ thống tài khoản sử dụng cho KTQT được phân loại và quy
định phương pháp ghi chép phản ánh phù hợp những nội dung cơ bản của KTQT, nhằm tạo
ra sự phối hợp cung cấp thông tin phục vụ quản lý.
Tổ chức KTQT theo quan điểm này tạo điều kiện chuyên môn hóa KTQT nên thông
tin được cung cấp đầy đủ kịp thời theo yêu cầu quản trị. Tuy nhiên sẽ tốn kém thời gian và
chi phí hơn vì phải tăng thêm trong khâu luân chuyển, xử lý chứng từ kế toán.
1.3.4. Nội dung tổ chức công tác kế toán quản trị các yếu tố đầu vào
Quản trị các yếu tố đầu vào của DN là một công việc không thể thiếu trong công tác
quản trị DN. Để phục vụ cho công tác này, KTQT phải tiến hành thực hiện nhiều nội dung
công việc. Các nội dung này xuất phát từ:
- Nhu cầu về thông tin của nhà quản trị đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào của
DN.
Các nhà quản trị cần những thông tin phục vụ cho việc thực hiện các phương pháp,
biện pháp quản trị cụ thể mà họ đang áp dụng đối với việc quản trị các yếu tố đầu vào của
DN và do đó phụ thuộc vào nội dung cụ thể của các phương pháp quản trị tác nghiệp ở DN.
- Khả năng của KTQT trong việc đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhà quản trị.
Mỗi DN với điều kiện cụ thể của mình (trong từng giai đoạn khác nhau, với những
chiến lược KD đã lựa chọn ) thì yêu cầu quản trị cụ thể đối với các yếu tố đầu vào có sự
khác nhau và do đó họ áp dụng các phương pháp quản trị tác nghiệp khác nhau. Tuy nhiên,
dù áp dụng phương pháp quản trị nào thì đều nhằm thực hiện các chức năng của quản trị đối
với việc quản trị yếu tố đầu vào đó là: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá.
Do đó, theo chức năng quản lý, nội dung công tác KTQT các yếu tố đầu vào bao
gồm:
1.3.4.1. Thiết lập hệ thống chỉ tiêu quản trị các yếu tố đầu vào
Đây là công việc đầu tiên mà KTQT phải tiến hành. Việc xác định hệ thống các chỉ
tiêu về các yếu tố đầu vào phụ thuộc vào nội dung của các yếu tố đầu vào của DN.
Thông thường các chỉ tiêu này bao gồm:
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là vật tư, hàng hóa bao gồm: Số lượng, chủng loại,
quy cách các loại vật tư, hàng hóa chủ yếu dự trữ cho cho hoạt động của DN (mức dự trữ tối
đa, tối thiểu, bình quân).
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là lao động bao gồm: chỉ tiêu về số lượng lao động,
cơ cấu lực lượng lao động, chỉ tiêu về sử dụng ngày công lao động, chỉ tiêu về năng suất lao
động
- Các chỉ tiêu về yếu tố đầu vào là TSCĐ bao gồm: Cơ cấu TSCĐ (TSCĐ dùng cho
SXKD, TSCĐ hành chính sự nghiệp, TSCĐ phúc lợi, TSCĐ chờ xử lý); số TSCĐ cần trang bị
hay đưa vào sử dụng; tình trạng kỹ thuật của TSCĐ
1.3.4.2. Lập dự toán các yếu tố đầu vào
Trên cơ sở các chỉ tiêu cụ thể đã xác định trong hệ thống chỉ tiêu và kế hoạch
SXKD được lập, KTQT tiến hành lập dự toán các yếu tố đầu vào. Dự toán được xác định
theo từng giai đoạn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Các yếu tố đầu vào phục vụ cho việc tạo
ra các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của DN (đầu ra), vì vậy dự toán về các yếu tố đầu vào
một mặt phụ thuộc vào dự toán đầu ra (kế hoạch SX, bán hàng hay cung cấp dịch vụ của
DN) một mặt phụ thuộc vào đặc điểm hoạt động của DN như: lĩnh vực hoạt động (SX hay
thương mại); đặc điểm quy trình công nghệ (SX liên tục, gián đoạn hoặc SX theo dự án);
kết cấu và đặc điểm chế tạo sản phẩm: (lắp ráp, phân tích hoặc hỗn hợp); quá trình SX (đơn
chiếc hay hàng loạt) v.v
- Đối với yếu tố đầu vào về vật tư, hàng hóa: Dự toán về yếu tố này phụ thuộc vào
phương pháp quản trị hàng tồn kho mà DN áp dụng.
+ Nếu DN áp dụng phương pháp dự trữ bình quân thì dự toán là: Mức dự trữ bình
quân, chi phí dự trữ bình quân, số lượng nhập hàng cần thiết trong từng giai đoạn
+ Nếu DN áp dụng phương pháp xác định nhu cầu hàng tồn kho theo từng thời điểm
thì dự toán là: Tồng nhu cầu về NLVL (hoặc hàng hóa), thời điểm nhập hàng và số lượng
hàng cần nhập
- Đối với yếu tố đầu vào là lao động: Dự toán các yếu tố là lao động phụ thuộc vào
biện pháp quản trị lao động mà DN áp dụng.
+ DN sử dụng biện pháp sử dụng thêm lao động thuê ngoài thì dự toán là số lao
động trong biên chế và số lao động cần thuê ngoài.
+ DN áp dụng biện pháp làm thêm giờ của số lao động trong biên chế thì dự toán là
số giờ lao động làm thêm
- Đối với yếu tố đầu vào là TSCĐ: Dự toán về năng lực hoạt động của số TSCĐ
hiện có của DN; về số TSCĐ cần mua mới hoặc thuê ngoài để đáp ứng nhu cầu SXKD.
Các dự toán trên được lập một cách cụ thể đối với một kế hoạch SX (hay bán hàng
hoặc cung cấp dịch vụ) cũng như các biện pháp quản trị tác nghiệp cụ thể mà DN áp dụng
trong từng giai đoạn đối với mỗi yếu tố đó.
1.3.4.3. Tổ chức thu nhận và kiểm tra thông tin về các yếu tố đầu vào theo các chỉ
tiêu đã xây dựng
Để thu nhận được các thông tin về yếu tố đầu vào theo các chỉ tiêu và dự toán đã
xây dựng KTQT cần phải tổ chức hạch toán ban đầu và sử dụng phương pháp chứng từ kế
toán.
Hạch toán ban đầu là công việc khởi đầu của quy trình hạch toán kế toán nên nó
quyết định chất lượng của thông tin kế toán. Việc hạch toán ban đầu bao gồm: quy định các
mẫu chứng từ ban đầu sử dụng và quy định người ghi chép vào chứng từ về các các yếu tố
đầu vào.
KTQT phải quy định các mẫu chứng từ thích hợp đối với từng loại nghiệp vụ kinh
tế, tài chính về các yếu tố đầu vào ở DN để có thể ghi nhận được đầy đủ thông tin về chúng.
Ngay từ đầu, khi thiết kế các mẫu chứng từ phục vụ cho KTQT các yếu tố đầu vào phải đảm