LUẬN VĂN:
Việc làm cho người lao động ngoại
thành Hà Nội trong quá trình đô
thị hoá
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm cho người lao động là vấn đề kinh tế- xã hội phổ biến và luôn mang tính
thời sự ở mọi quốc gia, bởi vì đảm bảo việc làm là một trong những yếu tố cơ bản cho sự
phát triển bền vững. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam thì vấn đề việc làm
cho người lao động là hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong tiến trình xây dựng và phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh: "Giải quyết việc làm là nhân tố quyết định để
phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân".
Hà Nội là trung tâm chính trị kinh tế và văn hoá của đất nước, là địa phương nằm trong
tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Vì vậy, trong thời gian
qua Hà Nội đã thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào phát triển kinh
tế, tạo những bước chuyển biến quan trọng đối với thủ đô trên nhiều lĩnh vực trong đó có giải
quyết việc làm.
Tuy nhiên, do Hà Nội đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và xu hướng đô thị hoá gia tăng nó đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo
phải có tác phong công nghiệp thì mới đáp ứng được yêu cầu, lao động ở ngoại thành hiện
nay chưa thể đáp ứng được yêu cầu này do mặt bằng trình độ thấp, tỷ lệ lao động qua đào
tạo chưa cao, lao động giản đơn là chủ yếu.v.v không có việc làm sẽ nảy sinh nhiều vấn
đề kinh tế - xã hội phức tạp vì vậy tạo việc làm cho lực lượng lao động, đặc biệt là lực
lượng lao động ở khu vực ngoại thành bao gồm 5 huyện: Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh,
Sóc Sơn, Từ Liêm là vấn đề cấp bách.
Để đánh giá lại những kết quả đã đạt được và những tồn tại vướng mắc, trong vấn đề
giải quyết việc làm cho lao động ở ngoại thành Hà Nội. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
hữu hiệu cho vấn đề tạo việc làm nhằm góp phần vào sự ổn định và phát triển của thủ đô
trong những năm tới, tác giả đã chọn đề tài: " Việc làm cho người lao động ngoại thành
Hà Nội trong quá trỡnh đô thị hoá " làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc
làm. Có thể nêu ra một số đề tài sau:
- TS Nguyễn Hữu Dũng: Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô
thị hoá công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn - Tạp chí Lao động - Xã hội số 247 (từ
16- 30/9/2004). Tác giả đề cập đến thực trạng về lao động và việc làm ở nông thôn trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá đồng thời đưa ra những phương
hướng và giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề lao động và việc làm nông thôn.
- PGS,TS Nguyễn Sinh Cúc: Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt
ra, Tạp chí Con số và sự kiện- 2003- số 8. Trong bài viết tác giả đã đề cập những biến
động của tính hình dân số ở nông thôn và những xu hướng mới tạo việc làm ở nông thôn:
từ kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các làng nghề nông thôn, tạo việc làm mới từ
phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, từ
các chương trình dự án quốc gia và quốc tế.
- TS Vũ Đình Thắng: Vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, Tạp chí Kinh tế và
Phát triển 2002 - số 3. Trong bài viết, tác giả đánh giá tầm quan trọng và những kết quả đã
đạt được về giải quyết việc làm đặc biệt là ở khu vực nông thôn bằng cách phát triển các
ngành phi nông nghiệp với phương châm: ly nông bất ly hương.
- GS,TS Phạm Đức Thành: Vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam - Tạp chí Kinh tế
và Phát triển 2002- số 64. Trong bài viết, tác giả đã đánh giá hiện trạng việc làm và thất
nghiệp trên cơ sở đó đề ra những quan điểm và biện pháp giải quyết việc làm cho người
lao động.
- TS Nguyễn Tiệp: Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn: Các giải pháp
tạo thêm việc làm, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 309 (6/2004). Trong bài viết, tác
giả đề cập đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là phù hợp với yêu cầu của
quá trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn. Là kết quả của phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lại lao động ở nông thôn. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nông thôn còn chịu sức ép giải quyết việc làm, tăng mức cầu lao động trên địa bàn nông
thôn.
- TS Trương Văn Phúc: Thực trạng lao động việc làm qua kết quả điều tra 1- 7-
2004, Tạp chí Lao động - xã hội, số 251 (16- 30/11/2004). Trong bài viết, tác giả đề cập
đến tình trạng lao động và việc làm của lực lượng lao động ở các tỉnh, thành phố cũng như
ở những vùng kinh tế trọng điểm. Nó đánh giá một cách khái quát những kết quả đã đạt
được về giải quyết việc làm cho lực lượng lao động. Trong đó, có đề cập đến lao động
ngoại thành, một bộ phận quan trọng cấu thành lực lượng lao động chung của xã hội.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ về việc
làm cho người lao động ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hoá dưới góc độ kinh tế
chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
- Góp phần nghiên cứu và giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh
vực việc làm, tạo việc làm cho người lao động trong quá trình đô thị hoá.
- Phân tích về thực trạng, chỉ ra phương hướng tạo việc làm cho lao động ngoại thành
Hà Nội trong quá trình đô thị hoá hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản để tạo việc làm trong cho lao động ngoại thành
trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ bản chất của việc làm, bản chất của tạo việc làm, nội dung của nó và sự cần
thiết phải tạo việc làm cho người lao động.
- Tập trung phân tích thực trạng tạo việc làm cho người lao động ngoại thành: quy
mô tạo việc làm cho người lao động, quá trình tạo việc làm, những nhân tố tác động đến
quá trình tạo việc làm. Đồng thời đánh giá những nguyên nhân, hạn chế về kết quả tạo việc
làm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm tạo việc làm cho lao động ngoại
thành trong quá trình đô thị hoá từ nay đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết việc làm cho toàn bộ lực lượng lao
động nông nghiệp đang sinh sống ở khu vực ngoại thành do Thành phố quản lý.
- Luận văn tập trung vào nội dung tạo việc làm cho người lao động ngoại thành Hà
Nội trong quá trình đô thị hoá từ năm 2001 trở lại đây. Nhiệm vụ này được giao cho nhiều
tổ chức thực hiện nhưng luận văn tập trung khai thác thông tin từ Sở LĐTB – XH Hà Nội.
Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp cơ bản cho vấn đề này đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và những quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam cùng với những
chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề lao động việc làm.
Ngoài ra luận văn còn dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá của các công trình khoa
học đã được công bố, để nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc làm ở ngoại thành Hà Nội
- Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logíc kết hợp
với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương
pháp thống kê, so sánh…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn, đã trình bày một số lý luận cơ bản về việc làm và tạo việc làm, đã đề xuất
những giải pháp để đẩy mạnh tạo việc làm cho lao động ngoại thành Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1
Tạo việc làm cho người lao động
ngoại thành Hà nội trong quá trình đô thị hoá - một nhu cầu bức xúc
1.1. Đô thị hoá và tác động của nó đối với vấn đề việc làm
1.1.1. Đô thị hoá - một xu thế tất yếu trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
1.1.1.1. Tính tất yếu, nội dung và tác động của quá trình đô thị hoá
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đô thị hoá (CNH, HĐH& ĐTH) là con
đường phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Trong thời đại ngày nay, thời đại
khoa học- công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, kinh tế tri thức đang dần đi vào
cuộc sống và toàn cầu hoá là một xu thế không gì có thể cưỡng lại được thì công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường giúp các nước chậm phát triển rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước.Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một nước nông nghiệp chưa phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, có
nghĩa là chúng ta đang chuyển từ một nền kinh tế tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã
hội, vì vậy chúng ta phải từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho một xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chúng
ta là phải thực hiện CNH, HĐH đất nước.
Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã
nêu định nghĩa khái quát về quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế-xã hội, từ
sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức
lao động cùng với công nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng xuất lao động xã hội cao [18, tr.4].
Như vậy CNH,HĐH là một khái niệm rộng, thực hiện CNH,HĐH trong tất cả
các mặt hoạt động của đời sống xã hội, trong đó nội dung nổi bật chính là quá trình
cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc và áp dụng kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để đạt được năng suất lao động cao. Kết quả mà
quá trình này đem lại là tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật về
con người và khoa học- công nghệ thúc đẩy qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Một vấn đề quan
trọng trong quá trình CNH,HĐH là phải làm sao giải quyết đồng thời mối quan hệ
giữa phát triển nền sản xuất với giải quyết được các vấn đề xã hội nảy sinh trong
quá trình CNH,HĐH như vấn đề giải phóng việc làm và các vấn đề xã hội khác.
Chúng ta biết rằng, đi kèm với việc áp dụng máy móc, kỹ thuật vào trong sản
xuất sẽ làm thay đổi tính chất của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chỉ sử dụng
ít lao động sống và sử dụng nhiều máy móc thay thế. Hệ quả của việc này là dư thừa
lao động: người lao động không có việc làm hoặc có việc làm nhưng không đầy đủ.
Mặt khác qúa trình CNH,HĐH cũng làm xuất hiện những ngành kinh tế mới, có thể
thu hút được một số lượng lao động nhất định. Nhưng nhìn chung, tình hình người
lao động không có việc làm vẫn tăng nhanh hơn tỷ lệ người lao động tìm được việc
làm.
Như vậy CNH,HĐH sẽ dẫn đến sự thay đổi to lớn về nhiều mặt. Về mặt kinh
tế, CNH, HĐH làm thay đổi phương thức sản xuất và cơ cấu nền kinh tế, làm cho
nền kinh tế có một bước phát triển mới về chất, đó là nền kinh tế dựa trên nền đại
công nghiệp và dịch vụ chất lượng cao. Về mặt xã hội, đó là quá trình đô thị hoá.
Trong nền kinh tế hiện đại, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là sự hình thành các đô
thị mới mà đó là một nấc thang tiến hoá vượt bậc của xã hội với một trình độ văn
minh mới, một phương thức hoạt động mới. Đó là cách thức tổ chức, bố trí lực
lượng sản xuất, cơ cấu lại nền kinh tế. Có nhiều quan niệm khác nhau về đô thị hoá:
Đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố lại lực lượng sản xuất trong nền kinh tế
quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo
kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị theo chiều rộng và theo chiều sâu trên cơ sở
hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số ở các đô thị. Đó là quá
trình tập trung, tăng cường, phân hoá các hoạt động trong đô thị và nâng cao tỷ lệ
số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Đồng
thời, đô thị hoá cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn và phổ biến rộng
rãi lối sống thành thị trong dân cư.
Theo quan niệm trên chúng tôi cho rằng: Đô thị hoá được hiểu đó là quá trình
biến đổi, chuyển biến về nhiều mặt kinh tế- xã hội của các khu vực trước đây là sản
xuất nông nghiệp, khu vực nông thôn để trở thành các khu đô thị, khu chế xuất, khu
công nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp và các ngành dịch vụ. Như vậy, ta
thấy về bản chất của đô thị hoá là sự phát triển các cụm kinh tế công nghiệp, dịch
vụ, kết cấu hạ tầng cơ sở, phát triển các cụm dân cư theo hình thức và điều kiện
sống mang tính chất công nghiệp, đô thị sầm uất. Đây là một xu thế tất yếu xảy ra
đối với tất cả các quốc gia, các thành phố lớn khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh
tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và từng bước tiếp cận với nền kinh tế
tri thức, vì đô thị hoá tạo ra cơ sở thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội,
cơ cấu lại kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó có thủ đô Hà
Nội.
Khái niệm pháp quy về đô thị hoá ở Việt Nam: Điểm dân cư được coi là đô thị
hoá phải có các tiêu chí cơ bản sau đây:
- Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển
kinh tế xã hội trong phạm vi cả nước, một miền lãnh thổ, của một tỉnh, một huyện
hoặc một vùng trong tỉnh hay huyện.
- Có quy mô dân số nội thị nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp
hơn).
- Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao động
của nội thị, là nơi sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển.
- Có kết cấu hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ dân cư đô
thị hoá từng phần hoặc đồng bộ.
- Mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km
2
.
Đô thị hoá có hai hình thức biểu hiện chủ yếu:
Một là, đô thị hoá theo chiều rộng trong đó quá trình đô thị hoá diễn ra tại các
khu vực trước đây không phải là đô thị. Đó cũng chính là quá trình mở rộng quy mô
diện tích các đô thị hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận,
phường mới. Với hình thức này, dân số và diện tích đô thị không ngừng gia tăng,
các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp và các hoạt động của kinh tế đô thị không
ngừng mở rộng; các hoạt động sản xuất kinh doanh và điểm dân cư ngày càng tập
trung. Sự hình thành các đô thị mới được tạo ra trên cơ sở phát triển các khu công
nghiệp và trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ ở vùng nông thôn và ngoại ô
là xu hướng tất yếu của sự phát triển là nhân tố mở đường thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Đô thị hoá theo chiều rộng là hình thức phổ biến hiện nay ở các
nước đang phát triển trong thời kỳ đầu công nghiệp hóa.
Hai là, đô thị hoá theo chiều sâu, đó là quá trình hiện đại hoá và nâng cao
trình độ của các đô thị hiện có. Mật độ dân số có thể tiếp tục tăng cao, phương thức
và các hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, thực lực khoa học kỹ thuật, công nghệ
ngày càng tăng cường; hiệu quả kinh tế - xã hội cũng ngày càng được cải thiện và
nâng cao. Đô thị hoá theo chiều sâu là quá trình thường xuyên, là yêu cầu tất yếu
của quá trình tăng trưởng và phát triển. Quá trình đó đòi hỏi các nhà quản lý đô thị
và các thành phần kinh tế trên địa bàn đô thị thường xuyên vận động và phải biết
điều tiết, tận dụng tối đa những tiềm năng sẵn có và hoạt động có hiệu quả cao trên
cơ sở hiện đại hoá trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội ở đô thị.
Đô thị hoá là một tiến trình rất đa dạng, trong nó có chứa đựng nhiều hiện
tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Trên quan điểm một vùng,
đô thị hoá là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo
kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi
về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những
vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo
chiều sâu. Đô thị hoá là quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô
thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của
và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch
vụ.v.v Do vậy, đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đô thị hoá
nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật; đó là quá trình phát triển nông
thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông thôn (cách sống, hình thức
nhà cửa, phong cách sinh hoạt…); Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng
bền vững. Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành
phố do kết quả phát triển công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, tạo ra các cụm đô
thị, liên đô thị, góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.
Trong quá trình CNH, HĐH sự hình thành các đô thị hiện đại có vai trò đặc
biệt quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh nông thôn, đô thị là
hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời
rất sớm nhưng chỉ thật sự phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 và
đến nay đô thị đã trở thành một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh
hưởng hết sức quan trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế - xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng trưởng, phát
triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế thông qua quá trình
phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công nghệ, văn hoá, xã hội. Với sự
phát triển của hệ thống các đô thị, nhiều nước đã từng bước hình thành được những
vùng lãnh thổ phát triển, không chỉ đảm nhận chức năng động lực, thúc đẩy sự phát
triển toàn bộ kinh tế - xã hội đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập
quốc tế, vừa đảm nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học,
công nghệ, kinh tế, văn hoá của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh (Xem
phụ lục 1).
Sự hình thành các đô thị có những đóng góp hết sức quan trọng cho sự phát
triển của một quốc gia:
+ Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ của
nền kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Chẳng hạn chỉ tính riêng bốn
thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng năm 2004
chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá trị sản lượng công nghiệp
và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô thị này đã trở thành những vùng
động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô
của nền kinh tế, tăng giá trị công nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
+ Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng sự tập
trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp một khối lượng
đáng kể những sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của
nhiều vùng trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu. Số liệu sau đây cho thấy rõ vai trò
của bốn đô thị lớn nhất ở Việt Nam ( Xem phụ lục 2).
+ Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học
kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước là những “đầu tàu” trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt là hợp tác và giao lưu quốc tế. Các hoạt động dịch vụ quan trọng như
xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học công nghệ từ các đô thị
lớn bắt đầu có sức lan toả và thúc đẩy sự phát triển chung của các lãnh thổ trên
phạm vi cả nước.
+ Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả năng
nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra các công
nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát triển của bản thân
đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ khác trên toàn quốc.
+ Với những ưu thế về hệ thống kết cấu hạ tầng so với các lãnh thổ khác, các
đô thị từng bước bảo đảm sự tiếp cận nhanh chóng, kịp thời các nguồn thông tin,
đặc biệt là thông tin kinh tế, thông tin về thị trường… để lại tiếp tục cung cấp,
chuyển tải và phản hồi các thông tin này tạo điều kiện cho các vùng cùng tham gia
trao đổi thông tin và hoà nhập vào sự phát triển của thị trường trong nước, khu vực
và quốc tế.
+ Sự phát triển các đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lượng lao động
cho toàn bộ nền kinh tế. Chẳng hạn, tại các đô thị của Việt Nam đã bước đầu hình
thành đội ngũ lao động và cán bộ quản lý có trình độ và tác phong lao động công
nghiệp hiện đại. Hầu hết lực lượng lao động có trình độ từ cao đẳng và đại học trở
lên của cả nước tập trung tại các đô thị. Tay nghề của người lao động được nâng cao
cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh… được tiếp tục lan toả sang các lãnh thổ
còn lại của đất nước thông qua việc phát triển của các chi nhánh, các cơ sở sản xuất
kinh doanh đặt tại các địa phương khác, góp phần từng bước nâng cao trình độ và
hiệu quả quản lý kinh doanh, nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn
bộ nền kinh tế nói chung và các vùng kém phát triển nói riêng.
+ Với lợi thế về lực lượng và tiềm lực khoa học kỹ thuật, sự tập trung số
lượng lớn các cơ sở đào tạo và khoa học trong đó có các trường đại học, các viện
nghiên cứu khoa học đầu ngành, các đô thị lớn còn giữ vai trò đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao cho đất nước góp phần từng bước nâng cao chất lượng nguồn lao
động cho nền kinh tế.
+ Do GDP/người tăng nhanh cộng với sự phát triển của các cơ sở công nghiệp
chế biến, xuất khẩu làm cho sức mua của các đô thị tăng nhanh, trong đó phải kể
đến sức mua về hàng nông lâm thuỷ sản với chất lượng cao. Việc các đô thị trở
thành nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lượng cao sẽ tác động đến sự phát triển các cơ
sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển đổi tập quán sản xuất truyền
thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng nâng cao chất lượng và giá trị
nông sản, mở rộng thị trường … Như vậy, sự phát triển các đô thị sẽ tác động
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp - nông thôn và của cả nước
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Sự phát triển của các đô thị cũng được đánh giá là đã tạo điều kiện để bổ
sung nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát
triển thông qua việc các cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức từ các thành phố lớn
chuyển vốn đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp, du lịch,
văn hoá… đến các vùng kém phát triển. Thông qua việc thu hút lao động tới các đô
thị, một phần đáng kể trong thu nhập của người lao động được đưa trở về các vùng
nông thôn, vùng kém phát triển để giúp đỡ gia đình xây dựng, sửa sang nhà cửa,
đường sá, phát triển kinh tế nông hộ v.v.
Đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc gia, là
sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và văn
hoá. Sự phát triển của các đô thị có vai trò quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội của cả nước. Nhiều đô thị đã và đang chuyển dần từ chức năng hành chính
thuần tuý sang cả chức năng kinh tế, đồng thời tùy theo các cấp độ khác nhau mà
đảm nhận các chức năng trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá. Tác động lan toả của
các đô thị được mở rộng cả về phạm vi không gian và biến đổi về chất. Nhiều đô thị
đã thực sự trở thành các hạt nhân động lực cho sự phát triển của nhiều vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt thuận lợi đối với sản xuất và đời sống con
người, sự phát triển nhanh chóng của các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh
hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái do
tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, khối lượng khai thác và sử
dụng nước sạch tăng, ô nhiễm các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích
cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao thông cơ giới.
Ngoài ra, sự gia tăng dòng người di dân từ nông thôn ra đô thị cũng gây nên
những áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình thành các khu nhà “ổ
chuột” và khu nghèo đô thị, gây nên những khó khăn cho công tác quản lý đô thị do
sự phức tạp về mặt tổ chức đời sống và sản xuất v.v… Do đó, khi quy hoạch đô thị,
cần phải tính đến các biện pháp ngăn chặn và hạn chế những hiện tượng không có
lợi đó.
1.1.1.2. Đô thị hoá trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam
nói chung và Hà Nội nói riêng
Đối với nước ta, từ một nền kinh tế nông nghiệp truyền thống muốn trở thành
nước có nền công nghiệp hiện đại thì phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và đó là con đường để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cũng như ở nhiều nước khác
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng tất yếu kéo theo quá trình đô thị hoá.
Tốc độ công nghiệp hoá càng nhanh trình độ đô thị hoá sẽ càng cao. Đô thị hoá là
hệ quả tất yếu của CNH, HĐH. Đô thị hoá và sự hình thành các đô thị hiện đại là
một trong những chỉ tiêu cơ bản phản ánh trình độ CNH, HĐH. Về thực chất CNH,
HĐH và đô thị hoá là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển mạnh
khu vực công nghiệp, dịch vụ và chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, tăng nhanh lao động làm công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh lao động
làm nông nghiệp. CNH diễn ra đồng thời với phát triển các vùng kinh tế trọng điểm,
khu kinh tế mở, khu công nghiệp tập trung, các trung tâm dịch vụ lớn, cùng với nó
là quá trình mở rộng các khu đô thị, các thị trấn, thị tứ… Điều đó dẫn đến dân số
thành thị cũng sẽ tăng lên. Và như vậy, một phần lớn lao động nông thôn làm nông
nghiệp sẽ phải chuyển sang làm phi nông nghiệp, dân sống ở nông thôn trở thành
dân thành thị.
Quá trình CNH, HĐH tác động trên hai mặt, một mặt quá trình đô thị hoá
cũng là một trong những nhân tố chủ yếu góp phần tạo thêm việc làm mới, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là đối với những nước mà tỷ lệ lao động
trong nông nghiệp chiếm tới 57,9% lực lượng lao động của cả nước. Theo tính
toán của các nhà kinh tế, nếu 1 ha đất nông nghiệp ở nước ta hiện nay mới chỉ
tạo ra 22,5 triệu đồng/ một năm (năm 2004) và sử dụng 3-5 lao động thì khi
chuyển sang xây dựng khu công nghiệp có thể thu hút 50- 100 lao động và tạo ra
giá trị từ 500 triệu đến hàng tỷ đồng/năm. Hơn nữa, thu nhập của người lao động
trong công nghiệp sẽ cao hơn trong nông nghiệp gấp nhiều lần. Đô thị hoá cũng
góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động và việc làm ở nước ta. Nhờ chuyển đổi cơ
cấu mà một bộ phận không nhỏ lao động trong lĩnh vực nông nghiệp chuyển
sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, đi cùng với đó là việc hình thành các khu
đô thị cũng góp phần tạo ra một khối lượng việc làm mới cho lao động tại đây.
Do đó, làm giảm đáng kể lao động nông nhàn ở nông thôn. Chỉ riêng 4 thành phố
lớn là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã giải quyết
việc làm cho khoảng 363.000 lao động ngoài ra còn chưa kể số lao động là các
công việc phi chính thức, làm vệ tinh cho các khu đô thị, khu công nghiệp này.
Mặt khác, quá trình đô thị hoá sẽ dẫn đến tình trạng: xuất hiện những ngành
nghề đang có sự phát triển mạnh và để áp dụng máy móc, kỹ thuật hiện đại, phục vụ
cho sản xuất lớn đòi hỏi người lao động phải có trình độ, được đào tạo về một
ngành, nghề chuyên môn nhất định, có tác phong lao động công nghiệp… cũng như
là xuất hiện ngành sử dụng nhiều lao động, sản xuất hướng vào chế biến và xuất
khẩu. Trong khi đó, lao động ở khu vực này lại ít được đào tạo nghề. Năm 2002 tỷ
lệ công nhân kỹ thuật, cao đẳng, đại học trở lên ở khu vực nông thôn chỉ chiếm
5,74%, nếu kể từ những người có chứng chỉ nghề trở lên là 11,95%. Nguồn nhân
lực trình độ thấp trở thành lực cản cho việc thúc đẩy sự phát triển các ngành nghề
công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao cũng như các nghề truyền thống nhằm tạo
việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình đô thị hoá.
Để có thể hình thành những nhà máy, xưởng chế biến, sản xuất, hạ tầng đô thị đòi
hỏi phải hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất với diện tích lớn tới vài trăm
hécta, điều này khiến cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp. Việc hình thành các khu
đô thị lớn, phát triển các trung tâm dịch vụ lớn sẽ ảnh hưởng rất nhiều mặt đến đời sống
của người dân ở khu vực ngoại thành, nhất là khi những người lao động ở khu vực
ngoại thành chủ yếu dựa vào ruộng đất để sản xuất. Khi tư liệu sản xuất là ruộng đất
không còn thì có sự tách rời giữa tư liệu sản xuất và sức lao động, sẽ có một bộ phận
dân cư trước đây sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp nay chuyển sang làm ngành,
nghề khác khiến cho tỷ trọng và lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ tăng dần
còn tỷ trọng và lao động trong ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi. Nhiều vấn đề
kinh tế- xã hội sẽ nảy sinh, trong đó nóng bỏng nhất là vấn đề phải làm sao tạo được
nhiều việc làm nông dân mất đất. Theo nhiều kết quả nghiên cứu, ở những nơi thu hồi
đất thì trung bình mỗi hộ có 1,5 lao động rơi vào tình trạng không có việc làm và mỗi
ha đất nông nghiệp bị thu hồi có tới 13 lao động mất việc làm. Theo số liệu của Bộ Tài
nguyên - Môi trường, giai đoạn 2000- 2004 diện tích đất nông nghiệp đã được chuyển
đổi mục đích sử dụng là gần 157.000 ha và có tới 20,41 vạn lao động nông nghiệp phải
chuyển đổi nghề nghiệp, nhiều người trong số đó hiện nay chưa có việc làm [52, tr. 41,
42]
1.1.2. Tác động của đô thị hoá đối với việc làm cho người lao động ở ngoại
thành nói chung (trong đó có ngoại thành Hà Nội)
Việc đô thị hoá tác động trên các mặt sau đây:
1.1.2.1. Tác động đến cung về sức lao động
Cung về lao động biểu hiện khối lượng lao động sống (số lượng, chất lượng
và cơ cấu lao động) tham gia vào thị trường lao động trong một thời gian nhất
định.
Thông thường khi nói đến cung về lao động, người ta thường phân biệt rõ
thành hai phạm trù: cung thực tế và cung tiềm năng.
Cung thực tế về lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc và những người thất nghiệp.
Cung tiềm năng về lao động: bao gồm những người đủ 15 tuổi trở lên đang
làm việc, những người thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ hoặc không có nhu cầu làm
việc.
Cung về lao động phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng nguồn lao động, sự
biến đối động của cầu về lao động, trình độ giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề
Năm 2004 dân số nước ta là 82 triệu người, số người trong độ tuổi lao động là
40.792.571 người, chiếm 50% dân số. Trong đó, số lượng lao động đã qua đào tạo
là 22,57% còn số lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 77,43% [2, tr.8]. Về trình độ
văn hoá, đặc biệt là số lượng lao động ở khu vực nông thôn trong độ tuổi lao động
là 30.651.890 người, số người chưa biết chữ là 5,4%, chưa tốt nghiệp tiểu học là
15,91%, đã tốt nghiệp tiểu học là 32,11%, đã tốt nghiệp trung học cơ sở là 34,12%
và đã tốt nghiệp phổ thông trung học là 12,46% [2, tr.6]. Qua số liệu trên, chúng ta
có thể thấy đây là một lực lượng lao động đông đảo, nhưng nó cũng là gánh nặng
hết sức lớn cho chính quyền của các tỉnh, thành phố. Đặc biệt, là các tỉnh thuần
nông có tỷ lệ lao động trong nông nghiệp cao, bởi vì :
Một là, do tác động của đô thị hoá làm cho diện tích đất bị thu hồi phần lớn tập
trung vào đất nông nghiệp, đất khu đông dân cư và vào một số xã nhất là ở ven các đô
thị lớn (khoảng 70-80%), có xã thậm chí phải thu hồi 100% diện tích đất sản xuất. Do
đó, lực lượng lao động trước đây làm việc trong nông nghiệp thì nay không có việc
làm. Vì thế, làm tăng nguồn cung lao động cho thị trường. Trong giai đoạn 2001- 2005,
tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích đất thu hồi là 1.200 ha đã làm cho khoảng 8.000 lao động ở
khu vực nông nghiệp mất việc; Thành phố Đà Nẵng là 854,4 ha với 20.000 lao động bị
mất việc… [52, tr. 42].
Trong thời gian 13 năm, từ năm 1990 đến năm 2003 Nhà nước ta đã thu hồi
697.410 ha đất phục vụ cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Đặc biệt, ở một số tỉnh có tốc độ đô thị hoá
nhanh là: Lào Cai, Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên, Đà Nẵng,
Hà Tây, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà, Lâm Đồng, Bình Dương,
Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa- Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp và Cần
Thơ. Trong giai đoạn 2001- 2005, các địa phương này đã thu hồi 44.720 ha mà chủ
yếu là đất nông nghiệp [52, tr.31, 32, 33].
Hai là, do quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH,HĐH theo
hướng giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ nên
tỷ trọng về cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế cũng biến đổi. Những người
trước đây sống dựa vào nguồn thu nhập từ nông nghiệp thì nay không còn hoặc bị
giảm sút về thu nhập . Muốn nuôi sống được bản thân phải tìm việc làm. Cung lao
động vì thế cũng tăng lên. Theo thống kê lao động nông nghiệp đã giảm từ 62,6%
năm 2000 xuống còn 56,8% năm 2005, trong khi lao động công nghiệp và xây dựng
tăng từ 13,10% lên 17,9% còn lao động dịch vụ tăng tương ứng từ 24,30% lên
25.3% . Đô thị hoá thúc đẩy chuyển dịch lao động nông thôn sang làm các công
việc phi nông nghiệp với các hoạt động rất đa dạng tại các vùng trung tâm, thị trấn,
thị tứ, các vùng nông thôn ven các thành phố, thị xã hình thành thị trường lao động
khá sôi động.
Ba là, khu vực ngoại thành thường là khu vực có tỷ lệ gia tăng dân số cao, lực
lượng lao động trẻ nhiều, do đó cũng tác động đến cung lao động trên thị trường.
Một số lượng lớn lao động bước vào độ tuổi lao động thiếu việc làm đã tham gia
vào thị trường lao động. Năm 2005, quy mô lực lượng lao động ở khu vực nông
thôn, ngoại thành là 33.313.874 người chiếm 75,06%, trong số đó lực lượng lao
động trẻ chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trẻ từ 15- 24 tuổi
chiếm 13,44% và cao gấp 2,5 lần tỷ lệ thất nghiệp chung [2, tr.5].
Bốn là, theo kết quả của cuộc Điều tra lao động và việc làm được công bố ngày
1/7/2005, cho biết tỷ lệ thời gian nhàn rỗi, không có việc làm ở nông thôn Việt Nam là
19,3%, tương đương với khoảng 6,42 triệu lao động [2, tr.13]. Đây cũng là một tác
động không nhỏ có ảnh hưởng đến cung lao động.
Cần lưu ý rằng, đô thị hoá và di chuyển lao động nông thôn ra thành thị trở
thành xu thế không thể cưỡng nổi. Nó có tác dụng giảm sức ép căng thẳng về việc
làm tại các vùng nông thôn và cung ứng lao động cho thị trường lao động ở các
thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu du lịch. Đây là
nguồn cung cấp dồi dào về lao động cho sự phát triển của các khu đô thị. Nhưng ở
khía cạnh nào đó, nó cũng trở thành sức ép do lao động giản đơn là chủ yếu cũng
như sức ép do hệ thống hạ tầng cơ sở không đáp ứng được số lượng lao động gia
tăng qúa nhanh. Từ đó dẫn đến tính trạng quá tải, gây biến động lớn về các vấn đề
kinh tế - xã hội của khu vực thành thị. Theo tính toán hàng năm số lao động từ khu
vực nông thôn, ngoại thành chuyển sang thành người dân ở khu vực thành thị tăng
giảm khoảng 0,52%, chưa kể đến số lao động nhàn rỗi di chuyển ra khu vực thành
thị tìm kiếm việc làm cũng chiếm số lượng không nhỏ.
1.1.2.2. Tác động đến cầu sức lao động
Có nhiều quan niệm khác nhau về cầu lao động, nhưng theo hai tác giả
Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung trong cuốn “Về chính sách giải quyết việc
làm ở Việt Nam ” thì: Cầu về lao động là khả năng thuê mướn lao động trên thị
trường lao động.
Cũng có quan niệm phân tích một cách rõ ràng hơn cầu về sức lao động: là
nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương một ngành hay một
doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định, nhu cầu này thể hiện qua khả
năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động. Như vậy, theo khái niệm thì đó
chính là nhu cầu mà những người thuê lao động cần sử dụng một số lượng nhất định
về lao động để kết hợp với tư liệu sản xuất đã có.
Theo lý thuyết, cầu về lao động cũng được phân chia thành hai loại: cầu thực
tế và cầu tiềm năng.
Cầu thực tế về lao động: là nhu cầu thực tế về lao động cần sử dụng tại một
thời điểm nhất định, thể hiện qua số lượng những chỗ làm việc trống và chỗ làm
viịc mới.
Cầu tiềm năng về lao động: là nhu cầu về lao động cho tổng số chỗ làm việc
có thể có được, sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm
trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và cả những điều kiện
khác như chính trị, xã hội v.v
Cầu về lao động bao gồm hai mặt:
Thứ nhất, là cầu về chất lượng lao động.
Thứ hai, là cầu về số lượng lao động.
Xét từ góc độ số lượng, trong điều kiện năng suất lao động không biến đổi
cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ sản xuất. Nếu quy
mô sản xuất không đổi, cầu về sức lao động tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
Còn xét từ góc độ chất lượng, việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy
mô, tiền vốn, tri thức của doanh nghiệp, ngày càng đòi hỏi cầu về chất lượng sức
lao động phải tăng lên trong tổng số lao động được sử dụng.
Khi xảy ra quá trình đô thị hoá, tất yếu nó đòi hỏi không chỉ người sử dụng lao
động mà cả người lao động cũng có nhu cầu, đòi hỏi chính đáng cần được giải quyết
đó chính là vấn đề việc làm. Bởi vì:
- Do quá trình CNH,HĐH thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế làm xuất hiện
nhiều ngành kinh tế mới, nhiều mô hình sản xuất kinh doanh mới. Chính vì vậy, các
nhà tuyển dụng có nhu cầu tuyển thêm lao động. Hàng loạt những ngành mới như
công nghệ thông tin; viễn thông; thương mại điện tử hay sự xuất hiện của những
làng nghề mới có nhu cầu tuyển dụng lao động mới từ đó có tác động đến cầu về lao
động
- Việc mở rộng sản xuất kinh doanh cũng có tác động đến cầu về lao động.
Trong quá trình CNH,HĐH luôn luôn có sự tái sản xuất mở rộng. Một phần thu
nhập quốc dân được tích luỹ lại để mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về các sản phẩm cho cả tiêu dùng và sản xuất. Các nhà sản xuất, phải luôn tìm
cách mở rộng quy mô sản xuất của mình.ở Việt Nam, trong thời gian 2001- 2005
vốn đầu tư toàn xã hội đã tăng 1,76 lần so với 5 năm 1996- 2000. Vốn đầu tư của
người dân cũng tăng. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 34% năm 2001
lên 36,5% năm 2005, trong đó lĩnh vực kinh tế chiếm gần 71% tổng vốn đầu tư xã
hội (nông, lâm, ngư nghiệp chiếm trên 13%, công nghiệp và xây dựng chiếm gần
44%, giao thông và bưu điện gần 14%).
Trong cầu về lao động có hai điều cần chú ý:
Một là, cầu về lao động có chất lượng, đã qua đào tạo cũng ngay một tăng theo
để đáp ứng nhu cầu cho nền sản xuất hiện đại. Trong điều kiện nền sản xuất của thế
giới đang phát triển mạnh mẽ, do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao đang dần chiếm tỷ trọng
lớn, nền sản xuất xã hội đang hướng tới nền kinh tế tri thức thì nhu cầu về đội ngũ
lao động được đào tạo lành nghề có trình độ cũng như một đội ngũ những nhà khoa
học, nhà quản lý tầm cỡ có khả năng thích ứng với sự biến động của nền kinh tế thế
giới hay chính là đội ngũ lao động đã được tri thức hoá ngày càng cao. Chính yêu
cầu này nó tác động mạnh mẽ tới cầu lao động về mặt chất lượng.
Hai là, những người lao động trong ngành nông nghiệp, luôn có nhu cầu được
tham gia vào lực lượng lao động để đóng góp cho xã hội và nuôi sống bản thân.
Chính điều này cũng làm ảnh hưởng đến cầu về lao động. Lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp là một bộ phận cấu thành trong lực lượng lao động của một quốc
gia. ở những nước phát triển thì lực lượng lao động này chiếm một tỷ lệ nhỏ Mỹ
khoảng 2%, Hàn Quốc khoảng 10% nhưng lại có những đóng góp không nhỏ
vào sự phát triển về kinh tế của quốc gia đó. Trong khi đó, ở những quốc gia
đang phát triển như Việt Nam lực lượng lao động nông nghiệp vẫn chiếm một tỷ
lệ rất cao trong lực lượng lao động xã hội và có những đóng góp vào sự phát
triển của đất nước. Năm 2004, Việt Nam đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu
gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về điều, thứ nhất về hạt tiêu. Nhưng
do tác động của quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động lao động
theo hướng công nghiệp, nó đặt ra yêu cầu là phải giảm lao động trong nông
nghiệp xuống, tăng lao động trong công nghiệp và dịch vụ lên. Vì vậy, nó làm
cho cầu về số lượng lao động trong nông nghiệp giảm, số lao động dư thừa này
buộc phải chuyển sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo con số thống kê,
tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm
2001 của khu vực thành thị là 6,3% và nông thôn là 1,78% và năm 2004 con số
này tương ứng là 5,6% và 1,1%. Đáng lưu ý là số lao động dư thừa này có chất
lượng thấp [7, tr.13].
1.1.2.3. Việc làm, thất nghiệp và tạo việc làm cho người lao động trong quá trình
đô thị hoá
Từ sự phân tích cung cầu về lao động ở trên chúng ta thấy rằng, khi có sự cân
bằng giữa cung - cầu trên thị trường lao động thì khi đó vấn đề việc làm đã được
giải quyết.
* Việc làm và thất nghiệp là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với không chỉ chính phủ của các quốc gia mà còn là vấn đề quan tâm hàng đầu của
mọi người lao động trong xã hội. Đặc biệt đối với đang phát triển như Việt Nam,
nơi mà tốc độ gia tăng dân số, nguồn lao động khá cao trong khi tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tạo việc làm bị hạn chế do khả năng về vốn, tư liệu sản xuất còn nhiều khó
khăn.
- Việc làm:
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm việc làm với
nhiều khía cạnh, nhiều chiều khác nhau.
Tại điều 13, chương II (Việc làm) Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam nêu rõ: "Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [10, tr.163].
Từ khái niệm được cụ thể hoá thành ba dạng hoạt động sau:
* Làm các công việc để người lao động được nhân tiền công, tiền lương bằng
tiền mặt hoặc bằng hiện vật từ người sử dụng lao động.
* Làm các công việc để tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt
động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ.
* Làm công việc đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực
hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý.
Như vậy, một hoạt động được xem xét có phải là việc làm hay không phải là
việc làm chủ yếu dựa trên tính hợp pháp của hoạt động đó.
Từ khái niệm trên một hoạt động được coi là việc làm cần thoả mãn hai điều
kiện:
Thứ nhất, hoạt động đó phải có ích và đem lại thu nhập cho người lao động và
cho các thành viên trong gia đình.
Thứ hai, đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ
tính pháp lý của việc làm. Mọi người lao động, có quyền tự tìm kiếm cho mình
những công việc phù hợp với khả năng hoặc cũng có thể tạo việc làm cho người
khác, trong khuôn khổ pháp luật. Như vậy, quan niệm về việc làm khác hẳn so với
trước đây. Trước đây, chúng ta chỉ coi những người làm trong biên chế nhà nước
mới là có việc làm.
Hai điều kiện này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
cho một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Còn tất cả những hoạt động khác, có
tạo ra thu nhập nhưng không được thừa nhận về mặt pháp lý thì không thể được gọi là
việc làm. Ngược lại, có những hoạt động có ích dù là hợp pháp nhưng không đem lại
thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm.
Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao động
được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Theo giáo trình Kinh tế lao động của trường ĐHKTQD do Phạm Đức Thành
và Mai Quốc Chánh chủ biên thì quan niệm việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái
phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất,công
nghệ ) để sử dụng sức lao động đó.
Trạng thái phù hợp được thể hiện thông qua quan hệ tỷ lệ giữa chi phí ban đầu
(C) như nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và chi phí về sức lao động (V).
Có thể biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ này bằng phương trình sau:
VL =
C
V
Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ công
nghệ của sản xuất. Khi trình độ kỹ thuật công nghệ thay đổi thì sự kết hợp đó cũng
thay đổi theo, có thể công nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc công nghệ sử dụng nhiều
sức lao động.
Do đó, tuỳ từng điều kiện cụ thể mà lựa chọn phương án phù hợp để tạo việc
làm cho người lao động.
Từ quan niệm này ta thấy, để đảm bảo cho người lao động có việc làm cần
thiết phải có những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho sự kết hợp giữa sức lao
động và tư liệu sản xuất. Đồng thời quan niệm này cũng cho thấy rằng quan hệ tỷ lệ
này luôn luôn thay đổi. Vì vậy, đối với mỗi quốc gia phải căn cứ vào điều kiện,
hoàn cảnh thực tế của mình để lựa chọn những chiến lược phát triển phù hợp nhưng
vẫn giải quyết tốt vấn đề việc làm. Chỉ có như vậy mới tránh được tình trạng lãng
phí nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực con người.
* Về thất nghiệp:
Đây là một hiện tượng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hiện đại. Tỷ lệ
thất nghiệp cao hay thấp là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự thành công hay không
thành công trong chính sách phát triển kinh tế của một quốc gia, một chính phủ đưa ra
trong quá trình triển khai các chính sách kinh tế của mình.
Có nhiều các khái niệm khác nhau được đưa ra để nói đến thất nghiệp nhưng
nội dung cơ bản của vấn đề: thất nghiệp là khái niệm dùng để chỉ những người trong
lực lượng lao động chính là những người có khả năng lao động, có sức khỏe và muốn
lao động để kiếm sống (thể hiện qua những cố gắng tìm kiếm công ăn việc làm hoặc
đang chờ để trở lại nơi làm việc cũ), nhưng hiện đang không có việc làm trong một
khoảng thời gian xác định.
Theo quan niệm của ILO: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người
trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức
tiền công thịnh hành.
Thất nghiệp có nhiều loại:
Thất nghiệp cơ cấu: là thất nghiệp xuất hiện khi không có sự đồng bộ giữa kỹ
năng, trình độ của người lao động với việc làm do cầu lao động và sản xuất thay
đổi.
Thất nghiệp do chuyển đổi: Đây là một dạng của thất nghiệp cơ cấu, nó xảy ra
do có sự chuyển đổi chính sách kinh tế làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thay đổi
nhu cầu sản xuất và tiêu thụ một số loại sản phẩm nào đó. Vì vậy, một số ngành
kinh tế truyền thống bị giảm sút và có sự xuất hiện của một ngành kinh tế mới. Sự
xuất hiện của các ngành sản xuất tạo ra sự thay đổi trong kỹ năng, thao tác cũng như
tay nghề của người lao động nên số lao động cũ phải thôi việc vì không đáp ứng
được yêu cầu của công việc hoặc phải mất một thời gian nhất định để tham gia các
lớp đào tạo lại kỹ năng, tay nghề. Loại thất nghiệp này xảy ra ở những quốc gia có nền
kinh tế chuyển đổi, nhất là ở các quốc gia đang phát triển hơn nữa do sự biến đổi sâu
sắc cơ cấu kinh tế- xã hội của các quốc gia này nên thất nghiệp do chuyển đổi có quy
mô lớn hơn và trầm trọng hơn so với thất nghiệp do thay đổi cơ cấu của các nước phát
triển.
Thất nghiệp theo mùa vụ: Là loại hình thất nghiệp xảy có tính định kỳ trong
một khoảng thời gian nhất định do tính mùa vụ của quá trình sản xuất kinh doanh
gây ra.
Thất nghiệp tự nguyện: Là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc
do muốn tìm một công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với
nguyện vọng.
Thất nghiệp không tự nguyện: Đây là loại thất nghiệp mà ở đó người lao động
chấp nhận những điều kiện làm việc và mức lương thực tế nhưng vẫn không được
tuyển dụng hoặc không có việc làm.
Trong điều tra thực trạng lao động và việc làm của Bộ LĐTB - XH, người bị
coi là thất nghiệp ở nước ta được hiểu: là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân
số hoạt động kinh tế hiện tại đang:
- Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua hoặc không có hoạt động đi tìm
việc làm vì lý do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm nhưng chưa tìm được.
- Trong tuần lễ trước đó (tính từ thời điểm điều tra) có tổng số giờ là việc dưới 8
giờ, có mong muốn và sẵn sàng làm thêm giờ nhưng không tìm được việc.
Dù vậy, chúng ta cũng có sự phân biệt cho những người từ 15 tuổi trở lên
nhưng thuộc những đối tượng sau đây không nằm trong số những người thất nghiệp
và không nằm trong lực lượng lao động: người đang đi học; người không có khả
năng lao động; người không có nhu cầu tìm việc làm; người làm công việc nội trợ ở
gia đình.
Mặc dù những tiêu chí đưa ra để xác định người có việc, người thất nghiệp chỉ
mang tính chất tương đối, nhưng nó góp phần quan trọng để chính phủ đưa ra
những chính sách ở tầm vĩ mô. Qua đó chống thất nghiệp, phát triển kinh tế mạnh
mẽ để tạo nhiều việc làm cho người lao động góp phần vào sự phát triển ổn định và
bền vững của quốc gia. Ngược lại, nếu không có sự nghiên cứu những cơ sở này thì
chúng ta sẽ không đưa ra được những chính sách phù hợp, chính xác và khoa học.
Từ đó, sẽ làm lãng phí nguồn lực không tạo ra động lực cho sự phát triển đất nước.
* Tạo việc làm cho người lao động:
Từ phân tích trên ta thấy, việc làm cho người lao động được tạo ra khi có sự
gặp nhau giữa cung và cầu lao động, nó được thể hiện thông qua phạm trù tiền