Tải bản đầy đủ (.ppt) (22 trang)

Đất ngập nước và tình trạng khai thác đất ngập nước ở Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.18 KB, 22 trang )

Chuyên đề: Đất ngập nước
& tình trạng khai thác
ĐNN ở Việt Nam
GVGD: TS. Nguyễn Thị Hai
SVTH : Trần Thị Trà My
Huỳnh Thị Mỹ Nga
Trần Thảo Nguyên

1) Tổng quan về đất ngập nước:
1.1 Đất ngập nước là gì?
Theo công ước Ramsar (điều 1.1): “ĐNN là những vùng đầm lầy,
than bùn hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo,
thường xuyên hay tạm thời, có nước chảy hay nước tù, là nước
ngọt, nước lợ hay nước biển, kể cả những vùng nước biển có độ
sâu không quá 6m khi triều thấp”.
Ngoài ra, Công ước ( Điều 2.1) còn quy định các vùng đất ngập
nước: “ Có thể bao gồm các vùng ven sông và ven biển nằm kề
các vùng đất ngập nước, cũng như các đảo hoặc các thuỷ vực
biển sâu hơn 6m khi triều thấp, nằm trong các vùng đất ngập
nước”.

1.2 Vai trò của đất ngập nước:

ĐNN là những hệ sinh thái có năng suất cao, cung cấp cho
con người nhiều loại nhiên liệu, thức ăn, là nơi vui chơi giải
trí

Cung cấp 20% nguồn thực phẩm trên toàn cầu.

Ngoài ra, ĐNN còn có vai trò quan trọng trong thiên nhiên
và môi trường như lọc nước thải, điều hòa khí hậu, chống


xói lở bờ biển, ổn định mực nước ngầm, là nơi trú chân của
nhiều loài chim di cư quý hiếm
-
1.3 Các chức năng của đất ngập nước:

Lưu giữ nước, chống bão và giảm lụt.

Ổn định đường bờ và chống xói mòn.

Nạp lại nước ngầm (di chuyển nước từ vùng đất ngập
nước xuống tầng ngậm nước ngầm).

Cấp nước ngầm (di chuyển nước lên và trở thành nước
nước mặt ở vùng đất ngập nước).

Lọc nước, giữ các dưỡng chất, giữ các cặn lắng.

Giữ các chất ô nhiễm.

Ổn định các điều kiện khí hậu cục bộ, nhất là lượng
mưa và nhiệt độ.
2)Tiềm năng & hiện trạng ĐNN hiện nay ở Việt Nam
2.1 Tiềm năng ĐNN ở Việt Nam
Việt Nam là một nước giàu các hệ sinh thái đất ngập
nước, với diện tích ĐNN hơn 10 triệu ha; trên 50%
diện tích này là trồng lúa, 25% diện tích để nuôi
trồng thủy sản, 10% là sông suối và 10% là hồ chứa
nước nhân tạo (thủy lợi, thủy điện) mang lại tiềm
năng kinh tế chủ yếu cho VN.
ĐNN tạo môi trường hoạt động cho nhiều ngành kinh

tế như: nông nghiệp, thủy sản, giao thông vận tải,
du lịch, khai khoáng…và là nguồn sống của hàng
triệu người dân, là nơi cư trú của nhiều loài động
thực vật quý hiếm.

Các hệ sinh thái nước ngọt có khoảng 2611 loài thủy
sinh vật, 1.403 loài tảo biển, 190 loài giáp xác, 147 loài
trai ốc, 54 loài cá, 157 loài động vật nguyên sinh Các
vùng đất ngập mặn nội địa lớn như Đồng Tháp Mười,
U Minh và hệ thống suối là nơi chứa nhiều loài động,
thực vật đặc hữu.

Ở vùng ven biển Việt Nam đã xác định được 350 loài
san hô tạo rạn (sống gắn bó với cùng 2.000 loài sinh
vật đáy, cá và nhiều loài hải sản khác), 15 loài cỏ biển,
667 loài rong biển, 94 loài thực vật ngập mặn.

Hiện nay, sản lượng thủy sản nước ta đạt trên 2.536
triệu tấn, trong khi đó khai thác hải sản đạt 1.426 triệu
tấn và nuôi trồng 1.110 tấn. Đa dạng sinh học còn
nuôi dưỡng nguồn gen quý như: trai ngọc, bào ngư,
đồi mồi, bò biển
ĐNN tại Việt Nam có tính đa dạng sinh học rất cao
với các tiềm năng như:

Đất ngập nước ven biển Việt Nam với chiều dài bờ
biển hơn 3.000 km, là nơi phân bố của rất nhiều
sân chim với các loài chim di cư.

Rừng ngập mặn, các thảm cỏ biển và các rạn san

hô của Việt Nam gần những khu có giá trị đa dạng
sinh học cao nhất ở vùng biển Ấn Độ - Tây Thái
Bình Dương, giao lưu với nhiều vùng biển quan
trọng xung quanh biển Đông.

Rạn san hô là sinh cảnh có tính đa dạng sinh học
cao nhất, đã có hơn 300 loài san hô cứng được tìm
thấy ở vùng biển Việt Nam .

Các hệ sinh thái rừng ngập mặn, cỏ biển và rạn san
hô là nơi cư trú của nhiều loài sinh vật.

Đất ngập nước vùng cửa sông là nơi có sự đa dạng
về loài, nơi phân bố của rừng ngập mặn, đầm lầy
nước mặn, cỏ biển và tảo.

ĐNN vùng đầm phá là nơi cư trú của nhiều loài cá,
nơi dừng chân của nhiều loài chim di cư.

Các vùng đầm phá ven biển miền Trung còn mang
nét độc đáo về sinh cảnh tự nhiên và chứa đựng giá
trị đa dạng sinh học rất lớn của hệ sinh thái thủy
sinh.
ĐNN mang lại tiềm năng về kinh tế, văn hóa, lịch sử

Từ năm 1989 đến 2004 VN đã xuất khẩu được hơn 45
triệu tấn tương đương trên 10 tỷ USD, giá trị xuất khẩu
thủy sản năm 2002 vượt mức 2 tỷ USD.

Nguồn thu từ du lịch trên các vùng đất ngập nước như:

Vịnh Hạ Long, Cát Bà, Phú Quốc, Côn Đảo, Phong Nha
- Kẻ Bàng, Mũi Cà Mau, ĐBSCL ngày càng gia tăng

Giá trị lớn về khoa học giáo dục, bởi Việt Nam là mảnh
đất có rất nhiều bí ẩn cần phải nghiên cứu và khám phá
và cần giáo dục cho các thế hệ hiểu biết giá trị và bảo
tồn đất ngập nước.

Giá trị về lịch sử là nơi bảo tồn nhiều di tích lịch sử
như: đường Hồ Chí Minh trên biển và rất nhiều khu di
tích khác gắn liên với đất ngập nước.
2.2 Hiện trạng ĐNN hiện nay ở Việt Nam
Trong 15 năm qua, diện tích đất ngập nước tự nhiên đã giảm đi, diện tích đất
ngập nước nhân tạo tăng lên. Cụ thể là các khu rừng ngập mặn tự nhiên
ven biển đã mất dần, thay vào đó là các đầm nuôi thủy sản, các công trình
du lịch và một số ít diện tích trồng rừng. Diện tích rừng ngập mặn đã giảm
183.724ha trong 20 năm qua. Trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản đã
tăng lên 1,1 triệu ha năm 2003.
Diện tích đất ngập mặn ven biển năm 1982 là 494.000 ha, đến năm 2000 là
606.792 ha do mở rộng diện tích nuôi tôm. Năm 1976 diện tích trồng lúa ở
ĐBSCL là 2.062.000 ha, đến năm 2004 tăng lên 3.815.000 ha
Một số vùng đất ngập nước đã khai thác quá tiềm năng ví dụ như
các hoạt động đánh cá ven bờ làm mất khả năng phục hồi. Có
vùng nuôi trồng thủy sản đã vượt quá khả năng hệ sinh thái.
Ví dụ như ở một số vịnh biển tỉnh Quảng Ninh Khu công
nghiệp mọc lên đến đâu, rừng ngập mặn bị mất đi đến đó. KCN,
đô thị, khai trường khai thác than tại vùng vịnh Cửa Lục, các
cảng biển Cái Lân, cảng than Làng Khánh đã làm mất đi hàng
nghìn ha rừng ngập mặn, bãi triều, để xảy ra tình trạng nước rửa
trôi bề mặt trong quá trình san gạt mặt bằng làm đục vùng ven bờ

vùng vịnh sau các trận mưa; gây ra hiện tương bùn trôi làm bồi
lắng vùng ven bờ, mất đi hệ sinh thái và đang đứng trước nguy cơ
bồi lắng luồng lạch, tốn hàng nghìn tỷ đồng nạo vét.
Khai thác nguồn lợi thủy sản không bền vững: Các hình
thức đánh bắt thủy sản mang tính hủy diệt như dùng chất
nổ, chất độc, sốc điện, lưới mắt nhỏ dưới mức cho phép
làm suy giảm ĐDSH nghiêm trọng các hệ sinh thái đất
ngập nước ven biển, đe dọa sự tồn tại của hơn 80% các
rạn san hô ở VN, và hủy diệt các nguồn cá giống, tôm
giống trong các vùng đất ngập nước ven bờ nội địa. Thậm
chí ở các khu bảo tồn biển như Khu bảo tồn biển vịnh
Nha Trang là khu vực có hệ sinh thái đa dạng phong phú,
được bảo vệ và cấm đánh bắt hải sản dưới mọi hình thức.
Tuy nhiên, vì lợi ích cá nhân, nhiều ngư dân đã khai thác
trái phép hải sản ở đây, họ sử dụng cả mìn để khai thác.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong quá trình khai
thác và sử dụng đất ngập nước như các hoạt động chuyển
đổi mục đích sử dụng đất ngập nước; các loại chất thải
ngày càng gia tăng; nuôi trồng, đáng bắt thủy hải sản
bằng các phương pháp có tính hủy diệt; nạn chặt phá
rừng ngập mặn, phá hủy rạn san hô; sử dụng không hợp
lý các hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón trong sản
xuất nông nghiệp,v.v… làm cho nguồn tài nguyên quý giá
này đang đứng trước nguy cơ bị suy thoái và cạn kiệt.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong quá trình khai
thác và sử dụng đất ngập nước như các hoạt động chuyển
đổi mục đích sử dụng đất ngập nước; các loại chất thải
ngày càng gia tăng; nuôi trồng, đáng bắt thủy hải sản
bằng các phương pháp có tính hủy diệt; nạn chặt phá
rừng ngập mặn, phá hủy rạn san hô; sử dụng không hợp

lý các hóa chất bảo vệ thực vật và phân bón trong sản
xuất nông nghiệp,v.v… làm cho nguồn tài nguyên quý giá
này đang đứng trước nguy cơ bị suy thoái và cạn kiệt.
3) Bảo tồn ĐDSH ở hệ sinh thái ĐNN

Để ngăn chặn sự suy thoái của đất ngập nước, Việt Nam
cần phải tiến hành các biện pháp bảo tồn gắn liền với sử
dụng bền vững. Nước ta đang trong quá trình phát triển và
chuyển đổi, nếu chúng ta chỉ quan tâm thuần túy đến bảo
tồn thì cũng không khả thi. Trong bối cảnh là một trong 5
nước bị ảnh hưởng nặng của biến đổi khí hậu, Việt Nam
phải bắt đầu từ việc có một quy hoạch phát triển bền vững
đất ngập nước có tính đến các kịch bản của biến đổi khí
hậu toàn cầu.
.
Trước hết cần ứng dụng công nghệ hiện đại trong khai
thác khoáng sản ven bờ để hạn chế gây ô nhiễm môi
trường, hủy hoại cảnh quan thiên nhiên, đồng thời
khuyến khích du lịch sinh thái biển. Cần hạn chế phát
triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu đô thị ở
các vùng đất ngập nước có nhiều thiên tai và nhạy cảm
môi trường như vùng ven biển Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình…
Cuối cùng là hạn chế khai thác, chế biến dầu khí và các
khoáng sản ven bờ, nhất là nơi có rừng ngập mặn, rạn
san hô, thảm cỏ biển; hạn chế đánh bắt, khai thác thủy
hải sản ở vùng ven bờ, cửa sông, đầm phá, bãi triều và
nâng cao ý thức người dân sống xung quanh những khu
vực này.


Các nhà nghiên cứu thuộc Cục Bảo tồn đa dạng
sinh học (Tổng cục Môi trường) đã đề xuất Chương
trình bảo tồn, phát triển bền vững các vùng đất ngập
nước dự kiến từ năm 2010 đến hết năm 2015.
Chương trình được thực hiện gồm các nội dung
chính:

Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về bảo
tồn và phát triển bền vững đất ngập nước nhằm ứng
phó với biến đổi khí hậu.

Các hệ thống thể chế quản lý sẽ được cung cấp,
tăng cường biện pháp, bảo tồn, sử dụng khôn khéo
đất ngập nước, thích ứng với biến đổi khí hậu như:
thể chế pháp luật và cơ chế quản lý ở tất cả các cấp
từ Trung ương đến địa phương

Xây dựng các chương trình truyền thông, đào tạo
nguồn nhân lực, tăng cường giáo dục, nâng cao
nhận thức và sự tham gia của cộng đồng.
Qua đó, các vùng đất ngập nước ở Việt Nam sẽ
được bảo vệ chặt chẽ, sự suy thoái, tỷ lệ mất mát diện
tích đất ngập nước sẽ hạn chế; đời sống kinh tế, xã
hội và môi trường được cải thiện, đặc biệt là cộng
đồng dân cư sống tại các vùng đất ngập nước
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
Rạn san hô ven
biển Ninh Thuận
ĐNN tại vườn Quốc

gia Xuân Thủy
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
Đầm Đông HồĐNN ở ĐBSCL
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
Một số hình ảnh ĐNN ở Việt Nam
ĐNN Vân Long
Ninh Bình
Rừng ngập mặn
cửa sông Ông Đốc

×