Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh doanh thương mại-công ty vận tải ô tô số 3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.06 KB, 82 trang )







LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chiến
lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh
doanh thương mại-công ty vận tải ô tô
số 3
















mở đầu
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó các qui luật kinh tế
đã phát huy tác dụng đặc biệt là qui luật cạnh tranh. Điều này đã dẫn đến việc không ít


các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ. Nguyên nhân
chủ yếu là do trình độ quản lý kinh doanh nói chung con non kém, bị động trước môi
trường kinh doanh, hoạt động kinh doanh mang tính tình thế ngắn hạn. Để khắc phục tình
trạng trên trước hết các doanh nghiệp cần nâng cao trình độ quản lý, tổ chức hoạt động
kinh doanh theo định hứơng chiến lược. Chiến lược giúp doanh nghiệp xác định đúng
mục tiêu của mình trong một thời gian xác định; nhận biết khai thác tối đa cơ hội thị
trường, né tránh và tối thiểu hóa những nguy cơ thị trường; phân tích vận dụng hữu hiệu
những tiềm lực hiên hưu cũng như tiêm năng của doanh nghiệp và khắc phục những điểm
yếu để đạt thành mục tiêu đã định. Như vậy chính chiến lược và quản trị chiến lược cạnh
tranh giúp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và đứng vững trên thị trường.
Nhận thức được vai trò quan trọng của việc quản trị chiến lược, qua quá trình thực
tập ở xí nghiệp kinh doanh thương mại, tôi chọn đề tài:"Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện chiến lược cạnh tranh tại xí nghiệp kinh doanh thương mại-công ty vận tải ô tô
số 3" để viết chuyên đề tốt nghiệp.

Phần I :
Những vấn đề cơ bản về chất lượng dịch vụ Và vai trò của nói với việc mở rộng thị trường

I. Chất lượng dịch vụ
1.Chất lượng dịch vụ và đặc điểm của chất lượng dịch vụ
+ Chất lượng là gì ? Vì sao phải quan tâm tới chất lượng ?
- Vì sao phải quan tâm đến chất lượng
Như chúng ta đã biết chất lượng và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đó là một quan hệ thuận chiều, vậy muốn tăng trưởng kinh tế cao chúng ta phải cải
tiến, không ngừng nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ. Qua thời gian chúng ta thấy
chất lượng sản phẩm, dịch vụ càng trở lên quan trọng, lịch sử đã chứng minh điều đó :
Khi cuộc cách mạng công nghiệp mới bắt đầu thì cầu luôn vựơt cung, người sản
xuất không chú ý đến chất lượng sản phẩm dịch vụ mà họ chỉ quan tâm đến sản lượng cho
đến những năm 1970 của thế kỷ XX thì :
- Công nghệ đã phát triển rất mạnh

- Thông tin phát triển
- Nền văn minh đã phát triển đến mức cao
Từ đó hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, nhận thức của con người nâng cao lên
một cách rõ rệt. Cung hàng hoá lớn hơn cầu, nhu cầu ngày càng cao và yêu cầu đối với sản
phẩm đòi hỏi rất khắt khe trong xã hội, đồng thời tư do thông tin và thương mại toàn cầu
dẫn đến việc cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và chất lượng là một yếu tố hàng đầu để
đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển.
+ Chất lượng là gì?
Theo quan điểm triết học, chất lượng là phần tồn tại cơ bản bên trong của sự vật hiện
tượng. Theo Mác thì chất lượng là mức độ, là thước đo giá trị của 1 thực thể.
Theo quan điểm của hệ thống XHCN trước đây thì chất lượng sản phẩm là tập hợp
các đặc điểm kinh tế kỹ thuật nội tạng, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản
phẩm đó đáp ứng nhu cầu đã định trước cho nó trong những điều kiện về kinh tế kỹ thuật.
Theo quan điểm này thì chất lượng không gắn với hiệu quả của kinh doanh và điều kiện
sản xuất cuả từng doanh nghiệp. Hạn chế này do trong các nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy

giờ còn tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm theo kế hoạch nên chất lượng hàng hoá không phù hợp với nhu cầu.
Chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì khái niệm chất lượng trên không còn phù hợp nữa.
Vì nó không gắn với nhu cầu chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo Philip Crosby, một nhà quản lý chất lượng người Mỹ nổi tiếng cho rằng “
Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu hay đặc tính nhất định chứ không phải là sự thanh
lịch tao nhã”. Điều này nó khác với các khái niệm truyền thống về chất lượng mà ở đó
không đề cập tới cách thức mà một hạng mục hàng hoá có thể tạo ra được, hoặc phương
pháp mà qua đó các dịch vụ được cung cấp. Hơn thế nữa định nghĩa này không có tính
chiến lược, ở đây nó tập trung vào việc cố gắng nắm được đầy đủ các kỳ vọng mà một
khách hàng có và hướng các tổ chức vào các việc đáp ứng các kỳ vọng này. Quan điểm
này đã hình thành nên các mục tiêu, các mục tiêu này có thể không gắn với nhu cầu và có
độ co giãn hơn khi so với với các mục tiêu hình thành bên trong nội tại. Định nghĩa này ý

nghĩa rất to lớn đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng loạt và sử dụng lắp lẫn chi tiết.
Còn Geigenbum cho rằng “ chất lượng sản phẩm là tập hợp các đặc tính kỹ thuật
công nghệ và vận hàng của sản phẩm nhờ chúng mà sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của
người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm”.
Juran một nhà chất lượng hàng đầu khác đã nhận ra rằng các yêu cầu về quy phạm
có thể là những thứ mà ban quản lý và các nhà thiết kế cho là phù hợp nhưng nó không
phải là thứ mà khách hàng cần. Do đó theo ông “ Chất lượng là sự phù hợp công dụng”.
Định nghĩa này của Juran thừa nhận một số sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo với ý đồ là để
thoả mãn được nhu cầu nào đó của khách hàng.
Nói như vậy thì khái niệm chất lượng không phải là một khái niệm trìu tượng đến
mức người ta không thể đi đến một diễn giải tương đối thống nhất. Tổ chức quốc tế về tiêu
chuẩn hoá ISO 9000 : 2000 trong tiêu chuẩn thuật ngữ đã đưa ra định nghĩa được các quốc
gia chấp nhận và thông qua.
“ Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng những yêu
cầu” trong đó yêu cầu là nhu cầu hay mong đợi đã được công bố ngầm hiểu chung hay bắt
buộc.

Trước đây khi nói tới chất lượng đa số người ta chỉ nói tới chất lượng chi phí và rất
ít đề cập tới chất lượng dịch vụ. Nhưng ngày nay cùng với hướng phát triển chung của xã
hội, đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn nữa đối với sự sống còn và phát triển của ngành
kinh doanh dịch vụ trong nền kinh tế thị trường. Theo bộ tiêu chuẩn ISO 9000 : 2000 thì
dịch vụ là 1 chủng loại sản phẩm, tức là sản phẩm bao gồm cả dịch vụ. Chất lượng dịch vụ
là thoả mãn của khách hàng khi họ cảm thấy đồng tiền mà họ bỏ ra xứng đáng với những
gì người cung cấp phục vụ họ.
+Đặc điểm của chất lượng dịch vụ
Do dịch vụ là một loại sản phẩm đặc biệt, thường là vô hình cho nên chất lượng dịch
vụ có đặc điểm riêng của nó khác chất lượng sản phẩm thông thường.
Một trong những đặc điểm nổi bật cần quan tâm đó là sự ổn định của chất lượng
dịch vụ, sự ổn định xác định mức độ lặp lại của việc cung cấp dịch vụ hay tại các địa điểm
khác nhau cùng cung cấp 1 loại dịch vụ. Nó bao hàm việc đạt được sự đồng bộ trong việc

cung cấp hay thực hiện của tất cả các khía cạnh về thời gian, địa điểm, tình huống và
người cung cấp dịch vụ.
Nhìn chung thì khách hàng quen biết thường được đối xử tốt hơn và nhanh hơn
những khách hàng mới và ít đến, những khách hàng lớn thì được đối xử, quan tâm phục vụ
tốt hơn những khách hàng nhỏ.Nhiều khi điều đó tưởng là hợp lý nhưng đó cũng là một
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng mất khách hàng, đây cũng là điều mà các dịch vụ ở Việt
Nam nên quan tâm và sửa đổi.
2. Đặc điểm của ngành vận tải ( dịch vụ vận tải )
Ngành vận tải tham gia vào quá trình sản xuất nhưng không trực tiếp tạo ra sản
phẩm. Do vậy đặc điểm lớn nhất của vận tải là ngành dịch vụ, kết quả của hoạt động dịch
vụ vận tải là làm thay đổi chu chuyển lượng hàng hoá hay hành khách mà nó vận chuyển
trong thời gian và không gian xác định. Hoạt động vận tải tham gia vào quá trình lưu
chuyển hàng hoá, thúc đẩy quá trình giao lưu, phân phối hàng hoá giữa các vùng, các quốc
gia.
Hoạt động vận tải tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh thông qua giá cước
vận chuyển hàng hoá Nếu giá cước vận chuyển tăng, dịch vụ vận tải sẽ làm tăng chi phí
sản xuất ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá mà nó vận chuyển. Trong hoạt động kinh doanh
dịch vụ vận tải, cước phí vận tải ( chi phí vận tải ) là chỉ tiêu quan trọng. Nó cho phép so

sánh lợi thế cạnh tranh, một doanh nghiệp vận có giá cước vận chuyển thấp sẽ thu hút
được nhiều khách hàng hơn so với cácdoanh nghiệp trong nội bộ ngành, giữa các doanh
nghiệp vận tải, doanh nghiệp nào tận dụng được lợi thế cạnh tranh tiếp cận thị trường tốt
thì hiệu quả sản xuất kinh doanh mang lại sẽ cao hơn các doanh nghiệp khác cùng ngành.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh chất lượng phục vụ của ngành vận tải được
đánh giá bằng lượng hàng hoá, tốc độ chu chuyển nhanh hay chậm. Cơ chế thị trường đòi
hỏi mức chính xác về thời gian và tiến độ cao.Một đặc điểm của hoạt động vận tải là tốc
độ vận chuyển phải được bảo đảm chính xác cho các doanh nghiệp sử dụng vận tải. Qua
đó đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp vận tải trong quá trình cạnh tranh là chất lượng
phục vụ bảo đảm thời gian và tiến độ chu chuyển hàng hoá.
3. Các yếu tố cấu thành chất lượng dịch vụ

Như chúng ta đã biết dịch vụ mang tính vô hình. Khách hàng là người duy nhất
đánh giá được chất lượng dịch vụ vì chất lượng giống như sắc đẹp nói phụ thuộc vào mức
độ cảm nhận của mỗi người, am hiểu về nó của mỗi người Chất lượng dịch vụ không chỉ
tuân thủ những đặc tính đơn thuần còn là sự tuân thủ với các đặc tính do người tiêu dùng
đưa ra, yêu cầu giữa hai đặc điểm này có sự khác biệt, nó thể hiện qua sơ đồ sau :














Chất lượng
mong đợi
Toàn bộ
chất

ợng
nh
ận thức

Chất lượng
thực tế

- Danh tiếng

- Truyền
miệng
- Quảng cáo
- Thông tin
Danh tiếng
Chất lư
ợng
chức năng
Chất
lượng


Chất lượng dịch vụ thể hiện cả tính hiện thực và tính nhận thức và toàn bộ chất lượng
dịch vụ sẽ được đánh giá bằng sự so sánh giữa chất lượng mong đợi và mức độ chất lượng
khách hàng nhận được trong thực tế. Một tổ chức cung cấp dịch vụ mà làm sai công việc
đối với khách hàng cho dù có làm tốt đến đâu đi chăng nữa không thể tạo ra một dịch vụ
có chất lượng.Chẳng hạn trong một chuyến giao hàng, khách hàng hẹn là ô tô phải đến
chính xác vào ngày nay để họ nhận hàng nhưng vì chủ quan của người lái xe, hoặc là nhân
viên đi giao hàng lại trễ 1 vài ngày từ đó gây ảnh hưởng lớn đến khách hàng thì dù cho
hàng vận chuyển có đảm bảo đến đâu hoặc có giảm chi phí chuyên chở thì khách hàng
cũng sẽ không vừa lòng. Hoặc trong nhà hàng nếu thực đơn kê khai các món ăn mà không
đủ khả năng phục vụ thì bản thân khách hàng cảm thấy khó chịu như thể mình bị lừa. Dịch
vụ cả hai trường hợp trên đều không thể có chất lượng cao được.

III. Vai trò của công tác nâng cao chất lượng dịch vụ đối với việc mở rộng thị trường
1.Khái niệm, nội dung và sự cần thiết mở rộng thị trường đối với doanh nghiệp
1.1 Khái niệm thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá người ta trao đổi với nhau theo phương thức ( H- T –

H). Chính sự trao đổi lấy tiền tự môi giới đã khắc phục được trao đổi của hiện vật.Lưu
thông hàng hoá mở rộng thời gian trao đổi, mua lúc này bán lúc khác và mở rộng các cá
nhân, các doanh nghiệp, các tập đoàn lớn tham gia trao đổi.Nhưng bản thân sự trao đổi
không phải không phải đương nhiên thực hiện được, giải quyết mâu thuẫn này không chỉ
trao đổi mà phải thông qua giao dịch mua bán với những quan hệ trên thị trường.
+ Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá được biểu thị bằng các
hoạt động trao đổi, cùng với các quan hệ kinh tế do chúng sinh ra, được biểu hiện trong
thời gian và không gian xác định.
+ Theo quan điểm kinh doanh : Thị trường là tập hợp nhu cầu về một loại hàng hoá
dịch vụ cụ thể, là nơi diễn ra hành vi mua bán bằng tiền.Nói cách khác thị trường là nơi
gặp gỡ giữa cung và cầu của một loại sản phẩm. Các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm của
họ cho người tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu của họ dưới dạng cầu. Các cá nhân và tổ
chức xuất hiện trên thị trường cùng lúc với tư cách người mua, với tư cách là người bán.

1.2 Nội dung của thị trường và phân loại thị trường
Thị trường là lĩnh vực huyền bí đối với các nhà doanh nghiệp, song nó cũng là một
thực thể có khả năng nhận thức được.
Nếu chúng ta đứng trên quan điểm khác nhau thì chia thị trường thành các loại khác
nhau. Thông thường người ta căn cứ vào các tiêu thức sau đây:
+ Căn cứ vào hình thái vật chất của đối tượng trao đổi ta có :
- Thị trường dịch vụ
- Thị trường hàng hoá ( bao gồm các thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường
hàng tiêu dùng )
+ Căn cứ vào quan hệ cung cầu ta có :
- Thị trường lý thuyết
- Thị trường thực tế
- Thị trường tiềm năng
+ Căn cứ vào vai trò, số lượng người mua và người bán trên thị trường người ta
chia :
- Thị trường độc quyền

- Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
- Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
1.3 Sự cần thiết phải mở rộng thị trường đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp
Doanh nghiệp là một hệ thống mở, có mục đích, có chỉ huy để đảm bảo chức năng
là một đơn vị sản xuất và phân phối, chúng ta thấy rõ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bộ phận
sản xuất và phân phối. Hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện trên thị trường nhờ trao
đổi sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp. Với sự mở cửa của đất nước trong nền kinh tế
thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải thích ứng với cuộc cạnh tranh trong nước
cũng như trên thế giới. Trên thị trường có nhiều sản phẩm của doanh nghiệp nhằm thoả
mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Ai sẽ chiến thắng ? Doanh nghiệp nào biết nghiên cứu
tốt nhu cầu thị trường để có sản phẩm dịch vụ đáp ứng được nhu cầu mong đợi của người
tiêu dùng, doanh nghiệp đó sẽ chiến thắng. Nhưng chỉ nghiên cứu những nhu cầu và đáp
ứng sản phẩm dịch vụ theo nhu cầu này chưa hẳn đã đủ.Mục tiêu của tiêu thụ của sản
phẩm dịch vụ là mục đích cuối cùng, là điều kiện cần, còn phải tăng lợi nhuận, tăng thị

phần là mục đích theo đuổi của bất kỳ một doanh nghiệp nào, như một thị trường nhất định
thì tiêu thụ khối lượng sản phẩm, dịch vụ sẽ dừng lại ở mức nhất định. Để đạt được mục
đích theo đuổi, doanh nghiệp nhất thiết phải mở rộng thị trường. Từ đó ta thấy rằng thị
trường và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ luôn đi liền với nhau và chúng có vai trò quan trọng
với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua thị trường và tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp có thể tăng hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Thị trường và tieu thụ hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng nó là điểm khởi
đầu ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty vận tải ôtô số 3. Mỗi
doanh phải chiếm lĩnh một thị phần, thị trường nhất định và vấn đề đặt ra là phải cố gắng
duy trì được thị trường đó, mở rộng và nâng cao thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay không phải doanh nghiệp nào cũng có khả năng
duy trì được thị phần của mình và đi đến nâng cao thị phần, thậm chí thị phần đó còn bị
thu hẹp lại. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu lợi nhuận nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh,
doanh nghiệp phải cố gắng duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ, đồng thời giảm chi phí,

công ty vận tải ô tô số 3 cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thị trường giúp cho quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách bình thường. Nó chính là bộ phận
chủ yếu quan trọng của quá trình kinh doanh.Nếu 1 doanh nghiệp không có thị trường thì
việc tiêu thụ sản phẩm không được thực hiện công việc kinh doanh của mình. Vì vậy việc
mở rộng thị trường nâng cao vị thế của doanh nghiệp tạo thế cho doanh nghiệp thông qua
việc tiêu thụ sản phẩm cũng như mở rộng quan hệ với bạn hàng.
Cuối cùng, thị trường có vai trò điều tiết từ đó làm tiền đề cho việc đẩy mạnh tiêu
thụ sản phẩm, số lượng sản phẩm ngày càng tăng giúp cho quá trình sản xuất diễn ra được
liên tục thông suốt là mục đích cuối cùng vẫn là đem lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp
tạo hướng sản xuất và kinh doanh mới cho doanh nghiệp.
2.Vai trò của công tác nâng cao chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh mới cho
doanh nghiệp
Như đã trình bày ở trên, việc mở rộng thị trường nâng cao thị phần là hết sức cần
thiết và là mục đích vươn tới của tất cả các doanh nghiệp nói chung và công ty vận tải ô tô
số 3 nói riêng. Nhưng muốn đạt được điều đó thì đòi hỏi công ty phải có hướng đi kế
hoạch và phát triển hợp lý.

Chúng ta biết rằng duy trì, mở rộng thị trường thì phải thoả mãn được những đòi
hỏi yêu cầu của thị trường đó. Thoả mãn thông thường không chưa đủ mà phải thoả mãn
được nhu cầu thị trường tốt hơn đối thủ cạnh tranh. Một yếu tố quyết định để thoả mãn
được thị trường là chất lượng hàng hoá dịch vụ mà công ty đưa ra thị trường. Cái thị
trường cần đó chính là chất lượng, chất lượng của sản phẩm vật chất thường bị giới hạn
trên khả năng cụ thể là lực của máy móc thiết bị. Đặc biệt là công ty vận tải ô tô số 3 hoạt
động trong lĩnh vực dịch vụ cung cấp những dịch vụ trung chuyển hàng hoá, dịch vụ bảo
hành sửa chữa và một số dịch vụ khác. Vì vậy cách chung nhất là nâng cao chất lượng hoạt
động dịch vụ.
Những năm qua cùng với sự chuyển mình của đất nước bước sang nền kinh tế thị
trường. Công ty vận tải ô tô số 3 là đơn vị kinh doanh dịch vụ với nhiệm vụ chính là cung
cấp dịch vụ trung chuyển, bảo hành sửa chữa để vận chuyển các loại hàng hoá. Công ty
luôn quan tâm đến việc nâng cao hoạt động chất lượng dịch vụ và trên mọi cách khai thác

triệt để vai trò của việc nâng cao chất lượng dịch vụ.

II. hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp giai đoạn 2001- 2004
1. Sản phẩm dịch vụ vận tải
1.1 Đặc điểm về sản phẩm dịch vụ vận tải
Ngành vận tải ôtô cũng như vận tải đường sắt, đường thuỷ…tham gia vào quá trình
sản xuất nhưng không trực tiếp tạo ra sản phẩm. Do vậy đặc điểm lớn nhất của nó là ngành
dịch vụ, kết quả của hoạt động dịch vụ vận tải là làm thay đổi chu chuyển lợng hàng hoá
hay hành khách mà nó vận chuyển trong thời gian và không gian xác định. Hoạt động vận
tải tham gia vào quá trình luân chuyển hàng hoá, thúc đẩy quá trình giao lưu, phân phối
hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia.
+Vận tải ôtô là một phương thức vận chuyển hàng hoá rất linh hoạt và đa dạng trong
đối tượng phục vụ.Hầu hết các loại hàng hoá đều có thể sử dụng phương thức này để vận
chuyển.Nó có thể vận chuyển trung chuyển hoạc vận chuyển từ ngời sản xuất đến người
tiêu dùng.
+Phương thức vận chuyển bằng đường bộ rất uyển chuyển về lộ trình và tiến độ. Khả
năng phục vụ và đáp ứng nhu cầu của khách hàng thờng nhanh hơn so với các phương

thức vận taỉ khác, nhưng giá thành thường cao hơn các loại vận tải khác trên cùng một
khoảng cách vận chuyển.

+Vận tải ôtô luôn chiếm tỷ trọng vận chuyển khối lượng lớn hàng hoá.Nó chiếm tuyệt
đại đa số trong vận chuyển nội bộ thị xã,thành phố và các tuyến trung bình.Vận chuyển ôtô
chiếm ưu thế tuyệt đối với những lô hàng có khối lượng ít và có giá trị cao. Hơn nữa phư-
ơng thức vận tải đường bộ có số lần xếp dỡ thấp nên tiết kiệm đợc thời gian và khả năng
bảo quản hàng hoá tốt hơn.
+Trong hoạt động sản xuất kinh doanh chất lượng phục vụ của vận tải ôtô đợc đánh giá
bằng nhiều chỉ tiêu quan trọng như:
.Tính kịp thời:thời gian chờ đợi để được phục vụ của khách hàng,thời gian vận
chuyển(thời gian hoàn thành các hợp đồng vận tảI).

.Tính chính xác:mức độ đáng tin cậy của dịch vụ,yêu cầu không có sai sót trong quá
trình vận chuyển.
.Tính sẵn có:số đIểm giao dịch,số nhân viên giao dịch,mức độ sẵn sàng đáp ứng nhu
cầu của khách hàng.
.Tính toàn diện:phạm vi phục vụ và khả năng cung cấp các dịch vụ bổ xung.
.Tính tiện lợi: vị trí, khả năng tiếp cận của khách hàng, khả năng cung cấp dịch vụ va
hình thức cung cấp.
.Tính hợp lý: khách hàng đánh giá tính hợp lý của chi phí phục vụ vận tảI tuỳ theo
nhận thức của họ về chất lượng.
.Ngoài ra còn có một số tiêu chí nữa để đánh giá chất lượng dịch vụ vận tải như: hình
ảnh của công ty, danh tiếng…Các yếu tố này được thiết lập thông qua nhận thức của khách
hàng về tất cả các khía cạnh của dịch vụ ,của công ty.
+Hoạt động vận tải diễn ra trên một phạm vi rộng, phân tán: đây là một đặc điểm rất
dễ nhận thấy bởi vì bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng cần đến vận tải .
Vận tải chuyển nguyên liệu đầu vào đến nơi sản xuất đồng thời đưa sản phẩm đầu ra tới
nơi tiêu thụ.
+Tốc độ vận chuyển phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng và thời tiết:
. Cơ sở hạ tầng gồm: hệ thống cầu, đường giao thông tác động trực tiếp tới tốc độ, chất lư-
ợng vận chuyển trên mặt đất. Nếu chất lượng đường giao thông kém, hệ thống cầu phà

không tốt dẫn đến tắc nghẽn sẽ làm giảm tiến độ vận chuyển. Mặt khác, chất lượng đường
giao thông kém sẽ ảnh hưởng tới chất lượng hàng hoá được vận chuyển.
. Thời tiết là yếu tố tác động mạnh tới vận chuyển bằng đường hàng không, đường biển,
đường bộ. Thời tiết xấu các phương tiện vận tải sẽ không hoạt động được hàng hoá bị ứ
đọng không được lưu thông, phân phối trên thị trường .Do đó có thể nói rằng thời tiết là
yếu tố tác động rất mạnh tới khối lượng dịch vụ ngành vận tải.
.Các nguồn hàng, khối lượng hàng hoá và hành khách vận chuyển ngày càng gia tăng
nhưng tỷ lệ tăng thấp hơn so với mức tăng của các phương tiện, doanh nghiệp vận tải làm
cho tình hình cạnh tranh trên thị trường rất gay gắt.
.Vốn đầu tư ban đầu cho các phương tiện vận tải nhiều, khấu hao của phương tiện

trong quá trình hoạt động lớn, chi phí giá thành cho vận tải như chi phí nhiên liệu, giá phụ
tùng thay thế, các loại phí, lệ phí đường, cầu, tăng cao. Phụ tùng thay thế của các phương
tiện vận tải hầu như phải nhập từ nước ngoài nên giá thành tương đối đắt. Điều này làm
cho giá thành dịch vụ vận tải ôtô cao hơn một cách tương đối so với các dịch vụ vận tải
khác.
1.2 Sự phát triển về dịch vụ vận tải của xí nghiệp kinh doanh thương mại
Quá trình cung cấp dịch vụ của xí nghiệp cũng như những loại dịch vụ khác bao
gồm 2 cấp bậc là dịch vụ cốt lõi(dịch vụ chính) và dịch vụ bao quanh(dịch vụ thành phần).
Dịch vụ vận tải chính mà xí nghiệp cung ứng là vận chuyển hàng hoá từ kho tới kho(vận
chuyển trọn gói) hoặc từ kho tới cảng,bến tầu, bến xe, sân bay và ngược lại(vận chuyển
trung chuyển); ngoài ra xí nghiệp còn nhận vận chuyển hàng hoá từ kho đến các người
nhận hàng ở nhiều địa điểm khác nhau(vận chuyển phân phối).
Ngoài dịch vụ chính ra , xí nghiệp đã bổ xung thêm những dịch vụ thành phần như bốc
xếp, giám định hàng hoá, tổ chức bảo quản hàng hoá để nâng cao giá trị của dịch vụ chính.
Sản phẩm vận tải của xí nghiệp được quản lý dựa trên mô hình QTC (Quality – Just
in Time – Costs). Xí nghiệp luôn quan tâm đến quan điểm đổi mới, thực dụng và hỗn hợp
về chất lượng của dịch vụ vận tải. Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay tính chuẩn
mực đồng bộ, cường độ cạnh tranh cao do vậy các sản phẩm dịch vụ của xí nghiệp phải
mang tính hợp thời cao, tức là đạt độ chín tới đầy đủ, độ chuẩn bị sẵn sàng và sự có mặt
đúng lúc của sản phẩm dịch vụ được chào, đảm bảo dịch vụ khi xí nghiệp đưa ra đạt được
điểm cực trị của thời cơ thị trường. Một yếu tố hết sức quan trọng nữa mà được công ty

đặc biệt chú ý đó là giá cả hay cước phí vận chuyển, đây chính là mục tiêu, lợi thế cạnh
tranh quan trọng nhất của xí nghiệp .
*Giá cước vận chuyển
Theo quan điểm marketing giá là một dẫn xuất tương hỗ khi cầu gặp cung trên thị
trường và được thực hiện. Nó là yếu tố nhạy cảm nhất, là tế bào thần kinh của thị trường,
là yếu tố mà người tiêu dùng cân nhắc nhiều nhất khi đưa ra quyết định tiêu dùng hay
không bất kỳ sản phẩm hàng hóa, hay dịch vụ nào đó, là yếu tố cực kỳ quan trọng trong
việc tồn tại và phát triển của xí nghiệp . Giá của sản phẩm vận tải chính là cước vận

chuyển, giá cước đưa ra dựa trên giá chuẩn do Nhà nước quy định. Nhưng trong thực tế,
việc xác định cước vận chuyển thực hiện theo nguyên tắc thỏa thuận, dựa trên giá thị
trường, là mức giá mà xí nghiệp nhận được từ việc chuyên chở hàng hóa và là mức giá mà
người thuê phương tiện vận chuyển thực trả cho xí nghiệp , do vậy yếu tố giá cước này là
hết sức linh hoạt.
Hiện nay, giá cước thực hiện của xí nghiệp chỉ bằng khoảng 70% giá cước chuẩn
theo qui định của nhà nước.
Khi đưa ra chính sách giá, xí nghiệp phải tiến hành xem xét, cân nhắc, đánh giá tất cả các
yếu tố ảnh hưởng thuộc về nội tại của xí nghiệp cũng như những yếu tố bên ngoài. Bao
gồm mục tiêu marketing của xí nghiệp , chiến lược marketing mix, chi phí, tổ chức định
giá, bản chất của thị trường và sức cầu (được đánh giá thông qua sự phát triển của lượng
sản xuất, sự phân bố lực lượng sản xuất, giá cả, sự biến động giá và chất lượng phục vụ),
tình hình cạnh tranh và các yếu tố thuộc về môi trường vĩ mô khác. Trong đó chi phí là yếu
tố nền tảng, là cơ sở của việc định giá cước vận chuyển, vì qua giá cước vận chuyển công
ty đảm bảo đủ bù đắp những chi phí bỏ ra và có mức lãi hợp lý để bù đắp cho những nỗ
lực và rủi ro
2.thị trường
2.1 Đặc điểm của thị trường vận tải
Có thể nói sử dụng dịch vụ vận tải như là một nhu cầu tự nhiên của các doanh nghiệp , tổ
chức ,cá nhân có liên quan đến lĩnh vực sản xuất-tiêu dùng. Điều này xuất phát từ việc
dịch vụ vận tải hàng hoá ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của các hoạt động sản
xuất, kinh doanh hàng hoá và vận tảI là một công cụ liên kết quá trình sản xuất-phân phối
tiêu dùng.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước , nhu cầu sử dụng dịch vụ vận tảI ôtô
cũng tăng cao do khối lượng hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều. Hơn nữa, nhu cầu lân
chuyển hàng hoá tăng lên đã góp phần làm cho quy mô nhu cầu vận tảI tăng cao. Năm
2003 khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng ôtô cả nước đạt hơn 51 triệu tấn, tăng 12,5%
so với năm 2002, năm 2004 con số này tăng lên 65 triệu tấn (tăng 12,74% so với năm
2003). Như vậy,hàng hoá vận chuyển bằng ôtô tăng đều qua những năm gần đây là một

dấu hiệu đáng mừng cho ngành vận tải ôtô nước ta.
Hiện nay nhu cầu vận tải ôtô nước ta có một số đặc đIểm sau:
+Nhu cầu vận tải ôtô phụ thuộc rất nhiều vào các ngành sản xuất khác nhau và mức tiêu
dùng cuả người dân. Nhu cầu này có thể xuất phát từ phía nhà sản xuất ,các nhà cung ứng
sản phẩm đầu vào hay chính các khách hàng của doanh nghiệp.
+Nhu cầu vận tải ôtô mang nặng tính thời vụ .Vào những thời gian nhất định trong năm
(thường là giai đoạn cuối năm) nhu cầu vận tải tăng cao do sức tiêu dùng của người dân
tăng và khối lượng hàng hoá được sản xuất ra là rất lớn. Do đó các doanh nhiệp cung cấp
dịch vụ này cần tìm hiểu rõ tính thời vụ của các loại hàng hoá để có kế hoạch đều tiết công
việc.
+Nhu cầu vận tải ôtô thường mang tính phân tán do yêu cầu vận chuyển trên các tuyến
đường khác nhau thường xuyên được đặt ra.
2.2 Thực trạng về thị trường và khách hàng của xí nghiệp
Thị trường của xí nghiệp chủ yếu là vận tải ở thị trường phía Bắc-nơi có sự cạnh tranh
rất mạnh mẽ giữa các doanh nhiệp vận tải. Thị phần của xí nghiệp trong giai đoạn hiện nay
là chiếm khoảng 3% tổng thị phần của thị trường vận tải ôtô đường bộ.
Xí nghiệp đang phải đối đâù với sự cạnh tranh rât mạnh mẽ, để chiếm lĩnh thị phần đòi
hỏi xí nghiệp phai có hệ thống kênh phân phối rộng khắp và phải rất chú trọng đến việc
xúc tiên bán.
Kênh phân phối của xí nghiệp là một tập cấu trúc lựa chọn có chủ đích giữa xí
nghiệp với khách hàng trọng điểm và với các đại lý vận tải để tổ chức phân phối, vận
động các hoạt động vận tải hàng hóa hợp lý nhất cho tập khách hàng tiềm năng, trọng điểm
mà công ty lựa chọn. Với sản phẩm vận tải, hoạt động phân phối tại xí nghiệp khá đơn
giản, quan hệ trực tiếp với chủ hàng là chủ yếu (người thuê phương tiện vận tải) và thông

qua các đại lý vận tải. Các đại lý vận tải có thể là thể nhân hoặc pháp nhân đứng giữa xí
nghiệp và người cần thuê vận chuyển, họ có thể mang danh nghĩa hoặc chỉ tham dự vào
những giao dịch để nhận một phần lợi nhuận từ xí nghiệp để bù đắp những cho những
mạo hiểm mà họ đã chi phí cho hoạt động hữu hiệu. Trong kênh marketing phân phối bao
gồm công ty và những đại lý vận tải thực hiện những nhiệm vụ sau: nghiên cứu marketing

phân phối, thu thập những thông tin cần thiết để khai thác nguồn hàng vận chuyển, nắm
vững những yêu cầu vận chuyển của các chủ hàng có khối lượng lớn, nhu cầu vận chuyển
lâu dài về khối lượng vận chuyển, loại hàng, cự ly, thời gian vận chuyển; thực hiện hoạt
động quảng cáo, khuyếch trương, triển khai và phổ biến các giao tiếp có tính thuyết phục
để thu hút khách hàng, tao uy tín trên thị trường; thực hiện các giao dịch, phát hiện và giao
tiếp trực tiếp với khách hàng triển vọng; làm thích ứng, phù hợp hóa những khả năng cung
cấp với nhu cầu của khách hàng; tiến hành các thương thảo, đặc biệt là vấn đề giá cược
vận chuyển, đảm bảo tài chính, tạo lập và phân phối để bù đắp những chi phí đã bỏ ra; mạo
hiểm, chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hóa, những nhiệm vụ
trên giúp cho xí nghiệp hoàn thành hữu hiệu hợp đồng vận tải hàng hóa. Trong quá trình
vận hành kênh marketing phân phối, xí nghiệp tiến hành tuyển chọn đại lý, đánh giá những
nỗ lực của họ thông qua hoạt động để kịp thời có các biện pháp khuyến khích, động viên
họ cả về vật chất lẫn tinh thần.
Mặc dù không có hoạt động phân đoạn thị trường một cách chính thức nhưng xí nghiệp
cũng đã xác định được 3 nhóm khách hàng cho mình là:
+Những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ kho tới kho.
+ Những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ kho tới bến cảng,bến tầu sân bay
hoặc ngược lại.
+ Những khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ kho tới các đạI lý bán buôn,bán
lẻ(hoạt động phân phối).
Vói 3 nhóm khách hàng như vậy, xí nghiệp đã tổ chức 3 quá trình dịch vụ để đáp ứng nhu
cầu khác biệt của 3 nhóm khách hàng. Ba quá trình dịch vụ này có sự trùng lặp và liên kết
với nhau khá chặt chẽ.
+Với nhóm khách hàng đầu tiên (có nhu cầu vận chuyển từ kho tới kho) xí nghiệp thực
hiện quá trình vận tải hỗn hợp (sử dụng nhiều phương tiện để vận chuyển):




















Mô hình dịch vụ vận tảI hỗn hợp.
+Với nhóm khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ kho tới bến tầu,bến cảng, sân
bay và ngược lại thì xí nghiệp thực hiện các bước dịch vụ (1),(2),(3) và ngược lại.
+Đối với nhóm khách hàng có nhu cầu vận chuyển hàng hoá từ kho tới các đạI lý thì xí
nghiệp thực hiện các bước :Nhận hàng hoá tại kho,thực hiện bốc xếp và kiểm kê hàng hoá
sau đó vận chuyển tới các đại lý và giao hàng.
Nhìn chung chất lượng dịch vụ của xí nghiệp được các khách hàng đánh giá là khá tốt so
với các đối thủ cạnh tranh.Tuy vậy ,trong dịch vụ cung ứng của xí nghiệp vẫn còn thiếu
nhiều dịch vụ phụ nên chưa hoàn toàn làm thoả mãn khách hàng.Chẳng hạn như trước khi
cung cấp dịch vụ chính, xí nghiệp nên có một bước thực hiện tư vấn cho khách hàng về
quá trình tổ chức dịch vụ để từ đó họ có thể hiểu rõ hơn về dịch vụ mà họ đang tiêu dùng.
3. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Biểu 2:Kết quả hoạt động của xí nghiệp
Nhận
hàng t
ạI

kho
(1)
Giám định
hàng
hoá,bốc
xếp,đóng
Vận chuyển
hàng hoá
tới bến
,cảng,sân
bay

Vận chuyển
hàng hoá
trên
biển,trên
không,trên
Vận chuyển
hàng tới
khovà giao
hàng

(6)

Thuê
tầu,làm
thủ tục
hảI quan
Vận chuyển
và bốc dỡ

hàng lên
tầu,máy
bay.

V
ận chuyển và
bốc dỡ hàng
lên ôtô tạI
các
b
ếntầu,bến
Giám
định lạI
hàng hoá

Bốc xếp
,lưu kho.

stt Chỉ tiêu đvt 2001 2002 2003 2004
1
Sản lợng vận
chuyển

Tấn hàng vận
chuyển
Tấn 86.000 94.000 96.000 92.260
Tấn hàng luân
chuyển
Tấnkm 21.000.00
0

22.000.00
0
24.000.00
0
23.440.00
0
Giá trị vận
chuyển
1.000đ 7.520.000

12.968.03
5
13.070.00
0
10.966.00
0
2 Số đầu xe Chiếc 177 163 138 272
3 Nsvc/xe
Tấn hàng vận
chuyển
Tấn/tháng

40 48 58 114
Tấn hàng luân
chuyển
Tấnkm/th
áng
9.887 11.247 14.493 28.726
Giá trị vận
chuyển

1000đ/thá
ng
3.540 6.630 7.893 13.438
4 Giá trị kdxnk
-số lợng Chiếc 1.200
-
-


-
Giá trị 1.000đ 36.851.72
1

5 Số ldkdxnk Ngời 6 6 6 12
6 Ns kd xnk 1.000đ 6.141.954


7 Gt tmdvkhac 1.000đ 9.439.649

43.441.06
9
37.808.94
6
8 Tổng doanh
thu
1,000đ 44.371.72
1
22.407.68
4
56.511.06

9
24.387.47
3
9 Tổng lợi nhuận 1000đ 2.387.253

323.501 319.115 242.748
10 Lợi nhuận sau 1000đ 1.791.253

242.625 239.337 242.748

thuế
11 Tổng laođộng Ngời 409 416 397 768
12 Thu nhập bình
quân
1000đ 541 487 562 1308
13 Tổng gt nộp ns 1000đ 11.137.99
9
1.784.371

1.295.124 586.850

Biểu 3: Kết quả KD của Xí nghiệp
Chỉ tiêu 2001 2002 Ss2002/2001 2003 Ss2003/2002 Ss2003/2001 2004
Stđ % Stđ % Stđ %
DT thuần 44.371.721.
471
22.407,684,
084
(21.964.037.
387)

(50)

56.511.069.
467
34.103.385.
383
152 12.139.347.9
96
27 48.756.946.0
00
Giá vốn 40.854.536.
207
21,364,376,
117

(19.508.160.
090)
(48)

55.289.272.
016
33.942.895.
016
159
14.434.735.80
9
35 47.612.348.4
20
Lãi gộp 3.517.185.2
64

1.061.307.9
67
(2.455.877.2
97)
(70)

1.221.797.4
51
160.489.48
4
15 (2.295.387.8
13)
(65) 1.144.599.03
8
Cpbánhàng 1.449.098.8
44
- (1.449.098.8
44)
(10
0)
176.156.08
0
176.156.08
0
- (1.272.942.7
64)
(88) 312.489.496
Cpql 1.068.061.9
28
1.262.413.7

21
194.351.784 18 1.006.776.6
65
(255.637.0
47)
(20) (61.285.263) (6) 758.906.852
L n từHđkd 1.000.024.4 (201.105.7 (1.201.130.2 (12 38.864.706 239.970.45 (11 (961.159.786 (96) 46.202.690

92 45) 37) 0) 1 9) )
TN bất thƯ-
ờng
1.387.228.7
61

524.607.32
6
(862.621.43
5)
(62)

280.251.23
9
(244.356.0
87)
(47)
1.106.977.522
)
(80) 196.545.310
Tổng ln trớc
thuế

2.387.253.2
53
323.501.58
1
(2.063.751.6
72)
(86)

319.115.94
5
(4.385.636) (1) (2.068.137.3
08)
(87) 242.748.000
Thuế tndn 596.000.00
0
80.876.000 (515.124.00
0)
(86)

79.778.000 (1.098.000) (1) (516.222.000
)
(87) 40.000.000
Lnst 1.791.253.2
53
242.625.58
1
(1.548.627.6
72)
(86)


239.337.94
5
(3.287.636) (1) (1.551.915.3
08)
(87) 202.748.000

Năm 2001 là năm hoạt động vận tải gặp nhiều khó khăn do phương tiện vận tải
chiếm đổi mới ít đầu tư vào mua phương tiện vận tải mới do giá xe cao mà cước
vận chuyển hầu như không tăng ,các măt hàng vân chuyển biến động nhiều có xu
hướng giảm về cuối năm do đó doanh thu vận tải chỉ đạt trên 7,5 tỷ chiêm 17% tổng
doanh thu.Hoat động XNK với bộ máy gọn nhẹ làm tiêt kiệm chi phí XNK ,cả năm
chi phí XNK là gần 1,5 tỷ bởi vậy LN Trứơc thuế của hoat động XNK đạt 1,3
tỷ.Năm 2001 Lợi nhuận trước thuế vẫn đạt cao gần 2,4 tỷ nộp thuế thu nhập DN gần
600 triệu. Do xí nghiệp có nguồn thu nhập bất thường là 1.387.253.253 VNĐ từ
thanh lý và chuyển nhượng TSCĐ nên tổng lợi nhuân sau thuế đạt 1.791.153.253
VNĐ
Năm 2002 la năm hết sức khó khăn cho hoạt động XNK.Để khuyến khích sản
xuất trong nước nhà nước đã hạn chế XNK. Còn hoạt động vận tải vẫn chưa thoát
khỏi khó khăn còn tồn đọng từ năm trước .Nhưng những hoạt động khác của xí
nghiệp bảo dưỡng sửa chữa kinh doanh phụ tùng ôtô đạt hiệu quả tốt.Tổng doanh
thu năm 2002 đạt 22.407.684.084 VNĐ bằng 50% DT năm 2001 trong đó DT vận
tải đạt 12.968.035.000 VNĐ chiêm 58% tổng DT còn lại 9 tỷ DT từ các hoạt động
khác .Doanh thu giảm, giá vốn cũng giảm trên 50% nhng lãi gộp chỉ bằng 30%
năm 2001, nên măc dù chi phí giảm trên 1,2 tỷ đồng khoảng 80% nhng tổng lợi
nhuận trước thuế vẫn đạt trên 300 triệu đồng do có khoản thu nhập bất thường
khoảng 524 triệu từ thanh lý TSCĐ thuế TNDN là 80.876.000 VNĐ lợi nhuận sau
thuế là 243 triệu giảm 1,55 tỷ hay 86% so với năm trước.
Năm 2003 xí nghiệp triển khai nhiều biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn. Kiện
toàn bộ máy quản lý của xí nghiệp theo hướng gọn nhẹ nhưng đảm bảo đủ hiệu lực
điều hành, phát huy tố nhất tính năng động, sáng tạo của mọi cá nhân,tập thể đa xí

nghiệp đi lên. Nhưng vẫn gặp không ít khó khăn, tồn tại mà khó khăn lớn nhất là sự
giảm sút nghiêm trọng về số lượng và chất lượng xe từ 163 xe năm 2002 xuống còn
138 xe giảm 25 xe.Việc đầu tư xe mới do nhiều lý do nên chỉ đầu tư được 2 xe vì
vậy năng lực vận tải giảm, chậm đổi mới.Hàng hoá vận chuyển liên tục biến động
cả về số lượng và cước vận chuyển, chi phí vận chuyển tăng do giá nhiên liệu tăng.
Tuy vậy xí nghiệp vẫn đạt một số kết quả khá cao do đã nắm bắt trước được những

khó khăn, dự đoán được những biến động của thị trường, có những biện pháp để ổn
định và phát triển.Tổng doanh thu đạt 56,5 tỷ đồng trong đó doanh thu vận tải đạt
13 tỷ đồng, các hoạt động khác là 43,5 tỷ đồng.Tăng 34 tỷ hay 152 % so với 2002 .
Tăng 12 tỷ tương ứng với 27 % so với năm 2001. Với mức doanh thu nay xí nghiệp
đã vợt mức kế hoạch 71%. LãI gộp đạt 1,2 tỷ đồng tăng 160 triệu so vơI năm 2002
nhưng vẫn thấp hơn năm 2001 2,3 tỷ giảm 63%. Xí nghiệp không ngừng tiết kiệm
chi phí,nên chi phí giảm khoảng 80 triệu đồng làm lợi nhuận từ HĐKD đạt gần 40
triệu.Tăng gần 240 triệu so vơí năm 2002 . Thu nhập khác ( thu nhập tàI chính, thu
nhập bất thường) giảm khoảng 50% so vơí năm 2002 chỉ đạt 280 triệu.Trong đó
phần lớn nguồn thu từ ngượng bán, thanh lý, ngượng bán TSCĐ.Tổng lợi nhuận
trước thuế đạt 319.115.945 VNĐ giảm 1% so với năm 2002 giảm 87% so với năm
2001.
Sang năm 2004. Hoạt động vận tải tiếp tục gặp nhiều khó khăn kinh doanh
thương mại tiếp tục chưa có dấu hiệu tăng trưởng tích cực.Tuy vậy ban lãnh đạo
công ty đã có những biện pháp chỉ đạo cụ thể cho từng lĩnh vực hoạt động, gắn kết
hoạt động của các phòng ban và các đơn vị sản xuất thành một khối thống nhất ,
đoàn kết chặt chẽ với nhau để cùng vượt qua khó khăn.Phát huy những tiềm năng
sẵn có để hoàn thành mục tiêu SXKD đã đề ra.
Tấn hàng vận chuyển : 92.260
Tấn hàng luân chuyển: 34.440.000 tấnkm
Tổng doanh thu : 48.756.946.000VNĐ
Doanh thu vận tải :10.966.000.000 VNĐ
Doanh thu khác :37.809.406.000VNĐ

Tổng nộp ngân sách :1.052.232.558 VNĐ
Tổng lơi nhuận :242.748.000 VNĐ
Lợi nhuận vận tải :42.000.000 VNĐ

Lơi nhuận khác :200.748.000 VNĐ
Qua phân tích kết quả HĐSX-KD của xí nghiệp chúng ta thấy được phần nào
những khó khăn mà xí nghiệp đang phải đương đầu và những nỗ lực của toàn thể
ban lãnh đạo và người lao động trong xí nghiệp nhằm khắc phục những khó khăn đó
để đứng vững và khẳng định mình trên thị trường.
4.Các đóng góp vào ngân sách nhà nước và thu nhập của người lao động
4.1.Các đóng góp vào ngân sách nhà nước

Biểu 4: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà Nước
Chỉ tiêu 2001 2002 Ss2002/2001 2003 Ss2003/2002 Ss2003/2001 2004
STĐ % STĐ % STĐ %
Thuế DT/vat 877.469.25
1
913.067.6
11
35.598.360 4 410.914.8
87
(511.152.7
24)
(56)

(475.554.36
4)
(54)

277.381.5

86
ThuếNK 9.368.214.1
97
26.870.40
0
(9.341.343.
797)
(10
0)
(26.870.40
0)
(10
0)
(9.368.214.
197)
(10
0)

ThuếTNDN 596.000.00
0
80.876.00
0
(515.124.00
0)
(86)

79.778.00
0
(1.098.000
)

(1) (516.222.00
0)
(87)

40.000.00
0
Thuế vốn 60.000.000 69.491.64
6
9.491.646 16 69.491.64
6
- (1) 9.491.646 16 54.000.00
0
Thuế đất 156.492.43
0
215.370.1
80
58.877.750 38 158.095.3
80
(57.274.80
0)
(27)

1.602.950 1 50.000.00
0
Thuế môn 37.150.000 41.000.00 3.850.000 10 41.550.00 550.000 1 4.400.000 12 44.000.00

bài 0 0 0
Các khoản
phảI nộp
42.674.042 437.695.2

00
395.021.15
8
926 544.295.0
84
106.599.8
84
24 510.621.04
2
1.1
75
586.850.9
72
Tổng 11.137.999.
920
1.784.371.
037
(9.353.628.
883)
(84)

1.295.124.
997
(489.246.0
40)
(27)

(9.842.874.
923)
(88)


1.052.232.
558

×